Luận văn Chính sách thương mại quốc tế của eu và những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam

EU là một thị trường lớn của 25 quốc gia với gần nửa tỷ người tiêu dùng, nên nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hàng năm rất lớn. Các mặt hàng nhập khẩu của EU phần lớn là những mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng của Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, hàng Việt Nam vào EU chỉ chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường này. Xuất khẩu qua trung gian chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Ngoài nguyên nhân là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chưa cao, nguyên nhân quan trọng nữa là công tác xúc tiến thương mại còn yếu, nhà nước chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp trong việc thâm nhập và duy trì chỗ đứng cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường EU. Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang EU là rất lớn, nhưng tại thời điểm này do có những hạn chế nhất định về chất lượng, chủng loại, kiểu dáng,. Hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam còn non yếu do nhiều doanh nghiệp còn chưa coi trọng công tác xúc tiến thương mại. Một số doanh nghiệp đã chú ý, nhưng do khả năng tài chính còn hạn hẹp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư khá lớn nhưng hiệu quả còn thấp do thiếu thông tin và kinh nghiệm. Đây là trường hợp thường thấy ở các nước đang phát triển. Do vậy, Nhà nước cần tài trợ một phần kinh phí trong công tác xúc tiến thương mại để giúp các doanh nghiệp có thể xâm nhập dễ dàng hơn và đứng vững được trên thị trường.

pdf113 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách thương mại quốc tế của eu và những tác động đến xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩu bổ sung trong trường hợp hàng nhập khẩu bị bán phá giá hay được trợ cấp làm ảnh hưởng tới sản xuất trong nước. 81 3.2.1.3 Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua đàm phán, ký kết các Hiệp định, thoả thuận thương mại song phương và đa phương. Nhà nước hỗ trợ phát triển thị trường EU thông qua việc thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện nay, EU được coi là thị trường có mức độ bảo hộ cao nhất. Sự bảo hộ của EU thể hiện dưới hai hình thức là thuế quan và phi thuế quan, đặc biệt là hàng rào kỹ thuật của EU. Trong khi hàng xuất khẩu của Việt Nam rất khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường EU, Chính phủ nên tích cực và chủ động đề nghị EC mở rộng quy mô mậu dịch và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng của ta vào thị trường này, nhất là nông sản, thuỷ hải sản, rau quả, thịt gia súc và gia cầm, đồ gỗ gia dụng và hàng thủ công mỹ nghệ. Những mặt hàng cần có sự đàm phán ở cấp Chính phủ phải lên kế hoạch đàm phán cụ thể để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp. Mục tiêu đàm phán sẽ là mở cửa thị trường, thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi quan thuế của EU. Thành lập tổ tư vấn cấp cao của Bộ Thương mại Việt Nam-EU nhằm tìm hiểu những vấn đề pháp lý còn bất cập giữa hai bên. Cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường để thông báo cho doanh nghiệp. Điều chỉnh hoặc khắc phục những vướng mắc cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Chính phủ cần tích cực và chủ động đàm phán với EU nhằm sớm ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-EU. Cho đến nay, quan hệ thương mại Việt Nam-EU mới chỉ được điều chỉnh bởi hai hiệp định là Hiệp định về hàng dệt may và Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU mà chưa có một hiệp định thương mại chính thức, việc sớm ký kết Hiệp định thương mại song phương sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam được hưởng nhiều ưu đãi hơn từ phía EU, chủ động tìm đối tác và thâm nhập thị trường EU. Với lợi thế là một nước đang phát triển trong quan hệ thương mại với EU- một trong ba cường quốc kinh tế trên thế giới, EU qua Hiệp định thương mại sẽ dành nhiều ưu đãi hơn cho Việt Nam về chế 82 độ đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia, mở cửa thị trường nhiều hơn cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thâm nhập dễ dàng vào thị trường EU. 3.2.1.4 Hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường EU EU là một thị trường lớn của 25 quốc gia với gần nửa tỷ người tiêu dùng, nên nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hàng năm rất lớn. Các mặt hàng nhập khẩu của EU phần lớn là những mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng của Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, hàng Việt Nam vào EU chỉ chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường này. Xuất khẩu qua trung gian chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Ngoài nguyên nhân là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chưa cao, nguyên nhân quan trọng nữa là công tác xúc tiến thương mại còn yếu, nhà nước chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp trong việc thâm nhập và duy trì chỗ đứng cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường EU. Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang EU là rất lớn, nhưng tại thời điểm này do có những hạn chế nhất định về chất lượng, chủng loại, kiểu dáng,... Hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam còn non yếu do nhiều doanh nghiệp còn chưa coi trọng công tác xúc tiến thương mại. Một số doanh nghiệp đã chú ý, nhưng do khả năng tài chính còn hạn hẹp. Nhiều doanh nghiệp đầu tư khá lớn nhưng hiệu quả còn thấp do thiếu thông tin và kinh nghiệm. Đây là trường hợp thường thấy ở các nước đang phát triển. Do vậy, Nhà nước cần tài trợ một phần kinh phí trong công tác xúc tiến thương mại để giúp các doanh nghiệp có thể xâm nhập dễ dàng hơn và đứng vững được trên thị trường. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường EU, giúp các doanh nghiệp trực tiếp tiếp cận thị trường, tìm hiểu thông tin về pháp luật của thị trường đối tác, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của thị trường EU và trực tiếp giao dịch với các đối tác nhập khẩu của EU. Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm 83 đối tác EU, nhất là những đối tác đáng tin cậy. Do vậy cần phải nâng cao vai trò của các thương vụ Việt Nam trong việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm đối tác, ngân hàng tin cậy cho các doanh nghiệp trong nước. Thương vụ phải thường xuyên thông báo với Bộ Thương mại từng diễn biến trên thị trường EU về: những thay đổi về hệ thống pháp luật, quy chế nhập khẩu, thuế quan, tỷ giá hối đoái, lạm phát, xu hướng thương mại, tình hình tăng trưởng kinh tế của EU, diễn biến đối với từng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như dự báo cung cầu, giá cả, vấn đề cạnh tranh, thị hiếu, kênh phân phối, tiếp cận thị trường… Các thương vụ Việt Nam tại các nước EU nên hỗ trợ tích cực khi các doanh nghiệp đi thực tế nghiên cứu, khảo sát thị trường EU để công việc triển khai có hiệu quả, tránh tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, chi phí đi lại và nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu nên được Chính phủ hỗ trợ một phần. Chính phủ nên cho phép thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại EU để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp có thể sử dụng Trung tâm để giới thiệu sản phẩm, bán hàng, giao dịch thương mại, tạo đầu mối, xúc tiến giúp các doanh nghiệp trong nước tạo quan hệ thương mại với đối tác EU. Đại sứ quán Việt Nam tại các nước thành viên EU cũng có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam bằng cách quảng bá hình ảnh và thương hiệu hàng Việt Nam tại các nước sở tại. Bên cạnh việc xây dựng trung tâm thương mại, cần sớm tận dụng thị trường của các nước thành viên mới là thị trường trung chuyển hàng hoá và dịch vụ Việt Nam ra toàn châu Âu. Lực lượng người Việt Nam đang sinh sống và kinh doanh tại khu vực Trung và Đông Âu này hiện nay rất đông. Tận dụng lực lượng này để biến Trung và Đông Âu thành một thị trường trung chuyển hàng hoá và dịch vụ Việt Nam. Do lực lượng Việt kiều này đã thông thạo ngôn ngữ, thông thạo môi trường hoạt động kinh doanh, nếu có sự hỗ trợ của chính phủ, kết hợp với sự năng động sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, thực sự họ trở thành lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng tại đây một thị trường trung chuyển hàng hoá và dịch vụ sang khu vực thị trường thống nhất rộng lớn của EU. 84 Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trong thời gian tới VCCI sẽ phối hợp Phòng Thương mại châu Âu (EuroCham) thành lập Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam-EU nhằm tăng cường hợp tác kinh tế thương mại giữa cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và các nước EU. Trước mắt, diễn đàn sẽ gồm hai nhóm chính là nhóm doanh nghiệp EU và nhóm doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với thị trường EU. Diễn đàn sẽ thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại và gặp gỡ doanh nghiệp hai bên theo định kỳ và tổ chức các buổi đối thoại giữa doanh nghiệp và đại diện cơ quan Chính phủ và đối thoại theo từng chủ đề. Ngoài ra, Diễn đàn còn là cơ quan xúc tiến thương mại giữa EU và Việt Nam thông qua các hình thức như tổ chức các diễn đàn trao đổi thông tin thông qua việc hình thành trang web, cách thức xuất nhập khẩu vào thị trường hai bên, tư vấn, đào tạo, hỗ trợ doanh nghiệp hai bên. Chính phủ Việt Nam vừa thông qua chương trình tổng thể về hợp tác với EU và giao cho VCCI thành lập cơ chế đối thoại về các chính sách kinh tế, thương mại trong quan hệ kinh tế với EU. 3.2.1.5 Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ, gắn nhập khẩu công nghệ từ EU với xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU Cho tới nay, Việt Nam vẫn chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ từ các nước châu Á, mặc dù giá cả rẻ hơn so với các khu vực khác song chất lượng không cao, sản xuất ra các sản phẩm có năng suất và chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh giảm. Trong quan hệ thương mại với EU, Việt Nam có mức xuất siêu khá lớn, nếu tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán, phía EU cũng không tìm cách cản trở hàng xuất khẩu của ta vào thị trường này; đồng thời chúng ta nhập khẩu được công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nói chung, sang thị trường EU nói riêng, do đó mở rộng được thị trường xuất khẩu. Đây sẽ là một biện pháp hữu hiệu hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. 85 Công nghệ nguồn của EU tiên tiến, hiện đại, chất lượng cao song giá lại quá cao so với khả năng thanh toán của các đối tác Việt Nam, nên khi có nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực nào đó, doanh nghiệp Việt Nam thường nghĩ tới các loại công nghệ của khu vực khác có giá thấp hơn song chất lượng kém hơn và trình độ thấp hơn. Việt Nam đã tham gia Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và sắp tới sẽ gia nhập WTO, do vậy vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế là hết sức cấp thiết. “Đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU” có lẽ là giải pháp hữu hiệu nhất đối với chúng ta lúc này để trang bị cho hàng hoá Việt Nam sức cạnh tranh quốc tế. Như chúng ta đều biết, các doanh nghiệp EU đã từng đáp ứng tốt nhu cầu khắt khe của thị trường EU, vì vậy có thể tin tưởng rằng với sự góp mặt của các nhà đầu tư EU, hàng hoá Việt Nam có thể chiếm lĩnh được thị trường này nói riêng và các thị trường trên toàn cầu nói chung với chất lượng cao, kiểu dáng phong phú, đa dạng và đáp ứng tốt các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường. Để thực hiện biện pháp này, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi dành riêng cho các nhà đầu tư EU ngoài những ưu đãi và quyền lợi mà họ được hưởng theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, chẳng hạn những ưu đãi về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài,… 3.2.1.6 Tiếp tục phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và các mặt hàng xuất khẩu mới mà thị trường EU đang có nhu cầu lớn Nhà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sang thị trường EU. Thông qua sự hỗ trợ về vốn, ưu đãi về thuế và tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Việt Nam có thể phát triển được nền sản xuất nội địa (phát triển kinh tế ngành và kinh tế vùng), đồng thời nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU. 86 Đối với hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực (chiếm hơn 1/2 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU) là giày dép và dệt may, do đặc thù riêng trong sản xuất và xuất khẩu là ta chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên hiệu quả thực tế thu được từ xuất khẩu thấp (25-30% doanh thu), hơn nữa do gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ thuật nước ngoài nên các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bị động về mẫu mã, sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Đây là điểm yếu trong xuất khẩu hai mặt hàng này, nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng này sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Bởi vậy, Nhà nước cần có chính sách cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất chứ không đơn thuần chỉ làm gia công để tăng hiệu quả xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp đã trực tiếp sản xuất và xuất khẩu hai mặt hàng này, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này tiếp tục đầu tư vốn và đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất để cải tiến sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng EU, nâng cao chất lượng, tăng cường xuất khẩu theo phương thức mua đứt bán đoạn (mua nguyên liệu bán thành phẩm), giảm dần phương thức gia công xuất khẩu, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có tỷ lệ nội địa hoá cao, tiến tới xuất khẩu sản phẩm 100% nguyên liệu trong nước nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hai mặt hàng này. Đối với các mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trường EU như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, đồ dùng phục vụ du lịch, đồ chơi trẻ em, hàng điện tử và hàng thuỷ hải sản, Nhà nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn và công nghệ hiện đại để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm nhằm mục đích tăng khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng này sang EU. Đối với một số mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu sang thị trường EU như cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, cao su, rau, quả…, Nhà nước cần xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư vốn tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để bảo đảm sản phẩm làm ra có năng suất và chất lượng cao, đồng đều, khối lượng lớn và 87 giá thành hạ. Việc tạo ra vùng sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu giúp cho công tác thâm canh, chăm sóc đến lựa chọn đảm bảo chất lượng tốt khi đem xuất khẩu, khắc phục tình trạng chất lượng thấp, không ổn định và nguồn cung cấp nhỏ. Với chính sách này, hàng nông sản của Việt Nam có thể thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU. Trong những năm tới, cơ cấu hàng xuất khẩu của ta sẽ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo và giảm mạnh tỷ trọng ngành nguyên liệu thô. Để có cơ cấu hàng xuất khẩu như vậy, Nhà nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, tính độc đáo và tính khác biệt của sản phẩm, đa dạng hoá các mặt hàng nhằm tăng nhanh khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU. Đối với các doanh nghiệp lớn của Nhà nước thuộc ngành điện tử-tin học, viễn thông, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn và khuyến khích họ tập trung nghiên cứu cơ bản để tạo ra các sản phẩm công nghệ cao. 3.2.1.7 Trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Đa số các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao. Để đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân hàng. Để sự hỗ trợ của Nhà nước phát huy hiệu quả cần thực hiện một số biện pháp sau: - Đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ tín dụng ngân hàng giữa các thành phần kinh tế, mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. 88 - Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước nên thành lập các Quỹ bảo lãnh tín dụng, thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển song không đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Quỹ này thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay, tự trả. - Thực hiện lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu sang EU có hiệu quả, sản xuất sản phẩm mới hoặc nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật mới. - Thông qua hệ thống ngân hàng linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các hối phiếu, kỳ phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu vốn. Nếu lãi suất chiết khấu hạ, giá hàng xuất khẩu cũng hạ làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam và mở rộng được xuất khẩu. 3.2.1.8 Có chính sách phát triển nguồn nhân lực để nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường EU Hiện nay, nước ta rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, bởi vậy dẫn tới hàng hoá sản xuất ra có chất lượng thấp, không đồng đều và kiểu dáng còn đơn điệu, thiếu tính sáng tạo, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Nhà nước cần chú trọng tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các ngành nghề chế biến, chế tạo, đồng thời cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thương mại giỏi thì mới có thể đưa những sản phẩm có chất lượng tốt tới được người tiêu dùng EU. Hiện nay có sự hẫng hụt, chênh lệch rất lớn về những kiến thức quản lý kinh tế nói chung, quản lý thương mại nói riêng giữa nước ta so với ngay các nước trong khu vực, chính vì vậy, đã đẩy Việt Nam vào tình trạng bất lợi trong các cuộc đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương với các đối tác giàu kinh nghiệm như EU. 89 Nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về ngoại thương cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty xuất khẩu. Xây dựng chính sách về chế độ bồi thường, đào tạo và đào tạo lại, tuyển chọn cán bộ ngoại thương một cách chặt chẽ và nghiêm túc cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. Hàng năm, Nhà nước nên cử cán bộ sang học tập, nghiên cứu tại EU. Mặc dù trong giao dịch quốc tế hiện nay, tiếng Anh được sử dụng phổ biến song chúng ta cũng cần các cán ngoại thương giỏi tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha… và am hiểu về văn hoá của mỗi quốc gia thành viên. Như vậy sẽ tạo thuận lợi cho phía Việt Nam trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu, hợp tác kinh doanh, liên doanh với đối tác EU nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Nhà nước cũng cần tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức kinh doanh và trình độ quản lý cho đội ngũ các nhà quản lý và chỉ đạo kinh doanh của các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng hoá sang EU. Mở các lớp thuyết trình giới thiệu các thông tin mới nhất về chế độ, chính sách, thể lệ liên quan đến kinh doanh thương mại cũng như các hướng dẫn về nghiệp vụ như marketing, vận tải, bao bì hàng hoá, bảo hiểm xuất khẩu, kỹ thuật đàm phán. Tổ chức các hội nghị, hội thảo với EU để trao đổi, học tập kinh nghiệm từ giới kinh doanh EU. 3.2.2 Nhóm giải pháp về phía doanh nghiệp 3.2.2.1 Tích cực nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu và thói quen tiêu dùng của thị trường EU Để hàng hoá xuất khẩu được người tiêu dùng EU chấp nhận thì một trong những nhiệm vụ rất quan trọng là phải tiến hành nghiên cứu thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể bán được hàng tại thị trường EU nếu mặt hàng đó đáp ứng được các tiêu chuẩn mà EU đặt ra, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và thói quen tiêu dùng của thị trường EU. Chúng ta phải cung cấp những mặt hàng mà thị trường EU thực sự có nhu cầu chứ không phải những mặt hàng mà các doanh nghiệp sẵn có. Không chỉ dừng ở việc nghiên cứu để tìm ra nhu cầu và thị hiếu của người tiêu 90 dùng mà quan trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam phải tính tới tính đa dạng của thị trường như mùa vụ, lứa tuổi, khu vực… Sản xuất phải gắn liền với thị trường, phải có phản ứng nhanh nhạy với khuynh hướng thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng. Chủ động loại bỏ những mặt hàng đã lỗi thời, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, dự đoán thay đổi sẽ diễn ra trong xu hướng để chủ động sản xuất những mặt hàng mà thị trường sắp có nhu cầu. Đa dạng chủng loại hàng hoá, thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng để người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn. 3.3.2.2 Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường và đẩy mạnh công tác Marketing xúc tiến xuất khẩu trên thị trường EU Cho đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn tăng trong những năm qua. EU là một thị trường rất khó tính, kênh phân phối rất phức tạp nên không dễ dàng cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn non nớt về kinh nghiệm có thể thâm nhập thị trường này. Vì vậy, nghiên cứu và xây dựng một chiến lược thâm nhập vào thị trường EU là hết sức cần thiết. Để thâm nhập vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam có thể lựa chọn một số phương thức sau: - Xuất khẩu qua trung gian: được sử dụng ở thời kỳ đầu mới khai phá thị trường EU khi đó còn là một thị trường khá mới mẻ với các doanh nghiệp, hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thương trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác EU. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đã phải xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian mà chủ yếu là châu Á. - Xuất khẩu trực tiếp: là con đường chính của các doanh nghiệp Việt Nam để thâm nhập thị trường EU, tuy nhiên, hình thức này chỉ thích hợp với thời kỳ đầu khi quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé và các mặt hàng xuất khẩu còn phân tán, dễ tạo ra thế bị động cho các nhà xuất khẩu do khó khăn nắm bắt thông tin về thị trường. - Liên doanh: có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá. Hình thức này rất phù hợp vì người tiêu dùng EU có thói quen sử dụng hàng hoá có 91 nhãn hiệu nổi tiếng và được biết đến từ lâu, chất lượng là yếu tố quyết định thành công trên thị trường này chứ không phải là giá cả. Hiện tại, hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa có danh tiếng trên thị trường EU, mặt khác năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, do vậy liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương phẩm có thể là biện pháp tốt nhất để các nhà xuất khẩu Việt Nam thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường EU. - Đầu tư trực tiếp: hiện tại, đây chưa phải là biện pháp thích hợp để thâm nhập thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam, tuy nhiên cần xem xét và nghiên cứu hình thức thâm nhập này vào thị trường EU để chuẩn bị trước cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam phải vừa duy trì xuất khẩu qua trung gian và xuất khẩu trực tiếp để thâm nhập thị trường EU, vừa phải nghiên cứu để lựa chọn cách thâm nhập bằng hình thức liên doanh và đầu tư trực tiếp. Dù lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường nào trong số những phương thức nêu trên thì chúng ta cũng phải nghiên cứu kỹ các yếu tố sau: dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ cạnh tranh, giá cả,... và cần phải nắm vững các nguyên tắc khi thâm nhập thị trường này. Sự hạn chế thông tin về các đối thủ cạnh tranh thường dẫn đến những hạn chế và làm cho ưu thế cạnh tranh trở nên không bền vững. Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp tránh cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ mạnh hơn và tìm ra các thị trường riêng của mình, điều này hoàn toàn đúng ở cả hai cấp độ quốc gia và công ty. Vì vậy, để thâm nhập thị trường EU cần phải xây dựng một chiến lược lâu dài và thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam mới có chỗ đứng ổn định và vững chắc trên thị trường EU. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU bằng cách chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam hay EU, qua tham tán thương mại tại các nước thành viên EU và văn phòng EU tại Việt Nam; tìm hiểu và nghiên cứu thị 92 trường EU trực tiếp hay gián tiếp thông qua Phòng Thương mại EU tại Việt Nam, Cục xúc tiến thương mại- Bộ Thương mại, Tham tán thương mại các nước thành viên EU, Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước thành viên EU, Trung tâm thông tin thương mại – Bộ Thương mại và qua các tài liệu chuyên ngành để nắm được thông tin về chính sách kinh tế và thương mại, quy chế nhập khẩu của EU, nhu cầu và thị hiếu về hàng hoá và những mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam sang thị trường này sẽ mang lại hiệu quả cao ở từng thời điểm. Các doanh nghiệp Việt Nam cần trực tiếp tìm kiếm bạn hàng, trưng bày và giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU ngay tại các nước thành viên EU. Việc làm này sẽ giúp doanh nghiệp có được thông tin chính xác và kịp thời về thị trường và bạn hàng, do đó có thể sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà thị trường này cần, đáp ứng tốt nhất nhu cầu về thị hiếu của thị trường EU tại từng thời điểm trong năm. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và ứng dụng các nghiệp vụ Marketing để tìm ra những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị trường EU, thực hiện hoạt động quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm để sản phẩm có được chỗ đứng, duy trì và phát triển trên thị trường. Tổ chức các dịch vụ hậu mãi để duy trì và củng cố uy tín sản phẩm Việt Nam đối với người tiêu dùng EU. 3.2.2.3 Tích cực nghiên cứu các hàng rào kỹ thuật cản trở hàng hoá nhập khẩu vào EU EU là thị trường tiêu dùng khắt khe nhất trên thế giới với những hàng rào kỹ thuật mà hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển rất khó vượt qua. Qua đặc điểm của thị trường EU đã phân tích ở trên, có thể thấy, nguồn hàng thích hợp với thị trường EU là nguồn hàng đa dạng, phong phú về chủng loại, khối lượng lớn, cung ổn định, thoả mãn thị hiếu tiêu dùng và đáp ứng tốt nhất 5 tiêu chuẩn của sản phẩm. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn xâm nhập và mở rộng thị phần tại EU thì không còn cách nào khác là phải tạo nguồn hàng xuất khẩu thích hợp với thị trường này. Trên thị trường EU, chất lượng là yếu tố được quan tâm hàng đầu đối với phần 93 lớn các mặt hàng được tiêu thụ. Muốn tạo ra nguồn hàng thích hợp với thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý vì đây là hai yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, có tính chất quyết định đối với việc cho ra đời một sản phẩm như thế nào. Nếu một doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, lại áp dụng hệ thống quản lý chất lượng thích hợp sẽ tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng và vượt qua được những rào cản kỹ thuật khắt khe nhất của bất kỳ thị trường EU thì bắt buộc phải tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý hiện hành của EU bao gồm: ISO 9000, ISO 14000, HACCP.... - Đối với tiêu chuẩn chất lượng: áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 giúp cho các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm tỷ lệ phế phẩm để duy trì sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất. - Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: EU yêu cầu hàng hoá phải đáp ứng các tiêu chuẩn liên quan đến môi trường như: tiêu chuẩn GAP (Good Agricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels); tiêu chuẩn SA 8000 (Social Accountability 8000); Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 (là hệ thống quản lý môi trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, nhãn môi trường, phân tích chu kỳ sống của sản phẩm cho các doanh nghiệp và các tổ chức cơ sở khác để quản lý sự tác động của các hoạt động của họ đối với môi trường, ngăn ngừa ô nhiễm và liên tục cải thiện môi trường với sự cam kết của lãnh đạo và sự ý thức tham gia của các thành viên cơ sở, từ người sản xuất trực tiếp đến các cán bộ quản lý). - Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: các công ty chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Việc áp dụng hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- Hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm) là yêu cầu bắt buộc. HACCP được thiết kế riêng cho công nghiệp thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm (chăn nuôi, trồng trọt) tập trung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiếp cận có 94 hệ thống để phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ. Hệ thống HACCP có tính bắt buộc đối với các công ty chế biến thực phẩm tại EU. - Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan trọng số 1 trong việc lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan tới sức khoẻ người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của EU. Ví dụ, ký mã hiệu CE là bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bị điện áp thấp, thiết bị y tế, nguyên vật liệu xây dựng,.. - Đối với tiêu chuẩn về lao động: Uỷ ban châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hoá mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/9/1926, ngày 7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105 (ví dụ, những hình thức lao động cưỡng bức như lao động tù nhân, lao động trẻ em...). Đến cuối năm 2005, EU chấm dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP và hiện chưa có chính sách cụ thể cho giai đoạn sau. Để tránh tình trạng xấu nhất có thể xảy ra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU sau này (hàng Việt Nam sẽ không được hưởng thuế suất GSP nữa) thì áp dụng ISO 9000, ISO 14000 và HACCP là biện pháp tốt nhất để doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường EU, nhằm giữ vững và mở rộng thị phần. 3.2.2.4 Thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ, không ngừng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng đòi hỏi cao của thị trường EU ngay từ khâu nuôi trồng, chế biến Để hàng hoá sản xuất ra có chất lượng cao thì một trong những yếu tố quan trọng là công nghệ, công nghệ ngày càng có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cần phải chú trọng hiện đại hoá thiết bị công nghệ. Tuy nhiên, công nghệ hiện đại đòi hỏi chi phí cao, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam 95 thường có năng lực tài chính thấp, để hạ giá thành công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hiện đại hoá công nghệ theo các hướng sau: - Nhập thiết bị công nghệ của nước ngoài, học tập nguyên tắc thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo ở Việt Nam. Những chi tiết mà Việt Nam chưa đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nước ngoài. - Mua thiết bị có hàm lượng công nghệ hiện đại, nhưng mức tự động hoá thấp, sau đó tự nâng cấp trình độ tự động hoá bằng thiết kế của người Việt Nam, sử dụng linh kiện cả trong và ngoài nước sản xuất. - Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu và thiết kế chế tạo. - Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin qua mạng để đi theo các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp. - Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài. - Dựa vào sự hỗ trợ của Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu để hiện đại hoá công nghệ của mình. - Tìm kiếm cơ hội liên doanh với các đối tác EU có khả năng công nghệ hiện đại. - Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hoá công nghệ là một quá trình phát triển tích tụ từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp. 3.2.2.5 Xây dựng thương hiệu cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hàng năm rất lớn. Các mặt hàng nhập khẩu của EU phần lớn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng. Tuy nhiên cho đến nay, hàng Việt Nam xuất khẩu vào EU mới chỉ chiếm thị phần rất 96 nhỏ trên thị trường này. Khoảng 40% lượng hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào EU thông qua hoạt động xuất khẩu trung gian. Các nước khu vực châu Á như Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông... đã nhập khẩu hàng của Việt Nam sau đó tái chế và tái xuất sang thị trường EU. Do vậy, hàng Việt Nam vẫn chưa thâm nhập trực tiếp được nhiều vào thị trường EU. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng xây dựng thương hiệu riêng cho hàng hoá của mình. Trong thời đại ngày nay, mỗi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển, muốn đứng vững trên thị trường thì cần phải có những sản phẩm đóng vai trò chủ đạo và có thương hiệu riêng. Thương hiệu đóng vai trò rất quan trọng trong việc xúc tiến thương mại. Thương hiệu là hình ảnh của sản phẩm, hình ảnh của doanh nghiệp, thể hiện uy tín của doanh nghiệp và thay mặt doanh nghiệp cam kết với khách hàng về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm, nên đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có trách nhiệm hơn với tên tuổi của chính mình. Để thâm nhập tốt hơn vào EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải coi việc xây dựng và phát triển thương hiệu cho sản phẩm là chuyện sống còn, là một hoạt động mang tính chiến lược. Với ý nghĩa như vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển thương hiệu là công việc vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của mỗi doanh nghiệp Việt Nam trên con đường thâm nhập thị trường EU. Để làm tốt công việc này, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện những công việc sau: o Về mặt nhận thức cần coi thương hiệu là một thứ tài sản quý giá mà mọi doanh nghiệp cần phải có. o Cần xây dựng một chiến lược phát triển và quảng bá thương hiệu ngay từ khi mới thành lập doanh nghiệp. o Khi đã có thương hiệu thì cần phải tiến hành ngay các thủ tục đăng ký thương hiệu tại thị trường EU. Các doanh nghiệp phải coi đây là một hoạt động đầu tư dài hạn chứ không đơn thuần là một khoản chi phí ngắn hạn. o Có đội ngũ chuyên gia xây dựng thương hiệu có tầm nhìn xa, nắm vững chiến lược Marketing doanh nghiệp, hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, có khả 97 năng sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, màu sắc, hình ảnh để diễn đạt ý tưởng. 3.2.2.6 Tích cực áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh xuất khẩu Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vì thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn như cung cấp thông tin nhanh chóng và cập nhật về thị trường EU, sự biến động cung cầu, giá cả, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng EU... (qua một số website như www.europa.eu.int), giảm chi phí cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đối tác. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng xây dựng website cho mình để cung cấp thông tin về doanh nghiệp nói chung, thông tin về uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, các mặt hàng xuất khẩu, thông tin về chính sách Marketing xúc tiến bán hàng, chính sách khách hàng.... để đối tác EU nắm bắt và quyết định đặt quan hệ hợp tác. Website của doanh nghiệp được ví như một văn phòng ảo, bởi nó góp phần xây dựng uy tín, hình ảnh cho doanh nghiệp. Văn phòng này hoạt động 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày trong tuần, trong khi đó để duy trì một văn phòng đại diện ở EU đòi hỏi chi phí cao và đôi khi không hiệu quả. 3.2.3 Nhóm giải pháp về phía Hiệp hội ngành hàng Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Thực tiễn cho thấy trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội ngành hàng là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng cho các doanh nghiệp. Các hiệp hội ngành hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong việc trực tiếp tham gia xúc tiến thương mại, quảng bá và giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp hội viên trên thị trường EU, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp hội viên về tình hình thị trường, cung cầu, thị hiếu, sở thích của người tiêu 98 dùng EU. Thay mặt các doanh nghiệp trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi cần thiết. Thời gian qua, các Hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh về số lượng, hoạt động đang dần di vào chiều sâu. Từ chỗ chỉ có 10 Hiệp hội ngành hàng trước năm 1998, tới nay cả nước đã có hơn 30 Hiệp hội ngành hàng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Một số Hiệp hội đã thực hiện khá tốt các chức năng cơ bản của mình trong việc tập hợp và đại diện cho các hội viên trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, là cầu nối giữa các doanh nghiệp và Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có không ít Hiệp hội chỉ tồn tại về hình thức. Cá biệt có nơi còn nặng tư duy “quốc doanh hoá” và “nhà nước hoá” Hiệp hội khiến hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Trong thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của các doanh nghiệp hội viên. Để làm được điều đó, bên cạnh nỗ lực tự thân của Hiệp hội, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động và quy định rõ chức năng, quyền hạn của các Hiệp hội, khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “quốc doanh hoá” và “Nhà nước hoá” Hiệp hội. Nhà nước nên khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các Quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Quỹ này có nhiệm vụ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả thị trường biến động thất thường. Cơ chế hoạt động của Quỹ sẽ do từng hiệp hội tự xác định. 99 3.2.4 Nhóm giải pháp khác 3.2.4.1 Tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước, Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU Bên cạnh việc phân định rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp, cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ thể trên để đảm bảo hiệu quả của công tác tiếp cận và mở rộng thị trường. Như đã phân tích, vai trò chủ yếu của Nhà nước sẽ là tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động tiếp cận và thâm nhập thị trường EU. Trong mối liên hệ đó, chức năng của Hiệp hội trong việc làm cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Thông qua Hiệp hội, các kiến nghị, khó khăn của doanh nghiệp sẽ được phản ảnh chính xác và nhanh chóng tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời Hiệp hội cũng có thể đề xuất, tham mưu cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành. 3.2.4.2 Đẩy mạnh tiến trình hợp tác trong khuôn khổ diễn đàn hợp tác Á - Âu ASEM ASEM là tiến trình đối thoại và hợp tác giữa các nước thành viên EU và một số nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Quan hệ đối tác ASEM được thực hiện trên ba trụ cột chính: chính trị, kinh tế và văn hoá - xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, hoạt động chủ yếu của ASEM là đối thoại chính sách nên các vấn đề được thảo luận trong ASEM sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn chính sách kinh tế, thương mại của các nước thành viên khác và ngược lại họ cũng có điều kiện hiểu rõ hơn về Việt Nam, trên cơ sở đó sẽ tìm ra các phương hướng, biện pháp thích hợp để tăng cường, mở rộng quan hệ trao đổi thương mại và xúc tiến đầu tư giữa hai khu vực. Tham gia tích cực vào ASEM, chúng ta sẽ có những cơ hội đáng kể để tham gia sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế thế giới, đồng thời thắt chặt hơn nữa quan hệ với EU. Những cơ hội đó là: ASEM ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập WTO, Việt Nam được hỗ trợ từ Quỹ tín thác ASEM (ATF), nhận được sự giúp đỡ từ các 100 chuyên gia tài chính châu Âu thông qua mạng EFEX, thuận lợi hơn trong việc trao đổi thương mại hàng hoá, dịch vụ với EU, nhận được sự hỗ trợ từ Chương trình Thuận lợi hoá thương mại (TFAP)... Đó là những cơ hội rất lớn giúp Việt Nam tiếp thu và học hỏi kinh nghiệm của các nước EU trong quản lý và sản xuất, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường EU, nâng cao uy tín của Việt Nam trên thị trường EU, từ đó thúc đẩy quá trình thâm nhập thị trường thế giới. Nền kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn mới, đã đến lúc chúng ta phải nhìn trên tầm của những quan hệ thương mại, đầu tư, kinh tế đơn thuần để vươn tới một tầm nhìn rộng mở hơn, khoáng đạt hơn. Muốn có những quan hệ hợp tác bền vững và hiệu quả thì trước hết cần hiểu biết về nhau, và chương trình hợp tác về văn hoá xã hội của ASEM là một hướng giúp chúng ta thực hiện điều đó. Thành công của Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 5 diễn ra hồi tháng 10/2004 vừa qua tại Hà Nội đã để lại dấu ấn tốt đẹp về Việt Nam trong mắt của bạn bè thế giới. Đó là một bước đi thuận lợi cho Việt Nam để tăng cường quan hệ hợp tác với thế giới nói chung và các nước EU nói riêng. Về lâu dài, chúng ta cần tích cực duy trì và phát huy những ấn tượng tốt đẹp đó để tận dụng hết những cơ hội mà ASEM mang lại. 101 KẾT LUẬN Liên minh châu Âu (EU) là một tổ chức kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay, có sự liên kết chặt chẽ và thống nhất, EU được coi là một trong ba “siêu cường” kinh tế và có vị thế chính trị ngày càng gia tăng. Trong số các nước công nghiệp phát triển, EU có nhiều nước có tiềm lực kinh tế hùng mạnh như Đức, Pháp, Anh, Italia,... Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng đồng châu Âu vào ngày 22/10/1990, ký Hiệp định buôn bán hàng dệt may ngày 15/12/1992, Hiệp định Hợp tác ngày 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng này chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam-EU phát triển cả trên ba lĩnh vực thương mại, đầu tư và viện trợ. Thế nhưng, cho đến nay, thương mại Việt Nam-EU vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm lực của hai bên. Kim ngạch xuất khẩu sang EU mới chỉ đạt 17,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, và 0,51% kim ngạch nhập khẩu của EU. EU là thị trường lớn có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. EU mở rộng với 25 thành viên được coi là một trong những thị trường đầy tiềm năng cho các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam. Đẩy mạnh xuất khẩu, xâm nhập và tạo được chỗ đứng trên thị trường EU là một trong những mục tiêu quan trọng trong các chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của EU và ảnh hưởng của chính sách thương mại quốc tế của EU đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực phải kể đến như chính sách thương mại quốc tế của EU được mở rộng áp dụng cho 25 nước thành viên, quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU, thuế quan ưu đãi dành cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Song, Việt Nam cũng phải đối mặt với những tác động tiêu cực của chính sách thương mại quốc tế của EU như EU hiện đang giảm dần, tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan, sự cạnh tranh gay gắt của các nước khác trong quá trình thâm nhập vào thị trường EU. Trước thực trạng đó, luận văn đã đề xuất một hệ thống các giải pháp nhằm nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do chính sách 102 thương mại quốc tế của EU gây ra và phát huy mặt tích cực, để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU như nâng cao năng lực cạnh tranh, cải tiến chất lượng, mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của thị trường EU. Từ đó, Việt Nam có thể vượt qua các trở ngại, đưa EU thực sự trở thành thị trường cho sự phát triển ổn định và lâu dài của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam, tạo tiền đề cho nền kinh tế Việt Nam tiến dần hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. “APEC 2006: Cơ hội để hội nhập”, Thời báo kinh tế, ngày 16/2/2006. 2. Nguyễn Thanh Bình (2003), “Một số vấn đề cần chú ý đối với hàng hoá nhập khẩu vào EU”, Tạp chí Thương mại, số 26, tr. 16. 3. Nguyễn Thanh Bình (2004), Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của EU về chính sách sản phẩm nhập khẩu trong marketing xuất khẩu ở các doanh nghiệp Việt Nam nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, Luận văn tiến sỹ kinh tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 4. Bộ Thương mại (2001), Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010. 5. Bộ Thương mại (2003), “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu đối với một số mặt hàng chủ lực trong thời gian tới”, Tạp chí Ngoại thương, số 17. 6. Bộ Thương mại (2001), “Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập”, Tạp chí Ngoại thương, số 1. 7. Bộ Thương mại (2004), Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam-Liên minh châu Âu. 8. Bộ Thương mại (2003), “Về vấn đề xây dựng và phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế”, Tạp chí Ngoại thương, số 4+5. 9. “Cao uỷ Fererro-Waldner thăm Việt Nam ngày 21-22 tháng 4 năm 2006”, Thông cáo báo chí, Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam. 10. Nguyễn Hoàng Diệu (2004), Liên minh EU mở rộng- cơ hội và thách thức đối với quan hệ thương mại Việt Nam- EU. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr. 24-26. 12. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, Đài tiếng nói Việt Nam ngày 13/2/1006. 104 13. Lê Minh Hằng (2004), Tác động của EU mở rộng đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam với thị trường EU. 14. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Liên hiệp châu Âu (1999), Nhà xuất bản Tài chính. 15. Thứ trưởng Bộ Thuỷ sản Nguyễn Thị Hồng Minh, “Xuất khẩu Thuỷ sản năm 2005: về đích đúng hẹn, hoàn thành mục tiêu”, Báo Quân đội nhân dân, ngày 13/1/2006. 16. CN. Phùng Thị Vân Kiều, Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU giai đoạn 2000-2010, Bộ Thương mại, Hà Nội 2004. 17. Nguyễn Quang Minh (2003), Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU. 18. Mở rộng EU và các tác động đối với EU (2004), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 19. Niên giám thống kê 2002, 2003, 2004. 20. Chu Thị Mai Phương (2004), Chính sách thương mại của EU và vấn đề thúc đẩy hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU. 21. Rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế, VietManagement Group 2004. 22. PGS.TS. Lê Văn Sang, Cục diện kinh tế thế giới hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội 2005. 23. “Sáng kiến thương mại liên khu vực EU-ASEAN (TREATI)”, Thông cáo báo chí, Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam. 24. Số liệu thống kê của Bộ Thương mại. 25. Số liệu thông kê của Phái đoàn Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam. 26. Số liệu thống kê của Tổng cục hải quan Việt Nam. 27. “Thách thức mới khi EU mở rộng”, Tạp chí Thế giới, số 18 ngày 31/5/2004. 28. “Xuất khẩu 2006 hướng dến mục tiêu 38,4 tỷ USD”, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 3/3/2006. 105 Tiếng Anh 29. European Business Information Center, Common rules for imports. 30. European Business Information Center, EU-ASEAN Bilateral Trade Relations. 31. European Business Information Center, EU’s China Policy. 32. European Business Information Center, EU’s Vietnam Policy. 33. European Business Information Center, EU Trade Policy and the WTO. 34. European Business Information Center, EU-Vietnam Trade Cooperation, new trend, European Chamber of Commerce in Vietnam. 35. Vietnam Economic Times, March 2006. Các trang web: 36. www.24h.com.vn 37. www.angiang.gov.vn 38. www.asem5.gov.vn 39. www.delvnm.cec.eu.int 40. www.ecovnuhcm.edu.vn/khoakinhte 41. www.europa.eu.int 42. www.intimexco.com 43. www.kitra.com.vn. 44. www.mot.org.vn 45. www.newapproach.org 46. www.sggp.org.vn 47. www.smenet.com.vn 48. www.vnep.org.vn 49. www.vnexpress.net 50. www.unctad.org MỤC LỤC Trang Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu, hình vẽ MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG I- TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU 4 1.1. Vai trò của EU trong nền kinh tế thế giới 4 1.1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của EU 4 1.1.2. Nền kinh tế EU hiện nay và triển vọng 20 năm đầu thế kỷ 21 5 1.2. Chính sách thương mại của EU 12 1.2.1. Chính sách thƣơng mại trong nội khối EU 12 1.2.2. Chính sách thƣơng mại quốc tế của EU 14 1.3. Chính sách thương mại của EU đối với một số nước trong khu vực 23 1.3.1. Chính sách thƣơng mại của EU đối với châu Á 23 1.3.2. Chính sách thƣơng mại của EU đối với Trung Quốc 29 1.4. Chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam 32 1.4.1. Cơ sở pháp lý 32 1.4.2. Nội dung chính của chính sách thƣơng mại của EU đối với Việt Nam 33 CHƢƠNG II- ẢNH HƢỞNG CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA EU ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG CỦA VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG EU 38 2.1. Ảnh h•ëng cña chÝnh s¸ch th•¬ng m¹i quèc tÕ cña EU ®èi víi ho¹t ®éng xu©t khÈu cña ViÖt Nam 38 2.1.1. THUẬN LỢI 38 2.1.2. Khó khăn và hạn chế 46 2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua 54 2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu 54 2.2.2. Cơ cấu mặt hàng 56 2.2.3. Cơ cấu thị trƣờng 58 2.2.4. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 59 2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU 63 2.3.1. Thành tựu 63 2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 64 CHƢƠNG III- MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG EU 68 3.1. Chiến lược xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2001-2010 68 3.1.1. Phƣơng hƣớng chung 68 3.1.2. Chiến lƣợc xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2010 70 3.1.3. Định hƣớng xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến 2010 72 3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU 75 3.2.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nƣớc 75 3.2.2. Nhóm giải pháp về phía Doanh nghiệp 86 3.2.3. Nhóm giải pháp về phía Hiệp hội ngành hàng 94 3.2.4. Nhóm giải pháp khác 95 KẾT LUẬN 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 100

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3054_6192.pdf
Luận văn liên quan