Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X nhận định, nước ta đã chuyển sang 
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH”. Để thực hiện thành công sự 
nghiệp CNH, HĐH đất nước, tất yếu phải đẩy mạnh và sử dụng hiệu quả đầu tư phát 
triển của Nhà nước, trong đó phòng chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là một 
trong những giải pháp quan trọng. Trong khi đất nước ta còn nghèo, đang rất cần vốn 
để đầu tư phát triển thì TTLP đã làm giảm đi những khoản tài chính phục vụ cho đầu 
tư phát triển, điều đó đồng nghĩa với việc làm khó khăn thêm và kéo dài tiến trình 
CNH, HĐH đất nước, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tới quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế, làm mất uy tín quốc gia trên trường quốc tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 95 trang
95 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2960 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i – chính trị của vùng, của khu vực lãnh thổ đó. Quy hoạch đô thị phải gắn với quy 
hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành để xác định quy mô các đặc điểm 
dân cư, khu vực hành chính, trung tâm thương mại, chính trị...qua đó khẳng định vị trí, 
chức năng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của một vùng, một tỉnh, một 
khu vực. Quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn phải gắn với đặc thù của từng vùng 
lãnh thổ trên địa bàn tỉnh, tránh tình trạng quy hoạch đô thị là xây dựng các trung tâm 
dân cư, thương mại chung chung. 
- Quy hoạch xây dựng phải đảm bảo bố trí mặt bằng cụ thể để thi công xây 
dựng một công trình cụ thể, một dự án cụ thể khi dự án đó được cấp có thẩm quyền 
phê duyệt, đã được cấp đất xây dựng. Quy hoạch xây dựng phải tuân thủ các nội dung 
của quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch đô thị và phát triển nông thôn. Quy hoạch xây 
dựng càng cụ thể, càng chi tiết, mặt bằng xây dựng càng bảo đảm chặt chẽ thì việc triển 
khai thực hiện dự án càng thuận lợi. 
Hơn nữa, để giảm thiểu TTLP trong ĐTXD, tỉnh cần ưu tiên cho công tác quy 
hoạch, làm cho quy hoạch thực sự đi trước một bước. Trước mắt tỉnh cần phải khẩn 
trương xây dựng dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh đến năm 
2020 và có tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với tiềm năng, thế mạnh, mục tiêu chiến 
lược, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, điều kiện kinh tế thị trường và 
hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, nên tiến hành lập, rà soát, điều chỉnh các quy 
hoạch theo hướng đảm bảo sự phù hợp giữa quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch 
xây dựng với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, xóa bỏ tình trạng khép kín, 
cục bộ. Thực hiện công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch. Nghiên cứu đổi 
mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường 
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cộng đồng đối 
với việc triển khai thực hiện đầu tư theo quy hoạch được phê duyệt. Tăng cường và 
nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, công tác dự báo và cung cấp thông tin phục 
vụ công tác quy hoạch. 
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng khâu phê duyệt, quản lý dự án đầu tư từ vốn 
ngân sách nhà nước 
Cơ quan phê duyệt dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ dự án đầu tư, khi cần thiết 
phải tranh thủ ý kiến của các chuyên gia kinh tế, các nhà chuyên môn, nhà khoa học có 
uy tín trong lĩnh vực đầu tư để xem xét tính hiệu quả, tính kinh tế, tác dụng của dự án 
trên tất cả các mặt, sau đó mới quyết định, nhất là đối với những dự án lớn có ảnh 
hưởng tới kinh tế – xã hội của địa phương. Xác định rõ trách nhiệm của người quyết 
định đầu tư trong mối liên quan đến chất lượng, hiệu quả của từng dự án công trình. 
Kiên quyết thực hiện yêu cầu người quyết định đầu tư phải sử dụng tốt các cơ quan, 
đơn vị tham mưu, cơ quan tư vấn để giúp mình xét duyệt các phương án đầu tư, thẩm 
định đánh giá dự án đầu tư. Ngoài ra, tất cả các dự án đầu tư phải được công bố công 
khai nội dung quyết định đầu tư, chương trình kế hoạch đầu tư, tên dự án, quy mô xây 
dựng, phạm vi chiếm đất, vốn đầu tư, nguồn vốn, chủ đầu tư, tiến độ thực hiện, đơn vị 
tư vấn...tại địa điểm thực hiện dự án đầu tư và trụ sở HĐND xã, phường, thị trấn nơi 
có dự án để nhân dân biết và tham gia giám sát, kiểm tra 
Thực hiện quy định của Luật Xây dựng, Nghị định 16/2005/NĐ-CP, Nghị định 
112/2006/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 02/2007/TT-BXD của Bộ Xây dựng về 
nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, theo đó chủ đầu tư phải chịu trách 
nhiệm toàn diện về mọi mặt từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến kết thúc 
hoàn thành dự án, chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng, tiến độ xây dựng và hiệu 
quả của dự án, về lựa chọn giám đốc điều hành dự án hoặc ban quản lý dự án. Chấm 
dứt tình trạng giao cho người không có đủ điều kiện, năng lực và chuyên môn, nghiệp 
vụ quản lý dự án. Chủ đầu tư phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý hành chính hoặc xử 
lý hình sự khi có quyết định sai thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Tỉnh cũng nên 
kiện toàn, sắp xếp lại các ban quản lý dự án, xoá bỏ các ban quản lý không đủ điều 
kiện năng lực, thành lập các ban quản lý chuyên nghiệp hoạt động theo mô hình tư vấn 
quản lý dự án. 
Trước mắt, các chủ đầu tư phải làm đúng trách nhiệm và trực tiếp thực hiện đầy 
đủ các phần việc thuộc trách nhiệm của mình, không khoán trắng cho tư vấn và đặc 
biệt là các nhà thầu xây lắp, nhất là khâu xin chủ trương đầu tư, ghi vốn kế hoạch cho 
công trình..., chấn chỉnh công tác tổ chức quản lý chất lượng công trình. Trong quá 
trình triển khai công tác khảo sát, thiết kế, chủ đầu tư phải cử cán bộ có nghiệp vụ 
kiểm tra, giám sát và nghiệm thu quá trình thực hiện về quy trình, khối lượng, chất 
lượng nhằm đảm bảo chất lượng hồ sơ khảo sát và thiết kế công trình xây dựng. 
3.2.1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát công tác đầu tư 
xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước 
Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong đầu tư xây 
dựng ở tỉnh được tiến hành theo kế hoạch, thanh tra, kiểm tra, giám sát đột xuất và 
thanh tra, kiểm tra theo đơn thư tố giác, thanh tra, kiểm tra do các cơ quan thông tin 
đại chúng và nhân dân phản ánh. Cách làm đó dẫn đến hệ quả là số dự án được thanh 
tra, kiểm tra, giám sát chưa bao quát hết các công việc cần thanh tra, các sai phạm bị 
phát hiện phần lớn còn dừng lại ở mức cảnh cáo xử lý nội bộ và mức độ vị phạm còn 
dừng lại ở mức xử lý hành chính vì vậy tính răn đe còn hạn chế. Trong những năm 
tới, với xu hướng phân cấp mạnh về quản lý đầu tư cho các ngành, các cấp, trong khi 
các cấp huyện, thành phố, thị xã, xã, phường, thị trấn chưa đủ điều kiện năng lực 
thực hiện tốt ở tất cả các khâu của quá trình ĐTXD, cần tăng cường công tác thanh 
tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên các dự án đầu tư từ vốn NSNN theo hướng sau: 
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định được quyết định đầu tư có phù hợp 
với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư hay không để xử lý ngay từ đầu, tránh gây 
ra hậu quả rồi mới đi thanh tra. 
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải xác định rõ các sai phạm dẫn đến TTLP vốn 
ĐTXD, có kết luận và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với cá nhân, 
tập thể sai phạm. 
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát phải chỉ cho các chủ đầu tư, các cấp quản lý và 
các đơn vị có liên quan những thiếu sót, tồn tại để khắc phục. 
- Ngoài ra qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cơ quan thanh tra phải giúp 
các đơn vị chức năng phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý đầu tư của các 
cấp để uốn nắn, hướng dẫn kịp thời. 
Để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần nâng cao tinh thần trách 
nhiệm, đạo đức, phẩm chất của cán bộ thanh tra, kiểm tra, giám sát, cần kiện toàn và 
tăng cường cán bộ, điều kiện vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện cho cơ quan 
thanh tra các cấp, cần thường xuyên giữ vững và nâng cao uy tín của đội ngũ cán bộ 
làm công tác thanh tra… Hơn nữa, để duy trì kỷ luật thanh tra, cần có chế độ thù lao 
xứng đáng cho cán bộ thanh tra các cấp nhằm đảm bảo cho đội ngũ này an tâm công 
tác, toàn tâm, toàn ý vào công việc, đồng thời kiên quyết nghiêm trị những cán bộ 
thanh tra lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để tham ô, vụ lợi, thông đồng, tiếp 
tay cho kẻ xấu làm TTLP vốn nhà nước. Ngoài ra, phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo 
dục ý thức, trách nhiệm của công dân đối với việc bảo vệ tài sản nhà nước, vận động 
quần chúng tham gia giám sát, phản ảnh, tố giác những người có biểu hiện tiêu cực 
dưới mọi hình thức như: tổ chức đường dây nóng, bố trí hòm thư tố giác tội phạm 
tham nhũng...Kịp thời động viên, khen thưởng những quần chúng có thành tích trong 
phong trào bảo vệ tài sản nhà nước, phát hiện, đấu tranh chống TTLP vốn nhà nước. 
Tỉnh cần có cơ chế khuyến khích các cơ quan báo chí tích cực tham gia giám sát, đi 
đầu trong việc chống tham nhũng, TTLP, đưa các vụ việc tiêu cực, TTLP công khai ra 
công luận nhằm tạo áp lực xã hội răn đe, ngăn chặn những hành vi tiêu cực làm TTLP 
tiền của, tài sản của nhà nước, của nhân dân. 
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ 
3.2.2.1. Kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án tiến tới chuyển đổi thành 
công ty tư vấn quản lý dự án 
Để tạo điều kiện cho phép chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về chất lượng, 
tiến độ xây dựng công trình kể từ giai đoạn chẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi 
nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính 
khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật cần cải tổ mô hình ban quản 
lý dự án đầu tư vốn nhà nước, cụ thể là: 
- Đối với trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án, Ban quản lý dự 
án phải là người đại diện cho chủ đầu tư thực hiện các chức năng, nhiệm vụ quản lý 
đầu tư xây dựng của công trình. Ban quản lý dự án phải chịu trách nhiệm trước chủ 
đầu tư và pháp luật theo nhiệm vụ được giao và quyền hạn được uỷ quyền. Chất lượng 
của công trình, dự án có đảm bảo theo yêu cầu thiết kế hay không, dự án có xảy ra 
TTLP hay không cần quy về trách nhiệm của ban quản lý dự án và năng lực quản lý, 
chuyên môn của cán bộ. Trước mắt cần khẩn trương bổ xung các điều kiện và năng lực 
còn thiếu cho các ban quản lý dự án nhóm B, C của các ngành, địa phương mà hiện tại 
chưa đủ điều kiện hoạt động theo quy định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP ngày 
07/02/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Cố gắng tránh 
tình trạng giám đốc các ban quản lý là cán bộ kiêm nhiệm (thường là chánh, phó thủ 
trưởng đơn vị) không có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về xây dựng. Về lâu dài, cần 
kiện toàn bộ máy các ban quản lý dự án không những đảm bảo đủ tiêu chuẩn, điều 
kiện hoạt động theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP, mà còn phù hợp với từng dự án và 
phải hoạt động có hiệu quả. Để đạt được mục tiêu đó, cần tuyển chọn, bổ sung cán bộ 
cho các ban quản lý dự án có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án, loại cấp 
công trình và công việc. Cán bộ quản lý dự án phải có văn bằng chứng chỉ đào tạo phù 
hợp với công việc được giao và chứng chỉ đó phải do các cơ sở đào tạo hợp pháp cấp. 
Giám đốc quản lý dự án phải có trình độ đại học thuộc chuyên ngành xây dựng phù 
hợp với yêu cầu của dự án và đáp ứng các điều kiện tương ứng. Do Thanh Hoá hàng 
năm phải quản lý gần 200 đầu mục công trình ĐTXD, trong đó chủ yếu là các dự án 
nhóm C, mà chủ yếu là đầu tư xây dựng các lớp học, các trung tâm y tế huyện, trụ sở 
các xã, phường, thị trấn, các đường giao thông liên xã, các trạm bơm, kênh mương nội 
đồng...nên việc kiện toàn bộ máy ban quản lý dự án theo Nghị định 16/2005/NĐ-CP 
cho thấy trước là rất khó khăn, đòi hỏi quyết tâm cao và cách làm thích hợp của 
UBND tỉnh. 
Theo chúng tôi, Thanh Hoá nên triển khai nhanh việc thực hiện Luật Xây dựng, 
Nghị định 16/2005/NĐ-CP bằng việc thành lập các đơn vị tư vấn quản lý dự án để làm 
công tác quản lý dự án chuyên nghiệp, vì làm như vậy sẽ giải quyết được các bất cập 
đã nêu về quản lý ĐTXD gây TTLP ở Thanh Hoá. Hơn nữa, với mô hình đơn vị tư 
vấn, chủ đầu tư sẽ có trách nhiệm lựa chọn và ký hợp đồng với tổ chức tư vấn quản lý 
dự án có đủ điều kiện, năng lực tổ chức quản lý để giúp chủ đầu tư quản lý dự án một 
cách hiệu quả, đồng thời giảm nhẹ công việc nghiệp vụ cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư chỉ 
nên giữ lại trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện hợp đồng của tư vấn quản lý 
dự án. Tư vấn quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo thoả thuận trong hợp 
đồng ký kết giữa chủ đầu tư và tư vấn quản lý dự án. Tư vấn quản lý dự án chịu trách 
nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng. 
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã có 05 Ban quản lý dự án của các sở Xây 
dựng, Giao thông Vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đủ điều kiện xếp hạng 
1 và một số Ban quản lý dự án thuộc thành phố, thị xã và một số sở như Giáo dục và 
Đào tạo, Y tế đủ điều kiện xếp hạng 2. Các Ban quản lý dự án này hoạt động theo mô 
hình sự nghiệp tự trang trải từ nguồn phí quản lý dự án. Trước mắt tỉnh cần có chính 
sách hoàn thiện các ban quản lý này để chuyển đổi thành các công ty tư vấn quản lý dự 
án, ngoài ra bổ sung chức năng cho một số đơn vị tư vấn đủ điều kiện hoạt động tư vấn 
quản lý dự án và tỉnh cần ban hành văn bản quy định các chủ đầu tư không đáp ứng 
yêu cầu trình độ chuyên môn, bắt buộc phải hợp đồng với các đơn vị tư vấn quản lý dự 
án để quản lý dự án. Đối với các dự án lớn thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn tư vấn 
quản lý dự án. 
3.2.2.2. Nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn của cán bộ tham 
gia quản lý đầu tư xây dựng 
Từ thực trạng công tác quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh trong thời gian 
qua cho thấy: công trình đạt chất lượng tốt hay không tốt, xét cho cùng, một phần quan 
trọng phụ thuộc vào năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người 
cán bộ làm công tác quản lý ĐTXD trong bộ máy nhà nước. Trong đó, tình trạng thiếu 
trách nhiệm, không sâu sát thực tế, vì lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, vì thành 
tích, không coi trọng tính độc lập, tính khách quan là nguyên nhân quan trọng gây 
TTLP. 
Để công tác quản lý đầu tư xây dựng có hiệu quả phải thực hiện tốt việc đào tạo 
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tham gia công tác quản lý ĐTXD cả về lĩnh vực chuyên 
môn, lĩnh vực quản lý. Đồng thời phải giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức nghề 
nghiệp để đảm bảo đủ cán bộ quản lý có năng lực, vừa hồng vừa chuyên. Vấn đề đặt ra 
là đào tạo cái gì, đào tạo như thế nào để đội ngũ cán bộ này vừa nâng cao được trình 
độ chuyên môn, vừa nâng cao được phẩm chất đạo đức. Muốn vậy, cần xác định cho 
được nội dung và chương trình đào tạo phù hợp với công việc mà họ đang đảm nhiệm. 
Ví dụ, đào tạo cán bộ làm quản lý quy hoạch đô thị phải có chương trình đào tạo khác 
với công chức quản lý thi công; chương trình đào tạo cán bộ quản lý vật liệu xây dựng 
khác với chương trình đào tạo cán bộ quản lý kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị...Thời 
gian đào tạo phải phù hợp với nội dung, yêu cầu của từng lĩnh vực, trong đó chú trọng 
thời gian tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu; chương trình đào tạo, ngoài phần lý thuyết, 
cần thiết phải giải đáp, lý giải được các vướng mắc trong thực tế phát sinh của từng 
lĩnh vực... 
Đối với lĩnh vực cán bộ quản lý ĐTXD, ngoài việc phải có những kiến thức 
nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, còn phải có năng lực quản lý nhà nước, 
điều hành quá trình xây dựng một cách khoa học, năng động, sáng tạo. Để nâng cao 
hiệu quả trong công tác ĐTXD thì công tác quản lý dự án phải được coi là một nghề 
chuyên nghiệp. Vì vậy, cán bộ quản lý dự án, ngoài việc đã tốt nghiệp một đại học 
chuyên ngành nào đó về lĩnh vực chuyên môn, còn phải hiểu biết tương đối rộng và 
nắm chắc một số lĩnh vực như xã hội học, pháp luật, kinh tế cũng như một số lĩnh vực 
khác có liên quan và nhất thiết phải qua thi tuyển mới được xắp xếp bố trí công tác. 
Đối với cán bộ tư vấn, ngoài bằng cấp kỹ sư, muốn trở thành tư vấn phải học 
một số chứng chỉ để được cấp phép hành nghề, có thâm niên thời gian thực tế theo quy 
định tại Nghị định 16/2005/NĐ-CP và phải học thêm một số môn học như giám sát thi 
công, giám định, kiểm định chất lượng công trình, nghiệp vụ đấu thầu, quản lý dự án, 
định giá xây dựng...có như vậy mới từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ 
tư vấn theo đúng nghĩa của nó. 
Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ chuyên môn, 
kỹ thuật tham gia vào các khâu của dự án, làm cho đội ngũ này thành thạo các kỹ năng 
và đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, chuyên môn trong đầu tư xây dựng, có phương pháp 
quản lý, điều hành việc thực hiện dự án, xây lắp công trình một cách khoa học, có hiệu 
quả. Những người biên chế vào chức danh của Ban quản lý dự án phải đảm bảo trình 
độ chuyên môn, nghiệp vụ tối thiểu theo quy định, không bố trí người không có hoặc 
không đủ trình độ chuyên môn theo yêu cầu vào tổ chức bộ máy này. Tuy nhiên, trong 
điều kiện cán bộ của tỉnh, huyện còn thiếu và yếu, trước mắt phải chấp nhận việc vận 
dụng linh hoạt một số tiêu chuẩn nhằm bố trí cán bộ vào Ban quản lý dự án phù hợp 
với trình độ ở mức độ chấp nhận được theo giải pháp tình thế để thực hiện nhiệm vụ, 
nhưng sau đó phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng bước để đảm bảo các điều kiện 
theo yêu cầu đặt ra, và về lâu dài phải kiên quyết kiện toàn đội ngũ cán bộ chuyên môn 
theo đúng tiêu chuẩn quy định. 
3.2.3. Nhóm giải pháp về kỹ thuật, chuyên môn 
3.2.3.1. Nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư 
Đ ể nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư phải quy định rõ, cụ thể và có chế tài 
nghiêm khắc đối với chủ đầu tư trên phương diện thực hiện đúng và đủ theo chức trách 
của mình và phải nâng cao trình độ, năng lực của chủ đầu tư để họ đáp ứng công việc 
theo yêu cầu. 
Trong tình trạng của nước ta là, Luật Xây dựng quy định trách nhiệm chung của 
chủ đầu tư rất lớn, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong công tác ĐTXD công 
trình do mình làm chủ đầu tư, nhưng quy định trách nhiệm cụ thể lại chưa rõ ràng, 
nhất là quy trách nhiệm cá nhân khi dự án đầu tư không hiệu quả, gây TTLP trong 
ĐTXD. Tỉnh Thanh Hoá cần xây dựng cho mình các văn bản dưới luật quy định cụ thể 
về trách nhiệm của chủ đầu tư sử dụng vốn NSNN. Những quy định đó phải khắc phục 
được hiện tượng do muốn có được công trình, chủ đầu tư nhiều khi chỉ đạo tư vấn lập 
dự án đầu tư và thuyết phục người quyết định đầu tư bằng mọi cách sao cho dự án 
được duyệt, hoặc do tâm lý đi xin mà một số chủ đầu tư cố tình lập thấp tổng mức đầu 
tư nhằm hạ nhóm dự án từ nhóm A xuống nhóm B hay C, hoặc chỉ ở dạng lập báo cáo 
kinh tế kỹ thuật mà đáng ra nếu tính đầy đủ phải lập dự án đầu tư để giảm nhẹ hàng 
rào pháp lý thực hiện mục tiêu trước mắt là được chấp thuận đầu tư. Ngược lại, cũng 
ngăn chặn trường hợp, chủ đầu tư lập tổng mức đầu tư cao để tranh thủ vốn hỗ trợ, khi 
triển khai thì không đảm bảo vốn đối ứng gây TTLP lớn. Ngoài ra, phải trừ liệu các 
quy định phòng ngừa chủ đầu tư, do mối quan hệ cá nhân, lựa chọn tư vấn quen nhưng 
không đảm bảo năng lực theo yêu cầu của dự án. 
Một giải pháp căn bản nữa là cần nâng cao năng lực của chủ đầu tư nhằm 
phòng ngừa trước các TTLP trong trường hợp, do trình độ năng lực hạn chế, do chủ 
đầu tư không biết điều hành tư vấn, nên đưa ra những đòi hỏi, mệnh lệnh không hợp 
lý, dẫn tới ức chế tâm lý, giảm hưng phấn và ý tưởng sáng tạo của tư vấn hoặc trường 
hợp cũng vì lý do hạn chế năng lực mà chủ đầu tư trở nên dễ dãi, thậm chí lệ thuộc vào 
nhà tư vấn khi nghiệm thu các công việc này. Tỉnh chỉ nên giao dự án cho các chủ đầu 
tư đủ năng lực giám sát và phản biện lại nhà thầu tư vấn. 
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư, cùng với sự tăng cường phân 
cấp quản lý đầu tư, tỉnh cần có sự phân công, quy trách nhiệm rõ ràng của chủ đầu tư, 
để nếu dự án xảy ra TTLP trong ĐTXD thì chủ đầu tư phải có phần trách nhiệm tương 
xứng. Cũng nên quy định rõ yêu cầu về trình độ, năng lực của chủ đầu tư đối với từng 
dự án cụ thể và cần nghiên cứu để ban hành chế độ bắt buộc các chủ đầu tư không đảm 
bảo năng lực chuyên môn phải thuê tổ chức tư vấn quản lý dự án. 
3.2.3.2. Nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế 
Để nâng cao chất lượng công tác lập dự án, khảo sát, thiết kế thì trước mắt tỉnh 
nên giao cho thanh tra Sở Xây dựng tăng cường thanh tra, kiểm tra, phát hiện và đề 
xuất UBND tỉnh xử lý, uốn nắn kịp thời các sai phạm của tổ chức tư vấn xây dựng 
như hoạt động quá năng lực, không có chứng chỉ hành nghề, cho thuê, mượn danh 
nghĩa trong hoạt động tư vấn, thiết kế không phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn, 
không đảm bảo chất lượng, lập dự toán không đúng thực tế, khối lượng thiết kế. Sở 
Xây dựng nên phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra chặt chẽ việc cấp giấy 
chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng cho các tổ 
chức hoạt động tư vấn xây dựng. Tỉnh cũng cần tiến hành rà soát, đánh giá năng lực 
chuyên môn các tổ chức hoạt động tư vấn xây dựng, công bố công khai năng lực, quy 
mô và phạm vi hành nghề của các tổ chức tư vấn quy hoạch, khảo sát, lập dự án, thiết 
kế, giám sát thi công, thí nghiệm vật liệu...trên các phương tiện thông tin đại chúng và 
đến từng UBND các huyện, thành phố, thị xã, thậm chí đến tận UBND xã, phường, thị 
trấn để cho các chủ đầu tư lựa chọn và để nhân dân trên địa bàn có công trình xây 
dựng biết, tham gia kiểm tra, giám sát. Kiên quyết rút giấy phép đăng ký kinh doanh, 
chứng chỉ hành nghề tư vấn nếu các tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện, năng lực 
hoạt động, không thực hiện các quy định trong đăng ký kinh doanh, vi phạm pháp luật. 
Đình chỉ, cấm hoạt động có thời hạn đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề tư vấn có 
nhiều sai sót trong hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế, lập dự toán. Tất cả các việc rút giấy 
phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động tư vấn của các tổ chức, cá nhân 
nên đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng, đến các chủ đầu tư để họ không ký 
hợp đồng với các tổ chức, cá nhân này. Các đơn vị chức năng quản lý nhà nước chỉ 
thẩm định, trình hồ sơ dự án đầu tư khi tổ chức tư vấn đủ điều kiện, năng lực theo quy 
định của pháp luật. Tóm lại, Thanh Hoá phải làm mọi cách để các tổ chức tư vấn phải 
chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm tư vấn và phải bồi thường thiệt hại, chịu xử lý 
hành chính, trường hợp nghiêm trọng, chịu xử lý hình sự, khi có quyết định sai thuộc 
phạm vi trách nhiệm của mình. 
Ngoài ra, các ngành chức năng cần ban hành hướng dẫn hệ thống quản lý và quy 
trình kiểm soát chất lượng sản phẩm công tác tư vấn (khảo sát, lập dự án, quy hoạch, 
thiết kế, thẩm tra, giám sát thi công, thí nghiệm, kiểm định chất lượng...) để các đơn vị 
tư vấn thực hiện. Tỉnh nên có cơ chế khuyến khích các đơn vị tư vấn ứng dụng hệ thống 
kiểm tra chất lượng ISO, có chính sách khuyến khích các tố chức tư vấn trong tỉnh xắp 
xếp lại theo hướng cổ phần hoá, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập như tổng công ty 
tư vấn, tập đoàn tư vấn, liên danh, liên kết với các tổ chức tư vấn lớn trong và ngoài 
nước để có đủ điều kiện và năng lực thực hiện các dự án có quy mô lớn, kỹ thuật phức 
tạp. 
Mặt khác, các tổ chức tư vấn phải tập trung nâng cao chất lượng công tác 
chuyên môn, coi chất lượng là yếu tố hàng đầu quyết định sự sống còn của đơn vị. 
Muốn vậy các đơn vị tư vấn phải nâng cao trình độ, năng lực của người thực hiện, tăng 
cường kiểm tra ở các tổ, nhóm, bộ phận và chú trọng khâu kiểm tra chất lượng của sản 
phẩm tư vấn trước khi giao cho khách hàng. Tổ chức tư vấn cũng phải quan tâm đến 
con người như tuyển chọn, đào tạo và sử dụng đội ngũ tư vấn có trình độ cao. 
3.2.3.3. Nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư xây 
dựng từ vốn ngân sách nhà nước 
Công tác thẩm tra, thẩm định hồ sơ dự án, khảo sát, thiết kế cần được nâng cao 
chất lượng nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời TTLP trong ĐTXD, cụ thể là: 
- Nâng cao năng lực thẩm định của Sở Kế hoạch và Đầu tư (thẩm định dự án, 
báo cáo kinh tế kỹ thuật), của các sở xây dựng chuyên ngành (thẩm định thiết kế cơ 
sở) đối với các dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách tỉnh. Nâng cao năng lực của các 
phòng chức năng của huyện đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách 
huyện. 
- Quy định rõ các đơn vị tham mưu thẩm định phải đủ năng lực giúp chủ quản 
đầu tư, chủ đầu tư xem xét lại tất cả các nội dung mà dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật 
đã đề cập nhằm xác định lại lần cuối cùng tính chính xác, khoa học, tính hiệu quả của 
dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hơn nữa, 
công tác thẩm định phải được thực hiện một các nghiêm túc, chặt chẽ, chính xác từ các 
quy trình, quy định về thủ tục, từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ đến việc tính toán 
kiểm tra lại, phản biện khoa học, đến việc tiếp cận thực tế gắn với tình hình kinh tế, 
chính trị, văn hoá, xã hội, phong tục tập quán của địa phương. 
- Nâng cao năng lực, trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Đơn vị, cá nhân cán bộ 
thẩm định phải chịu trách nhiệm xem xét các quy trình, thủ tục, các quy định, tiêu chuẩn, 
định mức, đơn giá, các số liệu cần và đủ, xem xét các yếu tố để xem xét dự án, thiết kế có 
khả thi, có hiệu quả hay không, tính kỹ thuật, mỹ thuật, chất lượng công trình có đảm bảo 
hay không, khi có vấn đề nào chưa rõ phải yêu cầu nhà tư vấn báo cáo, giải thích làm rõ, 
nếu cần phải tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn sâu, các chuyên gia, các nhà khoa 
học. 
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, các đơn vị tư vấn phải bố trí đủ các 
cán bộ thẩm tra có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu, có trách nhiệm, nhiệt tình và 
phải độc lập với đơn vị tư vấn thiết kế, lập dự toán, đặc biệt tránh tình trạng thẩm tra 
chỉ là hình thức. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh, các đơn vị tư vấn thẩm tra mới là một bộ 
phận phòng ban trong các đơn vị tư vấn thiết kế, hầu hết đều mới được thành lập, do 
vậy có hiện tượng hụt hẫng cán bộ đầu đàn, thiếu kinh nghiệm, phương pháp làm việc 
còn thiếu chuyên nghiệp, có hiện tượng khoán cho các nhóm nhỏ thực hiện, do đó kết 
quả thẩm tra thiếu độ tin cậy và nhiều khi thẩm tra chỉ là hình thức, ít phát hiện ra 
những sai sót trong thiết kế cũng như trong dự toán. Trong khi đó chất lượng của công 
trình tốt hay xấu, tính chính xác của dự toán cao hay thấp, một phần rất quan trọng phụ 
thuộc vào tính đầy đủ, nghiêm túc của việc thẩm tra thiết kế, dự toán. Vì vậy, trước 
mắt tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm tra trong các đơn vị tư 
vấn thẩm tra, cụ thể là yêu cầu các đơn vị có chức năng thẩm tra, ngoài các quy định 
về giấy phép hành nghề, quy định về năng lực như quy định của Luật Xây dựng về các 
đơn vị, cá nhân tư vấn thông thường, thì cần yêu cầu thêm một số quy định ràng buộc 
như phải có thời gian, kinh nghiệm công tác và phải có chứng chỉ tham gia các lớp học 
bồi dưỡng như định giá công trình xây dựng, thẩm tra phản biện...từng bước hình 
thành các tổ chức tư vấn thẩm tra độc lập, chuyên nghiệp. Ngoài ra tỉnh nên có quy 
định ràng buộc trách nhiệm của các đơn vị tư vấn thẩm tra trong việc không phát hiện 
được những sai sót trong các hồ sơ thiết kế, dự toán. 
3.2.3.4. Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu dự án đầu tư xây dựng từ 
vốn ngân sách nhà nước 
Để nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, tỉnh cần phải có văn bản quy định cụ 
thể để xử lý các trường hợp nhà thầu bỏ giá thấp để thắng thầu, các nhà thầu không đủ 
năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu, hạn chế tình trạng kéo dài tiến độ công 
trình, chất lượng công trình không đảm bảo. Tỉnh nên tăng cường công tác thanh tra, 
kiểm tra công tác đấu thầu nhằm hướng dẫn, uốn nắn, phát hiện sai phạm trong công 
tác đấu thầu. Nên kiên quyết xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu như thông 
thầu, dàn xếp thầu hoặc bán thầu, ngoài xử lý theo quy định của pháp luật thì có thể áp 
dụng thêm hình thức cấm dự thầu các dự án có nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh có 
thời hạn, thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phải tăng cường 
bồi dưỡng chuyên môn nghiệm vụ về công tác đấu thầu cho cán bộ làm công tác quản 
lý dự án, nhất là ở cấp huyện và xây dựng đội ngũ cán bộ thẩm định, thanh tra công tác 
đấu thầu có nghiệp vụ vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có tinh thần phục vụ và trách 
nhiệm cao. 
3.2.3.6. Nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công công trình xây dựng 
từ vốn ngân sách nhà nước 
Để nâng cao chất lượng công tác giám sát thi công, thì đầu tiên cũng như các 
đơn vị tư vấn khác, các đơn vị tư vấn giám sát thi công cần phải có tính chuyên nghiệp 
cao, có tinh thần tự hoàn thiện, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và 
đặc biệt nâng cao ý thức, phẩm chất đạo đức. Chất lượng của công trình tuỳ thuộc vào 
người giám sát thi công xây dựng công trình. Người giám sát giỏi, có đạo đức thì công 
trình có chất lượng và ngược lại. Nếu không có đạo đức, người giám sát thi công dễ 
dàng cho qua những lỗi nhỏ và lớn tuỳ thuộc vào sự đối đãi của đối tác, đặc biệt cần 
ngăn ngừa nhà thầu cùng với tư vấn giám sát thông đồng với nhau đánh tráo, thay đổi 
chủng loại vật tư, thiết bị, bớt xén vật liệu. Các ban ngành của tỉnh (phòng quản lý chất 
lượng Sở Xây dựng, Thanh tra Xây dựng..), các đơn vị tham mưu cho cấp huyện 
(phòng Công thương), bản thân chủ đầu tư phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các 
đơn vị tư vấn giám sát thi công. Cũng như các đơn vị tư vấn khác, nếu các đơn vị tư 
vấn giám sát có sai sót, có tiêu cực thì kiên quyết loại bỏ, thu hồi giấy phép, thông báo 
công khai cho các chủ đầu tư biết. Nếu phạm tội thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự 
theo quy định của pháp luật. 
3.2.3.7. Nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, thanh quyết toán công 
trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước 
Để nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu, quyết toán nhằm ngăn ngừa các 
hiện tượng tiêu cực trên, Thanh Hoá nên tăng cường chỉ đạo sao cho khâu nghiệm thu 
phải đúng quy trình, quy phạm, nhất là khâu nghiệm thu thực tế tại hiện trường, 
nghiệm thu theo nhật ký công trình và các biên bản kiểm tra lấy mẫu, thí nghiệm vật 
liệu công trình, các hoá đơn chứng từ mua vật tư, vật liệu...; khâu thẩm định quyết toán 
phải được thực hiện một cách chặt chẽ, phải rà soát các quy định, tiêu chuẩn, định 
mức, đơn giá, chế độ chính sách, đảm bảo chi phí thực của công trình. Trước mắt đối 
với các dự án lớn, trước khi phê duyệt quyết toán dự án đầu tư nhất thiết cần được tiến 
hành kiểm toán, tiến tới tất cả các dự án đầu tư trước khi phê duyệt quyết toán phải 
được kiểm toán nhằm thực hiện kiểm tra, kiểm soát, loại bỏ các chi phí không hợp lý, 
các chi phí khống ra khỏi quyết toán công trình. Chất lượng của một công trình tốt hay 
xấu, hiệu quả đầu tư cao hay thấp, có TTLP hay không một phần rất quan trọng phụ 
thuộc vào chất lượng công tác nghiệm thu khối lượng, thẩm tra, thẩm định phê duyệt 
quyết toán dự án hoàn thành. Do đó, đòi hỏi các tổ chức, cá nhân được giao thực hiện 
nhiệm vụ thẩm tra, thẩm định không chỉ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà phải trung 
thực, khách quan trong công việc, không vì lợi ích cá nhân mà làm phương hại đến lợi ích 
chung, gây thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của nhà nước. Muốn vậy, các cơ quan chức 
năng cần phải quan tâm đến việc bố trí cán bộ tham gia thẩm định đảm bảo công tác thẩm 
định đạt chất lượng theo yêu cầu. Do hiện nay tỉnh đã phân cấp mạnh xuống địa phương, 
vì vậy công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ cấp huyện cần phải quan 
tâm hơn bao giờ hết, Sở Tài chính phải tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác quyết toán 
dự án hoàn thành ở cấp huyện nhằm phát hiện kịp thời những sai sót để có biện pháp nhắc 
nhở, chấn chỉnh hợp lý. 
3.2.4. Nhóm giải pháp đối với các nhà thầu 
Tỉnh cần quy định chặt chẽ điều kiện năng lực và có chế tài xử lý đối với các 
nhà thầu (nhà thầu tư vấn, nhà thầu xây lắp...) khi tham gia đấu thầu, nhận thầu 
công trình, quy định các loại hình và quy mô công trình đối với các nhà thầu được 
phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của các nhà thầu. Chấm dứt tình 
trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không đủ 
điều kiện, năng lực thi công, xây dựng công trình. Trường hợp phát hiện có hiện 
tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư với các nhà thầu tư vấn hoặc nhà 
thầu xây dựng thì tuỳ theo mức độ sai phạm cần áp dụng các hình thức phạt như 
phạt tiền theo quy định, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt 
động có thời hạn ít nhất một năm, thu hồi giấy phép, xử lý hình sự và thông báo 
trên các phương tiện thông tin đại chúng… Cần có cơ chế quản lý chặt chẽ và quy 
định về điều kiện, năng lực hành nghề của nhà thầu, kiểm tra thường xuyên các loại 
hình và quy mô công trình các nhà thầu được tham gia có phù hợp với trình độ, 
năng lực của nhà thầu theo quy định của pháp luật không. Khi phát hiện nhà thầu 
không đủ năng lực thực hiện làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng công trình 
đang thi công thì cần phải có biện pháp xử lý kịp thời, thậm chí cần chấm dứt hợp 
đồng. Tỉnh cũng nên có quy định cụ thể về xử lý các nhà thầu khi tiến độ thi công, 
chất lượng công trình không đảm bảo như phải hoàn toàn chịu trách nhiệm theo hợp 
đồng, bồi thường thiệt hại, tuỳ theo mức độ phải bị xử lý hình sự… 
Tỉnh cần có quy định về đạo đức của các nhà thầu, nếu phát hiện thấy họ thiếu 
trung thực khi tham gia đấu thầu thì cần có biện phảp xử lý nghiêm minh. Bản thân các 
nhà thầu phải tự nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ nhân lực từ cán bộ 
quản lý đến công nhân, có cơ chế tuyển chọn và trả lương cho những người có chuyên 
môn giỏi, tay nghề cao để hút người tài vào doanh nghiệp. Nhà thầu phải thường 
xuyên giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật 
và lương tâm nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực trong doanh nghiệp và chú trọng đầu 
tư máy móc, thiết bị thi công phù hợp với ngành nghề kinh doanh. 
3.2.5. Nhóm giải pháp liên quan đến việc phát huy dân chủ và phát huy vai 
trò của thông tin đại chúng trong giám sát dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà 
nước 
Trong những năm vừa qua phần lớn các vụ án phát hiện có tiêu cực, TTLP 
trong ĐTXD do quần chúng, cán bộ công nhân viên chức phát hiện dưới hình thức đơn 
thư tố giác và qua thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát 
thanh, truyền hình...). Tuy nhiên phong trào quần chúng đấu tranh chống tội phạm 
tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP chưa đi vào chiều sâu, còn tự phát, còn e dè, sợ 
liên luỵ, sợ bị trả thù, sợ mất việc...Các nguồn tin về tham nhũng, tiêu cực, TTLP được 
đăng tải trên các phương tiện đại chúng dưới dạng phóng sự điều tra, đơn tố cáo, các 
sự cố bất ngờ, những kiến nghị hoặc ý kiến người dân...đôi khi chưa chính xác, thiếu 
khách quan, phản ảnh chung chung, và có cả những thông tin phản ánh sai sự thật. 
Chính vì vậy, tỉnh cần có quy định hướng dẫn, quy định công khai nội dung trong dự 
án cả về quy mô, vốn, đơn vị thiết kế, đơn vị thi công, đơn vị giám sát, thời gian thi 
công xây lắp....để quần chúng biết, giám sát. Đồng thời, tỉnh cần đẩy mạnh tuyên 
truyền, vận động toàn dân tham gia phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống TTLP 
trong ĐTXD. Nên chú trọng tuyên truyền cho đối tượng là cán bộ, công nhân viên 
thuộc đơn vị chủ đầu tư, đơn vị thi công xây lắp, những người tham gia giám sát thi 
công, giám sát chất lượng công trình, những người làm công tác tư vấn và quần chúng 
nhân dân sống ở khu vực có công trình xây dựng. Tỉnh cần kịp thời động viên, biểu 
dương, khen thưởng những cá nhân tiêu biểu trong công cuộc đấu tranh chống tiêu 
cực, TTLP trong ĐTXD. 
Nâng cao vai trò của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc 
tuyên truyền, vận động phòng chống và điều tra về TTLP trong ĐTXD. Một khi báo chí 
và phương tiện thông tin đại chúng chưa phản ánh đầy đủ thực trạng của TTLP và vai 
trò của nó bị hạ thấp do có những hàng rào ngăn cản hoặc những vùng cấm địa thì nhiều 
vụ việc sẽ bị chìm xuống, trôi vào lãng quên. Nhưng báo chí chỉ nêu những vụ TTLP mà 
không nêu biện pháp và kết quả xử lý thì chẳng khác nào tuyên truyền từ đó tạo ra các 
luồng dư luận khác nhau trong xã hội để kẻ xấu lợi dụng bôi nhọ. Chính vì vậy, ngoài 
việc nâng cao vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng nhằm chống 
TTLP trong ĐTXD thì cũng phải định hướng ràng buộc các cơ quan báo chí, các 
phương tiện thông tin đại chúng thực hiện theo đúng quy định của Luật Báo chí, cụ thể 
là khi báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng phát hiện, phản ánh các công trình, 
dự án TTLP thì các cơ quan chức năng phải vào cuộc ngay, có kết luận xử lý kịp thời và 
báo chí thông tin ngay kết quả đó để quần chúng nhân dân biết và tin tưởng vào đường 
lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. 
3.2.6. Nhóm giải pháp quy trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan 
đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng từ ngân sách nhà nước 
Thời gian gần đây, công cuộc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ nguồn 
vốn NSNN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và đã có nhiều chủ trương, biện pháp 
đối phó, song phải thấy rằng cuộc đấu tranh này chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ 
đề ra, kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, tình hình vi phạm có chiều hướng ngày 
càng gia tăng, phức tạp và ngày càng tinh vi hơn, ảnh hưởng đến tiến trình phát triển 
kinh tế đất nước. Thực tế do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khá quan 
trọng là chưa có chế tài đủ mạnh để xem xét xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu 
cơ quan, đơn vị để xảy ra TTLP. Đặc biệt là hành vi gây TTLP nguy hiểm, gây hiệu 
quả nghiêm trọng thì trong Bộ luật hình sự chưa có điều luật hoặc có điều luật nhưng 
chưa quy định rõ, cụ thể. Quá trình ĐTXD liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp nên 
trong quá trình điều tra các vụ án thường có những quan điểm khác nhau giữa các cơ 
quan điều tra, truy tố, xét xử trong việc đánh giá chứng cứ, định tội danh vụ án, bị can 
dẫn đến hiệu quả đấu tranh đối với tội danh này chưa cao, nhiều vụ án kéo dài, hồ sơ 
chuyển đi, chuyển lại nhiều lần. Thậm chí nhiều hành vi phạm tội còn không được coi 
là tội phạm hoặc nhầm lẫn giữa các tội danh. 
Chính vì vậy, để thực hiện tốt công tác phòng chống TTLP trong ĐTXD từ 
nguồn vốn NSNN, cần thực hiện một số công việc sau: 
- Trong điều kiện Bộ luật Hình sự chưa có quy định rõ ràng tội phạm trong lĩnh 
vực ĐTXD, tỉnh cần quy định chế tài đủ mạnh, minh bạch trong khuôn khổ quyền hạn 
của UBND tỉnh đối với trách nhiệm của các bên liên quan đến quản lý ĐTXD từ vốn 
NSNN trên địa bàn tỉnh. Đi đôi với những quy định đó, tỉnh cần duy trì tinh thần thực 
hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật nhằm hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn 
NSNN. 
- Nghiên cứu để từng bước thực hiện xã hội hoá trong ĐTXD theo hướng 
NSNN chỉ đầu tư những công trình mà các thành phần kinh tế khác không thực hiện 
được. Tiến tới xã hội hoá các chủ thể tham gia hoạt động ĐTXD như tư nhân xây dựng 
trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc cho nhà nước thuê. Có chính sách khuyến khích 
các thành phần xã hội tham gia hoạt động ĐTXD, phát triển hình thức cổ phần hoá, 
góp vốn ĐTXD dưới hình thức nhiều thành phần tham gia góp vốn ĐTXD công trình, 
từ đó giảm dần danh mục các công trình sử dụng 100% vốn nhà nước nhằm góp phần 
hạn chế TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN. 
Kết luận 
 Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X nhận định, nước ta đã chuyển sang 
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ “đẩy mạnh CNH, HĐH”. Để thực hiện thành công sự 
nghiệp CNH, HĐH đất nước, tất yếu phải đẩy mạnh và sử dụng hiệu quả đầu tư phát 
triển của Nhà nước, trong đó phòng chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là một 
trong những giải pháp quan trọng. Trong khi đất nước ta còn nghèo, đang rất cần vốn 
để đầu tư phát triển thì TTLP đã làm giảm đi những khoản tài chính phục vụ cho đầu 
tư phát triển, điều đó đồng nghĩa với việc làm khó khăn thêm và kéo dài tiến trình 
CNH, HĐH đất nước, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tới quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế, làm mất uy tín quốc gia trên trường quốc tế. Mặt khác, TTLP trong ĐTXD từ 
vốn NSNN đã gây nên hậu quả rất lớn về mặt xã hội là tạo ra một số người giàu bất 
chính dẫn tới sự bất công bằng trong xã hội, làm tha hoá, biến chất một bộ phận cán 
bộ, đảng viên ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta, dẫn 
đến làm mất ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ 
rằng việc đấu tranh chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN là nhiệm vụ quan trọng 
để xây dựng thành công một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân 
chủ, văn minh”. 
 Trên cơ sở phân tích thực tiễn công tác chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN 
ở tỉnh Thanh Hoá trong những năm qua, luận văn đã giải quyết được một số vấn đề cụ 
thể, đó là: 
- Phân tích những đặc trưng cơ bản của ĐTXD từ vốn NSNN; 
- Nhận diện TTLP trong ĐTXD và phân tích các nguyên nhân dẫn đến TTLP 
trong ĐTXD từ vốn NSNN; 
- Phân tích nội dung cơ bản của chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN ; 
- Phân tích thực trạng tình hình TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn 
tỉnh Thanh Hoá từ năm 2003 (từ khi có Luật Xây dựng) đến nay, qua đó rút ra một số 
nguyên nhân cơ bản; 
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt công 
tác phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong 
thời gian tới. 
 Là một cán bộ làm công tác tham mưu giúp Thường trực UBND tỉnh trong 
công tác quản lý ĐTXD bằng vốn ngân sách tỉnh, với những kiến thức quản lý kinh tế 
đã thu được từ khoá học, với kinh nghiệm công tác cùng với những tài liệu tham khảo 
và sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của quý cô giáo hướng dẫn cũng như các thầy, cô 
giáo của Viện Quản lý kinh tế và Học viện, các cơ quan liên quan ở địa phương, các 
bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành luận văn này với mong muốn góp một phần 
nhỏ bé của mình cùng với các đơn vị liên quan ở địa phương, trước hết là hoàn thành 
nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc phòng, chống TTLP trong ĐTXD từ vốn 
NSNN. 
danh mục tài liệu tham khảo 
1. Hưng Bình (2006), “Thất thoát do đâu? Quản lý nguồn vốn Nhà nước: Trách nhiệm 
và quyền hạn chưa tương xứng”, Báo Đầu tư, ngày 19-5-2006. 
2. Chính phủ (2004), Báo cáo số 1679/CP-KTTH ngày 10/11/2004 trình bày về việc 
thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả 
nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình hình nợ đọng vốn 
đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát trong đầu tư xây 
dựng cơ bản, Hà Nội. 
3. Chính phủ (2006), Nghị quyết số 25/2006/NQ-CP ngày 9/7/2006 chương trình 
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và 
Nghị quyết của Quốc hội khoá XI về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 
năm 2006-2010, Hà Nội. 
4. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 
XVI, Nxb Thanh Hoá. 
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. Trần Công Hùng (2005), “Tham nhũng, tiêu cực trong XDCB: tiền thất thoát đủ 
để trả lương cho bộ máy hành chính, sự nghiệp cả nước”, Báo Tiền phong, 
ngày 11-11-2005. 
8. Lưu Hương (2005), “Chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng: Thất thoát, lãng phí khôn 
lường”, Báo VnExpress, ngày 21-7-2005. 
9. Đức Kế (2005), “Nhà luyện tập và thi đấu Thanh Hoá: Rờ đâu sai đó”, Báo Tiền 
phong, ngày 14-11-2005. 
10. Đức Kế (2006), “Một công trình mười năm vẫn dang dở”, Báo Tuổi trẻ, ngày 20-
7-2006. 
11. Nhật Linh (2006), “Đầu tư từ nguồn vốn nhà nước: Hiệu quả thấp dẫn đến lãng 
phí”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 05-12-2006. 
12. Nông Đức Mạnh (2006), “Đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là quyết tâm 
chính trị của toàn Đảng, toàn dân ta”, Tạp chí Cộng sản (16). 
13. Thế Mai (2007), “Chọn nhầm nhà thầu, tuyến đường Nghi Sơn – Bãi Trành bao 
giờ mới xong?”, Báo Nhân Dân, ngày 03-8-2007. 
14. Lê Xuân Mậu (2005), “Lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng – Chủ yếu là 
nguyên nhân con người”, Báo VietNamNet, ngày 28-2-2005. 
15. Đình Nam (2006), “Tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hoàn thiện cơ chế 
giám sát”, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 2-5-2006. 
16. Quốc hội (2004), Luật Xây dựng, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 
17. Quốc hội (2006), Luật Đầu tư, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
18. Quốc hội (2006), Luật Ngân sách nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
19. Quốc hội (2006), Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, 
chống lãng phí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 
20. Quốc hội (2006), Luật Đấu thầu, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 
21. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2003, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 19-01-2003. 
22. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2003), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2004, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 08-12-2003. 
23. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2004), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2005, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 14-12-2004. 
24. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2006, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 01-12-2005. 
25. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 08/KHĐT-BC ngày 
09/01/2005 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2004. 
26. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2007, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 15-12-2006. 
27. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 13/KHĐT-BC ngày 
13/01/2006 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2005. 
28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo kế hoạch đầu tư phát triển năm 
2008, Tài liệu báo cáo tại hội nghị BCH Tỉnh uỷ ngày 10-12-2007. 
29. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 160/KHĐT-BC ngày 
05/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2006. 
30. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 153/KHĐT-BC ngày 
14/02/2007 về thực hiện công tác đấu thầu năm 2007. 
31. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 549/KHĐT-BC ngày 
02/5/2008 về tình hình áp dụng và thực thi Luật đấu thầu qua hai năm thực 
hiện. 
32. Sở Tài chính Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 296/TC-ĐT ngày 21/02/2005 về báo 
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2004. 
33. Sở Tài chính Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 328/TC-ĐT ngày 24/02/2006 về báo 
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2005. 
34. Sở Tài chính Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 57/TC-ĐT ngày 11/01/2007 về báo 
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2006. 
35. Sở Tài chính Thanh Hoá (2008), Báo cáo số 70/TC-ĐT ngày 10/01/2008 về báo 
cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành năm 2007. 
36. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 478/SXD-TĐ ngày 30/3/2006 về tình 
hình triển khai thực hiện chỉ thị 21/2005/CT-TTg trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. 
37. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 2126/SXD-TTr ngày 29/12/2006 về tổng 
hợp kết quả thanh tra thực hiện ĐTXD Chương trình 135 và Trung tâm cụm xã 
tại các huyện miền núi tỉnh Thanh Hoá. 
38. Sở Xây dựng Thanh Hoá (2007), Thông báo số 3043/SXD-QLCL ngày 
31/12/2007 về năng lực hoạt động của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng 
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. 
39. Phương Thanh (2004), “Quản lý đầu tư – Vẫn bài ca thất thoát”, Báo 
VietNamNet, ngày 18-02-2004. 
40. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2003), Báo cáo số 339/BC-TTTH ngày 24/11/2003 về 
tổng kết hai năm thực hiện Quyết định 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ về thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. 
41. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2004), Báo cáo số 310/KL-TTTH ngày 24/9/2004 về kết 
quả thanh tra các dự án tái định cư công trình Hồ Cửa Đạt. 
42. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Kết luận số 82/KL-TTTH ngày 17/02/2005 về 
thanh tra thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố 
Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá. 
43. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 121/BC-TTTH ngày 21/3/2005 về 
kết quả thanh tra đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 
2002-2004. 
44. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2005), Báo cáo số 537/BC-TTTH ngày 10/1102005 về 
tổng kết công tác thanh tra năm 2005, phương hướng nhiệm vụ công tác 
thanh tra năm 2006. 
45. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 517/BC-TTTH ngày 15/12/2006 về 
tổng kết công tác thanh tra năm 2006, phương hướng nhiệm vụ công tác 
thanh tra năm 2007. 
46. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2006), Kết luận số 430/KL-TTTH ngày 03/11/2006 về 
thanh tra thực hiện các dự án xây dựng công trình thuỷ lợi: Hệ thống tiêu 
Đa Bút – Hà Lĩnh huyện Hà Trung và huyện Vĩnh Lộc; Sửa chữa, nâng cấp 
cụm công trình thuỷ lợi tưới mía thuộc Nông trường Sao Vàng, tỉnh Thanh 
Hoá. 
47. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 1007/BC-TTTH ngày 18/12/2007 
về tổng kết công tác thanh tra năm 2007, phương hướng nhiệm vụ công tác 
thanh tra năm 2008. 
48. Thanh tra tỉnh Thanh Hoá (2007), Kết luận số 469/KL-TTTH ngày 01/6/2007 về 
thanh tra đầu tư xây dựng tại trường Đại học Hồng Đức. 
49. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 về việc triển 
khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử 
dụng vốn Nhà nước và chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng. 
50. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 29/2005/CT-TTg ngày 23/12/2005 về 
chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước. 
51. Trần Văn Tiến (2004), “Đơn thuốc nào cho “bệnh” thất thoát đầu tư xây dựng?”, 
Báo VietNamNet, ngày 10-10-2004. 
52. Đà Trang (2004), “Đầu tư sai do...cục bộ, thành tích”, Báo Tuổi trẻ Online, ngày 11-
11-2004. 
53. Anh Tuấn (2007), “Thanh Hoá: Sẽ rút giấy phép nhiều công ty tư vấn thiết kế”, 
Báo Lao Động, ngày 13-8-2007. 
54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 18/BC-UBND ngày 
17/4/2006 về tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 21/2005/CT-TTg tai 
địa phương tỉnh Thanh Hoá. 
55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Báo cáo số 61/BC-UBND ngày 
18/12/2006 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2006, 
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2007. 
56. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 
12/4/2007 về việc nâng cao hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí trong đầu 
tư XDCB. 
57. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 13/9/2007 về việc 
tăng cường quản lý công tác hoạt động Tư vấn xây dựng. 
58. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2007), Báo cáo số 71/BC-UBND ngày 
10/12/2007 về tình hình kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2007, 
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm năm 2008. 
59. Website Chính phủ (2007), “Thanh Hoá thu hồi 217 ha đất thuộc các quy hoạch 
treo, dự án treo”, ngày 07-02-2006. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.pdf LUẬN VĂN- Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.pdf