Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc68
một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu
là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được
tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có nhiệm vụ
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên
trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi
mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những
chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Việc triển
khai thực hiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án
thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC trong thực tế, cần
phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc
thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập
và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối
quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án;
sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu
Hội thẩm; quản lý về tổ chức đối với các Tòa án; đưa ra các giải pháp và phân
công trách nhiệm tổ chức thực hiện.
+ Bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm chỉ tuân theo pháp luật: đây là nguyên tắc nền tảng cho hoạt động tư
pháp nói chung của TAND nói riêng. Để dảm bảo nguyên tắc này cần phải
giải quyết những vấn đề sau
+ Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp vào hoạt động xét xử hay có
những tác động tới sự độc lập của Tòa án. Hiện nay, Đảng lãnh đạo Tòa án cả
về tổ chức nhân sự và hoạt động xét xử, điều này khó có thể đảm bảo được
tính độc lập khi xét xử của Tòa án thực hiện theo đúng nguyên tắc “ khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” .[15, tr.9]
77 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13 là 6 bị cáo.
Năm 2015 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 112 vụ - 186 bị cáo
phạm các loại tội, đã giải quyết 112 vụ -186 bị cáo, đạt tỉ lệ 100%. So với
năm 2014 số lượng các vụ án hình sự giảm 06 vụ; tỷ lệ giảm 5,7%, số bị cáo
giảm hơn so với năm 2014 là 53 bị cáo, tỷ lệ giảm 41%.
Năm 2016 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 113 vụ - 182 bị cáo
phạm các loại tội, đã giải quyết 112 vụ -181 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,1% về số vụ
và 99,4% về số bị cáo. So với năm 2015 số lượng các vụ án hình sự thụ lý
tăng 01 vụ; tỷ lệ tăng 0,9%, số bị cáo giảm hơn so với năm 2015 là 04 bị
cáo, tỷ lệ giảm 2,1%.
Năm 2017 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 123 vụ - 168 bị cáo
phạm các loại tội, đã giải quyết 122 vụ -167 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,1% về số vụ
và 99,4% về số bị cáo. So với năm 2016 số lượng các vụ án hình sự thụ lý
tăng 10 vụ; tỷ lệ tăng 8,8%, số bị cáo giảm hơn so với năm 2016 là 14 bị
cáo, tỷ lệ giảm 8,3%.
44
Bảng 2.2. Bảng thống kê kết quả xét xử vụ án sơ thẩm một số tội
từ năm 2013 - 2017
Năm Các tội đã xét xử
Trả hồ sơ
điều tra bổ
sung
Tạm
đình chỉ
Đình
chỉ vụ
án
Xét xử
lưu
động
2013
-Cố ý gây thương tích.
-Cướp tài sản.
- Cướp giật tài sản.
- Mua bán trái phép chất ma
túy.
- Đánh bạc
- Vi phạm về điều khiển
giao thông đường bộ
04 vụ - 31
bị cáo
0 0
29 vụ -
36 bị
cáo
2014
-Cố ý gây thương tích.
-Cướp tài sản.
- Cướp giật tài sản.
- Mua bán trái phép chất ma
túy.
- Đánh bạc
- Vi phạm về điều khiển
giao thông đường bộ
07 vụ - 09
bị cáo
0 0
21 vụ -
23 bị
cáo
2015
-Cố ý gây thương tích.
-Cướp tài sản.
- Cướp giật tài sản.
- Mua bán trái phép chất ma
túy.
- Đánh bạc
14 vụ - 21
bị cáo
0 0
22 vụ -
31 bị
cáo
45
Năm Các tội đã xét xử
Trả hồ sơ
điều tra bổ
sung
Tạm
đình chỉ
Đình
chỉ vụ
án
Xét xử
lưu
động
- Vi phạm về điều khiển
giao thông đường bộ
2016
-Cố ý gây thương tích.
-Cướp tài sản.
- Cướp giật tài sản.
- Mua bán trái phép chất ma
túy.
- Đánh bạc
- Vi phạm về điều khiển
giao thông đường bộ
17 vụ - 30
bị cáo
0 0
22 vụ-
31 bị
cáo
2017
-Cố ý gây thương tích.
-Cướp tài sản.
- Cướp giật tài sản.
- Mua bán trái phép chất ma
túy.
- Đánh bạc
- Vi phạm về điều khiển
giao thông đường bộ
28 vụ - 35
bị cáo
0 0
24 vụ -
30 bị
cáo
Trong năm 2013 Trong số 102 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số
tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp
tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 04 vụ - 31 bị cáo, đều được VKS chấp
46
nhận. Ngoài việc xét xử tại trụ sở, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà còn đưa ra
xét xử lưu động 29 vụ = 36 bị cáo, đạt tỷ lệ 28% về số vụ và 14% về số bị
cáo. Đây là những vụ án có tính chất nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe,
tài sản của công dân, các vụ án về tệ nạn xã hội Đặc biệt là các vụ án lừa
đảo lợi dụng chính sách bố trí chung cư cho các đối tượng nghèo trên địa bàn
thành phố đã được đưa ra xét xử kịp thời và nghiêm minh được dư luận đồng
tình ủng hộ, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp
luật trong nhân dân.
Vào năm 2014 Trong số 118 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số
tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp
tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc”... Trả hồ
sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 07 vụ - 09 bị cáo, Viện kiểm sát chấp
nhận 07 vụ - 09 bị cáo.Trong số đó, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra
xét xử lưu động tại các địa phương được 21 vụ = 23 bị cáo, đạt tỷ lệ 17% về
số vụ và 9,3% về số bị cáo
Trong năm 2015 Trong số 112 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa
số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”,
“Cướp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc”
...Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 14 vụ - 21 bị cáo, Viện kiểm
sát chấp nhận 12 vụ - 16 bị cáo; 02 vụ - 05 bị cáo không chấp nhận .
Trong số các vụ án đã xét xử, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử
lưu động tại các địa phương được 22 vụ = 31 bị cáo, đạt tỷ lệ 19,6% về số vụ
và 16,6% về số bị cáo.
Năm 2016 đã thụ Trong số 112 vụ án hình sự đã giải quyết thì đa số tập
trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài
47
sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 17 vụ - 30 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận
12 vụ - 18 bị cáo; 05 vụ - 12 bị cáo không chấp nhận.Trong số các vụ án đã
xét xử, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử lưu động tại các địa
phương được 22 vụ = 31 bị cáo, đạt tỷ lệ 23,1% về số vụ và 20,5% về số bị
cáo. Đây là những vụ án có tính chất nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe,
tài sản của công dân, các vụ án về tệ nạn xã hội được dư luận quan tâm; kết
quả xét xử được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần tích cực vào việc tuyên
truyền giáo dục ý thức pháp luật.
Trong năm 2017 Trong số 122 vụ án hình sự đã giải quyết thì đa số tập
trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài
sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 28 vụ - 35 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận
10 vụ - 10 bị cáo; 12 vụ - 15 bị cáo không chấp nhận; 06 vụ - 10 bị cáo chưa
có kết quả (mặc dù 12 vụ - 15 bị cáo Viện kiểm sát nhân dân quận có văn bản
trả lời không chấp nhận quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án
nhưng thực tế Viện kiểm sát đều tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của
Tòa án).[25, tr.43]
Nhận thức được vai trò và vị trí của ngành trên mặt trận đấu tranh phòng
chống tội phạm nên đối với công tác xét xử án hình sự luôn được quan tâm
hàng đầu. Trong quá trình thực hiện việc xét xử Toà án đã phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan bảo vệ pháp luật đóng trên địa bàn quận đưa các vụ án hình
sự ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm nguyên tắc
không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, thận trọng trong việc vận
dụng đường lối xét xử, hạn chế dần tỷ lệ sai sót, chú trọng việc tranh tụng tại
48
phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Trong thời gian qua, hầu hết các bản
án của Toà án nhân dân quận Sơn Trà luôn có tính giáo dục, răn đe, phòng
ngừa và được cấp ủy địa phương đánh giá cao.
Đánh giá chung về chất lượng xét xử án hình sự trong những năm qua đã
đạt hiệu quả cao, không có nhiều án bị sửa nghiêm trọng, không có án quá
hạn luật định, công tác xét xử án hình sự đảm bảo tính chất nghiêm minh, đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ
chính trị tại địa phương.
2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
Hạn chế về quy định của pháp luật:
+ Bộ luật TTHS Quy định Tòa án có nghía vụ chứng minh nên Tòa án đã
tập trung quá nhiều vào việc xét hỏi để đấu tranh với bị cáo, trường hợp bị
cáo không nhận tội nên dẫn đến Thẩm phán có tâm lý không hài lòng với bị
cáo nên dễ ảnh hưởng đến phán quyết, dẫn đến việc không khách quan làm
ảnh hưởng đến kết quả xét xử. Đồng thời việc Tòa án xét hỏi nhiều trong
phiên Tòa làm giảm đi vai trò chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, việc này
làm cho chức năng buộc tội của VKS bị mờ nhạt vì Tòa án đã làm thay rồi.
+ Quy định tại Điều 280 BLTTHS 2015 Thẩm phán chủ tọa phiên Tòa
trả điều tra bổ sung cũng không đúng chức năng của Tòa án, việc thu thập
chứng cứ chứng minh bị cáo có tội thuộc về chức năng buộc tội của VKS.
Việc VKS không thu thập đủ chứng cứ chứng minh được bị cáo có tội thi áp
dụng nguyên tắc suy đoán vô tội Tòa án ra quyết định tuyên bố bị cáo vô tội.
Tuy nhiên nếu số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều là thể hiện
sự thiếu sót của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện và
chứng minh tội phạm. Trong những năm qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng ngoài những dấu hiện tích
cực thể hiện tính thận trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử thì việc
49
trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở một số đơn vị địa phương phần nào phản ánh
tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa cao, năng lực
chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
+ Quy định Tòa án có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án Điểm bất
cập đầu tiên là quyền hạn này không phù hợp với thẩm quyền của Tòa án.
Chức năng chính của Tòa án là chức năng xét xử và đưa ra bản án cuối cùng
giải quyết vụ án. Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và rồi lại tự mình xét xử
vụ án – điều này sẽ dẫn đến hiện tượng Tòa án muốn bảo vệ quan điểm khởi
tố ban đầu của mình, và đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong
quá trình xét xử nữa. Hơn nữa, quy định này của pháp luật còn mang tính quá
mập mờ về thẩm quyền và nội dung. Điều 104 chỉ quy định Hội đồng xét xử
có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư, nhưng không quy định cụ thể là Hội
đồng xét xử cấp nào. Thứ hai, không quy định cụ thể trong trường hợp nào
Hội đồng xét xử sẽ tự mình ra quyết định khởi tố vụ án và trường hợp nào sẽ
yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Do vậy, Tòa án thường sẽ có xu hướng đẩy
việc khởi tố về cho phía VKS, bởi lẽ việc khởi tố sai một vụ án hình sự sẽ gây
ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng làm việc của cơ quan đó.
Tuy nhiên, không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trực
tiếp cho hội đồng xét xử, mà chỉ nên quy định nếu trong quá trình có tội phạm
hay người phạm tội mới cần điều tra thì Hội đồng xét xử sẽ đề nghị Viện
kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô
tư, khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các
giai đoạn tiêp theo của tố tụng hình sự. Việc duy trì chức năng này không phải
là không hợp lý nó sẽ giúp cho việc không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy
hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có
thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều tra, viện kiểm sát có thể bỏ
50
sót tội phạm.
Trên thực tiễn còn tồn tại thiếu sót của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là
khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của
VKS, giúp Kiểm sát viên bảo vệ cáo trạng, việc xét hỏi tại phiên toà chưa
thực sự đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp. Không ít trường hợp Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi một câu nào
mà chỉ đọc cáo trạng rồi ngồi xem HĐXX hỏi, hoạt động xét hỏi chủ yếu vẫn
do HĐXX thực hiện, khi HĐXX hỏi xong và hỏi Kiểm sát viên có hỏi gì
không thì Kiểm sát viên không hỏi gì thêm nữa vì thấy những vấn đề HĐXX
hỏi đã đủ. Rõ ràng, Kiểm sát viên đã không ý thức được mình là một bên của
quá trình tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi và tranh luận không phải của
HĐXX. Có những vụ án, VKS không tham gia vào việc xét hỏi hoặc có xét
hỏi nhưng không đúng vào nội dung chính, hỏi những câu hỏi mà HĐXX đã
hỏi trước đó. Đối với những vụ án có Luật sư chỉ định thì việc tham gia xét
hỏi của Luật sư cũng mang tính hạn chế, cầm chừng. Trong những trường hợp
như vậy, lẽ ra với vai trò là người trọng tài điều khiển hoạt động tranh tụng,
HĐXX phải nhắc nhở Kiểm sát viên không được lặp lại những câu hỏi trước
đó, hoặc đề nghị Luật sư hỏi những câu hỏi liên quan đến vấn đề mình bào
chữa thì HĐXX lại cho qua, xem việc dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật
sư đặt câu hỏi là một thủ tục mang tính hình thức cần phải có, không cần quan
tâm đến nội dung vấn đề cũng như kết quả đạt được khi dành thời gian cho
Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi bởi lẽ mọi tình tiết, sự kiện của vụ án đã
được Toà án thẩm tra, làm rõ trước đó. Trong những trường hợp như vậy, Toà
án vô hình chung đã tự đặt gánh nặng lên vai mình, tự mình “lấn sân” của bên
buộc tội hoặc bên gỡ tội. Điều này đã hạn chế Toà án trong việc thực hiện
chức năng xét xử, không phát huy được tính chủ động, tích cực của các bên tranh
tụng, do vậy kết quả giải quyết vụ án chủ yếu phụ thuộc vào HĐXX, các phán
51
quyết về vụ án có thể không đảm bảo tính khách quan, đầy đủ và chính xác.
Việc điều khiển tranh luận tại phiên tòa ở một số phiên tòa còn mang
tính hình thức. HĐXX không lắng nghe, ghi chép ý kiến tranh luận của luật sư
thậm chí còn cắt bỏ lời bào chữa một cách không hợp lý, chính do những hạn
chế nêu trên nên kết quả xét xử phúc thẩm của TAND Thành phố Đà Nẵng
các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013 đến năm 2017 cho thấy chất
lượng xét xử của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà còn một số hạn chế, trình độ
chuyên môn của Thẩm phán còn hạn chế vào năm cụ thể
Bảng 2.3. Kết quả kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013-2017
Năm
Số vụ bị kháng cáo - Kháng
nghị
Số vụ y
án
Số vụ
sửa án
Số vụ hủy án
2013
38 vụ kháng cáo
Không có kháng nghị
33 vụ 05 vụ 0
2014 51 vụ 25 vụ 11 vụ 0
2015
49 vụ kháng cáo
Không có kháng nghị
23 vụ 09 vụ 01 vụ
2016
44 vụ kháng cáo- 54 bị cáo
kháng nghị 07 bị cáo
16 vụ
16 bị
cáo
Hủy 1 phần 01
vụ- 02 bị cáo.
2017
37 vụ kháng cáo
Kháng nghị 02 vụ-5 bị cáo
21 vụ 06 vụ 0
Năm 2013 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 45 vụ kháng cáo,
không có vụ án nào bị Viện kiểm sát kháng nghị. Đến nay Tòa án cấp phúc
thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 38 vụ, kết quả y án sơ thẩm 15 vụ,
sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 05 vụ, đình chỉ xét xử phúc
thẩm 12 vụ, rút kháng cáo 04 vụ, còn lại chưa có kết quả.
Vào năm 2014 Trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 51 vụ kháng
52
cáo, kháng nghị 01 vụ, 01 vụ vừa kháng cáo vừa kháng nghị. Đến nay Tòa án
cấp phúc thẩm đã xét xử theo trình tự phúc thẩm 51 vụ, kết quả y án sơ thẩm
25 vụ, đình chỉ xét xử phúc thẩm 15 vụ, trong đó do có rút kháng nghị 01 vụ
và rút kháng cáo 14 vụ, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt vì có
tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh 11 vụ.
Năm 2015 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 49 vụ - 54 bị cáo
kháng cáo, kháng nghị không có. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại
theo trình tự phúc thẩm 49 vụ 54 bị cáo, kết quả y án sơ thẩm 23 bị cáo, sửa
án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 09 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc
thẩm 11bị cáo, rút kháng cáo 02 bị cáo; hủy án sơ thẩm 01vụ - 01 bị cáo (án
đã xét xử sơ thẩm của năm 2014).
Năm 2016 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 44 vụ - 53 bị cáo
kháng cáo, kháng nghị 07 bị cáo. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại
theo trình tự phúc thẩm 39 vụ, kết quả y án sơ thẩm 16 bị cáo, sửa án sơ thẩm
theo hướng giảm nhẹ hình phạt 16 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm 14 bị
cáo; hủy án sơ thẩm 01vụ - 01 bị cáo (án đã xét xử sơ thẩm của năm 2014);
hủy một phần 01 vụ - 02 bị cáo.
Năm 2017 trong tổng số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 37 vụ - 47 bị
cáo kháng cáo; 02 vụ - 05 bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị. Đến nay Tòa án
cấp phúc thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 26 vụ; kết quả y án sơ
thẩm 21 bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 06 bị cáo, đình
chỉ xét xử phúc thẩm 07 bị cáo; còn lại chưa có kết quả. Trong số các bản án
đã xét xử có 15 bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo; phạt cải tạo
không giam giữ 01 bị cáo. Không có trường hợp nào cho hưởng án treo và cải
tạo không giam giữ không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo chất lượng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi đội
ngũ Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và khả
năng thực hành tốt. Qua một số phiên tòa thấy rằng, khi điều khiển phiên tòa
53
nhiều Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa vẫn bảo thủ lối tư duy cũ, không đổi
mới phương pháp, cách thức xét hỏi dẫn đến nội dung và thời gian dành cho
Kiểm sát viên, Luật sư tham gia xét hỏi ngắn. Một số Thẩm phán còn lúng
túng khi xử lý các tình huống xảy ra, nhất là khi tranh luận diễn ra căng thẳng
giữa Kiểm sát viên và Luật sư. Nguyên nhân cơ bản thuộc về trách nhiệm của
Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án, tiếp đến là trách
nhiệm của các đồng chí lãnh đạo thiếu kiểm tra, điều hành đơn vị nên ảnh
hưởng tới việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số Thẩm phán
chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm khi nghiên cứu hồ sơ, thiếu ý thức tu
dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp. Các vụ án hình sự thể hiện tính chất ngày càng nghiêm trọng và
phức tạp hơn với nhiều vụ án có đông người tham gia, nhiều vụ án hành vi
của bị cáo diễn ra trên địa bàn rộng, ở nhiều địa phương khác nhau; các bị cáo
chối tội quyết liệt dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ và quyết
định hình phạt của HĐXX.
Từ những hạn chế nêu trên ta có thể rút ra một số nguyên nhân sau:
+ Một là do pháp luật còn chưa quy định chặt chẽ, chưa phân biệt rạch
ròi (Điều 18 BLTTHS năm 2015) chức năng buộc tội và chức năng xét xử
dẫn đến việc thực hiện chức năng của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc.
+ Hai là do vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS
mới năm 2015, chưa tập huấn chuyên sâu và cụ thể để làm rõ và năng cao cho
thẩm phán về chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần được quy định của
bộ luật mới.
+ Ba là vì khối lượng công việc quá lớn số lượng án ngày càng tăng mà
nhân lực làm việc thì không đủ đáp ứng công việc (01 thư ký làm cho 03 thẩm
phán) nên việc cập nhập những văn bản thông tư, nghị quyết mới còn hạn chế,
nhiều thẩm phán còn ngại tham gia những khóa học nâng cao chuyên môn
54
nghiệp vụ.
Tiểu kết Chương 2
Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của
mình thì mọi hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của tòa án thì mọi hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
bộ luật Tố Tụng Hình Sự khi tiến hành giải quyết các vụ án Hình sự. Cụ thể là
khi tiến hành giải quyết các vụ án hình sự thì phải tuân thủ những quy định
của bộ luật tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan dến quá trình giải quyết
vụ án hình sự nói chung và những quy định trong quá trình xét xử nói riêng.
Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm
giải quyết vụ án, khách quan toa diện và đầy đủ, theo đúng tính thần của
nguyên tắc hai cấp xét xử. Ở Việt Nam có rất nhiều căn cứ để phân chia thẩm
quyền xét xử. Tuy nhiên sự phân công đó còn kém hiệu quả và còn mang
nhiều bất cập cần khắc phục. Trên đây là nhưng phân tích của tôi về những
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề thẩm quyền xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
Việc quy định một cách chặt chẽ, khắc phục các mặt hạn chế trong các
quy định về thẩm quyền sẽ góp phần to lớn trong việc giải quyết đúng đắn các
vụ án hình sự.
55
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI
QUẬN SƠN TRÀ, TP. ĐÀ NẴNG
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật
+ Yêu cầu thực hiện cải cách tư pháp, muốn cải cách tư pháp phải bắt
đầu từ quy định của pháp luật đén con người thực hiện, tinh thần của cái cách
tư pháp đòi hỏi mở rộng tranh tụng nên các quy định pháp luật cần phải đảm
bảo cho Tòa án xét xử để các bên được tự do bày tỏ quan điểm, đưa ra lý lẻ
lập luận, bằng chứng
+ Yêu cầu đảm bảo quyền con người, đây là quyền hiến định nên hoàn
thiện pháp luật về chức năng xét xử của Tòa án phải tuân theo sao cho Tòa án
xét xử thuận lợi đúng người đúng tội. Trong TTHS, bị cáo là người chịu sự
tác động rất lớn trong xét xử VAHS so với những người tham gia tố tụng
khác. Do đó, quyền con người của bị cáo phải được bảo đảm đặc biệt. Bị cáo
có quyền được bảo đảm an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự
do cá nhân khác; quyền được biết mình bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, khi
áp dụng biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế khác phải tuân thủ quy định của
pháp luật; quyền được biết mình bị đưa ra xét xử về tội gì và TA sẽ xét xử,
đồng thời có quyền được nhận các quyết định tố tụng khác liên quan đến
mình; được quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch; được quyền đưa ra các tài liệu, chứng cứ và tiếp cận trợ
giúp pháp lý và bào chữa; được quyền tranh tụng và bảo đảm quyền khiếu nại,
tố cáo, quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ; quyền được nói lời sau cùng
trước khi nghị án; quyền được nhận bản án và quyết định của TA; người chưa
thành niên phạm tội được xét xử theo trình tự thủ tục đặc biệt; quyền được
56
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc cung cấp tài liệu để đề nghị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
+ Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Thứ nhất là phải xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nhất là đội ngủ thẩm
phán giỏi đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Công tác cán bộ đã bám sát
nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải
pháp lớn đề ra trong Chiến lược cán bộ. Nội dung, phương pháp, cách làm
đã có sự đổi mới; dân chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng;
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị
về công tác cán bộ được giữ vững. Theo đó, số lượng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức và Thẩm phán Tòa án các cấp về cơ bản đã không ngừng
được nâng cao về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó với
nhân dân; trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ ngày một tốt hơn.
Thứ hai phải tôn trọng quyền con người, quyền công dân, Tòa án phải xét
xử công khai đảm bảo dân chủ. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với hoạt động
của nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, là đòi hỏi cấp bách của
một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt
tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và
tệ hơn nữa là ở nơi đó “quốc nạn tham nhũng” được hoành hành. Hoạt động xét
xử tại phiên tòa là công khai trừ một số trường hợp do pháp luật quy định phải
xử kín, vì vậy, ngoài hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi phiên
tòa, nhất cử nhất động của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội đồng
xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của vụ án
và những người tham dự phiên tòa quan sát và đánh giá.
57
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
Hoàn thiện BLTTHS 2003 và 2015 loại bỏ những qui định không thuộc
chức năng xét xử của Tòa án. Đối chiếu với chức năng xét xử của Tòa án thì
một số qui định của BLTTHS 2015 cần phải sửa đổi khi qui định nhiệm vụ
của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đó là: a) Qui định của
Điều 15 BTTHS 2015 về nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án”. Nguyên tắc
này qui định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh mình vô tội”
Theo qui định này thì trách nhiệm chứng minh toàn bộ sự thật khách
quan của vụ án, chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án. Trong vụ án hình sự, đối tượng chứng minh được xác định là cơ
sở của trách nhiệm hình sự, đó là sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm
và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Những vấn đề đó cần được các
cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ để xác định bản chất của vụ án. Vì vậy, đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng
cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến
hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Điều 85 BLTTHS đã qui định những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án hình sự. Đó là các vấn đề sau: 1/ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2/ Ai là
người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi cố ý hay vô
ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích hoặc động cơ phạm
tội; 3/ Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4/ Tính chất và mức
độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Những nội dung trên cần phải được
làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh giả quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, tùy
58
tính chất và đặc điểm của từng vụ án mà đối tượng chứng minh của vụ án có
thể sẽ được mở rộng thêm, như vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành
niên. Theo chúng tôi, việc chứng minh tội phạm và làm rõ mọi tình tiết khách
quan của vụ án không thuộc chức năng xét xử của Tòa án mà là trách nhiệm
thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Qui định việc phải
chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản
án và quyết của mình, đồng thời thiên chức “trọng tài anh minh”, “người cầm
cân nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch. Chính từ qui định này mà TS.
Ngô Huy Cương đã cho rằng tố tụng hình sự của Việt Nam không phải là mô
hình tố tụng thẩm vấn, càng không phải là tố tụng tranh tụng mà là tố tụng
buộc tội ở những tầng nấc khác nhau. Trong chừng mực nhất định, qui định
này chưa phù hợp vì Hiến pháp 1992 qui định Tòa án không có chức năng nào
khác ngoài chức năng xét xử. [16, tr.4]
Điều 18 BLTTHS 2015 về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
qui định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác
định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định.”[17].
Cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản này, Điều 153 BLTTHS 2015 khi qui định
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự có giao cho “Hội đồng xét xử ra quyết định
khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử
tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”[23, tr.144]. Thực thi trách
nhiệm khởi tố vụ án hình sự theo qui định này thì chức năng xét xử của Tòa
án sẽ bị ảnh hưởng, chi phối bởi chức năng khác, nhất là ảnh đến nguyên tắc
độc lập khi xét xử và tính khách quan đối với quá trình xem xét vụ án, quyết
59
định của bản án đối với tội phạm và người phạm tội. Ngoài ra, việc qui định
cho Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự còn lấn sân sang chức năng
công tố của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Muốn để Tòa án xét xử được
bình đẳng, dân chủ, khách quan thì không nên giao cho Tòa án nhiệm vụ khởi
tố tội phạm và người phạm tội cũng như không để Tòa án phải thu thập chứng
cứ, chứng minh tội phạm mà hãy để họ đưa ra các phán quyết dựa trên chứng
cứ, lý lẽ của Viện kiểm sát và người bào chữa, dựa vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa để có những bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Vì vậy, theo
chúng tôi không nên qui định thẩm quyền khởi tố vụ án cho Tòa án, trong
trường hợp phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể
kiến nghị hoặc thông báo thông tin về tội phạm để Viện kiểm sát ra quyết
định khởi tố.
Tòa án xét xử người thực hiện hành vi phạm tội phải bị Viện kiểm sát
truy tố bằng bản cáo trạng, nếu Viện kiểm sát không truy tố thì sẽ không có
cơ sở để xét xử. Theo quy định của Điều 298 thì giới hạn xét xử của BLTTHS
năm 2015 bao gồm 03 nội dung như sau: Một là, Tòa án xét xử những bị cáo
và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, ta thấy BLTTHS năm 2003 quy định “Tòa
án chỉ xét xử những bị cáo ...” trong khi BLTTHS năm 2015 tách thành một
khoản độc lập và quy định “Tòa án xét xử những bị cáo”, đã bỏ đi từ chỉ.
Theo đó, khẳng định. Ở đây, cần lưu ý đến các trường hợp, Hội đồng xét xử
ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án và những
trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự. Hai là, Tòa án có thể xét xử bị
cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố. Về điểm này BLTTHS năm 2015 vẫn giữ nguyên quy định của
BLTTHS năm 2003 và tách riêng thành một khoản độc lập khác. Theo đó,
60
Toà án có thể xét xử bị cáo với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà
án cũng có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, ở đây khi xác định rõ tội phạm khác bằng hoặc
nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy
định về trách nhiệm hình sự bao gồm cả hình nhiều yếu tố đối với hai tội
phạm đó.
Như vậy căn cứ vào đâu để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn
thì trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều
luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn, trong
trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù
có thời hạn thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với
tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà có
cách xem xét cho phù hợp với vụ án. Đồng thời, Toà án cũng có thể xét xử bị
cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn
tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó.
Ba là, trong trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và
thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa
biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử
bị cáo về tội danh nặng hơn đó. [23, tr.10]
Đây chính là quy định mới được BLTTHS năm 2015 bổ sung so với
quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng thật sự rất cần thiết trong công tác
xét xử của Tòa án, cũng như việc thể hiện quan điểm truy tố của Viện kiểm
sát. Bởi vì, BLTTHS năm 2003 không quy định việc Tòa án được xét xử tội
danh nặng hơn đã dẫn đến tình trạng trên thực tế Tòa án đã trả hồ sơ điều tra
bổ sung nhiều lần và Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm, Hội đồng xét
xử phải xét xử theo đúng quy định của pháp luật nên đôi khi vụ án bị hủy,
61
sửa ở giai đoạn phúc thẩm.
Chính vì vậy, việc bổ sung quy định này cũng là một trong những
nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và
cũng phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Trong trường hợp không đồng ý với tội danh nặng hơn mà Tòa án đã xét xử
thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo đúng các trình tự, thủ tục quy
định của BLTTHS năm 2015.
3.3. Giải pháp thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
Quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng
+ Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án nước ta trong thời gian qua cho
thấy, một số Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn đang
còn việc lãnh đạo nghe báo cáo án, định hướng đường lối xét xử, như vậy
phần nào đã ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và
Hội thẩm. Hạn chế tới mức thấp nhất hoặc không còn sự ảnh hưởng, sự can
thiệp của các cơ quan, cán bộ viên chức nhà nước. Cũng khó có thể tránh
khỏi sự can thiệp của các cơ quan quyền lực và các cán bộ nhà nước đối với
Tòa án khi mà họ có quyền ảnh đến việc bổ nhiệm thẩm phán, quyết định
ngân sách và cung cấp các cơ sở vật chất duy trì hoạt động của Tòa án.
Muốn Tòa án độc lập khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp
luật, phải hoàn thiện cơ chế xây dựng tòa án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc và địa giới hành chính.
+ Tổ chức tập huấn cho thẩm phán những điểm mới, trong đó nhấn
mạnh, làm rõ chức năng xét xử của Tòa án có điểm gì thay đổi và cần lưu ý.
Tổ chức thêm nhiều buổi tập huấn trực tuyến giữa các cấp quận huyện với
Tòa Tối Cao, như gần đây nhất là vào ngày 26/4/2018 tập huấn về nội dung
“Quán triệt thực hiện các văn bản thi hành Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015”
62
+ Chủ động đề xuất các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng
dẫn chức năng xét xử sơ thẩm, trong đó hướng dẫn chi tiết các trường hợp
Tòa án cần trả hồ sơ bổ sung, trường hợp nào Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố, trường hợp phát hiện tội phạm mới tại phiên tòa như Hướng dẫn
02/HD-VKSTC về công tác Thực hành quyền công tố, Kiểm sát điều tra và
Kiểm sát xét xử sơ thẩm ma túy năm 2018 do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành...
+ Chỉ khi Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong
sang, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy
nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân.
Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp
luật. Các Thẩm phán và Hội thẩm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Cùng với Thẩm phán, các
Hội thẩm cũng phải được bổ nhiệm tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ
năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.
+ Cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc
cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối
với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tang khả năng tự vệ
phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử.
+ Nâng cao vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án: đồng thời, nâng cao chất lượng
hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền,
cung cấp thông tin về hoạt động xét xử.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu
thuẫn với nhau: các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp
thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử có
cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.
63
+ Đổi mới nhiệm kỳ của thẩm phán, trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán:
Đổi mới về nhiệm kỳ của Thẩm phán:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thẩm phán Tòa án các cấp đều
có nhiệm kỳ là 5 năm tính từ thời gian bổ nhiệm. So với thời kỳ thực hiện
nguyên tắc bầu thẩm phán, nhiệm kỳ hiện nay đã được kéo dài thêm một cách
đáng kể, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý.
Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu và thay đổi theo
hướng nhiệm kỳ Thẩm phán không phải là 5 năm mà có thể tiến đến bổ nhiệm
không kỳ hạn. Nếu thay đổi theo hướng như vậy sẽ tạo ra những thuận lợi
đáng kể. Thứ nhất, không phải tuyển chọn, bổ nhiệm nhiều lần đối với một
Thẩm phán, điều này sẽ giảm đi một khối lượng công việc đáng kể cho chủ
thể có thẩm quyền bổ nhiệm, đặc biệt là đối với việc bổ nhiệm thẩm phán
TAND địa phương. Thứ hai, việc bổ nhiệm một lần sẽ tạo điều kiện cho đội
ngũ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án tâm lí ổn định và yên tâm công tác,
tránh được tình trạng bị gián đoạn công tác khi chưa tiến hành làm thủ tục tái
bổ nhiệm đúng kì hạn đối với Thẩm phán hết nhiệm kì.
Thực tế rất nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng chế độ bổ nhiệm
thẩm phán suốt đời rất hiệu quả như Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên
bang Nga..Pháp luật của các nước này quy định cho Thẩm phán được
hưởng quyền “ bất khả miễn nhiệm”. Đây là một quyền rất quan trọng, là một
đảm bảo về mặt pháp lí cho Thẩm phán chuyên tâm vào sự nghiệp xét xử của
mình. Xét xử luôn được xác định là chức năng của thẩm phán trừ khi họ tự
nguyện chuyển công tác vì lý do sức khỏe mà không đảm nhiệm được công
việc, đến tuổi nghỉ hưu hay vi phạm pháp luật. Do ổn định về mặt công tác
nên ý thức tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn và trau rồi kĩ năng nghề
nghiệp của các thẩm phán cũng được chú trọng hơn. Nhờ đó, nguyên tắc độc
lập trong xét xử càng được củng cố, hiệu quả xét xử được nâng cao. Đây thực
64
sự là kinh nghiệm quý báu để chúng ta tham khảo, học hỏi để vận dụng vào
việc bổ nhiệm thẩm phán trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, việc bổ nhiệm Thẩm phán
suốt đời cũng chưa thể thực hiện ngay được. Hiện nay, một bộ phận Thẩm
phán chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Bởi vậy, trước mắt vẫn cần
quy định nhiệm kì thẩm phán để dần dần thanh lọc, xây dựng đội ngũ Thẩm
phán có đủ tiêu chuẩn để thực hiện hoạt động xét xử, tiến tới bổ nhiệm Thẩm
phán dài hạn. Hiện nay, khi chưa thực hiện được việc bổ nhiệm suốt đời thì
biện pháp trước mắt là cần kéo dài nhiệm kì của thẩm phán.
Đổi mới trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán:
Để việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện có hiệu quả, cần thực
hiện các biện pháp để hạn chế tính hình thức trong việc tuyển chọn của Hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán. Nó đòi hỏi phải có sự thay đổi đồng bộ từ khâu
chuẩn bị hồ sơ, đến việc xem xét tại phiên họp của Hội đồng tuyển chọn thẩm
phán. Trong công tác chuẩn bị nhân sự, việc lấy phiếu tín nhiệm cần được
thực hiện nghiêm túc, đúng với bản chất của nó. Với những ý kiến đánh giá
xác thực từ cơ sở. Hội đồng tuyển chọn mới có cơ sở để đưa ra quyết định
đúng đắn.
Bên cạnh đó, trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán còn quá rườm rà, bởi
vậy, thời gian tới cần đơn giản hóa thủ tục bổ nhiệm để đáp ứng tốt hơn nữa
nhu cầu về thẩm phán cho công tác xét xử.
Hiện nay, cấp ủy Đảng lãnh đạo việc giới thiệu người để Hội đồng tuyển
chọn Thẩm phán xem xét đề nghị bổ nhiệm là Thẩm phán. Do đó, Thẩm phán
có sự lệ thuộc nhất định vào cấp ủy Đảng. Điều này ảnh hưởng tới tính độc
lập của Thẩm phán trong xét xử. Bởi vậy, trong thời gian tới cần xem xét vấn
đề này để vừa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ của ngành Tòa án, đồng thời vẫn phải đảm bảo được tính độc lập của
65
hoạt động xét xử.
Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản hóa thủ tục tái bổ
nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm phán ít bị gián
đoạn hơn, góp phần làm giảm tình trạng thiếu Thẩm phán hiện nay. Hơn nữa
việc đơn giản hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán là một điều hợp lí bởi “ khi
trở thành Thẩm phán đã phải trải qua sự xét tuyển rất nghiêm ngặt, do vậy nếu
trong nhiệm kì thẩm phán không vi phạm những quy định đến mức phải kỷ
luật mặc nhiên được tiếp tục là thẩm phán”[24, tr.21]
Tiểu kết Chương 3
Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta
khi thừa nhận Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ
mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm định
hướng quan trọng và nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tư pháp của
Tòa án nhân dân trong TTHS, cần hoàn thiện tổng thể những cơ sở pháp lý
liên quan như là: Tổ chức hợp lý hệ thống xét xử; tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm đúng đội ngũ cán bộ tư pháp - xét xử nói chung, Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân nói riêng; bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật
điều chỉnh hoạt động xét xử VAHS, khắc phục những quy định chồng chéo,
những quy định trái với những nguyên tắc chung
Tòa án cần được xác định rõ hơn phạm vi thẩm quyền thực hiện quyền tư
pháp và cơ chế độc lập tương đối của quyền tư pháp trong phạm vi quyền lực
nhà nước là sự phân công trong chính thể quyền lực thống nhất mới có thể thực
hiện được việc kiểm soát quyền lập pháp, quyền hành pháp bởi quyền tư pháp.
66
KẾT LUẬN
Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Khi quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm người dân đến tìm Tòa án như tìm đến công lý. Tòa án là cơ quan duy
nhất được trao quyền xét xử. Ở nước ta, bên cạnh những mặt được thì “công
tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế”, “tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý”, không rõ ràng ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, tình trạng
oan, sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử còn xảy ra, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân vẫn còn bị xâm phạm.
Thực hiện chức năng của Tòa án nhất thiết phải tuân theo các nguyên tắc
cơ bản: xác định sự thật của vụ án, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, độc lập của tòa án, phối hợp và chế ước giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo đó, Tòa
án có trách nhiệm xác định sự thật khách quan, cơ sở để đưa ra phán quyết.
Cơ quan này không có trách nhiệm chứng minh tội phạm mà chỉ có nghĩa vụ
chứng minh cho các quyết định của mình, không có trách nhiệm thực hiện các
hành vi tố tụng không thuộc chức năng được giao.Tòa án nói chung, HĐXX,
Thẩm phán và hội thẩm nói riêng phải độc lập, công tâm và bình đẳng trong
xét xử. Phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo cũng như xem xét
bình đẳng yêu cầu, đề nghị hay ý kiến tranh luận của hai bên buộc tội, bào
chữa. Giải quyết vụ án hình sự đồng thời bao gồm trong đó việc giải quyết
thấu đáo và triệt để các phần dân sự, xử lý vật chứng của vụ án.
Chức năng xét xử của Toà án quyết định các nhiệm vụ cụ thể của Toà án
trong các hoạt động của mình. Bởi vậy, Toà án không thể và không được thực
67
hiện các nhiệm vụ không thuộc về chức năng tố tụng của mình. Khi thực hiện
chức năng xét xử, Toà án có trách nhiệm phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết
của vụ án (bao gồm cả các tình tiết buộc tội, các tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ
TNHS đối với bị cáo) nhưng không phải để buộc tội hay bào chữa đối với bị
cáo mà nhằm thực hiện chức năng xét xử - xác định sự thật khách quan và ra
quyết định đúng đắn về vụ án. Nếu Toà án tham gia thục hiện cả chức năng
buộc tội hoặc chức năng bào chữa thì vai trò trọng tài, người cầm trịch giữa
hai bên sẽ mất đi và Toà án sẽ trở thành một công tố viên hay một luật sư "thứ
hai” trong tranh tụng. Điều đó sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên bào chữa và mục đích xác định sự thật về vụ án không thể đạt
được:"Trong phiên toà hình sự, thì quan toà, chưởng lý và trạng sư bào chữa
được kết hợp vào một con người. Sự kết hợp này mâu thuẫn với tất cả những
quy luật cùa khoa tâm lý học”.[25, tr.15]
Với vai trò là trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa, Toà án phải có
thái độ vô tư, khách quan và công minh. Các thành viên HĐXX phải quan
tâm ở mức độ như nhau đối vói tất cả những nguời tham gia phiên toà (Công
tố viên, luật sư bào chữa, bị cáo, người bị hại,..) và có thái độ khách quan,
không thiên vị đối với các chứng cứ, các yêu cầu, đề nghị của các bên đưa ra
cũng như đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật dành cho
họ. Toà án khồng được phép định kiến đối với bất cứ bên nào và cũng không
thể bị ràng buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của bất kỳ
ai:"Đối với quan toà, thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp".
Từ việc phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và xét trong yêu cầu
của cải cách tư pháp, luận văn mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị:
+ Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân:
Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc
68
một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu
là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được
tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có nhiệm vụ
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên
trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi
mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những
chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Việc triển
khai thực hiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án
thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC trong thực tế, cần
phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc
thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập
và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối
quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án;
sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu
Hội thẩm; quản lý về tổ chức đối với các Tòa án; đưa ra các giải pháp và phân
công trách nhiệm tổ chức thực hiện.
+ Bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm chỉ tuân theo pháp luật: đây là nguyên tắc nền tảng cho hoạt động tư
pháp nói chung của TAND nói riêng. Để dảm bảo nguyên tắc này cần phải
giải quyết những vấn đề sau
+ Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp vào hoạt động xét xử hay có
những tác động tới sự độc lập của Tòa án. Hiện nay, Đảng lãnh đạo Tòa án cả
về tổ chức nhân sự và hoạt động xét xử, điều này khó có thể đảm bảo được
tính độc lập khi xét xử của Tòa án thực hiện theo đúng nguyên tắc “ khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” .[15, tr.9]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2002), Một số gợi ý về việc tổ chức phiên
tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về cải
cách tư pháp.
2. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội.
3. Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy Phượng (2011), Tòa án là trung tâm, xét xử
là trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 9.
4. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Ngọc Chí (2008), Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố
tụng, người phiên dịch, người giám định trong tố tụng hình sự, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 8 - 22.
6. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc
“Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tạp
chí Nhà nước pháp luật, số 2.
7. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về tư pháp và các mô hình tư
pháp phương Tây, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (2002) 23.
8. Lưu Tiến Dũng (2005), Độc lập xét xử ở các nước quá độ: Một góc nhìn
so sánh, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9 - 15.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị
quyết số 08NQ/TW ngày 02-01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
11. Học viện Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ
điển Bách khoa – Nxb Tư pháp.
12. Hoàng Thị Minh Sơn (2017), Giáo trình luật tố tụng hình sự của trường
đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
13. Phạm Hồng Hải (2011), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
14. Tống Anh Hào (2003), Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Tòa
án nhân dân số 5.
15. J. Clifford Wallace (2006), Khắc phục tham nhũng tư pháp trong khi
phải đảm bảo độc lập tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8 41.
16. Quốc hội (1992), Luật tổ chức tòa án nhân dân.
17. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946.
18. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959.
19. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980,
20. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992.
21. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
23. Quốc hội nước (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
24. Đinh Văn Quế, Nguyên Chánh toà hình sự, TANDTC (2008), Thủ tục
xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện.
25. Bùi Ngọc Sơn (2003), Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp
quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 43.
26. Nguyễn Minh Tuấn (2004), Vai trò của thẩm phán trước yêu cầu của
công tác cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", trong cuốn chuyên khảo:
Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Tuyết (2011), Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng
hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân số 03.
28. Đỗ Gia Thư (2004), Thực trạng đội ngũ thẩm phán nước ta - Những
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng, Tòa án nhân
dân.
29. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Hà
Nội.
30. Nguyễn Tất Viễn (2004), Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư
pháp trong quá trình cải cách tư pháp, trong cuốn chuyên khảo: Cải
cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
31. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB
Khoa học Xã hội.
32. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần riêng, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34.
35. https://danang.gov.vn/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chuc_nang_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh_su_cua_toa_an_t.pdf