Luận văn Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc68 một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Việc triển khai thực hiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC trong thực tế, cần phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án; sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu Hội thẩm; quản lý về tổ chức đối với các Tòa án; đưa ra các giải pháp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện. + Bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật: đây là nguyên tắc nền tảng cho hoạt động tư pháp nói chung của TAND nói riêng. Để dảm bảo nguyên tắc này cần phải giải quyết những vấn đề sau + Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp vào hoạt động xét xử hay có những tác động tới sự độc lập của Tòa án. Hiện nay, Đảng lãnh đạo Tòa án cả về tổ chức nhân sự và hoạt động xét xử, điều này khó có thể đảm bảo được tính độc lập khi xét xử của Tòa án thực hiện theo đúng nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” .[15, tr.9]

pdf77 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13 là 6 bị cáo. Năm 2015 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 112 vụ - 186 bị cáo phạm các loại tội, đã giải quyết 112 vụ -186 bị cáo, đạt tỉ lệ 100%. So với năm 2014 số lượng các vụ án hình sự giảm 06 vụ; tỷ lệ giảm 5,7%, số bị cáo giảm hơn so với năm 2014 là 53 bị cáo, tỷ lệ giảm 41%. Năm 2016 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 113 vụ - 182 bị cáo phạm các loại tội, đã giải quyết 112 vụ -181 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,1% về số vụ và 99,4% về số bị cáo. So với năm 2015 số lượng các vụ án hình sự thụ lý tăng 01 vụ; tỷ lệ tăng 0,9%, số bị cáo giảm hơn so với năm 2015 là 04 bị cáo, tỷ lệ giảm 2,1%. Năm 2017 Toà án nhân dân quận Sơn Trà thụ lý 123 vụ - 168 bị cáo phạm các loại tội, đã giải quyết 122 vụ -167 bị cáo, đạt tỉ lệ 99,1% về số vụ và 99,4% về số bị cáo. So với năm 2016 số lượng các vụ án hình sự thụ lý tăng 10 vụ; tỷ lệ tăng 8,8%, số bị cáo giảm hơn so với năm 2016 là 14 bị cáo, tỷ lệ giảm 8,3%. 44 Bảng 2.2. Bảng thống kê kết quả xét xử vụ án sơ thẩm một số tội từ năm 2013 - 2017 Năm Các tội đã xét xử Trả hồ sơ điều tra bổ sung Tạm đình chỉ Đình chỉ vụ án Xét xử lưu động 2013 -Cố ý gây thương tích. -Cướp tài sản. - Cướp giật tài sản. - Mua bán trái phép chất ma túy. - Đánh bạc - Vi phạm về điều khiển giao thông đường bộ 04 vụ - 31 bị cáo 0 0 29 vụ - 36 bị cáo 2014 -Cố ý gây thương tích. -Cướp tài sản. - Cướp giật tài sản. - Mua bán trái phép chất ma túy. - Đánh bạc - Vi phạm về điều khiển giao thông đường bộ 07 vụ - 09 bị cáo 0 0 21 vụ - 23 bị cáo 2015 -Cố ý gây thương tích. -Cướp tài sản. - Cướp giật tài sản. - Mua bán trái phép chất ma túy. - Đánh bạc 14 vụ - 21 bị cáo 0 0 22 vụ - 31 bị cáo 45 Năm Các tội đã xét xử Trả hồ sơ điều tra bổ sung Tạm đình chỉ Đình chỉ vụ án Xét xử lưu động - Vi phạm về điều khiển giao thông đường bộ 2016 -Cố ý gây thương tích. -Cướp tài sản. - Cướp giật tài sản. - Mua bán trái phép chất ma túy. - Đánh bạc - Vi phạm về điều khiển giao thông đường bộ 17 vụ - 30 bị cáo 0 0 22 vụ- 31 bị cáo 2017 -Cố ý gây thương tích. -Cướp tài sản. - Cướp giật tài sản. - Mua bán trái phép chất ma túy. - Đánh bạc - Vi phạm về điều khiển giao thông đường bộ 28 vụ - 35 bị cáo 0 0 24 vụ - 30 bị cáo Trong năm 2013 Trong số 102 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 04 vụ - 31 bị cáo, đều được VKS chấp 46 nhận. Ngoài việc xét xử tại trụ sở, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà còn đưa ra xét xử lưu động 29 vụ = 36 bị cáo, đạt tỷ lệ 28% về số vụ và 14% về số bị cáo. Đây là những vụ án có tính chất nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe, tài sản của công dân, các vụ án về tệ nạn xã hội Đặc biệt là các vụ án lừa đảo lợi dụng chính sách bố trí chung cư cho các đối tượng nghèo trên địa bàn thành phố đã được đưa ra xét xử kịp thời và nghiêm minh được dư luận đồng tình ủng hộ, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân. Vào năm 2014 Trong số 118 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc”... Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 07 vụ - 09 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận 07 vụ - 09 bị cáo.Trong số đó, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử lưu động tại các địa phương được 21 vụ = 23 bị cáo, đạt tỷ lệ 17% về số vụ và 9,3% về số bị cáo Trong năm 2015 Trong số 112 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 14 vụ - 21 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận 12 vụ - 16 bị cáo; 02 vụ - 05 bị cáo không chấp nhận . Trong số các vụ án đã xét xử, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử lưu động tại các địa phương được 22 vụ = 31 bị cáo, đạt tỷ lệ 19,6% về số vụ và 16,6% về số bị cáo. Năm 2016 đã thụ Trong số 112 vụ án hình sự đã giải quyết thì đa số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài 47 sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 17 vụ - 30 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận 12 vụ - 18 bị cáo; 05 vụ - 12 bị cáo không chấp nhận.Trong số các vụ án đã xét xử, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử lưu động tại các địa phương được 22 vụ = 31 bị cáo, đạt tỷ lệ 23,1% về số vụ và 20,5% về số bị cáo. Đây là những vụ án có tính chất nghiêm trọng xâm phạm đến sức khỏe, tài sản của công dân, các vụ án về tệ nạn xã hội được dư luận quan tâm; kết quả xét xử được nhân dân đồng tình ủng hộ, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật. Trong năm 2017 Trong số 122 vụ án hình sự đã giải quyết thì đa số tập trung vào các tội như “Cố ý gây thương tích”, “Trộm cắp tài sản”, “Cướp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” ...Trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ sung 28 vụ - 35 bị cáo, Viện kiểm sát chấp nhận 10 vụ - 10 bị cáo; 12 vụ - 15 bị cáo không chấp nhận; 06 vụ - 10 bị cáo chưa có kết quả (mặc dù 12 vụ - 15 bị cáo Viện kiểm sát nhân dân quận có văn bản trả lời không chấp nhận quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhưng thực tế Viện kiểm sát đều tiến hành điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án).[25, tr.43] Nhận thức được vai trò và vị trí của ngành trên mặt trận đấu tranh phòng chống tội phạm nên đối với công tác xét xử án hình sự luôn được quan tâm hàng đầu. Trong quá trình thực hiện việc xét xử Toà án đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật đóng trên địa bàn quận đưa các vụ án hình sự ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, bảo đảm nguyên tắc không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, thận trọng trong việc vận dụng đường lối xét xử, hạn chế dần tỷ lệ sai sót, chú trọng việc tranh tụng tại 48 phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp. Trong thời gian qua, hầu hết các bản án của Toà án nhân dân quận Sơn Trà luôn có tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa và được cấp ủy địa phương đánh giá cao. Đánh giá chung về chất lượng xét xử án hình sự trong những năm qua đã đạt hiệu quả cao, không có nhiều án bị sửa nghiêm trọng, không có án quá hạn luật định, công tác xét xử án hình sự đảm bảo tính chất nghiêm minh, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ chính trị tại địa phương. 2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân Hạn chế về quy định của pháp luật: + Bộ luật TTHS Quy định Tòa án có nghía vụ chứng minh nên Tòa án đã tập trung quá nhiều vào việc xét hỏi để đấu tranh với bị cáo, trường hợp bị cáo không nhận tội nên dẫn đến Thẩm phán có tâm lý không hài lòng với bị cáo nên dễ ảnh hưởng đến phán quyết, dẫn đến việc không khách quan làm ảnh hưởng đến kết quả xét xử. Đồng thời việc Tòa án xét hỏi nhiều trong phiên Tòa làm giảm đi vai trò chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, việc này làm cho chức năng buộc tội của VKS bị mờ nhạt vì Tòa án đã làm thay rồi. + Quy định tại Điều 280 BLTTHS 2015 Thẩm phán chủ tọa phiên Tòa trả điều tra bổ sung cũng không đúng chức năng của Tòa án, việc thu thập chứng cứ chứng minh bị cáo có tội thuộc về chức năng buộc tội của VKS. Việc VKS không thu thập đủ chứng cứ chứng minh được bị cáo có tội thi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội Tòa án ra quyết định tuyên bố bị cáo vô tội. Tuy nhiên nếu số vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều là thể hiện sự thiếu sót của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc phát hiện và chứng minh tội phạm. Trong những năm qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng ngoài những dấu hiện tích cực thể hiện tính thận trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử thì việc 49 trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở một số đơn vị địa phương phần nào phản ánh tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên chưa cao, năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. + Quy định Tòa án có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án Điểm bất cập đầu tiên là quyền hạn này không phù hợp với thẩm quyền của Tòa án. Chức năng chính của Tòa án là chức năng xét xử và đưa ra bản án cuối cùng giải quyết vụ án. Tòa án tự mình khởi tố một vụ án và rồi lại tự mình xét xử vụ án – điều này sẽ dẫn đến hiện tượng Tòa án muốn bảo vệ quan điểm khởi tố ban đầu của mình, và đương nhiên nó sẽ không còn vô tư, khách quan trong quá trình xét xử nữa. Hơn nữa, quy định này của pháp luật còn mang tính quá mập mờ về thẩm quyền và nội dung. Điều 104 chỉ quy định Hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sư, nhưng không quy định cụ thể là Hội đồng xét xử cấp nào. Thứ hai, không quy định cụ thể trong trường hợp nào Hội đồng xét xử sẽ tự mình ra quyết định khởi tố vụ án và trường hợp nào sẽ yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố. Do vậy, Tòa án thường sẽ có xu hướng đẩy việc khởi tố về cho phía VKS, bởi lẽ việc khởi tố sai một vụ án hình sự sẽ gây ảnh hưởng đến uy tín và chất lượng làm việc của cơ quan đó. Tuy nhiên, không nên quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự trực tiếp cho hội đồng xét xử, mà chỉ nên quy định nếu trong quá trình có tội phạm hay người phạm tội mới cần điều tra thì Hội đồng xét xử sẽ đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án. Điều này trước hết là đảm bảo việc vô tư, khách quan trong xét xử, vừa phù hợp hơn với chức năng cũng như các giai đoạn tiêp theo của tố tụng hình sự. Việc duy trì chức năng này không phải là không hợp lý nó sẽ giúp cho việc không để lọt tội phạm, ngăn chặn sự nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của công dân, bởi lẽ có thể trong quá trình điều tra, truy tố cơ quan điều tra, viện kiểm sát có thể bỏ 50 sót tội phạm. Trên thực tiễn còn tồn tại thiếu sót của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa là khi xét hỏi bị cáo thường thẩm vấn theo hướng buộc tội như cáo trạng của VKS, giúp Kiểm sát viên bảo vệ cáo trạng, việc xét hỏi tại phiên toà chưa thực sự đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp. Không ít trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trong suốt thời gian xét hỏi không hỏi một câu nào mà chỉ đọc cáo trạng rồi ngồi xem HĐXX hỏi, hoạt động xét hỏi chủ yếu vẫn do HĐXX thực hiện, khi HĐXX hỏi xong và hỏi Kiểm sát viên có hỏi gì không thì Kiểm sát viên không hỏi gì thêm nữa vì thấy những vấn đề HĐXX hỏi đã đủ. Rõ ràng, Kiểm sát viên đã không ý thức được mình là một bên của quá trình tranh tụng tại phiên tòa, việc xét hỏi và tranh luận không phải của HĐXX. Có những vụ án, VKS không tham gia vào việc xét hỏi hoặc có xét hỏi nhưng không đúng vào nội dung chính, hỏi những câu hỏi mà HĐXX đã hỏi trước đó. Đối với những vụ án có Luật sư chỉ định thì việc tham gia xét hỏi của Luật sư cũng mang tính hạn chế, cầm chừng. Trong những trường hợp như vậy, lẽ ra với vai trò là người trọng tài điều khiển hoạt động tranh tụng, HĐXX phải nhắc nhở Kiểm sát viên không được lặp lại những câu hỏi trước đó, hoặc đề nghị Luật sư hỏi những câu hỏi liên quan đến vấn đề mình bào chữa thì HĐXX lại cho qua, xem việc dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi là một thủ tục mang tính hình thức cần phải có, không cần quan tâm đến nội dung vấn đề cũng như kết quả đạt được khi dành thời gian cho Kiểm sát viên, Luật sư đặt câu hỏi bởi lẽ mọi tình tiết, sự kiện của vụ án đã được Toà án thẩm tra, làm rõ trước đó. Trong những trường hợp như vậy, Toà án vô hình chung đã tự đặt gánh nặng lên vai mình, tự mình “lấn sân” của bên buộc tội hoặc bên gỡ tội. Điều này đã hạn chế Toà án trong việc thực hiện chức năng xét xử, không phát huy được tính chủ động, tích cực của các bên tranh tụng, do vậy kết quả giải quyết vụ án chủ yếu phụ thuộc vào HĐXX, các phán 51 quyết về vụ án có thể không đảm bảo tính khách quan, đầy đủ và chính xác. Việc điều khiển tranh luận tại phiên tòa ở một số phiên tòa còn mang tính hình thức. HĐXX không lắng nghe, ghi chép ý kiến tranh luận của luật sư thậm chí còn cắt bỏ lời bào chữa một cách không hợp lý, chính do những hạn chế nêu trên nên kết quả xét xử phúc thẩm của TAND Thành phố Đà Nẵng các vụ án bị kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013 đến năm 2017 cho thấy chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà còn một số hạn chế, trình độ chuyên môn của Thẩm phán còn hạn chế vào năm cụ thể Bảng 2.3. Kết quả kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013-2017 Năm Số vụ bị kháng cáo - Kháng nghị Số vụ y án Số vụ sửa án Số vụ hủy án 2013 38 vụ kháng cáo Không có kháng nghị 33 vụ 05 vụ 0 2014 51 vụ 25 vụ 11 vụ 0 2015 49 vụ kháng cáo Không có kháng nghị 23 vụ 09 vụ 01 vụ 2016 44 vụ kháng cáo- 54 bị cáo kháng nghị 07 bị cáo 16 vụ 16 bị cáo Hủy 1 phần 01 vụ- 02 bị cáo. 2017 37 vụ kháng cáo Kháng nghị 02 vụ-5 bị cáo 21 vụ 06 vụ 0 Năm 2013 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 45 vụ kháng cáo, không có vụ án nào bị Viện kiểm sát kháng nghị. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 38 vụ, kết quả y án sơ thẩm 15 vụ, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 05 vụ, đình chỉ xét xử phúc thẩm 12 vụ, rút kháng cáo 04 vụ, còn lại chưa có kết quả. Vào năm 2014 Trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 51 vụ kháng 52 cáo, kháng nghị 01 vụ, 01 vụ vừa kháng cáo vừa kháng nghị. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử theo trình tự phúc thẩm 51 vụ, kết quả y án sơ thẩm 25 vụ, đình chỉ xét xử phúc thẩm 15 vụ, trong đó do có rút kháng nghị 01 vụ và rút kháng cáo 14 vụ, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt vì có tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh 11 vụ. Năm 2015 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 49 vụ - 54 bị cáo kháng cáo, kháng nghị không có. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 49 vụ 54 bị cáo, kết quả y án sơ thẩm 23 bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 09 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm 11bị cáo, rút kháng cáo 02 bị cáo; hủy án sơ thẩm 01vụ - 01 bị cáo (án đã xét xử sơ thẩm của năm 2014). Năm 2016 trong số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 44 vụ - 53 bị cáo kháng cáo, kháng nghị 07 bị cáo. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 39 vụ, kết quả y án sơ thẩm 16 bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 16 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm 14 bị cáo; hủy án sơ thẩm 01vụ - 01 bị cáo (án đã xét xử sơ thẩm của năm 2014); hủy một phần 01 vụ - 02 bị cáo. Năm 2017 trong tổng số các vụ án đã được đưa ra xét xử có 37 vụ - 47 bị cáo kháng cáo; 02 vụ - 05 bị cáo Viện kiểm sát kháng nghị. Đến nay Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử lại theo trình tự phúc thẩm 26 vụ; kết quả y án sơ thẩm 21 bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt 06 bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm 07 bị cáo; còn lại chưa có kết quả. Trong số các bản án đã xét xử có 15 bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo; phạt cải tạo không giam giữ 01 bị cáo. Không có trường hợp nào cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ không đúng quy định của pháp luật. Để đảm bảo chất lượng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và khả năng thực hành tốt. Qua một số phiên tòa thấy rằng, khi điều khiển phiên tòa 53 nhiều Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa vẫn bảo thủ lối tư duy cũ, không đổi mới phương pháp, cách thức xét hỏi dẫn đến nội dung và thời gian dành cho Kiểm sát viên, Luật sư tham gia xét hỏi ngắn. Một số Thẩm phán còn lúng túng khi xử lý các tình huống xảy ra, nhất là khi tranh luận diễn ra căng thẳng giữa Kiểm sát viên và Luật sư. Nguyên nhân cơ bản thuộc về trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án, tiếp đến là trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo thiếu kiểm tra, điều hành đơn vị nên ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm khi nghiên cứu hồ sơ, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Các vụ án hình sự thể hiện tính chất ngày càng nghiêm trọng và phức tạp hơn với nhiều vụ án có đông người tham gia, nhiều vụ án hành vi của bị cáo diễn ra trên địa bàn rộng, ở nhiều địa phương khác nhau; các bị cáo chối tội quyết liệt dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ và quyết định hình phạt của HĐXX. Từ những hạn chế nêu trên ta có thể rút ra một số nguyên nhân sau: + Một là do pháp luật còn chưa quy định chặt chẽ, chưa phân biệt rạch ròi (Điều 18 BLTTHS năm 2015) chức năng buộc tội và chức năng xét xử dẫn đến việc thực hiện chức năng của Tòa án còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. + Hai là do vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS mới năm 2015, chưa tập huấn chuyên sâu và cụ thể để làm rõ và năng cao cho thẩm phán về chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần được quy định của bộ luật mới. + Ba là vì khối lượng công việc quá lớn số lượng án ngày càng tăng mà nhân lực làm việc thì không đủ đáp ứng công việc (01 thư ký làm cho 03 thẩm phán) nên việc cập nhập những văn bản thông tư, nghị quyết mới còn hạn chế, nhiều thẩm phán còn ngại tham gia những khóa học nâng cao chuyên môn 54 nghiệp vụ. Tiểu kết Chương 2 Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Để thực hiện tốt chức năng xét xử của mình thì mọi hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của tòa án thì mọi hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của bộ luật Tố Tụng Hình Sự khi tiến hành giải quyết các vụ án Hình sự. Cụ thể là khi tiến hành giải quyết các vụ án hình sự thì phải tuân thủ những quy định của bộ luật tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan dến quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và những quy định trong quá trình xét xử nói riêng. Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm giải quyết vụ án, khách quan toa diện và đầy đủ, theo đúng tính thần của nguyên tắc hai cấp xét xử. Ở Việt Nam có rất nhiều căn cứ để phân chia thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên sự phân công đó còn kém hiệu quả và còn mang nhiều bất cập cần khắc phục. Trên đây là nhưng phân tích của tôi về những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập. Việc quy định một cách chặt chẽ, khắc phục các mặt hạn chế trong các quy định về thẩm quyền sẽ góp phần to lớn trong việc giải quyết đúng đắn các vụ án hình sự. 55 CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI QUẬN SƠN TRÀ, TP. ĐÀ NẴNG 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật + Yêu cầu thực hiện cải cách tư pháp, muốn cải cách tư pháp phải bắt đầu từ quy định của pháp luật đén con người thực hiện, tinh thần của cái cách tư pháp đòi hỏi mở rộng tranh tụng nên các quy định pháp luật cần phải đảm bảo cho Tòa án xét xử để các bên được tự do bày tỏ quan điểm, đưa ra lý lẻ lập luận, bằng chứng + Yêu cầu đảm bảo quyền con người, đây là quyền hiến định nên hoàn thiện pháp luật về chức năng xét xử của Tòa án phải tuân theo sao cho Tòa án xét xử thuận lợi đúng người đúng tội. Trong TTHS, bị cáo là người chịu sự tác động rất lớn trong xét xử VAHS so với những người tham gia tố tụng khác. Do đó, quyền con người của bị cáo phải được bảo đảm đặc biệt. Bị cáo có quyền được bảo đảm an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do cá nhân khác; quyền được biết mình bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế khác phải tuân thủ quy định của pháp luật; quyền được biết mình bị đưa ra xét xử về tội gì và TA sẽ xét xử, đồng thời có quyền được nhận các quyết định tố tụng khác liên quan đến mình; được quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; được quyền đưa ra các tài liệu, chứng cứ và tiếp cận trợ giúp pháp lý và bào chữa; được quyền tranh tụng và bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ; quyền được nói lời sau cùng trước khi nghị án; quyền được nhận bản án và quyết định của TA; người chưa thành niên phạm tội được xét xử theo trình tự thủ tục đặc biệt; quyền được 56 kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm hoặc cung cấp tài liệu để đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm + Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Thứ nhất là phải xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nhất là đội ngủ thẩm phán giỏi đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong Chiến lược cán bộ. Nội dung, phương pháp, cách làm đã có sự đổi mới; dân chủ, công khai trong công tác cán bộ được mở rộng; nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ được giữ vững. Theo đó, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán Tòa án các cấp về cơ bản đã không ngừng được nâng cao về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, gắn bó với nhân dân; trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày một tốt hơn. Thứ hai phải tôn trọng quyền con người, quyền công dân, Tòa án phải xét xử công khai đảm bảo dân chủ. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, là đòi hỏi cấp bách của một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và tệ hơn nữa là ở nơi đó “quốc nạn tham nhũng” được hoành hành. Hoạt động xét xử tại phiên tòa là công khai trừ một số trường hợp do pháp luật quy định phải xử kín, vì vậy, ngoài hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi phiên tòa, nhất cử nhất động của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội đồng xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của vụ án và những người tham dự phiên tòa quan sát và đánh giá. 57 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Hoàn thiện BLTTHS 2003 và 2015 loại bỏ những qui định không thuộc chức năng xét xử của Tòa án. Đối chiếu với chức năng xét xử của Tòa án thì một số qui định của BLTTHS 2015 cần phải sửa đổi khi qui định nhiệm vụ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đó là: a) Qui định của Điều 15 BTTHS 2015 về nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án”. Nguyên tắc này qui định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội” Theo qui định này thì trách nhiệm chứng minh toàn bộ sự thật khách quan của vụ án, chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong vụ án hình sự, đối tượng chứng minh được xác định là cơ sở của trách nhiệm hình sự, đó là sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án. Những vấn đề đó cần được các cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ để xác định bản chất của vụ án. Vì vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều 85 BLTTHS đã qui định những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Đó là các vấn đề sau: 1/ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2/ Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích hoặc động cơ phạm tội; 3/ Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4/ Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Những nội dung trên cần phải được làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh giả quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, tùy 58 tính chất và đặc điểm của từng vụ án mà đối tượng chứng minh của vụ án có thể sẽ được mở rộng thêm, như vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Theo chúng tôi, việc chứng minh tội phạm và làm rõ mọi tình tiết khách quan của vụ án không thuộc chức năng xét xử của Tòa án mà là trách nhiệm thuộc chức năng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Qui định việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của Tòa án khi ra bản án và quyết của mình, đồng thời thiên chức “trọng tài anh minh”, “người cầm cân nảy mực” của Tòa án dễ bị hiểu sai lệch. Chính từ qui định này mà TS. Ngô Huy Cương đã cho rằng tố tụng hình sự của Việt Nam không phải là mô hình tố tụng thẩm vấn, càng không phải là tố tụng tranh tụng mà là tố tụng buộc tội ở những tầng nấc khác nhau. Trong chừng mực nhất định, qui định này chưa phù hợp vì Hiến pháp 1992 qui định Tòa án không có chức năng nào khác ngoài chức năng xét xử. [16, tr.4] Điều 18 BLTTHS 2015 về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự qui định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.”[17]. Cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản này, Điều 153 BLTTHS 2015 khi qui định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự có giao cho “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”[23, tr.144]. Thực thi trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự theo qui định này thì chức năng xét xử của Tòa án sẽ bị ảnh hưởng, chi phối bởi chức năng khác, nhất là ảnh đến nguyên tắc độc lập khi xét xử và tính khách quan đối với quá trình xem xét vụ án, quyết 59 định của bản án đối với tội phạm và người phạm tội. Ngoài ra, việc qui định cho Tòa án có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự còn lấn sân sang chức năng công tố của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Muốn để Tòa án xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan thì không nên giao cho Tòa án nhiệm vụ khởi tố tội phạm và người phạm tội cũng như không để Tòa án phải thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm mà hãy để họ đưa ra các phán quyết dựa trên chứng cứ, lý lẽ của Viện kiểm sát và người bào chữa, dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để có những bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Vì vậy, theo chúng tôi không nên qui định thẩm quyền khởi tố vụ án cho Tòa án, trong trường hợp phát hiện tội phạm mới khi xét xử tại phiên tòa, Tòa án có thể kiến nghị hoặc thông báo thông tin về tội phạm để Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố. Tòa án xét xử người thực hiện hành vi phạm tội phải bị Viện kiểm sát truy tố bằng bản cáo trạng, nếu Viện kiểm sát không truy tố thì sẽ không có cơ sở để xét xử. Theo quy định của Điều 298 thì giới hạn xét xử của BLTTHS năm 2015 bao gồm 03 nội dung như sau: Một là, Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, ta thấy BLTTHS năm 2003 quy định “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo ...” trong khi BLTTHS năm 2015 tách thành một khoản độc lập và quy định “Tòa án xét xử những bị cáo”, đã bỏ đi từ chỉ. Theo đó, khẳng định. Ở đây, cần lưu ý đến các trường hợp, Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án và những trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự. Hai là, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Về điểm này BLTTHS năm 2015 vẫn giữ nguyên quy định của BLTTHS năm 2003 và tách riêng thành một khoản độc lập khác. Theo đó, 60 Toà án có thể xét xử bị cáo với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, ở đây khi xác định rõ tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự bao gồm cả hình nhiều yếu tố đối với hai tội phạm đó. Như vậy căn cứ vào đâu để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn thì trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn, trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có thời hạn thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà có cách xem xét cho phù hợp với vụ án. Đồng thời, Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó. Ba là, trong trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó. [23, tr.10] Đây chính là quy định mới được BLTTHS năm 2015 bổ sung so với quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng thật sự rất cần thiết trong công tác xét xử của Tòa án, cũng như việc thể hiện quan điểm truy tố của Viện kiểm sát. Bởi vì, BLTTHS năm 2003 không quy định việc Tòa án được xét xử tội danh nặng hơn đã dẫn đến tình trạng trên thực tế Tòa án đã trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần và Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm, Hội đồng xét xử phải xét xử theo đúng quy định của pháp luật nên đôi khi vụ án bị hủy, 61 sửa ở giai đoạn phúc thẩm. Chính vì vậy, việc bổ sung quy định này cũng là một trong những nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và cũng phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Trong trường hợp không đồng ý với tội danh nặng hơn mà Tòa án đã xét xử thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo đúng các trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS năm 2015. 3.3. Giải pháp thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng + Thực tế hoạt động xét xử của Tòa án nước ta trong thời gian qua cho thấy, một số Thẩm phán khi xét xử vẫn chưa hoàn toàn độc lập, vẫn đang còn việc lãnh đạo nghe báo cáo án, định hướng đường lối xét xử, như vậy phần nào đã ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Hạn chế tới mức thấp nhất hoặc không còn sự ảnh hưởng, sự can thiệp của các cơ quan, cán bộ viên chức nhà nước. Cũng khó có thể tránh khỏi sự can thiệp của các cơ quan quyền lực và các cán bộ nhà nước đối với Tòa án khi mà họ có quyền ảnh đến việc bổ nhiệm thẩm phán, quyết định ngân sách và cung cấp các cơ sở vật chất duy trì hoạt động của Tòa án. Muốn Tòa án độc lập khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật, phải hoàn thiện cơ chế xây dựng tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc và địa giới hành chính. + Tổ chức tập huấn cho thẩm phán những điểm mới, trong đó nhấn mạnh, làm rõ chức năng xét xử của Tòa án có điểm gì thay đổi và cần lưu ý. Tổ chức thêm nhiều buổi tập huấn trực tuyến giữa các cấp quận huyện với Tòa Tối Cao, như gần đây nhất là vào ngày 26/4/2018 tập huấn về nội dung “Quán triệt thực hiện các văn bản thi hành Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” 62 + Chủ động đề xuất các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chức năng xét xử sơ thẩm, trong đó hướng dẫn chi tiết các trường hợp Tòa án cần trả hồ sơ bổ sung, trường hợp nào Viện kiểm sát rút quyết định truy tố, trường hợp phát hiện tội phạm mới tại phiên tòa như Hướng dẫn 02/HD-VKSTC về công tác Thực hành quyền công tố, Kiểm sát điều tra và Kiểm sát xét xử sơ thẩm ma túy năm 2018 do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành... + Chỉ khi Thẩm phán có trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sang, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Các Thẩm phán và Hội thẩm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm cũng phải được bổ nhiệm tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. + Cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tang khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. + Nâng cao vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án: đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử. + Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau: các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật. 63 + Đổi mới nhiệm kỳ của thẩm phán, trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán: Đổi mới về nhiệm kỳ của Thẩm phán: Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thẩm phán Tòa án các cấp đều có nhiệm kỳ là 5 năm tính từ thời gian bổ nhiệm. So với thời kỳ thực hiện nguyên tắc bầu thẩm phán, nhiệm kỳ hiện nay đã được kéo dài thêm một cách đáng kể, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý. Hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu và thay đổi theo hướng nhiệm kỳ Thẩm phán không phải là 5 năm mà có thể tiến đến bổ nhiệm không kỳ hạn. Nếu thay đổi theo hướng như vậy sẽ tạo ra những thuận lợi đáng kể. Thứ nhất, không phải tuyển chọn, bổ nhiệm nhiều lần đối với một Thẩm phán, điều này sẽ giảm đi một khối lượng công việc đáng kể cho chủ thể có thẩm quyền bổ nhiệm, đặc biệt là đối với việc bổ nhiệm thẩm phán TAND địa phương. Thứ hai, việc bổ nhiệm một lần sẽ tạo điều kiện cho đội ngũ Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án tâm lí ổn định và yên tâm công tác, tránh được tình trạng bị gián đoạn công tác khi chưa tiến hành làm thủ tục tái bổ nhiệm đúng kì hạn đối với Thẩm phán hết nhiệm kì. Thực tế rất nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời rất hiệu quả như Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Nga..Pháp luật của các nước này quy định cho Thẩm phán được hưởng quyền “ bất khả miễn nhiệm”. Đây là một quyền rất quan trọng, là một đảm bảo về mặt pháp lí cho Thẩm phán chuyên tâm vào sự nghiệp xét xử của mình. Xét xử luôn được xác định là chức năng của thẩm phán trừ khi họ tự nguyện chuyển công tác vì lý do sức khỏe mà không đảm nhiệm được công việc, đến tuổi nghỉ hưu hay vi phạm pháp luật. Do ổn định về mặt công tác nên ý thức tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn và trau rồi kĩ năng nghề nghiệp của các thẩm phán cũng được chú trọng hơn. Nhờ đó, nguyên tắc độc lập trong xét xử càng được củng cố, hiệu quả xét xử được nâng cao. Đây thực 64 sự là kinh nghiệm quý báu để chúng ta tham khảo, học hỏi để vận dụng vào việc bổ nhiệm thẩm phán trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, việc bổ nhiệm Thẩm phán suốt đời cũng chưa thể thực hiện ngay được. Hiện nay, một bộ phận Thẩm phán chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Bởi vậy, trước mắt vẫn cần quy định nhiệm kì thẩm phán để dần dần thanh lọc, xây dựng đội ngũ Thẩm phán có đủ tiêu chuẩn để thực hiện hoạt động xét xử, tiến tới bổ nhiệm Thẩm phán dài hạn. Hiện nay, khi chưa thực hiện được việc bổ nhiệm suốt đời thì biện pháp trước mắt là cần kéo dài nhiệm kì của thẩm phán. Đổi mới trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán: Để việc tuyển chọn Thẩm phán được thực hiện có hiệu quả, cần thực hiện các biện pháp để hạn chế tính hình thức trong việc tuyển chọn của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Nó đòi hỏi phải có sự thay đổi đồng bộ từ khâu chuẩn bị hồ sơ, đến việc xem xét tại phiên họp của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Trong công tác chuẩn bị nhân sự, việc lấy phiếu tín nhiệm cần được thực hiện nghiêm túc, đúng với bản chất của nó. Với những ý kiến đánh giá xác thực từ cơ sở. Hội đồng tuyển chọn mới có cơ sở để đưa ra quyết định đúng đắn. Bên cạnh đó, trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán còn quá rườm rà, bởi vậy, thời gian tới cần đơn giản hóa thủ tục bổ nhiệm để đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu về thẩm phán cho công tác xét xử. Hiện nay, cấp ủy Đảng lãnh đạo việc giới thiệu người để Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét đề nghị bổ nhiệm là Thẩm phán. Do đó, Thẩm phán có sự lệ thuộc nhất định vào cấp ủy Đảng. Điều này ảnh hưởng tới tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử. Bởi vậy, trong thời gian tới cần xem xét vấn đề này để vừa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ của ngành Tòa án, đồng thời vẫn phải đảm bảo được tính độc lập của 65 hoạt động xét xử. Đối với những trường hợp bổ nhiệm lại, cần đơn giản hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán. Điều này giúp cho hoạt động của Thẩm phán ít bị gián đoạn hơn, góp phần làm giảm tình trạng thiếu Thẩm phán hiện nay. Hơn nữa việc đơn giản hóa thủ tục tái bổ nhiệm Thẩm phán là một điều hợp lí bởi “ khi trở thành Thẩm phán đã phải trải qua sự xét tuyển rất nghiêm ngặt, do vậy nếu trong nhiệm kì thẩm phán không vi phạm những quy định đến mức phải kỷ luật mặc nhiên được tiếp tục là thẩm phán”[24, tr.21] Tiểu kết Chương 3 Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta khi thừa nhận Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Để bảo đảm định hướng quan trọng và nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân trong TTHS, cần hoàn thiện tổng thể những cơ sở pháp lý liên quan như là: Tổ chức hợp lý hệ thống xét xử; tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm đúng đội ngũ cán bộ tư pháp - xét xử nói chung, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nói riêng; bổ sung, hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động xét xử VAHS, khắc phục những quy định chồng chéo, những quy định trái với những nguyên tắc chung Tòa án cần được xác định rõ hơn phạm vi thẩm quyền thực hiện quyền tư pháp và cơ chế độc lập tương đối của quyền tư pháp trong phạm vi quyền lực nhà nước là sự phân công trong chính thể quyền lực thống nhất mới có thể thực hiện được việc kiểm soát quyền lập pháp, quyền hành pháp bởi quyền tư pháp. 66 KẾT LUẬN Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm người dân đến tìm Tòa án như tìm đến công lý. Tòa án là cơ quan duy nhất được trao quyền xét xử. Ở nước ta, bên cạnh những mặt được thì “công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế”, “tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý”, không rõ ràng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử còn xảy ra, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn còn bị xâm phạm. Thực hiện chức năng của Tòa án nhất thiết phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản: xác định sự thật của vụ án, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, độc lập của tòa án, phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm xác định sự thật khách quan, cơ sở để đưa ra phán quyết. Cơ quan này không có trách nhiệm chứng minh tội phạm mà chỉ có nghĩa vụ chứng minh cho các quyết định của mình, không có trách nhiệm thực hiện các hành vi tố tụng không thuộc chức năng được giao.Tòa án nói chung, HĐXX, Thẩm phán và hội thẩm nói riêng phải độc lập, công tâm và bình đẳng trong xét xử. Phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo cũng như xem xét bình đẳng yêu cầu, đề nghị hay ý kiến tranh luận của hai bên buộc tội, bào chữa. Giải quyết vụ án hình sự đồng thời bao gồm trong đó việc giải quyết thấu đáo và triệt để các phần dân sự, xử lý vật chứng của vụ án. Chức năng xét xử của Toà án quyết định các nhiệm vụ cụ thể của Toà án trong các hoạt động của mình. Bởi vậy, Toà án không thể và không được thực 67 hiện các nhiệm vụ không thuộc về chức năng tố tụng của mình. Khi thực hiện chức năng xét xử, Toà án có trách nhiệm phải làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án (bao gồm cả các tình tiết buộc tội, các tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo) nhưng không phải để buộc tội hay bào chữa đối với bị cáo mà nhằm thực hiện chức năng xét xử - xác định sự thật khách quan và ra quyết định đúng đắn về vụ án. Nếu Toà án tham gia thục hiện cả chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa thì vai trò trọng tài, người cầm trịch giữa hai bên sẽ mất đi và Toà án sẽ trở thành một công tố viên hay một luật sư "thứ hai” trong tranh tụng. Điều đó sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa và mục đích xác định sự thật về vụ án không thể đạt được:"Trong phiên toà hình sự, thì quan toà, chưởng lý và trạng sư bào chữa được kết hợp vào một con người. Sự kết hợp này mâu thuẫn với tất cả những quy luật cùa khoa tâm lý học”.[25, tr.15] Với vai trò là trọng tài giữa bên buộc tội và bên bào chữa, Toà án phải có thái độ vô tư, khách quan và công minh. Các thành viên HĐXX phải quan tâm ở mức độ như nhau đối vói tất cả những nguời tham gia phiên toà (Công tố viên, luật sư bào chữa, bị cáo, người bị hại,..) và có thái độ khách quan, không thiên vị đối với các chứng cứ, các yêu cầu, đề nghị của các bên đưa ra cũng như đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật dành cho họ. Toà án khồng được phép định kiến đối với bất cứ bên nào và cũng không thể bị ràng buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của bất kỳ ai:"Đối với quan toà, thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp". Từ việc phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và xét trong yêu cầu của cải cách tư pháp, luận văn mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị: + Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc 68 một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập Tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức TAND theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. Việc triển khai thực hiện thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, Tòa án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC trong thực tế, cần phải đặt ra và giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể như: xác định nguyên tắc thành lập; vị trí và mô hình; nhiệm vụ, thẩm quyền; tên gọi; tiêu chí thành lập và xác định số lượng; cơ cấu tổ chức; biên chế; cán bộ và cơ sở vật chất; mối quan hệ với các cơ quan công tố và điều tra; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án; sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử; về việc bầu Hội thẩm; quản lý về tổ chức đối với các Tòa án; đưa ra các giải pháp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện. + Bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật: đây là nguyên tắc nền tảng cho hoạt động tư pháp nói chung của TAND nói riêng. Để dảm bảo nguyên tắc này cần phải giải quyết những vấn đề sau + Đảng lãnh đạo nhưng không can thiệp vào hoạt động xét xử hay có những tác động tới sự độc lập của Tòa án. Hiện nay, Đảng lãnh đạo Tòa án cả về tổ chức nhân sự và hoạt động xét xử, điều này khó có thể đảm bảo được tính độc lập khi xét xử của Tòa án thực hiện theo đúng nguyên tắc “ khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” .[15, tr.9] TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2002), Một số gợi ý về việc tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. 2. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 3. Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy Phượng (2011), Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân số 9. 4. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 5. Nguyễn Ngọc Chí (2008), Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người giám định trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8 - 22. 6. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Một số yếu tố ảnh hưởng tới nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tạp chí Nhà nước pháp luật, số 2. 7. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về tư pháp và các mô hình tư pháp phương Tây, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10 (2002) 23. 8. Lưu Tiến Dũng (2005), Độc lập xét xử ở các nước quá độ: Một góc nhìn so sánh, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9 - 15. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02-01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. 11. Học viện Pháp lý thuộc Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa – Nxb Tư pháp. 12. Hoàng Thị Minh Sơn (2017), Giáo trình luật tố tụng hình sự của trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 13. Phạm Hồng Hải (2011), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. 14. Tống Anh Hào (2003), Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5. 15. J. Clifford Wallace (2006), Khắc phục tham nhũng tư pháp trong khi phải đảm bảo độc lập tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8 41. 16. Quốc hội (1992), Luật tổ chức tòa án nhân dân. 17. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946. 18. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959. 19. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, 20. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992. 21. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự. 22. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 23. Quốc hội nước (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. 24. Đinh Văn Quế, Nguyên Chánh toà hình sự, TANDTC (2008), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện. 25. Bùi Ngọc Sơn (2003), Sự độc lập của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4 43. 26. Nguyễn Minh Tuấn (2004), Vai trò của thẩm phán trước yêu cầu của công tác cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 27. Nguyễn Thị Tuyết (2011), Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân số 03. 28. Đỗ Gia Thư (2004), Thực trạng đội ngũ thẩm phán nước ta - Những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ quá trình xây dựng, Tòa án nhân dân. 29. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội. 30. Nguyễn Tất Viễn (2004), Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong quá trình cải cách tư pháp, trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 31. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB Khoa học Xã hội. 32. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần riêng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. GS.TS. Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 34. 35. https://danang.gov.vn/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_chuc_nang_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh_su_cua_toa_an_t.pdf
Luận văn liên quan