Ngôn ngữ Nam Bộ thể hiện trong các truyện ngắn của Sơn Nam là
thứ ngôn ngữ vừa gần gũi vừa xa lạ bởi tính ý nhị tinh tế. Từ các cách nói đó,
phong cách Nam Bộ, thiên nhiên Nam Bộ, con người, văn hóa Nam Bộ hiện
ra rất rõ với nét phóng khoáng, nhân hậu nghĩa tình, cái tình của những con
người cùng cảnh ngộ trong việc khai khẩn vùng đất mới với nhiều khó khăn
gian khổ chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Các lớp từ ấy đã thể
hiện tính bình dân, uyển chuyển, tinh tế pha chút hóm hỉnh, ngang tàng rất
đặc trưng của con người Nam Bộ.
Truyện ngắn của Sơn Nam sử dụng ngôn ngữ thuần chất Nam Bộ, cả
trong ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật. Số lượng từ ngữ Nam Bộ
được dùng trong tác phẩm khá lớn. Đặc điểm này góp phần tạo nên một văn
phong rất Nam Bộ ở Sơn Nam mà thật sự ông đã là một nhà văn Nam Bộ rặt.
Từ đó, giá trị của tác phẩm đã được khẳng định và góp phần tạo thương hiệu
tốt cho văn chương Nam Bộ trên văn đàn Việt Nam đương đại.
123 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2761 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm từ ngữ nam bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đây chúng tôi cho rằng ngƣời nông dân bao gồm những vị “chức việc” trong
làng. Nói thế bởi trong hầu hết các truyện, chúng ta thấy rằng, mặc dù là những
ngƣời có vai vế trong làng nhƣ: hƣơng trƣởng, hƣơng cả, hƣơng quản nhƣng
thực chất, họ vẫn là bản chất nông dân quanh năm chân lắm tay bùn. Cũng làm
lụng cực nhọc, vất vả để có miếng ăn. Nhƣ ông hƣơng trƣởng Neo làm ăn quanh
năm không hở tay, ông thì đốn củi trong rừng, bà thì nuôi heo nọc để gầy giống
trong làng. Hễ đến khi heo đẻ thì bà đƣợc con heo khỏe nhất. Khi khấm khá thì
đóng tiền mua chức hƣơng trƣởng, đƣợc ăn trên ngồi trƣớc trong làng.
“Nhưng có tiền nhiều để làm gì? Trong làng Thạnh Hòa, từ mấy năm qua,
thiên hạ đàm tiếu:
- Vợ chồng Hương trưởng Neo khờ khạo quá. Có tiền mà sống như người
nhà quê, thời “đàng cựu” không chừng ổng bả chưa thấy đèn điện hoặc một chiếc
xe hơi.
Bà Hương trưởng nhiều lần tỉ tê với chồng:
- Bữa nào mình ra chợ một lần cho thiên hạ biết mặt. Tôi sợ tốn tiền,”
(Bức tranh con heo đất)
Hình ảnh Hƣơng trƣởng Neo chính là một phần nào đó trong làng vốn
dĩ ít dân, toàn ngƣời nghèo, ngƣời lang thang tứ xứ nên có chuyện họ thƣờng
bị những kẻ khác hà hiếp mà không dám có bất cứ một sự phản kháng nào,
hay đứng ra bênh vực quyền lợi cho ngƣời nông dân, những ngƣời đồng cảnh
89
ngộ nhƣ họ (trong các truyện Anh hùng rơm, Cậu Bảy Tiểu, Chiếc ghe ngo,
Chuyện năm xưa,)
Tất nhiên trong những kẻ chức việc đó, vẫn có những kẻ dựa hơi Tây,
khôn ranh mà chèn ép đồng bào mình, đem lại cái hại nhiều hơn cái lợi nhƣ
Cậu bảy Tiểu vốn dĩ là một đảng cƣớp ô hợp mà thành một lực lƣợng xƣng
hùng xƣng bá, làm mƣa làm gió trong làng, mất cả tình làng nghĩa xóm, mất
cả nhân tính, đối lập hẳn với những nhân vật đƣợc nói đến ở trên.
“Cậu Bảy Tiểu quát to:
- Hay lắm. Đi bắt thằng Lê Hữu Vĩnh. Nó là thầy nghề võ của tôi.
Tôi phải đền ơn nó!
Rồi cậu ta day lại nói với một ông hương chức hội tề:
- Nè, ông hương thân ơi! Coi chừng cậu này nghe không! Lát nữa ôi
giải quyết sau. Nếu cậu Ba này chạy trốn thì tôi tru di tam tộc tất cả các
ông hương chức hội tề”
Cái bản chất lưu manh côn đồ của hắn quả thật như diều gặp gió,
như rồng thêm cánh khi gặp chế độ vô nhân tính của thục dân. Qua cách kể
của Sơn Nam như là “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” mà ông bà ta thường lắc
đầu, chắc lưỡi vậy”
Ngƣời nông dân U Minh trong cách nhìn và cách kể của Sơn Nam,
quả thật mang lại cho ngƣời đọc, ngƣời nghe đi từ bất ngờ này tới bất ngờ
khác. Ngay cả với ngƣời sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này chắc cũng khó
lòng tƣởng tƣợng ra nổi về cái tài năng kì lạ mà họ có. Mảnh đất đầy huyền
bí, âm u vốn đã có rất nhiều chuyện lạ kì.
-Hôm qua tôi nghe đồn ở xóm Đình, thiên hạ trổ tài ăn nhiều. Anh
nọ ăn một hơi hai mươi kí lô bún nước lèo. Ngộ quá.
- Dạ tui đâu thưa thiên hạ! Tui dám ăn trọn một con vịt mập sau khi
nhổ lông, ăn luôn xương và bộ đồ lòng.
90
Tư Hít nói như một nhát kiếm chặt xuống sợi tơ mành.
- Nhưng tôi lột vỏ trái dừa khô ở dưới nước, tôi nín thở lặn xuống
đáy sông, lột xong rồi mới trồi lên (Bà đầm Phô Xi Đông)
Nếu hành động lột dừa bằng tay bằng miệng dƣới nƣớc có thể đƣợc
coi là do kĩ năng, kĩ xảo đƣợc rèn luyện đến mức cao độ trong quá trình lao
động hàng ngày của ngƣời nông dân khiến ngƣời ta nể phục thì việc ăn
nguyên con vịt sống với cả xƣơng và bộ đồ lòng thì cứ giống nhƣ Võ Tòng
của thời xƣa vậy. Nhƣng Hương rừng Cà Mau đâu chỉ có ngƣời ăn một lƣợt
hai mƣơi kí lô bún nƣớc lèo hay cả con vịt mà còn nhiều “biệt tài khác”:
Đây là Hai Đẹt, người từng nhậu ba lít rượu đế với ba yến khô cá
sặc rằn.
Đó là Bảy Vĩnh, người hồi tháng trước ăn một lượt ba kí lô mỡ heo
luộc chín, chấm với muối ớt. Sau khi ăn xong, anh ta còn đòi uống thêm bốn
gáo nước lạnh.
Còn lại Tư Cần, đối thủ lợi hại của Bảy Vĩnh. Chính Tư Cần đã ăn
bốn chục viên bánh xôi nước và một con vịt luộc. Bảy Vĩnh đáp lại, sẵn sàng
ăn tám kí lô sầu riêng. Thứ trái cây này khó kiếm ở rừng Cà Mau, phải gửi
tàu đò ra chợ Rạch Giá mua về. (Chuyện rừng tràm)
Đúng là những chuyện chỉ có ở U Minh này, khi nghe qua có thể
nhiều ngƣời cho rằng đó là hiện tƣợng nói quá, những câu chuyện bông đùa
trong lúc trà dƣ, tửu hậu nhằm mua vui cho mọi ngƣời, nhƣng theo chúng tôi,
đó là những câu chuyện rất dễ xảy ra. Dễ lắm chứ khi con ngƣời ta dấn thân
vào xứ hoang vu, âm u, nhiều sản vật nhƣng đồng thời cũng có biết bao nhiêu
nguy hiểm đang rình rập thì cái ngƣời ta mang theo nhất định phải là lòng
dũng cảm, là sự phi thƣờng tiềm tàng trong mỗi con ngƣời để chống chọi với
những khắc nghiệt đó.
Nhƣng ngƣời nông dân ở đây đâu chỉ có những tài phiếm dùng để
mua vui nhƣ vậy. Họ còn có những tài phục vụ cho cuộc sống của chính mình
nhƣ có thể dùng tay không hoặc dụng cụ thô sơ để có thể hạ đƣợc hổ, bắt
91
đƣợc cá sấu, lợn rừng bảo vệ bình yên cho cuộc sống của mình và của mọi
ngƣời. Tại sao họ làm đƣợc những việc thần kì ấy? Đó là nhờ kinh nghiệm.
Chính kinh nghiệm làm cho con ngƣời ta chủ động hơn, to lớn hơn trong thế
đứng trƣớc thiên nhiên. Kho ngôn ngữ của Sơn Nam trong Hương rừng Cà
Mau cũng chính là một kho tri thức dân gian mà cha ông ta đã tích lũy trong
một thời gian dài, đã trả giá, đánh đổi bằng cả xƣơng máu và tính mạng của
mình. Đây là kinh nghiệm làm nhà để làm sao vừa an toàn, vừa có thể làm ăn
đƣợc giữa rừng già U Minh đầy cọp dữ:
Mình ngu dại gì vô rừng già cất nhà ở. Cứ lựa mấy vàm rạch nhỏ, chèo
ghe vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi làm như vậy có hai điều lợi. Một là trong
mấy ngọn rạch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô
chừng hai ba ngàn thước Phía trong toàn lá sậy, đế, cây nếp, rừng chồi. Mình
có thể phá gấp sậy đước đó để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Điều lợi
thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo
chuyện đánh cọp trong khi mình không rành võ nghệ (Hết thời oanh liệt)
Còn đây là kinh nghiệm câu cá của một ông già mù mà mọi ngƣời
đều nể phục gọi là “sƣ tổ giăng câu”:
Phải có kinh nghiệm mới đỡ cực nhọc. “Con cá trương vi quạt đuôi
ra biển Bắc còn mong gì con cá ấy trở lại chốn ao nhà”. Câu vọng cổ đó sai.
Cá có hang ở sông cái. Mùa nưa cá tìm đường lên ruộng, vào rừng mà đẻ.
Bắt đầu mùa hạn, cá bỏ ruộng, bờ rừng trở về hang cũ ở sông. Sự khôn ngoan
của con người là chặn tuyến về của cá. Chặn cho đúng nơi đúng lúc.
Vào đầu mùa, cá Hường ăn mỗi khi nước lớn. Giữa mùa, cá ăn lúc
chạng vạng, lúc trăng sửa soạn mọc. Hừng sáng, chừng mây đâm ngang, cá
trở lại ăn lần chót.
Khó nhứt là chọn nơi để giăng câu. Cá sợ ngọn nước ngoài biển đổ
tràn vào sông. Gặp nước mặn, cá hết nhớt ngoài da, con mắt xốn xang nhưng
nơi nước quá ngọt lại ít có cá vì cá chưa đi tới. Cá tập trung tại lằn ranh
nước lờ lợ và nước ngọt.
92
Tại lằn ranh đó, nên biết chọn từng điểm nhỏ. Rạch nào lắm ghe
xuồng đi lại cá ở sát bờ. Rạch nào im lặng, cá lội ngay giữa dòng. Trước khi
giăng cá trê phải quậy cho nước đục. Mỗi chỗ cá chỉ ăn một lần. Vì nó lưu
động nên mình khéo dời chỗ.
Gió bấc thổi ròng rã, cá lần về sông cái. Nếu bỗng nhiên trời trở
nực chuyển mưa, cá lui trở lại rừng và không ăn mồi. Những ngày ấy đi giăng
câu cũng hoài công. (Ngƣời mù giăng câu)
Quả thật với một lƣợng kiến thức nhƣ thế không phải ai cũng có đủ
thời gian cũng nhƣ sự tinh tế để cảm nhận. Chính cái kinh nghiệm lâu năm
cộng thêm khả năng thiên phú mà ông trời đã bù đắp cho, khi đã lấy đi đôi
mắt của ông, làm ông trở thành ngƣời câu cá giỏi nhất miệt U Minh, Cà Mau.
Nếu nói về những kinh nghiệm của ngƣời U Minh trong công việc
khẩn hoang phát triển thì chúng tôi thiết nghĩ phải có hẳn một công trình
nghiên cứu riêng biệt mới có thể nói hết, liệt kê hết, kể hết, bởi vì cuộc sống
mới thì cái gì con ngƣời ta cũng cần phải học hỏi, phải chiêm nghiệm ăn ong
trong những cánh rừng tràm bạt ngàn, kinh nghiệm bắt cọp, đuổi cọp, bắt
chim, và đặc biệt là kinh nghiệm bắt sấu bằng tay không.
Từ những kinh nghiệm trên, con ngƣời U Minh thể hiện sự thông minh,
tháo vát, thích nghi với những điều kiện thực tại (thậm chí đôi lúc hơi khôn
lanh). Đƣơng nhiên chúng ta thấy rằng có những lúc họ vận dụng rất chính
đáng nhƣng cũng có lúc họ vận dụng vào những việc không hợp lẽ cho lắm.
Nhƣ chàng trai trong Yêu cho được, tìm đủ mọi cách để đƣợc gần ngƣời yêu
mà không bị cha cô ta ngăn cấm. Hay nhƣ cách ngƣời dân sáng tạo ra cách nấu
xà bông từ than cây mắm, cây đƣớc mà không cần những hóa chất hay khoa
học kĩ thuật của ngƣời phƣơng Tây, khiến cho cả ông dƣợng hai, Bác Vật cũng
phải ngỡ ngàng. Họ cũng bắt chƣớc nấu xà bông từ than, từ nƣớc nhƣng do độ
mặn không đều nhau nên chỉ có lớp mặt thì cứng còn lớp dƣới thì hoàn toàn
nƣớc. Một ngƣời trong nhóm đòi đi ăn cắp ống thủy của dƣợng Hai nhƣng lại
sợ bị ở tù. Họ nảy ra sáng kiến là lấy một ít nƣớc tro đƣợc coi là chuẩn sau khi
93
dƣợng hai đã cân xong. Sau đó về lấy chai dầu gió, bỏ dằn vào đó một hộp chì
rồi đậy nút lại để chai nọ không nằm ngang khi nổi trên mặt nƣớc. Hễ chai
chìm đến mức nào thì ghi vào hông chai và đem đo nƣớc tro. Vậy là họ có
đƣợc dụng cụ đo nƣớc tro hữu hiệu và chế tạo đƣợc xà bông.
Ngoài ra, ngƣời nông dân còn vận dụng sự nhanh trí, thông minh
của mình để làm nhiều việc nhƣ làm cho da một con rắn ri voi từ một tấc
thành ba tấc để đƣợc nhiều tiền bằng cách bơm nƣớc vào trong rắn, hay làm
kiểu sân khấu dã chiến ba gian hai chái vừa để dùng làm sân khấu, vừa để đào
kép ăn cơm, chung quanh sân khấu nọ, xốc cừ làm vòng thành, gốc cừ này
khít gốc kia chừng một gang tay. Ai muốn coi cứ việc bơi xuồng vô vòng rào
nọ. Xong xuôi đóng cửa lại. Cọp phải bơ vơ ngồi trên rạch, sấu thì đành
ngóng mỏ ngoài vòng. Trong vòng mình ngồi sáng đêm ăn thua.
Vậy ta có thể hỏi rằng, ngƣời nông dân ở đâu trong cuộc kháng
chiến thần thánh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Do chƣa có đảng, hay nói
chính xác hơn là Đảng Cộng sản chƣa xuyên qua đƣợc những con sông lớn
hay rừng tràm U Minh nên ngƣời nông dân ở đây có nhiều thái độ khác nhau
khi đứng trƣớc kẻ thù. Tinh thần chung là không hợp tác, không làm tay sai
cho giặc để chịu tiếng nhơ muôn đời là bán nƣớc, là Việt gian nhƣ cách mà
ngƣời ta vẫn thƣờng nói. Vậy họ làm gì? Phần lớn là phản kháng. Cách phản
kháng đơn sơ, ấu trĩ là cùng nhau ở trần truồng trên bãi biển để cho chính
quyền phải hoảng sợ, phải mắc cỡ mà may quần áo cho họ.
Vụ này tôi nghe nhiều lần phong phanh. Tôi hồ nghi đó là mưu đồ
của một số người nào đó ở gần chợ Rạch Giá. Vì thiếu quần áo - nên nhớ
năm đó là khổ lắm - họ liều thân làm xấu để xin quần áo nhà nước. Nhà nước
lo sợ: họ đã thành công. Dễ gì đi làm mướn một buổi sáng mà sắm được bộ
quần áo, hồi năm quần áo bao bố đó! (Ông già xay lúa)
Nếu xét về tính chất thì rõ ràng thì đây là hành động tự phát, hết sức
ấu trĩ mang hơi hƣớng quyền lợi cá nhân hơn là tƣ tƣởng chính trị nhƣng đây
chính là mầm mống rất quan trọng cho sự nhận thức sau này khi Đảng tìm
94
đến họ. Chắc chắn là họ sẽ tiếp nhận niềm tin và lí tƣởng mà Đảng sẽ mang
tới. Chính ngƣời thành lập các đảng phái họ không có đƣờng lối rõ ràng, sách
lƣợc cụ thể nhƣng lại có ý tƣởng có mục đích là “chặt đầu Tây” nhƣ Tƣ Hiền
lùng Đảng Cánh buồm đen hay Đơn Hùng nói trong “Đơn Hùng Tín chào
đời”: Gọi là chức vị chặt đầu Tây. Con nghe chưa? Con nghe chưa? Xưa kia
đức Nguyễn Trung Trực phá Kiên Giang. Lúc sa cơ, Người không mảy may
tử. Trước Pháp tướng giặc khuyến dụ trăn điều, húa hẹn cho... ôi thôi bao
nhiêu là vàng bạc chức vị! Người cả cười, chỉ xin lãnh thọ một chức vị: chức
nào mà Người có quyền chặt đầu tất cả bọn Tây.
Giọng đạo sĩ như nghẹn ngào:
- Hỡi ơi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang.
Trong lòng người, khắp non cao biển rộng... chặt đầu Tây, chặt đầu Tây!
(Đảng Cánh buồm đen)
Từ đó Tƣ Hiền nghe lời thầy thành lập Đảng để trƣợng nghĩa, để giúp
ngƣời sức yếu thế cô nhƣ bấy lâu nay ngƣời trƣợng phu trƣợng nghĩa vẫn
quen làm, ở mức độ nhận thức cao hơn, ngƣời ta thành lập những đội thanh
niên cứu quốc nhƣng đội quân này cũng ô hợp, dễ tan rã do không có sự lãnh
đạo đúng đắn cũng nhƣ tổ chức chặt chẽ - khi gặp Pháp tấn công thì bọn này
cũng bỏ chạy, cũng đi sơ tán nhƣ bao nhiêu ngƣời nông dân khác ở miệt U
Minh vậy thôi.
Thành phần thứ hai của ngƣời nông dân yêu nƣớc là những ngƣời cam
chịu chứ không hợp tác hay phản kháng lại thực dân Pháp. Âu đó cũng đúng
là nét tính cách xƣa nay của ngƣời Việt quen sống với cuộc sống yên bình.
Yên bình đấy nhƣng thật ra họ cũng có nhiều day dứt, nhiều suy nghĩ trong
tận sâu thẳm lòng mình. Nhƣ lục cụ Tăng Liên trong Chiếc ghe ngo chẳng
hạn, cụ đã phân vân rất lâu khi chính quyền bắt phải đem chiếc ghe thiêng
liêng của ngƣời Khmer tham dự một giải đấu mừng ngày lễ 14/7 – ngày quốc
khánh nƣớc Pháp.
95
Lục cụ Tăng Liên nghiêm mặt lại đem ghe ngo của nhà chùa để ăn
mừng một ngày lễ chẳng liên quan gì đến dân mình nghĩ cũng khó xử thật
không tham dự là chống lại nhà nước Lang Sa, còn tham dự thì mất cả ý
nghĩa thiêng liêng.
Và khi biết phần thưởng hạng nhất cho đội chiến thắng là một lá cờ
tam sắc to tướng của nhà nước Pháp thì Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt
nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục xót xa. Hồi lâu cụ lắc đầu, cười xòa
rồi đỡ chú hương quản đứng dậy. (Chiếc ghe ngo)
Lại lặng im, cái cƣời xót xa của cụ là tiếng thở dài của dân tộc trong
thời buổi đất nƣớc không còn là đất nƣớc của mình, mảnh đất của cha ông
không còn dành riêng cho con cháu. Đau lắm chứ!
Ngoài ra, ngƣời nông dân trong Hương rừng Cà Mau còn nhiều điểm
nổi bật khác nhƣng trong khuôn khổ giới hạn của một đề tài chúng tôi không
tìm hiểu hết, hi vọng sẽ có dịp quay trở lại trong một chuyên đề khác.
3.2.3. Thể hiện phong tục Nam Bộ
Tác phẩm Hương rừng Cà Mau thành công ở chỗ nó phần nào dựng lại
đƣợc phong tục, lối sống, suy nghĩ và tình cảm của ngƣời dân miền Nam ở buổi
đầu đi khẩn hoang, mở đất, một giai đoạn đầy gian truân, khổ ải của cha ông ta,
nhƣng cũng rất vinh quang, rất đẹp và dạt dào tình cảm. Câu chuyện về những
ngƣời đi khẩn hoang mở đất gợi lên đƣợc cái tình của ngƣời dân dã, keo sơn, cái
tình quê hƣơng đồng bào khắc khoải. Là truyện thì tất nhiên phải hƣ cấu chút
đỉnh, nhƣng cái cốt lõi là chất sử liệu chân thực mà nhà văn cố gắng thể hiện
trong truyện đã mang lại sức sống lâu dài của tác phẩm. Nhà văn Sơn Nam đã
nói về hoàn cảnh ra đời của tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau: Tôi viết tập
truyện này vào khoảng năm 1954, khi vừa từ chiến khu ra và về Sài Gòn sống.
Lúc đó, tôi ở một căn nhà thuê trên đường Ngô Gia Tự. Tự dưng thấy một thôi
thúc mãnh liệt là phải viết những chuyện về vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên
và trải qua một phần trai trẻ. Viết để người Sài Gòn, người xứ khác hiểu về miền
Tây Nam bộ và viết cũng vì để kiếm tiền sống [33].
96
Văn hóa một dân tộc là sự tổng hợp, sự giao thoa của văn hóa nhiều
vùng miền khác nhau. Nói đến văn hóa Việt Nam không thể không kể đến văn
hóa Nam bộ - văn hóa của một lớp ngƣời tiên phong khẩn hoang mở rộng bờ
cõi về phía Nam, văn hóa của những con ngƣời tồn tại trong thiên nhiên khắc
nghiệt. Nói khác hơn, văn hóa Nam bộ là sự tổng hợp về thái độ sống, cách cƣ
xử của ngƣời miền Nam trƣớc thiên nhiên và trƣớc những quan hệ xã hội
xung quanh. Hàng năm ngƣời dân đều tổ chức lễ hội ở đình làng gọi là lễ Kỳ
Yên cầu cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, là dịp để ngƣời ta hội hè,
đƣa ra những câu thai đố (Ngôi mộ chôn đứng). Nó làm cho mối quan hệ làng
xóm bền chặt hơn, mang tính cộng đồng hơn. Đình làng là nơi thờ cúng thành
hoàng, tức là những bậc tiền hiền có công khai khẩn đất hoang hay giúp đỡ
ngƣời dân trong làng. Những đình làng Nam Bộ không chỉ thờ cúng thành
hoàng mà còn thờ cúng những vị anh hùng dân tộc, hay các vị thần của tự
nhiên. Ông Hƣơng cả Ban ở rạch Cái Cau khẳng khái xác định trƣớc tên quan
tham biện chủ tỉnh rằng đình làng này thờ ông Nguyễn Trung Trực - ngƣời
mà nhà nƣớc Lang Sa xem là kẻ phản loạn (Con ngựa đất). Chứng tỏ trên dải
đất miền Nam, những ngƣời anh hùng chống Tây luôn đƣợc suy tôn trở thành
những ngƣời đáng trọng vọng và đƣợc thờ cúng ở đình làng (Miếu bà chúa
xứ). Chính vì có cách nhìn về xã hội nhƣ thế nên ngƣời Nam bộ rất trọng tình
nghĩa, để mở rộng lòng mình với tất cả mọi ngƣời. Họ yêu thƣơng san sẻ với
tất cả mọi ngƣời lạ, tức là hiếu khách “vì nghĩa tình bà con quen thuộc, sớm
tối có nhau, lúc hoạn nạn vui sƣớng. Ở đời, anh với tôi đây, đều phải giữ nhân
tính Tứ hải giai huynh đệ là vậy đó” [52, 352]. Hiếu khách, nhƣng nếu vị
khách này không biết lễ, họ sẵn sàng cho kẻ bất lễ kia một bài học ở đời (Đại
chiến với thầy Chà).
Sống chan hòa với tự nhiên, nói nhƣ Tƣ Đức trong truyện Sông Gành
Hào: Tôi chưa hiểu hai tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin trời, tin Phật, thờ cha kính
mẹ, quý mến ông bà già cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông sấu. Đất có
Thổ Công, sông có Hà Bá [52, 801], nên dân Nam Bộ thƣờng trƣớc khi làm
97
công việc gì cũng cúng thánh thần. Đó là một nét văn hóa tâm linh rất đẹp. Sống
“tâm linh” nên ngƣời Nam bộ rất coi trọng chuyện thờ cúng ma chay ngay khi
còn sống. Ngƣời ta thƣờng chuẩn bị cho hậu sự bằng cách xây kim tỉnh để đón
nhận sự ra đi một cách bình thản tự nhiên nhƣ cậu Hai Tân trong truyện Hai mẹ
con. Đó cũng là một cách trả hiếu. Hay trong truyện Cậu Bảy Tiểu cái chết của
ông hƣơng trƣởng Tạc có thể giúp ta thấy đƣợc phong tục cúng kiếng tang ma
của ngƣời miền Nam. Dân chúng tụ họp, chừng vài chục người, giết heo, uống
rượu, đánh trống, đờn cò. “Theo quan niệm chết là đến một thế giới khác nên họ
ít khóc kẻo người chết đau lòng. Đó là một đám tang bình thường. Còn nếu là
đám tang lớn bài bản thì phải như đám tang của ông cai tổng Hanh” (Xóm Cù
Là). Bên cạnh quan tài, một số gia nhân, quết thành bột mịn, đem trộn với cháo
nếp. Họ dùng thứ “xi măng” ấy trét vào đáy quan tài, nơi mấy tấm ván ráp với
nhau. Trong đáy hòm, còn đổ thêm một lớp tòng chỉ (nhựa thông). Hằng trăm
cái kèn đã cuốn sẵn chất đống. Kèn là những gói giấy bên trong chứa gòn. Gòn
là chất rút nước, thứ nước từ xác chết xảy ra khi bị biến chất [52, 892]. Trong
việc chọn ngày để chôn cất cũng phải xem cho thật kỹ. Bởi vì trong ngày tốt có
giờ xấu, ngày xấu nhưng nếu động quan nhằm giờ tốt thì mọi sự bằng an [52,
893], dƣới quan tài ông cai tổng cũng đốt liên miên nào “vàng bạc, nào bạch
đàn, huỳnh đàn”, còn trƣớc quan tài, đỉnh lƣ trầm tỏa khói, bức ảnh ông cai tổng
đƣợc chƣng trên bàn thờ. Qua làn khói ngƣời ta thấy dƣờng nhƣ bức ảnh biết
cƣời, biết nhăn nhó mờ mờ nhân ảnh.
Trên đây là cách khám phá những biểu hiện của văn hóa, phong tục
Nam bộ trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam,qua đó cũng cho ta thấy
đƣợc cái phong vị độc đáo của vùng đất này. Càng khẳng định thêm giá trị
bền vững lâu dài của tác phẩm.
3.2.4. Thể hiện văn hóa ứng xử
Văn hóa Nam Bộ mà cụ thể là văn hóa miệt U Minh thể hiện trong
Hương rừng Cà Mau hiện ra khá rõ nét với hai thể ứng xử chủ yếu mà ta có
thể cảm nhận đƣợc là thể ứng xử trƣớc tự nhiên và trƣớc xã hội.
98
Với tự nhiên, tất cả chúng ta đều biết rằng tự nhiên là yếu tố quyết
định đến cuộc sống của con ngƣời. Với ngƣời miền Nam thì yếu tố sông nƣớc
quyết định tất cả. Hầu nhƣ trong truyện ngắn nào của Sơn Nam, yếu tố nƣớc
cũng tồn tại. Ta thấy nƣớc giúp ích con ngƣời nhiều thứ trong cuộc sống, và
ngƣời dân cũng nƣơng theo nó mà uyển chuyển cho cuộc sống của chính
mình. Ở Nam Bộ có hệ thống nƣớc ngập mặn, nƣớc ngập phèn chua nhƣng
cũng có thứ nƣớc ngọt đáng giá. Nó hình thành nên những nghề nghiệp,
những dụng cụ, những sản vật và địa danh cách nói liên quan đến nƣớc.
Nƣớc là khởi nguồn của sự sống nhƣng vào mùa bão lũ nó lại trở
thành nỗi kinh hoàng chết ngƣời. Khắp không gian đầy nƣớc làm đảo lộn
cuộc sống của ngƣời nông dân: tìm nơi cao ráo mà ở, trâu bò không có cỏ ăn
phải chết, ngƣời chết thì không có chỗ chôn. Trong Một cuộc biển dâu, thằng
Kim ôm xác cha mà nƣớc mắt tuôn xuống, khóc không ra tiếng đất đâu mà
chôn? Tứ bề là nước. Có hai cách: một là xóc cây tréo ở giũa đồng rồi treo
lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất
công lắm. Diều quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây, dằn đá mà
neo dưới đáy ruộng. Chính trong sự gian khổ gần nhƣ là tận cùng ấy, con
ngƣời mới tìm ra đƣợc những cách ứng phó: nƣớc cao thì cất nhà sàn, không
địa táng đƣợc thì thủy táng... Tuy nhiên, không phải thiên nhiên lúc nào cũng
khắc nghiệt mà còn có những lúc xinh đẹp, dịu dàng nhƣ những bức tranh
trong Cây huê xà, Chuyện rừng tràm. Chính những bức tranh thiên nhiên ấy
đan xen nhƣng khắc nghiệt đã hình thành ở ngƣời nông dân những kinh
nghiệm quý giá. Họ biết gần nhƣ tất cả những qui luật sinh tồn của tự nhiên.
Từ cái cách con ong đi kiếm mồi đến từng con cá, con rắn, con rùa... Hiểu
thiên nhiên, ngƣời Nam bộ mới sinh ra đủ thứ nghề để tồn tại, để tận dụng
hiệu quả những điều đƣợc ban tặng từ đất mẹ rừng già. Từ công việc đầu tiên
là làm ruộng họ tìm đến những nghề khác nhau. Ngƣời U Minh học đƣợc
cách làm ruộng có lẽ từ ngƣời Khmer truyền lại chăng? Cái nghề làm ruộng lò
Bom với giếng lúa Xom Cà Ma độc đáo. Đấy đúng là kiểu nông nghiệp hoàn
99
toàn dựa vào thiên nhiên. Đầu tiên họ dùng phảng chặt đứt rễ cho gốc trôi liều
biều hai tháng nữa, nước giựt xuống, cỏ đã thúi, trở thành loại phân tốt, rải
đầy trên mặt đất. Hai tháng nữa, tức là tháng hai, tháng ba âm lịch, trời nắng
cháy. Vợ chồng Tư Cồ sẽ trở lại đốt cỏ. Rồi gieo lúa giống, loại lúa Xom Cà
Ma từ lúc gieo đến lúc trổ bông là bốn tháng (Ruộng Là Bom). Sau đó, họ bỏ
không cho đến ngày thu hoạch. Cách làm ruộng độc đáo ấy không kém gì với
nghề len trâu có một không hai ở mảnh đất Việt Nam. Cách ngƣời ta lùa hàng
trăm con trâu lội bì bõm giữa biển nƣớc tìm nơi khô ráo để sinh tồn qua mùa
nƣớc lũ cũng thấy đƣợc cái bản lĩnh mạnh mẽ của con ngƣời trƣớc thiên nhiên
vĩ đại. Và đƣơng nhiên văn hóa Nam bộ còn gắn liền với nhiều nghề nghiệp
khác. Từ những nghề nhẹ nhàng nhƣ giăng bắt cá, săn chim, đàn bàng làm
thành những chiếc nóp (mà không ai đan giỏi nhƣ ngƣời Khmer). Đến những
nghề nguy hiểm hơn nhƣ bắt rùa, bắt rắn, bắt cá sấu, bắt cọp... Những cái
nghề mà chuyện sinh nghề tử nghiệp là điều bình thƣờng. Dù có chua xót
nhƣng ngƣời ta vẫn phải chấp nhận, nhƣ chuyện của Năm Điền là một ví dụ.
Ngƣời ta mất bao nhiêu công sức để trị đƣợc rắn, để nó không dám cắn mình
khi lại gần. Nghe lời xúi của cha con Lài tìm mọi cách để lấy thông tin về bài
thuốc từ ngƣời yêu. Nó thuộc lòng rất rõ năm vị: ngải mọi, nƣớc chanh, á
phiện, sừng đinh, cây huê xà mà thầy Hai Rắn thƣờng dùng. Vậy mà con gái
chết, Năm Điền chết gây đỗ vỡ tình yêu, gây sự đau lòng trong thầy Hai Rắn.
Nhƣ vậy có thể nói, với tự nhiên con ngƣời không nhƣ ngƣời phƣơng
Tây là tìm mọi cách để chinh phục, chế ngự mà ngƣợc lại, ngƣời Nam bộ
trong Hương rừng Cà Mau hoàn toàn dựa vào cuộc sống linh động của mình
so với thiên nhiên để tồn tại, giống nhƣ sự uyển chuyển của nƣớc vậy.
Về văn hóa ứng xử trong cộng đồng xã hội, cũng do điều kiện thiên
nhiên qui định nhƣng không hoàn toàn rặc Nam Bộ. Ta có thể thấy rõ ràng
nhất qua niềm đam mê buổi đầu của cƣ dân là thích xem hát bội. Bởi vì sao?
Phần lớn cƣ dân miền Trung khi vào khai phá Nam bộ thì đã ở tuổi trung
niên, lứa tuổi mà văn hóa cá nhân đã định hình một cách rõ nét, khó thay đổi
100
trong một thời gian ngắn nên hình thức xem hát bội cũng là một cách họ nhớ
về công cha, nhớ về quê hƣơng qua những lớp hát, những tuồng xƣa tích cũ
mà mình đã từng biết đến. Thế nên dù xóm Khoen Tà Tưng mới có hai mươi
căn chòi lá” lại gặp những yêu cầu gắt gao nhƣ “phải nuôi cơm toàn ban nam
nữ. Phải cất rạp sẵn cho mấy ổng hát, lại phải hát giữa vùng cọp beo nhưng
họ vẫn nhiệt tình, xông xáo đốn tràm để làm nhà hát, làm nơi ở, làm chiến lũy
phòng chống cọp, cá sấu để rồi đêm đêm ngồi trên xuồng nhái giọng những
Điêu Thuyền, Đổng Trác...
Thế nhƣng, khi ngƣời lớn còn chuộng cái cổ xƣa thì lớp trẻ bắt đầu
sáng tạo nên cái mới: đó là cải lƣơng. Đó là một đóng góp của văn hóa Nam
bộ cho văn hóa dân tộc. Nó khơi nguồn đầu tiên từ bản vọng cổ Dạ cổ hoài
lang và các nhóm đờn ca tài tử. Nó là một đặc sản nghệ thuật vùng sông nƣớc
khi giọng hát ngọt ngào vang lên vừa dài, vừa mềm mại nhƣ là đang bồng
nềnh trên sóng nƣớc. Nhƣ chiếc xuồng ba lá xuôi dòng khi đƣa những con
sóng li ti vỗ vào hai bên bờ sông quê.
Tiếng đờn ca vọng cổ xuất hiện đầu tiên là tiếng đàn tri ân của A Lầu
một ngƣời bạn Hoa và một ngƣời bạn Việt. Đó là tiếng đờn tri âm, tri kỉ khi họ
đều cùng hoàn cảnh khốn khó nhƣ nhau Mình là nghệ sĩ nghèo gặp nhau làm ăn
thất bại, cười hát, đầu đội trời chân đạp đất mà! (Hội ngộ bến Tầm Dƣơng)
Đến ông già xay lúa đến từ hòn Cổ Tron cũng xênh xang nhịp phách
cùng với đám anh em, bạn bè dần lâu ngày ông mãi ở tận phƣơng xa. Chính
những buổi đờn ca tài tử ấy mà những lớp lang, những bản rắn... dần dần đƣợc
phát triển thêm và hình thành một loại hình nghệ thuật định cao: Cải lƣơng.
Hình ảnh cả đoàn cải lƣơng lƣu diễn khắp miền sông nƣớc là một hình ảnh phổ
biến và rất tự nhiên trở thành một nét văn hóa tiêu biểu. Đặc biệt “gánh hát”
nào có nhiều đào kép nổi tiếng thì ngƣời ta lại càng nô nức đi xem. Đêm ấy, tôi
về quê Rạch Giá, vừa bước xuống bến chợt nghe tiếng trống inh ỏi, giọng
quảng cáo phát ra từ máy phát thanh “Đoàn Hoa Cúc tối nay hân hạnh ra mắt
101
khán giả một điệu tuồng... Rạp ở gần bến xe, tuy còn sớm nhưng khán giả quen
đã chen chúc vào xin chương trình mua vé (Ngƣời tình cô đào hát)
Ngoài cải lƣơng, cuộc sống của ngƣời dân Nam bộ không bao giờ
vắng lời ca, tiếng hát: hát trên đồng ruộng, hát trong những buổi trà dƣ tửu
hậu, hát trên sông rạch để quên đi cái mệt nhọc của công việc (Con Bảy đƣa
đò). Ngoài ra, ngƣời Nam Bộ còn có một cách hát khác rất đặc trƣng là nói
nhƣ Vân Tiên. Đây là một hình thức diễn xƣớng dân gian bày tỏ tâm tƣ tình
cảm của mình trƣớc thời cuộc, trƣớc nhân tình thế thái. Với câu thơ mở đầu
bất hữu Trước đèn xem truyện Tây Minh. Nó ngoài việc diễn tả nhƣ trên còn
là một cách để truyền hào khí lại cho con cháu mai sau. Nhƣ ông Tử Đạt
trong Miếu bà chúa xứ: Mình ở đây nghèo nhưng mà vui. Nhiều đêm tôi nằm
nói thơ Vân Tiên một mình mà không thấy buồn. Tôi đứng nhìn trời đất đồng
ruộng ở ngoài. Tối thui vậy mà vui quá”. Còn ông già mù ở Rộc Lá, nơi đất
thập đầy những rau muống, cóc, kẽn, ô rô và cá được dân trong xóm gọi là
ông Vân Tiên, đêm đêm ngồi trước mũi thuyền giăng câu và ngâm nga thơ cụ
Đồ Chiểu! (Ngƣời mù giăng câu)
Trong Hương rừng Cà Mau, một kiểu sinh hoạt tinh thần phong phú nữa
là ra thai đố. Mƣợn ca dao, hò vè làm câu hát đố, gợi ý trả lời khái quát nhất. Thi
thai đố thƣờng diễn ra ở đồng miếu, hội hè nơi đông ngƣời dự. Ngƣời đáp phải
giải nghĩa câu trả lời của mình tƣơng ứng với tục ngữ trong câu thai.
Năm ngoái, hội Kì Yên ở đình làng có người đáp được câu thai như
vậy: Ví dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra. Xuất dụng
đó là. Đó là... cây pháo, pháo đốt thì nổ lớn, đó là gieo tiếng dữ. Pháo tan xác
luôn, khói bay mù mịt. Đó là... cho rồi bậu ra (Tình bậu muốn thôi)
Khi giải đƣợc câu thai đố, ngƣời cầm trịch đánh một tiếng “beng”
thế là ngƣời giải đố cũng hãnh diện với mọi ngƣời về sự thông minh
(Ngôi mộ chôn đứng)
Trƣớc thiên nhiên khắc nghiệt, ngƣời nông dân Nam Bộ dù có những
tay giang hồ hảo hớn hay những lƣu dân hiền lành tìm miền đất mới để sinh
102
cơ lập nghiệp thì dễ yêu thƣơng đoàn kết với nhau. Đó là cách sống hòa hợp
trong nghĩa tình nƣơng tựa giữa ba dân tộc Kinh –Hoa – Khmer. Chẳng hạn ở
Xóm Cù Là, sau khi ông cai tổng Hanh mất thì mọi ngƣời đến, mỗi kẻ mỗi
việc lo cho đám tang đƣợc chu toàn, hay sự đồng cảm giữa ba con ngƣời
nghèo khổ trong Hội ngộ bến Tầm Dương.
Sông nƣớc qui định cuộc sống của ngƣời Nam bộ nên nơi giao
thƣơng mua bán của vùng nông khác những nơi khác: đó là chợ nổi. Từ hình
thức manh nha đầu tiên trong truyện Con heo đất khi ông bà Hƣơng Trƣởng
Neo xuống tàu đã thấy dƣới đó bán đậu phộng, bán thức ăn. Cụ thể hơn qua
truyện Thằng điếm vô danh:
Để cung cấp nhu cầu ghe xuồng qua lại, nhiều người bày ra hình
thức mua bán lưu động, bán chè cháo, bán bánh canh, giao hàng tận ghe
xuồng hoặc nhà của thân chủ. Tiệm tạp hóa cũng được tổ chức theo chiến
thuật lưu động gọi là ghe “trà vải”. Dưới ghe ngoài hai món trà tàu và vải bô
còn đủ thứ đường, đậu, tương chao, kim chỉ, đèn cầy, hộp quẹt, củ hành, đậu
phộng, kẹo, bánh in. Ai muốn mua thì cứ gọi to. Ghe trà vải liền cặp bến để
phục vụ tận tình và khi tạm biệt, chèo trên sông nước, chủ ghe trà vải lại rao
hàng một hồi tù nghe não ruột.
Hiện nay, ở các ngã năm, ngã bảy sông lớn, ngƣời ta vẫn họp chợ
nổi trên sông hoặc bán mặt hàng gì chỉ cần treo lên một cây sào là ngƣời ta
đều biết. Đó quả là một nét văn hóa đặc biệt của mảnh đất phƣơng Nam.
Hàng năm ngƣời dân đều tổ chức lễ hội ở Đình làng gọi là lễ Kì Yên
cầu cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, là dịp để ngƣời ta hội hè, đƣa
ra những câu thai đố (Ngôi mộ chôn đứng). Nó làm cho mối quan hệ làng
xóm bền chặt hơn, mang tính cộng đồng hơn, mang tính cộng đồng hơn. Đình
làng là nơi thờ cúng thành hoàng, tức là những bậc tiền hiền có công khai
khẩn đất hoang hay giúp đỡ ngƣời dân trong làng.
Những đình làng Nam Bộ không chỉ thờ cúng thành hoàng mà còn
thờ cúng những vị anh hùng dân tộc hay các vị thần của tự nhiên. Ông hƣơng
103
cả Ban ở rạch Cái Cau khẳng khái xác định trƣớc tên quan tham biện chủ tỉnh
rằng đình làng này thờ ông Nguyễn TrungTrực – ngƣời mà nhà nƣớc Lang Sa
xem là kẻ phản loạn (Con ngựa đất). Chứng tỏ trên dãy đất miền Nam, những
ngƣời anh hùng chống phƣơng Tây luôn đƣợc suy tôn trở thành những ngƣời
đáng trọng vọng thờ cúng ở đình làng.
Chính cách nhìn về xã hội nhƣ thế nên ngƣời Nam Bộ rất trọng tình
nghĩa, để mở rộng lòng mình với tất cả lòng mình với tất cả mọi ngƣời. Họ
yêu thƣơng san sẻ với mọi ngƣời, kể cả ngƣời lạ, tức là hiếu khách Vì nghĩa
tình bà con quen thuộc, sớm tối có nhau lúc hoạn nạn cũng như vui sướng. Ở
đời, anh với tôi đây đều phải giữ nhân tính – Tứ hải giai huynh đệ là vậy đó.
Hiếu khách, nhƣng nếu vị khách này không biết lễ, họ sẵn sàng cho kẻ bất lễ
kia một bài học ở đời (Đại chiến với thầy Chà)
Sống chan hòa với tự nhiên, nói nhƣ Tƣ Đức trong truyện Sông
Gành Hào: Tôi chưa hiểu tiếng tín ngưỡng là gì. Tôi tin Trời, tin Phật, thờ
kính cha mẹ, quí mến ông bà già cả. Lại còn việc cúng vái mấy ông cọp, ông
sấu. Đất có thổ công, sông có Hà Bá nên dân Nam Bộ thƣờng trƣớc khi làm
công việc gì cũng cúng thánh thần, đó là một nét văn hóa tâm linh.
Sống tâm linh nên ngƣời Nam Bộ rất quan trọng chuyện thờ cúng
ma chay ngay khi còn sống, ngƣời ta đã chuẩn bị sẵn cho hậu sự sau này bằng
cách xây kim tỉnh – đón nhận sự ra đi một cách bình thản, tự nhiên nhƣ cậu
Hai Tân trong truyện Hai mẹ con. Đó cũng là một cách trả hiếu. Hay nhƣ
trong truyện Cậu Bảy Tiểu, cái chết của ông hƣơng trƣởng Tạc có thể giúp ta
thấy đƣợc phong tục cúng kiến, tang ma của ngƣời miền Nam. Dân chúng tụ
họp, chừng vài chục người, giết heo, uống rượu, đánh trống, đờn cò”. “Theo
quan niệm chết là đến một thế giới khác nên họ ít khóc kẻo người chết đau
lòng. Đó là một đám tang bình thường. Còn nếu là đám tang lớn bài bản thì
phải như đáng tang của ông cai tổng Hanh (Xóm Cù Là)
Tìm hiểu về vùng đất và con ngƣời Nam bộ trong Hương rừng Cà
Mau chúng ta không thể bỏ qua việc đi sâu khám phá con ngƣời và thiên
104
nhiên nơi đây mà còn phải biết cách dẫn dắt ngƣời đọc trở về với văn hóa của
một thời khẩn hoang ở mảnh đất U Minh này. Ông già Nam Bộ của chúng ta
với giọng kể ngọt ngào, tâm tình, tha thiết nhƣ mời gọi con ngƣời đến mảnh
đất Cà Mau để rồi cùng đồng cảm chia sẻ, với những con ngƣời nơi đây. Họ
chân chất dễ gần gũi bởi họ mang trong mình một thứ ngôn ngữ đặc sệt Nam
bộ cũng góp phần tạo nên phong cách của nhà văn. Với tƣ cách là một nhà
văn, Sơn Nam còn đƣợc biết đến với tƣ cách một nhà khảo cứu uyên bác,
không có gì lạ khi ta thấy Hương rừng Cà Mau đầy ấp những thông tin về
phong tục, văn hóa miền Tây Nam Bộ. Tất nhiên, Sơn Nam không chỉ làm cái
việc kể về văn hóa, phong tục một cách bàng quan. Đằng sau mỗi trang viết,
ta luôn đọc thấy một tấm lòng thiết tha với cội nguồn dân tộc.
3.3. Tiểu kết
Trong giao tiếp hàng ngày, các đơn vị từ ngữ địa phƣơng đƣợc ngƣời
Nam Bộ sử dụng tự nhiên và thƣờng xuyên. Còn khi giao tiếp với ngƣời các vùng
khác, ngƣời Nam Bộ cũng có thể vẫn dùng những từ ngữ địa phƣơng, không phải
là do ngƣời nói không nắm hiểu và uốn nắn đƣợc theo cách phát âm chuẩn mực
chung, mà là do nhu cầu muốn qua đó thể hiện tình cảm hoặc tâm lí địa phƣơng.
Còn trong tác phẩm văn học, thực hiện chức năng biểu hiện, từ ngữ địa phƣơng
đƣợc sử dụng là để phục vụ cho việc mô tả, thể hiện những tính cách và hoàn
cảnh điển hình trên khu vực địa phƣơng. Viết Hương rừng Cà Mau, Sơn Nam đã
sử dụng các lớp từ mang màu sắc địa phƣơng Nam Bộ nhƣ dùng danh từ riêng, từ
xƣng hô, từ chỉ sông nƣớc và từ khẩu ngữ để miêu tả cảnh vật thiên nhiên, cuộc
sống và con ngƣời Nam Bộ hết sức sinh động. Đọc Hƣơng rừng Cà Mau và các
tác phẩm khác của Sơn Nam, chúng ta cảm nhận chất Nam Bộ đậm đặc cả trong
nội dung và hình thức thể hiện của tác phẩm.
105
KẾT LUẬN
1. Nam Bộ là một vùng đất có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi, thiên
nhiên ƣu đãi, có bề dày lịch sử với những giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần
vô cùng phong phú, tạo nên một bản sắc riêng so với các vùng khác. Từ lâu,
đất và ngƣời Nam Bộ là một nguồn đề tài phong phú hấp dẫn. Tuy có nhiều
nhà văn ở các miền khác nhau của đất nƣớc khai thác đề tài này, nhƣng sự
đóng góp nổi bật vẫn thuộc về các nhà văn của đất Nam Bộ. Yếu tố sông
nƣớc đã in dấu rất đậm trong tác phẩm của họ. Tác phẩm Hương rừng Cà
Mau của Sơn Nam mang đậm tính phong tục, thể hiện đƣợc những đặc thù
trong cách ứng xử, lối sống, cách nghĩ và tình cảm của ngƣời dân miền Nam
ở buổi đầu đi khẩn hoang, mở đất. Môi trƣờng sống đƣợc phản ánh trong tác
phẩm hết sức đặc thù của Nam Bộ gây đƣợc sự ngạc nhiên thích thú cao độ
cho độc giả cả nƣớc.
2. Ngôn ngữ Nam Bộ thể hiện trong các truyện ngắn của Sơn Nam là
thứ ngôn ngữ vừa gần gũi vừa xa lạ bởi tính ý nhị tinh tế. Từ các cách nói đó,
phong cách Nam Bộ, thiên nhiên Nam Bộ, con ngƣời, văn hóa Nam Bộ hiện
ra rất rõ với nét phóng khoáng, nhân hậu nghĩa tình, cái tình của những con
ngƣời cùng cảnh ngộ trong việc khai khẩn vùng đất mới với nhiều khó khăn
gian khổ chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Các lớp từ ấy đã thể
hiện tính bình dân, uyển chuyển, tinh tế pha chút hóm hỉnh, ngang tàng rất
đặc trƣng của con ngƣời Nam Bộ.
Truyện ngắn của Sơn Nam sử dụng ngôn ngữ thuần chất Nam Bộ, cả
trong ngôn ngữ dẫn truyện đến ngôn ngữ nhân vật. Số lƣợng từ ngữ Nam Bộ
đƣợc dùng trong tác phẩm khá lớn. Đặc điểm này góp phần tạo nên một văn
phong rất Nam Bộ ở Sơn Nam mà thật sự ông đã là một nhà văn Nam Bộ rặt.
Từ đó, giá trị của tác phẩm đã đƣợc khẳng định và góp phần tạo thƣơng hiệu
tốt cho văn chƣơng Nam Bộ trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại.
P1
Bảng 1: Thống kê danh từ riêng chỉ người
Truyện Cách gọi tên nhân vật
Chức + Tên Thứ + Tên Tên + đặc điểm
cá nhân
Anh hùng rơm Tên Lén.
Ăn to xài lớn Tư Hạnh
Tám Thẹo
Bảy Út
Thầy giáo
Trích
Thằng Tây già
Ông già Hiệt
Bà đầm Phô-xi-đông Tư Hít
Hai Kéo
Ông Tây Đầu Đỏ
Tây kiểm lâm
Bà vợ thứ 10 Hai Tước
Bác vật xà bông Bác Vật X
(ông Bác Vật)
Bắt sấu rừng U Minh Hạ Năm Hên
Tư Hoạch
Bốn cái ngu Tư Hưng
Hai Kiểm
Bức tranh con heo Hương trưởng Neo
Cái tổ ong Ba Lê
Cái va li bí mật Hai Khoánh Ông chủ Tân
Cao khỉ U Minh Hai Khị
Tư Hoành
Cậu Bảy Tiểu Hương trưởng Tạc
Huyện hàm M.
Ông quan tư Ca-rê.
Hương than Túc
Bảy Tiểu
Sáu Cường
Cây Huê Xà Tư Rắn
Năm Điền
Chiếc ghe “ngo” Ông Đốc phủ Tư Hem Lục cụ Tăng
Liên
Chuyện năm xưa Tú tài Sông
Chuyện rừng tràm Tư Hưng
Hai Đẹt
Bảy Vĩnh
Tư Cần
P2
Con Bảy đưa đò Cụ Sử Hoành.
Cụ Tòng Hiên
Con heo khịt Hai Cháy
Năm Tự
Mười Hy
Con ngựa đất
Con rắn Thầy Ngọc
Con rắn ri Voi Sáu Kiến Cò Lơ Hia
Con sấu cuối cùng Cai tổng Hy Năm Hên
Con trích ré Cai tổng Báu
Cô út về rừng Ông hương Cả Ba Cậu Quỳnh
Đại chiến với thầy chà Năm Pho Thầy Chà
Đảng “Cánh buồm đen” Sáu Bộ
Tư Hiền
Năm Bùn
Năm Lập
Đảng xăm mình Tư liệt Ông Tây Lơ
Pheo
Trạng Trình
Đóng gông ông thầy Quít Thầy Quít
Đồng thanh tương ứng Hương ấp Thum
Quan Chánh soái
Đơn Hùng Tín chào đời
Giấc mơ ngoài bãi tha ma Năm Kiểu
Hai con cá Hộ bộ Hoàng
Văn Ninh
Hoàng tử Cảnh
Hoàng tử Nhựt
Hai mẹ con Hương quản Cò Hai Tân Bà chủ Mẹo
Hai ông già Thầy giáo Chích
Hương cả An
Quan hai Phẹt năng
Mười Bạch
Tư Nếp
Hai viên ngọc Hội đồng Tần
Năm Hến Ông chủ Hai
Hết thời oanh liệt Thầy bùa Xiêm
Hòn Cổ Tron Hương tuần Hay Chệt Kỵ
Hội ngộ bến Tầm Dương Hai Lượng
Hồn người trong ly rượu Ông xã Tư Hương
P3
Kiểm Lưu
Hương rừng Tư Lập
Kho vàng Năm Tự
Tư Hí
Lục Che
Miễu bà Chúa Xứ Tư Đạt
Mối tình Đầm Lai Hai Tâm
Một cuộc biển dâu Hai Tích
Một kiểu anh hùng Hội Đồng Hai
Cai Tổng Ba
Mùa “len” trâu Tư Đinh
Ngày mưa đầu mùa Tư Lịch
Hai Cọp
Ngôi mộ chon đứng Hương cả Ban
Hội đồng Tân
Người bạn triệu phú
Người mù giăng câu
Người tình của cô đào
hát
Chín Tiễn
Nhứt phá sơn lâm Tư Bình
Thủy
Hai Cờ Đỏ
Tư Chân
Xương
Ông Bang Cà Ròn Tư Én
Ông già xay lúa Cậu xã Nê
Chánh Soái
Ruộng là bom Hai Don
Tư Cồ
Sông Gành Hào Kiểm lâm Rốp Tư Đút
Tháng chạp chim về
Thằng Điếm vô danh Hai Kim
Thơ núi Tà Lơn
Tình bậu muốn thôi Ông Trạng
nguyên
Ông Nghè
Tình nghĩa giáo khoa thư Tư Có Thầy Hai
Xóm Cù Là Cai tổng Trần Hanh Tư Tề
Năm Tiết
Yêu cho được Cặp rằng Hực Ba Lự
P4
Bảng 2: Bảng thống kê danh từ chỉ địa danh
Truyện Tên làng xóm Sông rạch Vùng
Anh hùng rơm Bình An Rạch giá.
Sài gòn.
Sóc Trăng
Châu Đốc
Ăn to xài lớn Tân Bằng
Xóm Đình
U Minh
Thượng
Côn Đảo
Rạch giá
Gia Long
Phú Xuân
Long Xuyên
Bà đầm
Phô-xi-đông
Sài gòn
Bà vợ thứ 10 Sóc Xoài
Bác vật xà bông Vịnh Xiêm La Xẻo Bần
Trà Vinh.
Hậu Giang
Bến Tre
Bắt sấu rừng U
Minh Hạ
Khánh Lâm
Ngã ba Đình
Sông Ông Đốc
Rạch Cái Tàu
Sông Cái
Đầm Sấu
Lung Sấu
Bàu Sấu
Rạch Cà Bơ He
U Minh Hạ
Kiên Giang
Rạch giá
Gò quao
Cà Mau
Bốn cái ngu
Bức tranh con heo Thạch Hoà Rạch giá
Cái tổ ong Cà Mau
Sài Gòn
Cái va li bí mật Xóm Rạch Giồng Hòn Móng Tay
Gành đá trắng
Rạch Giá
Cao khỉ U Minh U Minh
Đan Mạch
Sài gòn
Huế
P5
Cậu Bảy Tiểu Làng Đông Thái King xáng Rạch giá
Cây Huê Xà Rạch Thuồng
Luồng
Rạch giá
Cà Mau.
Núi ông Cấm
Chiếc ghe “ngo”
Chuyện năm xưa Rạch thứ ba Rạch giá.
U Minh
Cần Thơ
Chuyện rừng tràm Kinh mười lăm Cà Mau
Bình Thới
Rạch giá.
Cần thơ.
Con Bảy đưa đò Xóm Vàm Rạch cái Mau
Kinh xáng Lái Hiếu
Vịnh Xiêm la
Vàm Cái Cau
Kinh Xáng
Rạch giá
Hậu giang
Cần thơ
Bình Thuỷ
Phong Điền
Ba Láng
Sa Đéc
Cái Răng
Con heo khịt Xóm Ngã Bát Rạch ruộng Ngã Bát
Bình Thới
Con ngựa đất Rạch cái Cau
Vịnh Xiêm La
Kinh Xáng
Hậu giang
U Minh
Con rắn
Con rắn ri Voi Gò Quao
Con sấu cuối cùng Ngã Ba Đình
Con trích ré
Cô út về rừng Làng Long Tuyền Rạch Bình Thuỷ
Sông cái lớn
Cần Thơ
Sài gòn
Canh đền
Bình Thuỷ
Đại chiến với thầy
chà
Làng Đông Thái
Xóm Đình
Vịnh Xiêm La Ấn Độ
Miên
Lèo
Tà Keo
(Cao Miên)
U Đông
P6
(Xiêm)
Đảng “Cánh buồm
đen”
Hòn đá bạc
Rạch Cóc
Núi Cô Tô
Núi Dài
Thất sơn
Kiên giang
Cà Mau
Hà Tiên
Rạch giá
Đảng xăm mình Làng Đông Hưng Rạch xẻo Quao
Vịnh Xiêm la
Sài gòn
Đóng gông ông thầy
Quít
Rạch Thuồng
Luồng
Đồng thanh tương
ứng
Xóm Tà Lốc Vịnh Xiêm la Rạch giá
Kiên giang
Hà Tiên
Đơn Hùng Tín chào
đời
Tiền giang
Hậu giang
Châu đốc
Giấc mơ ngoài bãi
tha ma
Hai con cá Sườn Hòn tre
Thôn An Hòa
Hòn tre
Mũi Hà bá
Đảo Phú quốc
Rạch giá
Phú quốc
Cây da quét
mộ
Xiêm
Hai mẹ con Xẻo Rô Hòn Tre
Sông cái
Hải Nam
Rạch giá
Hai ông già Cà Mau
Nam kì
Lục tỉnh
Sài gòn
Bến tre
An Nam
Mã Lai
Nam Dương
Hai viên ngọc Xóm Lê trì
Mỹ Lâm
Ba thê
Xóm bánh tằm
Bình thuận
Khải tường
Sài gòn
Huế
P7
Cầu đúc Anh nhơn
Hà tiên
Gò vấp
Rạch giá
Hậu giang
Hát bội giữa rừng Xóm Khoen Tà
Tưng
Xóm Tà Lốc
Rạch Khoen Tà
Tưng
Sông Hà Lạc
Vũng Liêm
Vĩnh Long
Hết thời oanh liệt Tân Bằng
Cán Gáo
Rau dừa
Cái nước
Phong Điền
Sông Cái lớn
Sông Cái
Rạch Cái Cam
Rạch Cái Bân
Vàm Xẻo Gừa
Cần Thơ
Vĩnh Long
Rạch giá
Cà Mau
Gò Quao
Quảng Nam
Quảng Ngãi
U Minh
Bảy Núi
Tà Lơn
Trà Ban
Hải Nam
Triền Châu
Phước Kiến
Sơn Đông
Hòn Cổ Tron Làng Đông Hưng Vịnh Xiêm La
Hòn Rái
Hòn Nam Du
Hòn Mẫu
Hòn Dài
Hòn Cổ Sơn
Hòn Móng Tay
Hòn Sơn Rai
Hòn Cổ Tron
Lai Sơn
Châu Thành
Rạch Giá
Cao Miên
Miệt Hóc Môn
Miệt Long
Hưng
Rạch Giá
Cà Mau
Côn Nôn
Hội ngộ bến Tầm
Dương
Bến Tầm Dương Tàu
Hồn người trong ly
rượu
Làng Tây Yên
(Chợ Gò Quao)
Hương rừng Xóm cán Gáo Đảo Bòn Bon U Minh Hạ
P8
Xóm Tân Bằng Sông Trèm Trẹm
Vịnh Xiêm La
Thuận Hòa
Tây Sơn
Kho vàng Chợ Sóc Xoài
Gò cây Thị
Ba Thê
Rạch giá
Long Xuyên
Bảy Núi
Châu Đốc
Cao Miên
Ấn Độ
Ba Tư
Miễu bà Chúa Xứ Gò Mã Lạn Đìa Gừa Châu Thành
Mối tình Đầm Lai Gò Quao
U Minh
Tây Phương
Âu Châu
Một cuộc biển dâu Đại Ngãi
Sông Hậu Giang
Cù Lao Ông
Chưởng
Long Xuyên
Một kiểu anh hùng Làng Xích Hòa
Chợ Phước Thiện
Rạch giá
Mùa “len” trâu Sông Hậu
Kinh Xáng
Linh Quỳnh
Rạch giá
Hà Tiên
Ngày mưa đầu mùa - Làng Đông Yên
Sông Dịch
Rạch Thứ Tư
Rạch Thứ Năm
Cà Mau
Sài Gòn
Ngôi mộ chon đứng Gò Quao
Người bạn triệu phú Sông Cầu Ông Lãnh An Khê
Bình Định
Người mù giăng câu Miễu Ông Tà Mương Vàm Rộc Lá
Tây Sơn
Vùng An-Sác
Lo-ren
Người tình của cô
đào hát
Đình Cái Dầu Hóc Môn
Rạch Giá
Sài Gòn
Nhứt phá sơn lâm Cần Thơ
Long Xuyên
P9
Hà Tiên
Cà Mau
Phú Quốc
Vĩnh Long
Ông Bang Cà Ròn Chợ Sóc Xoài Rạch giá
Hà Tiên
Xiêm La
Đường Bàng
Ông già xay lúa Làng Đông Thái
Chợ Xẻo Ró
Hòn Cổ Tron
U Minh
Rạch giá
Ruộng là bom
Sông Gành Hào
Tháng chạp chim về Biển Hồ
Sông Hậu
Sông Cái Lớn
Thằng Điếm vô danh Xóm Sậy Níu Sài Gòn
Rạch giá
Cần Thơ
Thơ núi Tà Lơn Cà Mau
Sài Gòn
Tam Giang
Năm Căn
Cao Miên
Tình bậu muốn thôi Vĩnh Kim
Vũng Liêm
Tình nghĩa giáo
khoa thư
Xóm Cà Bây
Ngọp
Rạch Cà Bây Ngọp Rạch giá
Cầu Kè
Xóm Cù Là Ngã Tư
Làng Mỹ Lâm
Núi Tà Lơn Triều Châu
Xứ cù là
Miến Điện
Xiêm La
Sài Gòn
Phú Quốc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyên An (2001), “Phác thảo văn chương Nam bộ”, Nhà văn, (11).
[2] Thương Trầm Hoàng Anh (2009), Khảo sát biến thể biến âm Nam bộ trong truyện
ngắn của Sơn Nam, Luận văn Đại học Sư phạm Văn, Trường Đại học Cần Thơ.
[3] Nguyễn Văn Ái, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Khai (1994), Từ điển
phương ngữ Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
[4] Lê Đình Bích (2004), “Đi tìm bản sắc văn hóa Nam bộ qua hệ thống định
vị địa danh-ngôn ngữ”, Ngữ học trẻ, tr.278-281.
[5] Hoàng Trọng Canh (2001), Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh,
Luận án Tiến sĩ ngôn ngữ học - ĐH KHXH & NV Hà Nội.
[6] Hoàng Trọng Canh (2009), Từ địa phương Nghệ Tĩnh – về một khía cạnh
ngôn ngữ - văn hóa, Nxb KHXH.
[7] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[8] Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[9] Nguyễn Thị Hồng Chuyên (2010), “Ngôn ngữ người kể chuyện trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống, (1+2)
(171+172), 73-78.
[10] Nguyễn Phú Cường (2007), “Đặc trưng phương ngữ Nam bộ qua Hương
rừng Cà Mau của Sơn Nam”, Ngữ học trẻ, tr.301-305.
[11] Trần Phong Diều (2007), “Hình tượng sông rạch trong truyện ngắn Sơn Nam”,
[12] N.A.Đ (2008), “Nhà văn Sơn Nam”,
[13] Trần Thanh Giao (2006), “ “Xỉn” từ đâu ra?”, Nhà văn, (3), 150-151.
[14] Vũ Minh Giang (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ - Việt Nam, Hội khoa
học Lịch sử Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
[15] Trần Mạnh Hảo (2004), “Sơn Nam – Dề lục bình Nam bộ”,
[16] Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
NXB Giáo dục.
[17] Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, NXB trẻ, Thành
Phố Hồ Chí Minh.
[18] Lê Trung Hoa (2005), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam bộ, NXB Khoa
học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
[19] Lý Tùng Hiếu (2009), “Vùng văn hóa Nam bộ: Định vị và đặc trưng văn hóa”,
[20] Nguyễn Hữu Hiệp (2006), “Cần giữ gìn sự trong sáng vốn có của ngôn ngữ
Nam bộ”,
[21] Lê Minh Hùng (1998), “Phương ngữ Nam bộ trong hoạt động giao tiếp
ăn, uống”, Ngữ học trẻ, tr.35-37.
[22] Trần Đức Hùng (2008), Từ địa phương trong thơ ca dân gian Nam Bộ,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh.
[23] Lê Phú Khải (nhiều tác giả) (2009), Đó là Sơn Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[24] Cao Huy Khanh (1970), “Sơ khảo 15 năm văn xuôi miền Nam 1955 – 1969”,
Khởi hành, (74).
[25] Vũ Khiêu (2010), “Góc nhìn mới về văn hóa vùng đất mới”,
[26] Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[27] Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam bộ, những khác biệt về từ
vựng ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[28] Trần Thị Ngọc Lang (2009), “Chức năng văn hóa-xã hội của tiếng Việt ở
Nam bộ”, Tạp chí ngôn ngữ, (số 5)(240), tr.26-31.
[29] Huỳnh Lứa (chủ biên, 1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, Nxb Tp
Hồ Chí Minh.
[30] Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, NXB văn hóa.
[31] Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam- cá tính miền Nam- Thuần phong mỹ
tục Việt Nam, NXB trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[32] Sơn Nam (2006), Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang,
Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[33] Sơn Nam (2007), Biên khảo Sơn Nam Nói về miền Nam, Cá tính miền
Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[34] Sơn Nam (2007), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[35] Sơn Nam (2009), Hương rừng Cà Mau, tập 1,2,3, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[36] Nguyễn Văn Nở (2000), “Cách xưng hô trong ca dao trữ tình Đồng bằng
sông Cửu Long”, Ngữ học trẻ, tr.317-320.
[37] Bùi Mạnh Nhị (1994), “Đặc điểm ngôn ngữ ca dao - dân ca Nam Bộ”,
Tạp chí ngôn ngữ, (1).
[38] Hoài Phương (2004), “Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975
đến nay - Thành tựu và những điều trăn trở”, Tạp chí nhà văn, (11),63-67.
[39] Võ Phiên (2004), “Văn học miền Nam tổng quan”, tienve.org.
[40] Phạm Phú Phong (2009), “Lời “đề từ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
[41] Lê Phương (2008), “Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam”,
[42] Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con
đường phát triển của nó”, Văn nghệ, (553-554).
[43] Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn, tái bản có bổ sung, 1998), Phê bình, Bình
luận văn học: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Sơn Nam, Nxb Văn nghệ,
Tp. Hồ Chí Minh.
[44] Nguyễn Sáng (1974), “Ý nghĩ nhỏ về truyện ngắn miền Nam”,
Tạp chí văn học , (4), 41.
[45] Trịnh Sâm (2003), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
[46] Vương Hồng Sến (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa.
[47] Chu Văn Sơn (2008), “Vĩnh biệt nhà văn Sơn Nam”,
[48] Phạm Văn Sỹ (1975), Văn học giải phóng miền Nam 1954 – 1970,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
[49] Trần Hữu Tá (1994), Khuynh hướng văn học yêu nước tiến bộ trong các thành
thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, Luận án phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.
[50] Đào Tăng (2009), Đi và sống với Sơn Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[51] Hồ Tĩnh Tâm (2004), “Cá tính và bản lĩnh văn xuôi Nam bộ”, Nhà văn,
(10), 60-63.
[52]
Hồ Tĩnh Tâm (2005), “Từ phương ngữ Nam bộ đến sáng tạo văn bản
thành văn”, Tham luận tại hội thảo khoa học về văn hóa văn nghệ dân
gian đồng bằng sông Cửu Long lần thứ nhất, Trường Đại học Cần Thơ.
[53] Nguyễn Tài Thái (1997), “Mô hình “Anh ấy-ảnh” trong phương ngữ Nam bộ”,
Ngữ học trẻ, 47- 49.
[54] Nguyễn Tài Thái (2001), “Mô hình “Nhìn lại việc dùng từ địa phương
trong văn học Nam bộ qua một thế kỉ”, Ngữ học trẻ, tr.469-474.
[55] Nguyễn Kim Thản (1983), Tiếng Việt của chúng ta, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
[56] Đào Thản (1994), “Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi”,
Tạp chí văn học, (2)(266), 13-17.
[57] Dương Thanh (2008), “Bản sắc nước mắm, cá kho không bao giờ phai”,
[58] Chiêm Thành (2004), “Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu vực
văn xuôi có nhiều đặc sắc”, Nhà văn, (10), tr.51- 54.
[59] Võ Tiến Thành (2009), “Sơn Nam – cây đại thụ của Văn học, Văn hóa
Nam bộ”, Xưa và Nay, (337).
[60] Nguyễn Q. Thắng (1998), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
[61] Huỳnh Công Tín (1996), “Tiếng Việt và vấn đề phân vùng phương ngữ”,
Ngữ học trẻ, tr.30-33.
[62] Huỳnh Công Tín (1997), “Về một số hiện tượng ngôn từ của phương ngữ
Nam bộ trong tiến trình chuẩn hóa tiếng Việt”, Ngữ học trẻ, 65-68.
[63] Huỳnh Công Tín (1998), “Tính chất bán phương ngữ của phương ngữ Sài Gòn”,
Ngữ học trẻ, tr.27-31.
[64] Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam bộ, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
[65] Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam bộ, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
[66] Lê Minh Tôn (2007), “Đặc trưng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư”, Ngữ học trẻ, 401-405.
[67] Anh Vân (2006), “Nhà văn Sơn Nam mừng thọ 81 tuổi”,
[68] Nguyễn Như Ý, Đặng Ngọc Lệ, Phan Xuân Thành (1999), Từ điển đối
chiếu từ địa phương, Nxb Giáo dục.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_tu_ngu_nam_bo_trong_truyen_ngan_cua_son_nam1_8841.pdf