Luận văn Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo

Văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo đã chuyển tải thành công những quan niệm nghệ thuật của tác giả, cũng như đã phản ánh rõ nét tinh thần dân chủ, khát vọng tự do, dám nhìn thẳng vào sự thật của văn xuôi thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn tâm huyết với nghề, Võ Thị Hảo luôn ý thức rõ sứ mệnh của người cầm bút khi sáng tác. Cùng với sự vận động và phát triển hướng về chiều sâu của văn học, Võ Thị Hảo vẫn đang không ngừng tự làm mới mình sau mỗi trang bản thảo, nhà văn vẫn luôn khao khát kiếm tìm những hình thức thể hiện mới để cách tân nghệ thuật. Đôi lúc khá gai góc và cá tính nhưng vẫn không đánh mất thiên tínhnữ vốn dịu dàng, nhạy cảm, sáng tác của Võ Thị Hảo đã đem đến cho người đọc một cái nhìn riêng về cuộc đời và số phận của con người. Đặc biệt, những mong mỏi được đồng cảm và sẻ chia qua từng trang viết của nhà văn thực sự rất đáng để người đọc hôm nay và mai sau trân trọng, sự trân trọng xứng đáng dành cho người tình nguyện “vác cây thập giá chữ” trên đôi vai vốn gầy guộc mỏng manh đến điệu đà của người đàn bà viết văn xứ Nghệ.

pdf124 trang | Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 4100 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả năng biểu đạt vượt lên giới hạn thông thường của ngôn từ để mở ra những chân trời liên tưởng mới lạ, đầy mơ hồ và huyễn hoặc. Thông qua hệ thống biểu tượng phong phú, nhà văn đã hé mở một thế giới hiện thực đa chiều, phức tạp, trong đó thế giới tâm linh bí ẩn của con người cũng được khơi sâu. Hình tượng nhân vật như được phủ thêm lớp voan huyền ảo của những cổ mẫu, truyền thuyết, huyền thoại khiến cho việc giãi mã chúng không chỉ bằng lí trí tỉnh táo mà phải là sự huy động của tổng thể các giác quan. Ở đây ta cũng bắt gặp một cái tôi nhà văn không ngừng trăn trở, suy tư về tình yêu, hạnh phúc và quyền sống của con người bằng những dự cảm khác thường thông qua hệ thống các biểu tượng. Số phận của con người vì thế cũng hiện lên đa dạng, phong phú trong những hoàn cảnh khác nhau với những ao ước âm thầm, những khát vọng cháy bỏng, những cảnh đời bất hạnh, những tiếng kêu bi thiết Giống như người lính trinh sát bị ám ảnh bởi tiếng cười man dại của những cô gái ở Rừng Cười, thế giới biểu tượng trong văn xuôi Võ Thị Hảo cũng để lại những ám ảnh đầy ma mị cho người tiếp nhận. Những hình ảnh ấy liên tục đeo bám, buộc chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về nó. Có khi người đọc liên tục trải qua những cảm giác rùng rợn khác nhau khi bước vào thế giới u linh và chết chóc, chứng kiến sự hủy diệt tàn khốc của lửa giàn thiêu và chiến tranh, cùng băn khoăn với nỗi lo về thân phận con người trong thế giới nhiều bất trắc. Hoặc cũng có khi những giọt nước lung linh thanh tẩy nhiều lần đọng lại ở bàn tay để chúng ta cùng cảm nhận sự thanh khiết của đất trời, để còn nhân lên niềm hi vọng về những điều cứu rỗi. Và rồi sau mỗi lần đọc lại, ta sẽ tìm thấy niềm vui được khám phá thêm những tầng vỉa ẩn sâu trong từng biểu tượng. Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Võ Thị Hảo đã góp phần đem đến cho người đọc những “thực đơn mới” về những không gian lạ tồn tại bên cạnh thế giới hiện hữu thường ngày. 3.3. Những triết luận u trầm, riết róng Tác phẩm nghệ thuật có khả năng lay động lòng người hay không chính là ở những tư tưởng kết tinh qua từng trang viết. Nó chính là thừa số chung mà người nghệ sĩ đã rút ra được từ vô vàn phép cộng của cuộc sống, được chưng cất từ trái tim thiết tha với cuộc đời của một nhà văn tâm huyết. Tác phẩm của Võ Thị Hảo đậm chất triết lý và suy tưởng qua nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật vừa chú trọng vẻ bên ngoài vừa đi sâu khai thác đời sống nội tâm nhiều bí ẩn, qua ngôn ngữ đối thoại và cả độc thoại nội tâm cũng như qua giọng văn đa thanh, giàu cảm xúc. Đó là những khái quát chân thực về con người và cuộc đời, gợi mở nơi người đọc nhiều trải nghiệm thú vị. 3.3.1. Triết luận qua những nét vẽ chân dung Phần lớn các nhân vật trong sáng tác của Võ Thị Hảo đều phản ánh một khía cạnh nào đó về cách nhìn của nhà văn. Thông qua diện mạo và hành động, chân dung nhân vật hiện lên sống động và đa dạng với những loại tính cách khác nhau. Mỗi người là một gương mặt của đời sống muôn màu muôn vẻ, là đại diện cho những nỗi đau muôn hình vạn trạng của con người, là biểu trưng cho sự thánh thiện, hoặc là hiện thân của cái ác, của bản năng dã thú, của tham vọng điên cuồng... Triết lí về nỗi đau và sự bất hạnh thường được gửi gắm trong chân dung những nhân vật nữ. Và thông thường số phận của nhân vật như đã định sẵn ngay khi nhà văn phác thảo những đường nét đầu tiên về diện mạo. Một ánh mắt, một bàn tay, một giọng cười, một dáng đi, một mái tóc của người phụ nữ đều là những khái quát mang tính “đóng khuôn” chắc nịch cho cuộc đời của họ. Đọc Giàn thiêu người đọc ấn tượng với chân dung tiểu thư Nhuệ Anh, người đàn bà đẹp nhiều đau khổ được khắc họa qua “đôi mắt buồn thăm thẳm”, “nét mày đa đoan nằm ngang trên đôi mắt long lanh, mới nhìn như vui, ngắm kỹ lại như u uẩn sầu đong” [95, 118], “đôi mắt không khóc mà ướt rượt nước, lông mày màu khói vương Người như vậy thì lắm mối đa đoan, hễ đàn ông nhìn thấy thì ngày mong đêm nhớ như điên như dại, chỉ những mong đoạt lấy làm của riêng. Người như vậy là mối bấp bênh, không vượng phu ích tử”[95, 394]. Khi đã thành sư bà chùa Trầm ngẫm nghĩ lại cuộc đời của mình Nhuệ Anh cũng nhận ra rằng“chính vẻ đẹp mong manh và hư vô của bà, như sương khói, như tuyết ngưng, cũng lại là một mãnh lực làm nổi ba đào cho suốt cuộc đời bà, ngay cả đến khi xuống tóc vào chùa đi tu vẫn không được yên ổn”[95, 314]. Nhân vật “tôi” trong truyện Bàn tay lạnh đã nhận xét rằng “ai có bàn tay lạnh thì có trái tim nóng” [93, 62]. Qua đôi bàn tay lạnh giá của Trang có thể thấy rõ trái tim bất hạnh của người đàn bà không tìm thấy chỗ dựa trong tình yêu này. Có lúc, thông qua tiếng cười, người đọc cảm nhận rằng có những người đàn bà sinh ra đã được định sẵn cái số phần “bạc mệnh”. Trong truyện Người đàn ông duy nhất, nhà văn miêu tả tiếng cười của người đàn bà trong thân phận “con của một gái làng chơi” như sau: “Nàng có tiếng cười sáng như một quý phu nhân lọc lõi trên đường giao đãi và lả lơi như một gái lầu xanh. Chính cái vẻ sau ấy của tiếng cười nàng giết chết chất sang trọng của vẻ trước. () Tiếng cười ấy là nghiệp chướng của mẹ nàng truyền lại cho nàng thừa hưởng [94, 31]. Trong truyện Vườn yêu người mẹ nhận xét về đứa con gái của mình rằng: “con gái gì mà cười tít mắt thế? (...) Con mắt có đuôi thế rồi khổ thôi” [94, 9]. Nhiều nhân vật nữ của Võ Thị Hảo được miêu tả như những kiếp hồng nhan bị đọa xứ, dung nhan của họ lạc lõng trong thế giới hiện hữu xô bồ, khắc nghiệt. Ngạn La trong Giàn thiêu là một vưu vật lạ lẫm, một con mèo uyển chuyển và hoang lạ, là nguồn cảm xúc bất tận cho cuộc đời và nàng hết sức cô đơn giữa chốn hoàng cung lộng lẫy. Dung nhan của nàng đầy vẻ cô tịch, xa xăm quá trong thế giới này. Còn trong truyện Góa phụ đen, người đàn bà được mệnh danh là “góa phụ đen kỳ bí” với cái nhìn ảo não, nguy hiểm và quyến rũ như thôi miên đàn ông lại là một người đàn bà với “một đôi vai nhỏ, vẻ ưu tư hằn trên khóe môi đằm thắm”, “đang đứng giữa đám đông trông càng cô đơn” [93, 155]. Nhìn chung những triết lí về nỗi khổ của đàn bà qua những nét vẽ chân dung trong văn xuôi Võ Thị Hảo thường không mới, đó là những kinh nghiệm nhìn người rất quen thuộc của dân gian. Tuy nhiên Võ Thị Hảo đã biến những triết lí dân gian thành cuộc đời, thành số phận của con người; có khi thông qua thủ pháp lạ hóa, chân dung những nỗi đau khổ của con người cũng trở nên nhiều vẻ, có lúc trở nên bí ẩn khác thường, tạo nên sức hút đặc biệt cho người đối diện. Nếu những triết lí về nỗi đau của con người thường được phác thảo bằng những nét vẽ mềm mại, lãng đãng như sương như khói thì những triết lí về cái ác, về bản chất dã thú, về tham vọng điên cuồng của con người lại được tạc bằng những nét gân guốc, dữ tợn. Nhiều nhân vật được nhà văn chú ý lột tả tính cách qua đôi mắt. Đôi mắt là cửa sổ mở vào tâm hồn con người, qua đôi mắt nhà văn có thể khái quát nhiều đặc điểm quan trọng của nhân vật. Bà Vang (Đường về trần) tâm sự về đôi mắt của chồng mình rằng: mắt ông như mắt rắn, nhìn ai như dán vào người đó như thôi miên, suốt đời tôi không chạy trốn nổi cặp mắt rắn của ông [93, 184]. Chân dung quan thái bảo Lí Trác – kẻ xu phụ quyền lực tiêu biểu trong tiểu thuyết Giàn thiêu được nhà văn tô đậm trong những hoạt động của đôi mắt: đôi mắt khi giận dữ thì trợn trừng, khi thị uy thì quắc mắt, khi quan sát kẻ địch thì đảo tròng, có lúc lại mở trừng trừng chết lặng, khi tìm cách để diệt trừ cái gai trong mắt thì đôi con ngươi vằn máu rồi thu nhỏ lại, sắc lạnh như cọp bắt mồi. Cái nhìn của ông ta chứa đựng vẻ nham hiểm, sự hủy diệt và chết chóc ghê rợn. Đôi mắt của Pạng (Chuỗi người đi trong đầm lầy) là đôi mắt đen, sâu, hoang dại nhưng hiền như mắt bò non. Khi bản chất dã thú trỗi dậy, đôi mắt bò non ấy bỗng sần lên những tia khoái trá trợn trừng, lừ lừ hắt ra màu xanh như màu rắn lục. Đến khi không thể tiếp tục cuộc sống hoang dã và cũng không còn đường trở về cuộc sống con người, Pạng đã chọn lấy cái chết, trong đôi mắt bò non mở trừng trừng của hắn in hình một gương mặt trắng bệch với đôi môi nhành ra trong một nụ cười khó tả. Chân dung của Pạng là chân dung của một con người luôn phải đối diện giữa hai thái cực người và dã thú với sự lựa chọn khốc liệt nhất. Nhà văn thường tạo nên mối liên tưởng giữa vẻ ngoài của con người và đặc tính của một số loài vật khi miêu tả chân dung, trong đó chất dã thú của con người rất hay được so sánh với những con vật độc dữ. Có thể thấy, những đôi mắt trong tác phẩm của Võ Thị Hảo phần lớn đều là những “đôi mắt biết nói”, có khả năng khái quát những số phận của con người. 3.3.2. Triết luận qua ngôn ngữ nhân vật Trong sáng tác của Võ Thị Hảo, dung lượng dành cho những lời phát ngôn của nhân vật chiếm khoảng 1/4 tổng số lời văn. Mặc dù dung lượng không nhiều nhưng chúng giữ vai trò khá quan trọng trong việc truyền tải những quan điểm của nhân vật và nhà văn về quá khứ, hiện tại và nhiều vấn đề nhân sinh khác. Lớp ngôn ngữ mang màu sắc triết luận này xuất hiện trong những lời đối thoại và cả độc thoại nội tâm của nhân vật. Trước hết là những cuộc đối thoại, tranh luận xoay quanh vấn đề trị nước an dân trong tác phẩm Giàn thiêu. Nhìn chung, những tư tưởng trị quốc trong tác phẩm này thấm đẫm tinh thần Phật giáo. Điều này được thể hiện rõ trong ngôn ngữ của các bậc đế vương, những người đứng đầu vương thất, cũng như những lời triết luận của các nhà sư. Tuy nhiên thông qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật với vị trí và cách nhìn riêng của từng người, nhiều nhân vật cũng bộc lộ thái độ phản biện xã hội mang bóng dáng của tinh thần dân chủ thời kì đổi mới hết sức sâu sắc. Bàn về mối quan hệ giữa đạo từ bi và phép trị quốc, Thần Tông nói với sư bà Nhuệ Anh: “Sư bà là kẻ tu hành lẽ nào chẳng hiểu đạo từ bi có thể cải hóa khắp lượt chúng sinh. Tôn vinh Phật đạo và cai trị bằng cách giáo hóa Phật đạo khắp trong thiên hạ, phép trị quốc của ta vậy là đã đầy đủ”. Nhuệ Anh đáp: “Vậy bệ hạ nghĩ sao về những kẻ đã được hưởng ân sủng của Ngài mà trở lại làm điều thất đức? Bởi vì hạt thiện mà gieo không đúng chỗ ắt sẽ mọc lên mầm ác” [95, 285]. Lê Thị Đoan thì cực lực đả phá những điển lệ dã man của triều đình, bà cảm thán nói rằng: “Chùa chiền mà làm gì. Đạo học mà làm gì nếu người ta không thực hành thiện, mà chỉ mượn cái vỏ từ bi để che giấu cho những việc tàn bạo!”[95, 50]. Dương Hoàng hậu cũng chất vấn thái hậu Ỷ Lan rằng: "Ngươi có thực sự tin rằng Phật đang ngự trị tại những ngôi chùa mà ngươi xây nên không? Ta tin rằng đức Phật từ bi không ngự ở những nơi mà Phật có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng thấy hai chữ từ bi!” [95, 239]. Trong những câu nói có tính chất suy ngẫm, triết lí của các nhân vật về vấn đề trị nước, số phận của người dân cũng hiện lên nhiều chiều, nhiều vẻ khác nhau. Dân đen là đối tượng mà những người nắm giữ bộ máy cai trị luôn coi là cỏ rác, thường được ví với những loài nhỏ bé, yếu ớt, trong mắt của những kẻ cầm quyền không có lương tâm họ chẳng qua cũng chỉ là tấm bia đỡ đạn, là những người có nhiệm vụ duy nhất là đem máu và nước mắt để tô điểm cho những bức đại vóc đẹp đẽ của vương triều [95, 235]. Trong cái nhìn của những kẻ có thế lực, lắm của nhiều tiền như Diên Thành hầu thì “dân đen chỉ là cây cỏ. Khi gặp mưa to gió lớn, cây cỏ thấp lùn không bao giờ làm được chỗ dựa cho một bậc quân tử” [95, 101]. Thái hậu Ỷ Lan cũng thừa nhận “thời nào cũng vậy thôi, mạng người quá rẻ trong tay các bậc đế vương” [95, 236]. Cho nên “cái người điều binh khiển tướng khi mở đường máu cho một đại quân thì không được quá quan tâm đến tiếng kêu của kiến và cỏ” [95, 237]. Trị nước như thế nào để an dân luôn là nỗi băn khoăn của Thần Tông vì bủa vây chàng là rất nhiều tư tưởng, rất nhiều triết lí. Qua sách vở, chàng biết Khổng Tử đã nói “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Nhưng thái sư cha chàng – Sùng Hiền hầu hoàng thân đã dạy: “Nhân chi sơ tính bản ác”. “Nếu không lấy uy trị nước, cái ác ở trong dân chúng sẽ trỗi lên thành ác loạn”[95, 51]. Lý Trác, kẻ tự xưng là bậc tôi trung, bao phen quyết liệt bảo vệ uy nghiêm triều đình cũng tâu rằng “Nghiêm minh là điều tối trọng của phép trị nước” [95, 44]. “Tự cổ chí kim chưa có một vị hoàng đế nào trị nước giỏi mà không giữ nghiêm phép nước” [95, 51]. Thế nhưng khi nhìn những thân hình đẹp đẽ bước lên giàn thiêu mà sự khốc liệt của những luật lệ triều đình khiến cho quần thần của ngài không một ai đủ can đảm can ngăn, Thần Tông thật không khỏi nghi ngờ chính những điều nhân nghĩa được ghi chép trong các sách thánh hiền hàng ngày vẫn đọc. Mỗi người một cách lập luận riêng để bảo vệ cho quan điểm của mình. Những bề tôi tâm huyết với vận mệnh đất nước như thái sư Lý Đạo Thành cũng nhiều lần bày tỏ thái độ của mình bằng những câu triết lí. Lúc khảng khái vạch tội tên quan tham biến chất Phụ Quốc, ông nói: “Đánh trận có thể chỉ cần dũng mãnh. Nhưng việc tra xét án đồ, định danh tội trạng thì phải là những kẻ có học, có liêm có chính” [95, 90]. Khi tâu bày kế sách để giữ yên lòng dân, ông cũng dùng những lời ngắn gọn mà đầy nhiệt huyết: “Mọi kế sách của triều đình lúc này là làm sao cho no cái bụng của người dân. Dân có no thì nước mới mạnh () Không lúc nào bằng lúc này triều đình cần lời nói thẳng” [95, 132, 133]. Thông qua những lời thoại có tính chất triết luận như vậy, mỗi nhân vật không chỉ đem đến những cách nhìn khác nhau về thế cuộc, về dân tình, mà còn giúp cho người đọc hiểu thêm về tính cách, tư tưởng của từng nhân vật. Những triết luận như thế chính là tiếng nói đầy tâm huyết của nhà văn về những vấn đề đang đặt ra với thời đại và cuộc sống hôm nay. Bên cạnh những triết luận về quốc gia đại sự, trên những trang văn của Võ Thị Hảo cũng thấp thoáng nhiều triết lí về thân phận của người phụ nữ, thường được bộc lộ qua cách suy nghĩ, cách cảm nhận của chính họ, những người đàn bà thuộc nhiều thế hệ, thời đại khác nhau. Tôn Trinh phu nhân tìm cách thuyết phục Nhuệ Anh chấp nhận cuộc hôn nhân với công tử Lý Câu bằng những câu đầy triết lí về thân phận: “Công tử Lý Câu cũng là người khôi ngô, con nhà danh giá. Con gái có thìChuyện ăn chơi đối với đám công tử con nhà quyền thế như vậy âu cũng là lẽ thường tình. Đàn bà là phận tôi mọi, nếu để bụng chuyện ấy thì không sống nổi đâu con ạ” [95, 109]. Vả chăng đó là cái số phận đã mặc định cho người phụ nữ từ rất lâu rồi. Cho nên mỗi lúc mắc phải sai lầm, họ luôn là người bị chì chiết nặng nề nhất. Bởi đàn ông có thể năm thế bảy thiếp, có quyền được phụ bạc đàn bà, có lỗi vẫn có thể lấp liếm được bằng cách này cách khác, còn “người đàn bà lầm lỡ không giá trị hơn một chiếc vòng tay bằng hạt cỏ”[93, 194]. Rất nhiều người đàn bà trong tác phẩm của Võ Thị Hảo thường tỏ ra cay đắng và bất lực về sự phụ thuộc đối với đàn ông. Sải trong Con dại của đá đau đớn nghĩ rằng: “Đàn bà là thế. Đã trót thất thân với một người đàn ông rồi sẽ theo hắn, dù muốn dù không, dù trên thể xác hay trong tâm tưởng, như một con chó theo đuôi chủ” [93, 191]. Vợ Cáo Tờ Quẩy là đại diện tiêu biểu nhất cho người đàn bà Mông suốt đời cắm mặt xuống đất đi sau cái đuôi ngựa của chồng. Có những ràng buộc khắc nghiệt mà bà không bao giờ dám nghĩ đến việc bỏ chồng dù bị đối xử tệ bạc. Bà nói với Sải: “Chồng tao đối với tao không hơn gì với con ngựa, con chó. Nhưng còn nó, tao còn cái đuôi để mà đi theo trong buổi chợ. Đàn bà Mông không chồng, đến hòn đất còn bắt nạt được” [93, 203]. Người đàn ông trong truyện tim vỡ đã nhận xét: “Đàn bà muôn đời vẫn vậy, vẫn không thoát khỏi dây xích của sự nhẹ dạ” [93, 51]. Nhiều lúc tưởng chừng họ rất mạnh mẽ, nhưng thực chất cũng chỉ là những sinh linh nhỏ bé và yếu ớt. Có lẽ điều để nhiều người quan tâm nhất trong đời là việc chọn được một tấm chồng vừa ý. Nhân vật Rân trong truyện Người đàn ông duy nhất đã chua chát bảo rằng: “Đàn bà có mỗi một nghề nhàn nhất mà đem lại mối lợi lớn nhất là lấy chồng. Giỏi nghề thì một bước lên bà. Chẳng may sa cơ lỡ vận thì một bước xuống ăn mày” [93, 37]. Nghe sao thật chua chát! Thế nhưng nhân vật tôi trong Giọt buồn giáng sinh lại có một khái quát rất lạ rằng: “nỗi đau khổ của đàn bà cũng như một sự cứu chuộc thế giới” [92, 72]. Có lẽ cuộc đời còn cần lắm những sự cứu chuộc như thế. Những khái quát tưởng chừng nghịch lí, tưởng như chỉ là sự giễu cợt, nhưng ngẫm lại và nhìn rộng ra thì thật sự cũng đáng để người ta suy nghĩ mà giật mình xót xa. Bên cạnh việc đưa nhân vật vào các cuộc tranh luận để bộc lộ quan điểm, tình cảm của mình, Võ Thị Hảo còn để cho nhân vật độc thoại với chính mình, phơi bày những trải nghiệm, những đánh giá rất riêng về cuộc sống, cũng như những triết lí về bản thể. Nhiều màn độc thoại là cuộc hành trình tìm kiếm chính mình, đào sâu vào những bí ẩn của cái tôi với những day dứt, ăn năn, những trăn trở, hoài nghi về sự tồn tại của con người. Từ Đạo Hạnh hàng ngày khuyên giải những tăng ni Phật tử coi khinh vật dục, chịu nạn ở kiếp này để hưởng sung sướng nơi Niết bàn nhưng trong lòng lúc nào cũng băn khoăn tự hỏi: “Ta có thật lòng tin vào Niết bàn? Dường như càng đi, đường đến Niết Bàn càng xa. Ta nay đã ngoài tứ thập. “Tứ thập nhi bất hoặc”. Vậy mà đôi lần ngẫm thân phận mình, trong lòng sao bỗng xót xa như chưa kịp sống, chưa được sinh ra trên cõi đời này. Tại sao cuộc đời ta mấy chục năm nay lại chứa đầy những hành xác và khổ ải? () Ta có cạn lòng để đến được tâm Không?” [95, 427, 428]. Nghĩ về những điều thiện ác mà Phật răn dạy, thiền sư ngẫm nghĩ: Cớ sao đức Phật nói về làm điều thiện mà lại dùng những từ ác như giết chóc? Phải chăng trên thế gian này không có điều thiện nào không kéo thêm một điều ác? Con rắn độc phiền não nó thức dậy trong lòng ta chăng? Bao năm nay, ta cũng tự hành xác như đức Phật, khinh rẻ vật dục. Ta vẫn thức đấy chứ? Nào có dám ngủ! Có lẽ vì ta thức, nên ta đã thấy quá nhiều” [95, 430]. Những suy tư trăn trở của Từ Đạo Hạnh cho thấy cuộc đời con người này là một cuộc vật vã kiếm tìm để đối diện với cái tôi đích thực của mình, con người ấy không ngừng đào sâu vào nhận thức, lật lại những kinh nghiệm xưa cũ để tìm kiếm chân tâm. Con người ấy là con người luôn luôn hoài nghi, luôn luôn kiếm tìm và cũng là con người đầy chất hiện sinh. Cho nên khi nhận ra những giả dối, yếu đuối của bản thân, thiền sư đã không ngừng tự vấn, tự day dứt mình đầy đau đớn. Khi thuyết giảng về Thanh tịnh đạo, bắt gặp cái nhìn thành kính tin tưởng của chúng tăng, những đôi mắt ngấn lệ vì cảm động trước lẽ thấu đáo của Phật đạo, chính thiền sư lại chột dạ: “Chế ngự được lòng tham ái ư? Ta đang nói dối chăng? Nếu những kẻ đang đứng trước mặt ta đây biết rằng, ta đang sắp sửa đổi kiếp sống này – một khoảnh khắc hiện hữu của bánh xe luân hồi chạm đất – để đổi lấy một kiếp sống khác, để bù đắp cho những oan khổ thiệt thòi mà ta phải chịu đựng ở kiếp này! () Nếu họ biết ta đang sắp rời bỏ họ, làm ngược lại những điều ta đã khuyến dụ họ lâu nay, đổi lấy kiếp khác để được nếm trải tột đỉnh vinh hoa phú quý, tột đỉnh quyền lực, để có được thiên hạ trong tay, thì họ sẽ làm gì nhỉ? () Ta đã lừa dối họ! Ta đã bỏ rơi họ. Cả đời họ đã theo ta để bị ta lừa dối ư? Họ sẽ sống ra sao với sự lừa dối của ta? () Ta đã tự dối mình và dối người quá nhiều” [95, 448, 449, 450]. Màn độc thoại không chỉ làm lộ rõ cuồng vọng tham ái của thiền sư mà còn giúp người đọc thấu suốt cõi bất an đang thiêu đốt ông ta, nó cho thấy sự yếu đuối của con người đồng thời truy vấn nguyên nhân những bi kịch của Thần Tông đã được nhắc đến trong các chương phía trước. Những màn độc thoại trong văn xuôi Võ Thị Hảo cho thấy những bất lực đau đớn của nhà văn trước những nỗi khổ của con người. Trong thế giới hiện hữu này, niềm tin là một cái gì quá đỗi mong manh. Con người không ngừng cảm thấy hoang mang khi đối diện với cuộc đời rộng lớn. Bằng hình thức độc thoại, các nhân vật trong văn xuôi Võ Thị Hảo có dịp đối diện với những mảng khuất tối của tâm hồn, bày tỏ những suy nghĩ chân thật, thầm kín của bản thân, chân dung nhân vật vì thế đạt đến khả năng tự phô diễn, tự khám phá một cách sống động, chân thực và khách quan. 3.3.3. Triết luận xen phối với trữ tình Đối với tác phẩm văn học, giọng điệu trần thuật giữ vai trò quan trọng trong việc thể hiện nhận thức, thái độ, tình cảm, lối sống và cả nội lực của nhà văn, là một trong những yếu tố quan trọng để xác định phong cách của một nhà văn. Trong dòng chảy của văn học sau thời kỳ đổi mới, khi lập trường xã hội, tình cảm, thị hiếu thẫm mỹ thay đổi thì giọng văn trong sáng tác của Võ Thị Hảo cũng có những đổi mới quan trọng, trong đó giọng giễu nhại và tâm tình thương cảm là hai yếu tố thẫm mỹ nổi bật bộc lộ rõ chất triết luận của văn xuôi Võ Thị Hảo. 3.3.3.1. Giọng giễu nhại và tiếng cười mỉa mai châm biếm Giọng giễu nhại xuất hiện trở lại trong văn xuôi sau thời kỳ đổi mới gắn liền với sự lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của thế thái nhân tình giữa thời buổi nhiều sự đổi thay về thang giá trị. Tính chất giễu nhại thường đi liền với tiếng cười hóm hỉnh và đả kích châm biếm. Đối tượng mà văn xuôi Võ Thị Hảo hay hướng đến là những kẻ tham lam biến chất, lộng quyền cũng như thói hư vinh, giả dối, tính ưa hình thức của con người. Thông qua tiếng cười giễu nhại, nhà văn đòi hỏi sự thẳng thắn và chân thật trong cách đánh giá và cư xử giữa người với người cũng như khơi gợi ở họ can đảm nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời. Hàng loạt những câu chuyện nhại cổ tích của Võ Thị Hảo chứa đựng trong đó rất nhiều giọng điệu giễu nhại. Trong truyện Nữ hoàng cô đơn rất nhiều các vị thần “mới lạ và hiện đại” như thần Tiền Tài, thần Dục Vọng, nữ hoàng Pháp Luật xuất hiện như một cầu nối giữa cổ tích và thế giới đương đại, vừa có tác dụng ẩn giấu nụ cười giải thiêng, vừa giúp nhà văn “mượn xưa để nói nay” một cách hóm hỉnh mà độc đáo. Nhà văn mở đầu truyện ngắn Khát của muôn đời bằng những câu văn hóm hỉnh viết về Trời, vị thần cai quản ba cõi nhân gian như sau: “Người ta gọi Trời bằng “ông”, vậy là oan cho Trời lắm, bởi vì Trời còn trẻ. Trời chẳng bao giờ già, cả đến bây giờ cũng vậy. Trời luôn ăn đào tiên () Ở ngôi cao, Trời thường nghiêng mái đầu nhìn xuống trần gian. Trời nhìn thấy cảnh người ta đánh giết nhau và người ta yêu nhau. Cảnh yêu nhau làm cho Trời thấy thích lắm, lạ lắm. Trời quyết định biến thành một chàng trai phàm trần để nếm mùi vị của tình yêu” [92, 102, 103]. Có một giọt buồn bay trong đêm Giáng sinh đã kể: “ tôi nhìn thấy Mẹ Âu và Cha Lạc. Hai người li dị đã lâu, từ ngày Cha đem năm mươi người con xuống biển và Mẹ đem năm mươi người con lên núi” [92, 70]. Ở truyện Hành trang của người đàn bà Âu Lạc, người đọc không khỏi bật cười khi chứng kiến cái cảnh: trong gánh hành trang của mẹ Âu Cơ là “cha Lạc Long Quân cùng năm mươi người con trai đang ngồi vắt vẻo. Và tay cha cầm một tờ báo có in dòng chữ còn chưa ráo mực: “Phụ nữ ngày nay đã được giải phóng”. Cha cũng luôn mồm giục “Đi nào! Đi nào! Người đàn bà của ta đi nào!””[93, 84]. Hóa ra cái chuyện giải phóng phụ nữ chẳng qua cũng là hình thức để chứng tỏ sự văn minh tiến bộ của con người. Chất giễu nhại trong những câu chuyện giả cổ tích thường hướng con người đến những vấn đề đang đặt ra của người hiện đại, nhà văn không tách rời nó với tinh thần phê phán và thái độ xây dựng thực sự khách quan cầu thị. Câu chuyện về giống bò tập thể kỳ lạ trong tác phẩm Người chăn bò thần thánh thấp thoáng bóng dáng của thời kỳ hợp tác xã không ít những chuyện cười ra nước mắt. Đây là câu văn viết về vị giám đốc: “Tất nhiên, là giám đốc, ông chỉ chăn bò về phần hồn, còn thì phần xác bò đã có người lo: kẻ cắt cỏ, kẻ đi chăn Sau đó vì bận họp hành thù tạc, ông dần dần quên đi không khí trang trọng và cảm động của buổi lễ “khánh thành bò” đã diễn ra cách đây không lâu” [94, 30, 31] () Đến lúc đàn bò chỉ còn lại những cái xác bong bóng, ông giám đốc lại tìm cách chối bỏ trách nhiệm: “Người ta nói rằng, “lộc bất hưởng tận”. Ông giám đốc nghĩ vậy và kiếm cách giao lại đàn bò cùng chức tước cho người khác, rồi được cất nhắc sang làm giám đốc một nông trường to hơn. Đại khái, đấy có thể là nông trường chăn voi ngoại”[94, 35]. Trong truyện Dã nhân, nhà văn nhận dạng những thực khách trên bàn tiệc “Nhất dạ đế vương” thông qua những con số lặp đi lặp lại: “Khổ chủ này có hai con đi du học ở Anh Quốc, có hai ô tô đời mới, hai con chó ngao bụng thon chân cao như ngựa vằn, hai ngôi biệt thự mỗi ngôi cỡ vài ngàn cây vàng, một vợ một nhân tình. Cái gì cũng hai. Dự án cũng vậy, luôn là hai chiếc song song. Lân là bạn của khổ chủ, vừa là người thẩm định, vừa là con thoi đi lại giữa A và B. Cái gì cũng có một. Nhưng cũng có một vợ một nhân tình, đúng mốt” [93, 142, 143]. Tóm lại, giọng điệu giễu nhại đã thể hiện rõ chức năng chỉnh lí hình tượng thông qua tiếng cười, giúp nhà văn truyền tải những triết lí về con người và xã hội, góp phần mang lại sự cởi mở thoải mái và dân chủ trong lối viết của nhà văn. Nhờ có giọng giễu nhại mà những mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại được xâu chuỗi, nhà văn có thể đứng cao hơn những cái giả dối tầm thường để chiêm nghiệm về nó, cất tiếng cười đả phá và chế giễu nó một cách tự do. Đây cũng chính là nhân tố quan trọng tạo nên tinh thần dân chủ cho văn xuôi sau đổi mới. 3.3.3.2. Giọng tâm tình, thương cảm, xót xa Trong thế giới của những nỗi đau và mất mát, văn xuôi Võ Thị Hảo nổi bật giọng văn tâm tình, thương cảm, xót xa. Cảm hứng nhìn lại tạo cho những câu chuyện viết về lịch sử và chiến tranh của Võ Thị Hảo thấm đẫm chất quan hoài da diết. Niềm thương cảm xót xa đọng lại trên những nỗi đau kéo dài của con người sau cuộc chiến, những nỗi ám ảnh triền miên, những trầm ngâm về lẽ sống, nỗi cô đơn, lạc loài của con người khi về lại cuộc sống đời thường tất cả tạo thành một làn sóng dìu dặt mà xót xa đến tận tâm hồn. Tâm sự của những người trong cuộc bộc bạch trong một giọng điệu có lúc mệt mỏi, chán chường (Dây neo trần gian), có lúc cay đắng, thất vọng (Biển cứu rỗi), có lúc mặc cảm đến tự thương (Người sót lại của rừng cười). Những câu văn cảm thán về chiến tranh, những tiếng thở dài xót xa, những uất ức dồn tụ, khiến cho giọng điệu trong nhiều câu chuyện của Võ Thị Hảo như chất chứa hồn cốt của những nỗi buồn u uất: “Tiếng máy bay gầm rú dọc đường Một. Tiếng bom nổ thâu đêm. Cả làng trắng đàn ông, chỉ còn lại đây đó các ông già lụ khụ. Ra trận và ra trận! Đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố bom và bị buộc phải trở thành đàn ông” [91, 55]. “Việc chiến tranh lôi những người phụ nữ vào chiến cuộc thật khủng khiếp” [91, 96]. “Em là người sót lại của rừng cười, nhưng hạnh phúc chẳng còn sót lại nơi em” [91, 104] Lật lại những trang sử xa xưa, bên cạnh cái khốc liệt của những cuộc thanh trừng đẫm máu là tiếng khóc ai oán bi thương của những kiếp người bị đọa đày trong đau khổ. Những câu chất vấn dày đặc như muốn vươn tới cõi vô cùng, tạo cho Giàn thiêu giọng văn bi thiết: “Và có kẻ nào thương xót cho cô bé này không? Lẽ nào bốn mươi chín cái chết thiêu đau đớn nhỡn tiền không mảy may rung động một thớ nhỏ nào trong tim họ? () Biết bao chùa chiền nguy nga đã dựng lên từ đời đức Thái Tổ sáng nghiệp, chùa nào cũng thờ hai chữ Từ bi. Vậy mà sao những con người trước mặt ta kia lại cứ câm lặng trước một sinh linh nhỏ bé vô tội sắp lìa đời?” [95, 44, 45]. Cảm giác tiếc nuối cho cái đẹp bị hủy diệt, bị đọa đày trong lửa địa ngục tạo thành những thanh âm thê lương trong giọng điệu của Giàn thiêu. Hàng loạt những bi kịch của con người hiện lên trong lối văn kể và tả dẫn dắt người đọc đắm chìm trong những cơn cuồng phong ngột ngạt và da diết u hoài. Nỗi nhớ tiếc của Thần Tông, niềm xót xa của Nhuệ Anh, tấm lòng của Dã Nhân, tình yêu cao thượng của Cá Bơn, chất phiêu diêu toát ra từ thần thái của Ngạn La được dệt lên bằng những câu văn mềm mại vừa gợi niềm thương cảm vừa gợi nỗi buồn da diết. Hãy nghe! Những dòng cảm xúc của Ngạn La, những bài đồng dao thơ trẻ của nàng khi nàng cất lời ru tiễn ông vua hóa hổ như những khúc nhạc lòng êm ả, xoa dịu những cơn đau: “Nu nống nu na Mưa rơi xuống đá Mưa làm nát đá () những lời hát của nàng sẽ ấm êm như một lối đi rải đá để linh hồn bé bỏng, thương tổn và lầm lạc của Ngài ngự được dẫn về trời () nàng dẫn ông ta lên bầu trời của nàng để trên đó ông ta sẽ trở lại là một đứa trẻ chăn những con trâu bằng mây trắng ... Mưa trở về trời Nu na nu nời Ru trời Trời rơi” [95, 338, 339]. Những số phận đàn bà, những nỗi đau tật nguyền cũng làm cho giọng văn trong nhiều tác phẩm của Võ Thị Hảo trở nên thương cảm đến nao lòng. Trong đó có âm điệu lạnh lùng mà buồn bã khi viết về những người đàn bà không hạnh phúc (Bàn tay lạnh, Con dại của đá, Người đàn ông duy nhất), có giọng khắc khoải đợi chờ của những kẻ yêu nhau không đến được với nhau (Khăn choàng sương, Tiếng vạc đêm), có giọng chơi vơi, hụt hẫng của những kẻ tưởng chừng nắm bắt hạnh phúc trong tay nhưng bất ngờ lại tuột mất (Góa phụ đen), có giọng cay đắng, đay nghiến của những người đàn bà vỡ mộng (Con dại của đá, Tim vỡ), có giọng hi vọng đợi chờ, tin tưởng ở ngày mai của những con người bất hạnh (Mắt miền Tây, Người đàn ông duy nhất), và có giọng sẻ chia thương xót với những kiếp tật nguyền (Máu của lá, Làn môi đồng trinh) Những cung bậc của nỗi buồn tủi, xót xa cay đắng có lúc khiến cho những trang văn như chùng xuống, nặng trĩu và bi thương. Nhưng người đọc cũng đồng cảm với nhà văn ở một điều rằng “đừng mơ hạnh phúc để xoa dịu đau khổ. Hãy lấy nỗi đau để xoa dịu nỗi đau” [93, 36]. Có lẽ chỉ có những nỗi đau lớn về con người mới khiến con người mạnh mẽ và trưởng thành hơn. Nhìn chung, trong văn xuôi Võ Thị Hảo, giọng điệu tâm tình có lúc được đặt trong điểm nhìn của những nhân vật xưng tôi, ngôi kể thường là ngôi thứ nhất. Nhân vật “tôi” có khi trực tiếp kể chuyện về chính mình, có khi lại đóng vai một chủ thể gần gũi quan sát, nêu lên những cảm nhận, đánh giá của mình khi kể chuyện về người khác. Cách kể này chiếm khoảng 1/3 số lượng các tác phẩm. Còn đa phần các câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba, điểm nhìn được đặt vào nhân vật, người kể đã hòa mình vào nhân vật đến mức khó nhận ra giọng kể của tác giả và giọng kể của nhân vật. Bằng cách này nhà văn có điều kiện thâm nhập vào đời sống nội tâm nhân vật, mặc khác cũng có thể kín đáo bày tỏ thái độ của mình mà vẫn giữ được tính chất khách quan cho câu chuyện. Cho nên, giọng điệu thương cảm xót xa trong tác phẩm của Võ Thị Hảo vừa là niềm tự thương, tự cảm của nhân vật, vừa hòa trộn tấm lòng trắc ẩn của nhà văn. KẾT LUẬN 1. Võ Thị Hảo là một trong những tác giả nữ giàu cá tính của văn học đương đại Việt Nam, có quan niệm văn chương tiến bộ và luôn ý thức được sứ mệnh của người nghệ sĩ đối với xã hội. Trong quan điểm của Võ Thị Hảo, văn chương và hiện thực luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Văn chương phải phản ánh được những nỗi đau và mất mát của con người, nhà văn phải tôn trọng sự thật, tôn trọng cuộc đời như nó vốn có và là người gánh vác sứ mệnh thiêng liêng của cuộc đời, sứ mệnh sẻ chia và thức tỉnh. Với chị, văn chương như một thánh đường mà ở đó người ta trân trọng sự thiêng liêng trong nỗi đau của sự thật và khát vọng của con người đến mức nhà văn không thể viết chỉ để thỏa mãn riêng mình và cũng không thể viết dối trá. Chị viết văn như một sự nguyện cầu, một lời cầu nguyện gửi đến mọi người để mong thế giới này tốt đẹp hơn. Tiếp nhận tinh thần của thời kỳ đổi mới cùng với quan niệm mới về con người, nhà văn nhận thức được rằng con người vốn đa dạng phức tạp, cần phải được nhìn nhận, soi rọi từ nhiều phía. Trong cái nhìn của Võ Thị Hảo, cuộc sống còn quá nhiều đau khổ, đặc biệt với những con người hiện hữu trong thế giới hiện đại, dường như họ thường dễ bị tha hóa hơn, dễ có nguy cơ đánh mất mình hơn, họ trở nên nhỏ bé, đáng thương hơn. Thế giới của con người là thế giới của những bi kịch và mất mát triền miên, nguy cơ đổ vỡ là vô cùng lớn. Nhà văn đặc biệt quan tâm đến số phận và vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Họ vừa là những con người nhỏ bé, phụ thuộc vừa đang từng bước vươn lên, khẳng định mình. 2. Cảm hứng phản biện, nhận thức lại một số giá trị, chuẩn mực của thời đã qua cùng với cảm hứng đời tư thế sự và quan niệm về con người cá nhân là đối tượng chiếm lĩnh của văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo. Với cái nhìn đa diện về con người, văn xuôi Võ Thị Hảo đề cập đến nhiều nội dung tự sự, trong đó, con người với những bi kịch cá nhân là nội dung tự sự chính trong sáng tác của chị. Võ Thị Hảo đã phát hiện những bi kịch cá nhân khi đối diện với nỗi đau chiến tranh, hoặc khi chìm đắm trong những tham vọng điên cuồng, những ước mơ không giới hạn của con người; chỉ ra con đường dẫn họ đến sự tha hóa, cùng cực. Thông qua những bi kịch cá nhân đó, nhà văn khái quát số phận của con người và bức tranh hiện thực xã hội đương đại. Ngòi bút của chị đã phơi bày những ngõ ngách sâu kín của đời sống xã hội và tâm hồn con người, cả cái thiện lẫn cái ác để thức tỉnh lương tri con người, cảnh báo những ảo tưởng, ngộ nhận của con người, hướng họ đến những giá trị cao đẹp. Tác phẩm của chị chứa đựng giá trị nhân văn, nhân đạo và nhiều triết lí sống đáng để chúng ta suy ngẫm. Võ Thị Hảo là nhà văn của những con người bé nhỏ, những con người cô đơn, nhiều đau khổ và bất hạnh. Nhà văn đã dành nhiều tình thương và sự trân trọng cho những kiếp người tật nguyền, nghèo khổ, đồng cảm và chia sẻ với những số phận không may, đặc biệt là phụ nữ. Người phụ nữ trong văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo đầy bản lĩnh và cá tính, giàu lòng yêu thương và nghị lực. Trong cuộc sống, họ không ngừng cố gắng vươn lên nhưng vẫn luôn chịu nhiều thua thiệt. Để đạt được sự tự chủ và độc lập trong cuộc sống đôi lúc họ cũng dám chấp nhận khổ đau cũng như sự cô đơn, mất mát. Niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc luôn thường trực trong họ nhưng họ không bất chấp tất cả để đạt được nó. Với họ, điều đáng quý nhất là giữ được sự tự tôn và giá trị con người mình. 3. Văn xuôi Võ Thị Hảo chứa đựng hơi thở của cuộc sống đời thường hấp dẫn người đọc bởi lối viết huyền ảo thông qua thế giới hình tượng huyền bí, liêu trai; cách dựng truyện khách quan, giàu kịch tính, cách kết thúc mở, gọi mời sự đối thoại nơi người đọc Nhà văn đã rất khéo léo trong việc sử dụng những chất liệu của cổ tích và lịch sử cũng như các yếu tố kỳ ảo để khắc họa nhân vật, diễn đạt tình cảm, tư tưởng, quan niệm nghệ thuật và những triết lí nhân sinh. Lời văn nghệ thuật trong tác phẩm của Võ Thị Hảo được trau chuốt cẩn trọng, vừa cổ kính vừa hiện đại; vừa đời thường vừa trang nghiêm; vừa có sức gợi mở, có khả năng khái quát cao vừa giàu chất suy tưởng, triết lí. Văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo ám ảnh người đọc bằng những biểu tượng đa thanh, tầng sâu tư tưởng và cảm giác phiêu diêu của ngôn từ. Chất triết luận không chỉ bộc lộ qua các ẩn ý của lời văn, qua hệ thống biểu tượng đa thanh, giàu tính hình tượng mà còn ở lời thoại và giọng văn nghệ thuật. Lời thoại nhân vật trong sáng tác của Võ Thị Hảo là sự kết hợp đa dạng giữa đối thoại và độc thoại nội tâm. Đó là những cuộc đối thoại triền miên không dứt. Con người không chỉ đối thoại với lịch sử, đối thoại với hiện tại mà còn đối thoại với chính lương tri của mình. Nhà văn cũng tham gia vào cuộc đối thoại lớn với người đọc bằng giọng văn giễu nhại và tâm tình thương cảm xót xa đến day dứt lòng người. 4. Văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo đã chuyển tải thành công những quan niệm nghệ thuật của tác giả, cũng như đã phản ánh rõ nét tinh thần dân chủ, khát vọng tự do, dám nhìn thẳng vào sự thật của văn xuôi thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn tâm huyết với nghề, Võ Thị Hảo luôn ý thức rõ sứ mệnh của người cầm bút khi sáng tác. Cùng với sự vận động và phát triển hướng về chiều sâu của văn học, Võ Thị Hảo vẫn đang không ngừng tự làm mới mình sau mỗi trang bản thảo, nhà văn vẫn luôn khao khát kiếm tìm những hình thức thể hiện mới để cách tân nghệ thuật. Đôi lúc khá gai góc và cá tính nhưng vẫn không đánh mất thiên tính nữ vốn dịu dàng, nhạy cảm, sáng tác của Võ Thị Hảo đã đem đến cho người đọc một cái nhìn riêng về cuộc đời và số phận của con người. Đặc biệt, những mong mỏi được đồng cảm và sẻ chia qua từng trang viết của nhà văn thực sự rất đáng để người đọc hôm nay và mai sau trân trọng, sự trân trọng xứng đáng dành cho người tình nguyện “vác cây thập giá chữ” trên đôi vai vốn gầy guộc mỏng manh đến điệu đà của người đàn bà viết văn xứ Nghệ. -------------------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO A.TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH 1. Trần Thúy An (2007), Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ, luận văn Thạc sĩ văn học, Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh. 2. Vũ Tuấn Anh (2001), “Đời sống văn học đương đại”, Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Tuấn Anh (2008), “Mỹ học tính dục và cuộc phiêu lưu giải phóng thiên tính nữ trong văn học nghệ thuật”, Tạp chí Sông Hương, (236). 4. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân (2009), “Một số vấn đề xung quanh phạm trù chủ nghĩa hiện đại”, Mênh mông chật chội (Phê bình – Tiểu luận), Nxb Tri thức, Hà Nội. 7. Lại Nguyên Ân (2009), “Tiểu thuyết và lịch sử” (Nhân đọc “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo)”, Mênh mông chật chội (Phê bình – Tiểu luận), Nxb Tri thức, Hà Nội. 8. Aristote (1999), Nghệ thuật thơ ca (nhiều tác giả dịch và giới thiệu) - Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch, chú giải và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Trần Lê Bảo (2005), ““Liêu trai” hiện đại Việt Nam”, Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí văn học, (9). 11. M. Bakhtin (1992), Lí luận, thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du xuất bản, Hà Nội. 12. Gordon E. Bigelow (1961), “Đôi nét về chủ nghĩa hiện sinh”, Cao Hùng Lynh dịch, đăng trên College Enghlish, số tháng 12, bản điện tử: talawas.org. 13. Nguyễn Thị Bình (2005), “Về một hướng thử nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thập kỉ 80 đến nay”, Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 14. Thảo Chi (thực hiện) (2004), “Trách nhiệm của người viết là không né tránh sự thật”, Báo Người lao động, nguồn: nld.com.vn. 15. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – Lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 17. Trần Thị Kim Dung (2010), “Đi tìm thân phận người phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Hảo”, Tạp chí điện tử của Sở thông tin và truyền thông Đà Nẵng, Chuyên mục Câu chuyện truyền thông. 18. Bùi Tiến Dũng (thực hiện) (2010), “Nhà văn Võ Thị Hảo: Phụ nữ cần thoát khỏi những nô lệ, tự ti và định kiến”, Báo thế giới mới, Nguồn: tgm007.wordpress.com. 19. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại, Hội thảo quốc tế 2006, Nguồn: Việnvănhọc.org.vn. 20. Hoàng Dĩ Đình (2008), “Ngôn ngữ trần thuật của tác phẩm Hồn trinh nữ - điểm nhìn và nhân xưng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, (24). 21. Minh Đức (thực hiện) (2005), “Võ Thị Hảo: Tôi không định mê hoặc”, Báo Người đại biểu nhân dân, (3). 22. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội. 23. Hà Minh Đức (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Hà Minh Đức (2001), Văn chương, tài năng và phong cách, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 25. Nhị Hà (thực hiện) (2005), “Tôi ngồi bệt trên đất và viết”, Người sót lại của rừng cười, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 26. Hồ Thế Hà (2008), “Hướng tiếp cận từ phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975”, Tạp chí Sông Hương, (232). 27. Phùng Hữu Hải (2006), Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975, evan.com.vn. 28. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1996), Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 29. Nguyên Hằng (thực hiện) (2005), “Suốt đời chỉ mơ một giấc”, Tuần báo Công nghiệp Việt Nam, (6). 30. Hêghen (1999), Mỹ học, tập I, II (Phan Ngọc dịch và giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội. 31. Cao Thị Thu Hoài (2009), Yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. 32. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 33. Hoàng Ngọc Hiến (2009), “Đặc điểm của truyện ngắn hiện đại”, Hoàng Ngọc Hiến, tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 35. Văn Công Hùng (2010), “Võ Thị Hảo: Nét duyên chân đất”, Báo Doanh nhân Sài Gòn online. 36. Đinh Thị Huyền (2008), “Nhân vật của tiểu thuyết hậu chiến”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (10). 37. Lê Thị Hường (1994), “Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay”, Tạp chí Văn học, (2). 38. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, trường Đại học KHXH và NV, Hà Nội. 39. Hoàng Hoa (2001), “Nhà văn Võ Thị Hảo: tôi ngồi bệt trên đất và viết”, Tạp chí Nghề báo, (1). 40. Nguyễn Văn Kha (2007), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 2000, Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh. 41. Khraptrenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 42. Nguyễn Thị Dư Khánh (2000), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nxb Giáo Dục, Tp Hồ Chí Minh. 43. Thụy Khê (2005) “Lời giới thiệu”, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 44. Milan Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà Nẵng. 45. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu văn học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 46. Ngô Tự Lập ( 1999), “Những đường bay của mê lộ” (Về văn học kỳ ảo), Tạp chí Sông Hương, (127). 47. Nguyễn Tường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và nay”, Tuần báo Văn nghệ, (9). 48. Nguyễn Văn Long (chủ biên), Nguyễn Thị Bình, Lã Thị Bắc Lý, Mai Thị Nhung, Trần Đăng Suyền (2008), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Tập II (Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 49. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 50. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. Nguyễn Đăng Mạnh (1994). Con đương đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 52. Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), E.M. Meletinxky (2004), Thi pháp của huyền thoại, Trần Nho Thìn và Song Mộc dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 53. Ngô Thị Quỳnh Nga (2010), “Sự đan cài các lớp ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử sau 1975”, Nguồn: hoinhavanvietnam.vn. 54. Blog của Lê Thanh Nga (2007), Giàn thiêu của Võ Thị Hảo. 55. Lương Thị Bích Ngọc (2004), “Võ Thị Hảo giữa những trang viết trang đời”, Báo Thể thao và Văn hóa, (53). 56. Phạm Xuân Nguyên (1994), “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí văn học, (2). 57. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn hóa thông tin. 58. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh. 59. Trần Thị Mai Nhân (2007), “Vấn đề tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Sông Hương, (224). 60. Thụ Nhân (2005), Tọa đàm về sáng tác của Võ Thị Hảo, www.vn/vanhoa/tintuc. 61. Phùng Quý Nhâm (1991), “Một số vấn đề đặt ra trong sáng tác văn học hiện nay”, Thẩm định văn chương, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 62. Mai Hải Oanh (2004), “Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, (Kỷ yếu) Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần II. 63. Huỳnh Như Phương (1988), “Cảm hứng phê phán trong văn chương hiện nay”, Báo Văn nghệ, (24). 64. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, (4). 65. G. Pospelov (chủ biên) (1993), Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 66. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD & ĐT, Vụ giáo viên, Hà Nội. 67. Trần Đình Sử (chủ biên) (2000), Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử (2 tập), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 68. Tzvetan Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 69. Nguyễn Thị Kim Tiến (2010), “Tiểu thuyết lịch sử đương đại với quan niệm nghệ thuật về con người”, Tạp chí Sông Hương, (256). 70. Phạm Xuân Thạch (2004), “Quá trình cá nhân hóa hư cấu – Tự sự đương đại về đề tài lịch sử”, (Kỷ yếu) Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần II. 71. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 72. Bùi Việt Thắng (2002), “Tứ tử trình làng” (Lời giới thiệu), Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 73. Đoàn Cầm Thi (2004), Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại, Nguồn: evan.vnexpress.net 74. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học – thế giới mở, Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh. 75. Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim (Tập tiểu luận), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 76. Bích Thủy (thực hiện) (2005), “Võ Thị Hảo: sứ mệnh nhà văn là thức tỉnh lương tri”, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm, NXB Phụ Nữ, Hà Nội. 77. Bùi Thị Thủy (2008), “Dấu hiệu nữ quyền trong văn nữ Việt Nam đương đại”, Hội nhà văn Việt Nam, Nguồn: phienbancu.vanvn.net. 78. Khuất Quang Thụy (1989), “Sự thật về con người – một đòi hỏi khe khắt của nghệ thuật tiểu thuyết”, Văn nghệ, (32). 79. Phùng Gia Thế ( 2007), “Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986”, Văn nghệ, (8/12/2007). 80. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẫm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục, Tp Hồ Chí Minh. 81. Bùi Thanh Truyền (2008), “Sự đổi mới của truyện có yếu tố kỳ ảo sau 1986 qua hệ thống ngôn từ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (12). 82. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh. A. TÁC PHẨM VĂN HỌC 83. Tạ Duy Anh (1990), Bước qua lời nguyền, Nxb Văn học, Hà Nội. 84. Tạ Duy Anh (1994), Luân hồi, Nxb Văn học, Hà Nội. 85. Hoài Anh (2006), Tuyển tập truyện lịch sử (Mê Linh tụ nghĩa, quyển 3), Nxb Văn học, Hà Nội. 86. Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ (2002), Truyện ngắn bốn cây bút nữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 87. Nguyễn Văn Bình (2009), Lững thững với ngàn năm (tản văn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 88. Nguyễn Minh Châu (1994), Tuyển tập Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội. 89. Trung Trung Đỉnh (2009), Sống khó hơn là chết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 90. Trung Trung Đỉnh (2010), Lạc rừng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 91. Võ Thị Hảo (2005), Người sót lại của rừng cười (Tập truyện ngắn), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 92. Võ Thị Hảo (2005), Hồn trinh nữ (Tập truyện ngắn), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 93. Võ Thị Hảo (2005), Góa phụ đen (Tập truyện ngắn), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 94. Võ Thị Hảo (2005), Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm (Tập truyện ngắn), NXB Phụ Nữ, Hà Nội. 95. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu (tiểu thuyết), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 96. Nguyễn Thị Hậu (2010), Quay qua quay lại (tản văn), Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 97. Phạm Thị Hoài (1989), Mê lộ (Tập truyện ngắn), Nxb Tổng hợp Phú Khánh, Phú Khánh. 98. Phạm Thị Hoài (1995), Thiên sứ (tiểu thuyết), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 99. Trầm Hương (1994), Người đàn bà trong thu tím (Tập truyện ngắn), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 100. Dương Hướng (2005), Bóng đêm và mặt trời, Bến không chồng (tiểu thuyết), Nxb Công an nhân dân. 101. Nguyễn Bình Phương (2002), Những đứa trẻ chết già, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 102. Nguyễn Bình Phương (2004), Thoạt kỳ thủy, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 103. Ma Văn Kháng (2005), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết), Nxb Công an nhân dân. 104. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn (tiểu thuyết), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 105. Lê Minh Khuê (2008), Những ngôi sao, trái đất và dòng sông (Tập truyện ngắn), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 106. Lý Lan (2009), Bày tỏ tình yêu (Tập truyện ngắn), Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 107. Lý Lan (2010), Tiểu thuyết đàn bà (tiểu thuyết), Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh. 108. Phạm Xuân Nguyên (tuyển chọn) (2007), Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam (1975 – 2007), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 109. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX giai đoạn 1976 – 2000 (2 tập), Nxb Kim Đồng, Đà Nẵng. 110. Nhiều tác giả (2010), Truyện ngắn nữ 2000 – 2009, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 111. Trần Thùy Mai (2009), Trăng nơi đáy giếng (Tập truyện ngắn), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 112. Nguyễn Thị Miền (2005), Cúc tần (Tản văn và truyện), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 113. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh (tiểu thuyết), Nxb Văn học, Hà Nội. 114. Dạ Ngân (2006), Gia đình bé mọn (tiểu thuyết), Nxb Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh. 115. Dạ Ngân (2010), Gánh đàn bà (tạp văn), Nxb Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh. 116. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 117. Trần Nhã Thụy (2010), Cuộc đời vui quá không buồn được (tản văn), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 118. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận (Tập truyện ngắn), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh. 119. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Yêu người ngóng núi, Nxb Trẻ, Tp Hồ CHí Minh. 120. Hòa Vang (2009), Sự tích những ngày đẹp trời (Tập truyện ngắn), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. ---------------------------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_van_xuoi_nghe_thuat_vo_thi_hao_8195.pdf