Trong xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế tri thức phát triển thì nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia. Chính vì lẽ đó việc quan tâm phát triển đội ngũ này luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu, trong đó có nâng cao chất lượng đội ngũ công chức và có thể thấy rõ điều này qua nội dung trọng tâm được xác định trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính ở giai đoạn 2 (2011-2020) là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Như vậy có thể thấy nâng cao chất lượng đội ngũ công chức là yêu cầu tất yếu, và để làm được điều đó cần quan tâm đến vai trò của hoạt động quản lý nguồn nhân lực nói chung và đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức nói riêng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực. Có thể thấy, đưa hoạt động đánh giá kết quả thực hiện công việc thành đề tài nghiên cứu, tác giả muốn nhận mạnh vai trò quan trọng của công tác này cho việc thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ khác của quản lý nguồn nhân lực như tuyển dụng, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức. Mặt khác, bởi nó còn có liên quan mật thiết đến việc thỏa mãn các nhu cầu của người lao động như được thừa nhận, ghi nhận thành tích bằng những phần thưởng xứng đáng, được đối xử công bằng, được quan tâm thông qua việc đánh giá đúng. Do vậy, đánh giá kết quả thực hiện công việc được tiến hành theo hướng chú trọng nhiều hơn đến tính chính xác, khách quan, công bằng có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở hệ thống cơ sở lý luận về đánh giá kết quả thực hiện công việc luận văn đã phân tích, nhận xét về thực trạng công tác đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Biên Hòa trong giai đoạn 2011-2016, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thực trạng. Đồng thời, trên cơ sở99 những nguyên nhân hạn chế đã làm rõ, đề tài đưa ra định hướng giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của sự cảm tính, hình thức, ít gắn với kết quả thực hiện công việc của công chức trong đánh giá, từ đó nâng cao chất lượng đánh giá, góp phần cải thiện hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức tại UBND thành phố Biên Hòa.
114 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai - Lê Thị Thiên Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết. Triển khai thực hiện đề án vị trí việc làm từ năm
2013 nhưng đến nay thành phố Biên Hòa vẫn chưa thể sử dụng sản phẩm của
của phân tích công việc vào trong công tác quản lý nhân sự nói chung và công
tác đánh giá nói riêng. Cụ thể, đã được 01 năm kể từ ngày Quyết định 2054/QĐ-
BNV ngày 31/12/2015 của Bộ Nội vụ phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong
các cơ quan, tổ chức hành chính của tỉnh Đồng Nai. Nhưng đến nay việc triển
khai thực hiện trên thực tế vẫn còn chậm và khó khăn. Sở Nội vụ tỉnh là cơ
75
quan chủ trì tổ chức thực hiện đề án vị trí việc làm, theo hướng dẫn của Sở Nội
vụ tỉnh tại văn bản số 819/SNV-TCBC ngày 10/5/2016 về việc triển khai thực
hiện Quyết định của Bộ Nội vụ phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong cơ
quan, tổ chức hành chính của tỉnh. Theo danh mục vị trí việc làm đã được phê
duyệt này, UBND thành phố Biên Hòa có 78 vị trí việc làm tương ứng với từng
nhóm, cụ thể gồm nhóm lãnh đạo, quản lý, điều hành (12 vị trí việc làm); nhóm
chuyên môn, nghiệp vụ (52 vị trí việc làm) và nhóm hỗ trợ, phục vụ (14 vị trí
việc làm) [2]. UBND thành phố Biên Hòa đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
nghiên cứu, rà soát lại các vị trí việc làm của đơn vị đã được Bộ Nội vụ phê
duyệt, trường hợp đơn vị nhận thấy các vị trí việc làm có thay đổi, cần bổ sung
theo quy định tại các văn bản pháp luật thì đề nghị phối hợp với phòng Nội vụ
thành phố tham mưu UBND thành phố tổng hợp gửi Sở Nội vụ tỉnh điều chỉnh,
bổ sung. Bên cạnh đó, các đơn vị căn cứ từng vị trí việc làm theo danh mục (tại
phụ lục 2) đã được Bộ Nội vụ phê duyệt, xây dựng hoàn thiện bản mô tả công
việc và khung năng lực theo quy định tại phụ lục 05 và 06 của Thông tư
05/2013/TT-BNV ngày 25/6/2013 của Bộ Nội vụ. Tuy nhiên, theo tổng hợp
của Phòng Nội vụ thành phố, tính đến 31/12/2016, chỉ có 05/12 cơ quan chuyên
môn triển khai thực hiện theo đúng hướng dẫn, các đơn vị còn lại chưa thực
hiện hoặc thực hiện chưa đúng theo yêu cầu.
Thứ hai, bước xác định mục tiêu cho tổ chức, đơn vị làm cơ sở cho việc
xác định mục tiêu cá nhân chưa được quan tâm, áp dụng trong cơ quan hành
chính nhà nước nên không có cơ sở để đánh giá theo những tiêu chí rõ ràng.
Việc đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào chương trình, kế hoạch công tác năm
của cơ quan, đơn vị và các nhiệm vụ đột xuất khác. Nhưng điểm hạn chế ở đây
đó là, chưa thấy được vai trò, trách nhiệm của từng cá nhân trong việc thực hiện
chương trình, kế hoạch công tác năm ấy hay nói cách khác là mối quan hệ giữa
mục tiêu cá nhân và mục tiêu của tổ chức rất mờ nhạt.
76
Thứ ba, chưa có quy định cụ thể quy định về đánh giá kết quả thực hiện
công việc của công chức trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Việc quy định chung
chung như “trong đánh giá công chức hàng năm phải dựa trên kết quả thực
hiện nhiệm vụ được giao” chưa đủ để tạo ra chuyển biến mới trong công tác
đánh giá. Quan trọng hơn cần quy định đánh giá như thế nào, phương pháp để
đánh giá kết quả thực hiện công việc được giao ra sao, làm rõ trách nhiệm của
các bên trong việc cam kết sử dụng kết quả đánh giá ấy,...
Thứ tư, nhận thức của các chủ thể tham gia đánh giá chưa đổi mới. Cần
nhấn mạnh rằng nếu các chủ thể tham gia đánh giá, cụ thể là người đứng đầu
các cơ quan, đơn vị không thay đổi nhận thức của mình về quan điểm quản lý
và đánh giá công chức chú trọng vào kết quả thực hiện công việc được giao
hoặc công chức chưa xem đánh giá kết quả thực hiện công việc thật sự là cơ
hội giúp phát triển bản thân mình thì việc áp dụng cách thức đánh giá mới sẽ
rất khó để thành công. Thực tế diễn ra trên địa bàn thành phố Biên Hòa hiện
nay, hoạt động đánh giá này cũng ít được sự quan tâm, chú ý thực hiện của các
đơn vị, ví dụ chậm trễ trong việc triển khai thực hiện đánh giá, dẫn đến trễ hạn
gửi kết quả đánh giá về phòng Nội vụ; một số đơn vị thậm chí không nắm rõ
quy trình đánh giá, như mặc dù đã bỏ quy định đánh giá bỏ phiếu kín nhưng
các đơn vị này vẫn thực hiện, phòng Nội vụ phải hướng dẫn các đơn vị thực
hiện lại hoặc thực hiện sai thẩm quyền đánh giá như các đơn vị tự ra quyết định
công nhận kết quả đánh giá của đơn vị mình bao gồm cả trưởng phòng trong
khi thẩm quyền đánh giá trưởng phòng chuyên môn thuộc về Chủ tịch UBND
thành phố. Ngoài ra, sau khi có kết quả đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
cuối năm của các đơn vị (đánh giá công vụ hàng năm), phòng Nội vụ thành phố
tổng hợp trình Chủ tịch UBND thành phố đánh giá và phân loại thủ trưởng các
cơ quan, đơn vị. Mặc dù quy định đã có, nhưng khi đánh giá thủ trưởng theo
kết quả đánh giá tập thể, một số trường hợp chưa ủng hộ.
77
Thứ năm, thiếu sự tham gia của chủ thể thứ ba trong đánh giá công chức.
Quy trình đánh giá hầu như không có sự xuất hiện của chủ thể khác ngoài bản
thân công chức, tập thể cơ quan và người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đối với
những vị trí công việc thường xuyên tiếp xúc với khách hàng như công chức
tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thành phố Biên Hòa, công chức phụ trách
công tác giải quyết chế độ chính sách cho thanh niên xung phong tại phòng Nội
vụ thành phố, công chức phụ trách công tác thi đua, khen thưởng...thái độ phục
vụ cũng cần được xem xét với tư cách là tiêu chí trong đánh giá kết quả thực
hiện công việc. Bởi công chức không thể được xem là “giải quyết tốt công việc”
cho khách hàng của mình trong khi anh ta lại có thái độ hách dịch, gây khó dễ
cho khách hàng (có thể là công dân hoặc công chức đơn vị khác đến liên hệ
công tác).
Tóm lại, đánh giá công chức hiện nay cũng mang nặng tính hình thức vì
thực chất các tiêu chí đánh giá chưa “gắn với công việc”, thiếu phương pháp
đánh giá phù hợp với nội dung “kết quả thực hiện công việc”, các yếu tố chủ
quan còn chi phối hoạt động đánh giá do các tiêu chí đánh giá không rõ ràng.
Những hạn chế này dẫn đến chủ nghĩa bình quân trong chính sách đãi ngộ với
công chức như hiện nay.
Tiểu kết chương 2
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tiễn về tình hình thực hiện công tác đánh
giá kết quả thực hiện công việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND thành phố Biên Hòa, tác giả đã phân tích, nhận xét những ưu
điểm, hạn chế của công tác này đồng thời tác giả cũng chỉ ra những nguyên
nhân của hạn chế. Theo đó, có một số nguyên nhân cơ bản gây ra tình trạng yếu
kém trong công tác đánh giá kết quả thực hiện công việc hiện nay trên địa bàn
thành phố Biên Hòa như thiếu hệ thống tiêu chí cụ thể gắn với từng vị trí công
78
việc; chưa có cơ chế, chính sách quy định về đánh giá kết quả thực hiện công
việc; vấn đề về nhận thức của các chủ thể khi tham gia đánh giá công chức; tính
chất nội bộ trong quy trình đánh giá và một số nhược điểm từ mô hình công vụ
chức nghiệp mà chúng ta đang áp dụng. Từ những nghiên cứu tại chương này,
tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đánh giá kết quả thực
hiện công việc của đội ngũ công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
79
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC
CỦA CÔNG CHỨC TẠI CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ
3.1. Quan điểm trong đánh giá kết quả thực hiện công việc của công
chức
Những tồn tại, yếu kém trong công tác đánh giá công chức hàng năm đã
được thừa nhận và chỉ ra không những trên các diễn đàn, các bài viết, công
trình nghiên cứu liên quan mà về phía các cơ quan chủ quản cũng thẳng thắn
khẳng định công tác đánh giá công chức hiện nay không thể hiện hết vai trò, ý
nghĩa của nó với tư cách là công cụ hữu hiệu trong quản lý nguồn nhân lực ở
khu vực công. Vậy làm thế nào để có thể đánh giá một cách thực chất hơn hiệu
quả hoạt động công vụ của công chức, khắc phục tương đối những bất cập hiện
nay trong công tác đánh giá. Tác giả điểm lại một số văn bản chỉ đạo về công
tác đánh giá của cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương như sau:
- Luật Cán bộ, công chức năm 2008, quy định kết quả công tác theo nhiệm
vụ được giao là nội dung đánh giá công chức hàng năm. Cụ thể hóa Luật này,
tại Mục 5, Chương III, Nghị định 24/2010/NĐ-CP ngày 13/3/2010 quy định về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Về trình tự đánh giá công chức,
Nghị định này ghi rõ: “công chức phải thực hiện tự đánh giá kết quả công tác
theo nhiệm vụ được giao”. Như vậy, ngay từ những giai đoạn đầu khi Việt Nam
chúng ta chưa có văn bản riêng quy định về việc đánh giá, phân loại công chức,
Quốc hội, Chính phủ cũng đã thể hiện rõ quan điểm thống nhất đó là muốn
đánh giá thực chất công chức thì phải dựa vào kết quả thực hiện nhiệm vụ được
giao.
80
- Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức” (ban hành kèm
theo Quyết định 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ) liên
quan đến công tác đánh giá công chức, Đề án nêu rõ: việc đánh giá phải căn cứ
vào kết quả, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức; thẩm quyền đánh giá
thuộc về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan sử dụng cán bộ, công chức.
Chú trọng thành tích, công trạng, kết quả công tác của cán bộ, công chức. Coi
đó là thước đo chính để đánh giá phẩm chất, trình độ, năng lực của cán bộ, công
chức [20]. Đề án tiếp tục khẳng định quan điểm của cơ quan nhà nước Trung
ương trong đánh giá công chức hàng năm đó là chú trọng vào kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao đồng thời trách nhiệm đánh giá phải thuộc về người đứng
đầu cơ quan, đơn vị sử dụng công chức. Trước đó, Nghị quyết số 30c/NQ-CP
ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 nhấn mạnh trọng tâm cần thực
hiện đó là cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thúc đẩy đội ngũ
công chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao. Như vậy, quan điểm
hướng đến cải cách chính sách, cơ chế trả lương đảm bảo gắn với kết quả đánh
giá công chức hàng năm, dựa trên cơ sở là mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
từng công chức, giảm và hướng đến chấm dứt việc trả lương theo thâm niên, ít
gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Chính sách khen thưởng, đề bạt,
bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng,...cũng phải xuất phát từ thành tích và năng lực
thật sự của mỗi cá nhân. Đảm bảo trong tiến trình cải cách cần phải chú trọng
đến cơ chế phù hợp để sử dụng kết quả đánh giá một cách triệt để.
- Trước khi Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về
đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức ra đời, Bộ Nội vụ đã ban
hành văn bản số 4375/BNV-CCVC ngày 02/12/2013 và văn bản số 4393/BNV-
CCVC ngày 17/10/2014 hướng dẫn thống nhất việc đánh giá công chức (năm
2013 và 2014) trên phạm vi toàn quốc. Theo 02 văn bản hướng dẫn trên, “tiến
81
độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ” là nội dung đánh giá công chức hàng năm.
Bên cạnh đó, về thẩm quyền đánh giá công chức thuộc về người đứng đầu cơ
quan, đơn vị sử dụng công chức. Như vậy, trước khi có Nghị định chính thức
quy định về đánh giá công chức hàng năm, quan điểm xuyên suốt của các cơ
quan Trung ương vẫn là đảm bảo kết quả đánh giá công chức hàng năm thực
sự phản ánh đầy đủ, chính xác mức độ hoàn thành nhiệm vụ, kết quả thực hiện
công việc, tinh thần trách nhiệm và kỷ luật, kỷ cương của công chức.
- Ngày 09/6/2015, Nghị định 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đánh giá
và phân loại cán bộ, công chức, viên chức ra đời. Đây được coi là căn cứ quan
trọng để bố trí, sử dụng, đào tạo cán bộ; bồi dưỡng, nâng ngạch; quy hoạch, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện
các chính sách khác. Như vậy, lần đầu tiên công tác đánh giá công chức hàng
năm được thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật, mang tính dưới luật.
Kế thừa quan điểm chỉ đạo trước đó, Nghị định này khẳng định việc phân loại
công chức hàng năm phải dựa vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao của
mỗi công chức.
- Về phía địa phương, hàng năm trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của UBND
tỉnh Đồng Nai và văn bản hướng dẫn của Sở Nội vụ tỉnh, UBND thành phố đều
thống nhất triển khai công tác đánh giá công chức trên địa bàn thành phố. Qua
thực tiễn thực hiện công tác đánh giá có thể đúc kết quan điểm chỉ đạo thống
nhất của địa phương về công tác đánh giá công chức hàng năm như sau: đánh
giá công chức hàng năm nhằm làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, mặt mạnh, mặt
yếu của công chức về năng lực công tác, phẩm chất chính trị, ý thức tổ chức kỷ
luật, dự đoán khả năng phát triển Đánh giá công chức phải dựa vào việc thực
hiện nhiệm vụ được giao, lấy kết quả, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của công
chức làm thước đo chủ yếu trong đánh giá. Đây là được xem là quan điểm chỉ
đạo xuyên suốt trong công tác đánh giá công chức hàng năm, do vậy cần sớm
82
hoàn chỉnh danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan hành chính nhà nước đã
được Bộ Nộ vụ phê duyệt, sau khi đã có cơ sở là tiêu chuẩn thực hiện công việc
của từng vị trí, địa phương tiếp tục thực hiện xây dựng tiêu chí đánh giá phù
hợp làm căn cứ cho đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức hàng
năm. Đồng thời, mở rộng tính công khai, minh bạch và công bằng trong đánh
giá công chức hàng năm, hướng đến việc tạo ra sự tin tưởng ở đội ngũ công
chức vào kết quả đánh giá hàng năm từ đó thay đổi cách làm hình thức, nhận
được sự quan tâm nhiều hơn từ phía đội ngũ công chức. Theo đó, đảm bảo tính
công khai, minh bạch trong đánh giá gắn với trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan, đơn vị đồng thời mở rộng sự tham gia của chủ thể thứ ba vào quy trình
đánh giá, thực hiện lấy ý kiến về sự hài lòng của khách hàng khi đến liên hệ
công tác hoặc giao dịch tại các cơ quan hành chính nhà nước (đặc biệt là bộ
phận tiếp nhận và trả kết quả thành phố), sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ
cho việc đánh giá công chức hàng năm như thiết lập hệ thống camera giám sát,
phần mềm theo dõi giải quyết công việc của công chức,...đây là những nội dung
đã được UBND tỉnh và UBND thành phố đưa ra trong Kế hoạch cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020. Đánh giá công chức dùng là căn cứ để
tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, giới thiệu ứng cử, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với
công chức.
Có thể thấy, các văn bản của Trung ương, của UBND tỉnh Đồng Nai và
UBND thành phố Biên Hòa thể hiện rõ nội dung chỉ đạo xuyên suốt về công
tác đánh giá công chức hàng năm đó là: để đánh giá thực chất đòi hỏi cơ quan,
đơn vị sử dụng công chức phải chú trọng vào thành tích, công trạng, kết quả
công tác của công chức. Coi đó là thước đo chính để đánh giá phẩm chất, trình
độ, năng lực của công chức đồng thời vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn
83
vị sử dụng công chức được xác định là yếu tố quyết định đến chất lượng công
tác đánh giá hàng năm.
Từ đó, có thể đúc kết một số quan điểm cần thống nhất trong đánh giá kết
quả thực hiện đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức, cụ thể như
sau:
Thứ nhất, đánh giá kết quả thực hiện công việc không thể tách rời đánh
giá công chức
Như đã phân tích ở những phần trên, một trong những nguyên nhân dẫn
đến công tác đánh giá công chức hiện nay rơi vào tình trạng còn nhiều lúng
túng, bất cập, chưa lối thoát, vẫn là khâu yếu nhất trong công tác cán bộ, đó là
do thiếu nhất quán trong quan điểm đánh giá. Đánh giá không trên cơ sở công
việc được giao sẽ làm cho kết quả đánh giá chung chung, thiếu sát thực. Tùy
vào vị trí công việc mà mỗi công chức sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ, công
việc nhất định được nhà nước, cơ quan, đơn vị giao; công chức sẽ không làm
những việc không thuộc nhiệm vụ được giao. Do vậy, việc đánh giá phải trên
cơ sở thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao và được đo bằng kết quả, sản
phẩm đầu ra so với mục tiêu, yêu cầu được đặt ra ở giai đoạn khác nhau. Việc
đánh giá, xếp loại là nhằm xác định mức độ hoàn thành công việc được giao
của chính bản thân công chức đó, chứ không phải là để so sánh giữ người này
với người khác. Như vậy, đánh giá công chức hàng năm phải có nội dung chính
là đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức. Tuy vậy, do lao động
của công chức là dạng lao động đặc biệt, chính vì thế các yếu tố thuộc về phẩm
chất, tư tưởng chính trị, tinh thần, trách nhiệm trong công việc, đặc biệt là thái
độ phục vụ nhân dân (nền hành chính phục vụ) cũng cần được quan tâm. Cần
nghiên cứu quy định trọng số điểm giữa các tiêu chí đánh giá hàng năm (gồm
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; chấp hành nội quy, quy chế cơ quan;
84
tinh thần, trách nhiệm công việc, thái độ phục vụ nhân dân) để đảm bảo kết quả
thực hiện nhiệm vụ được giao ở mỗi công chức là nội dung quan trọng nhất
trong đánh giá công chức hàng năm.
Thứ hai, đánh giá kết quả thực hiện công việc phải định lượng
Việc đánh giá, xếp loại là nhằm xác định mức độ hoàn thành công việc
được giao của chính bản thân công chức. Và để xác định được mức độ hoàn
thành công việc, các kết quả đầu ra phải được lượng hóa bằng các chỉ số giúp
đo lường kết quả (như chỉ số về số lượng, chất lượng, thời gian,...). Ví dụ, đối
với các phòng chuyên môn thuộc UBND thành phố có thể căn cứ vào chỉ tiêu
kế hoạch hàng năm của đơn vị mình để xác định tiêu chí đánh giá cụ thể gắn
với từng vị trí công việc trong tổ chức và từ đó làm cơ sở để đánh giá kết quả
thực hiện công việc của công chức phụ trách vị trí công việc nhất định trong
đơn vị. Chỉ tiêu kế hoạch công tác năm 2016 của một số phòng chuyên môn,
cụ thể:
- Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố: tỷ lệ thu gom và xử lý chất
thải sinh hoạt: 98%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn công nghiệp không
nguy hại: 100%; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân cả năm
2016 là 1.400 giấy.
- Thanh tra thành phố: tỷ lệ giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo đạt từ
95%/năm trở lên.
- Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội: tỷ lệ lao động qua đào tạo:
72%; giải quyết việc làm 23.500 người.
- Phòng Quản lý đô thị: tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh: 99.2%; tỷ
lệ hộ dân sử dụng điện: 99.90%; diện tích cây xanh đô thị: 8,2m2/người.
85
- Phòng Tài chính – Kế hoạch: tổng thu ngân sách trên địa bàn 2.345 tỷ
đồng; thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước 24.000 tỷ đồng.
Thứ ba, yếu tố quyết định đến chất lượng công tác đánh giá kết quả
thực hiện công việc của công chức thuộc về vai trò của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị sử dụng công chức
Như đã phân tích, trong đánh giá kết quả thực hiện công việc, điều quan
trọng là phải xác định được kết quả mong đợi ở từng vị trí công việc mà công
chức đảm nhận, xác định tiêu chí đánh giá gắn với với các chỉ số giúp đo lường
kết quả. Như vậy, vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng công
chức thể hiện trên các khía cạnh, một là trách nhiệm của họ trong việc xây dựng
tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng vị trí công việc trong tổ chức, hai là, chủ
thể có thẩm quyền quyết định kết quả đánh giá cuối cùng và các quyết định
nhân sự tiếp theo. Công tác đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức
sẽ được thực hiện dễ dàng hơn nếu người đứng đầu làm tốt cả hai vai trò này.
Cụ thể, người đứng đầu đơn vị sử dụng công chức có sự am hiểu từng vị trí
công việc trong tổ chức, từ đó thiết lập các tiêu chí cụ thể để đánh giá đảm bảo
có sự phù hợp, các tiêu chí đánh giá được theo dõi để có sự điều chỉnh khi cần
thiết. Trên cơ sở các tiêu chí đánh giá ấy, người đứng đầu đơn vị sử dụng công
chức có căn cứ để đưa ra các kết luận đánh giá khách quan, công bằng.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đánh giá kết quả
thực hiện công việc của công chức
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của đánh giá kết quả
thực hiện công việc của công chức
Nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của công tác đánh giá kết quả
thực hiện công việc của công chức đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung
và bản thân công chức nói riêng, từ đó dành nhiều tâm huyết hơn cho hoạt động
86
này, tránh cách làm hình thức, qua loa như trước kia là điều kiện quan trọng để
cải thiện hoạt động đánh giá hàng năm. Bởi dù cho phương pháp sử dụng để
đánh giá có khoa học đến đâu cũng sẽ thất bại nếu tư duy, nhận thức của con
người với tư cách là chủ thể của sự đổi mới chưa thay đổi.
- Đối với công chức lãnh đạo, quản lý vai trò của họ trong đánh giá kết
quả thực hiện công việc được thể hiện trên hai phương diện. Thứ nhất, trực tiếp
tham gia vào quá trình xây dựng bản mô tả yêu cầu, tiêu chuẩn công việc hoặc
xác định mục tiêu cho nhân viên nên họ phải xác định được kết quả mong đợi
ở từng vị trí công việc mà công chức đảm nhận, đây là cơ sở quan trọng để xem
xét, đánh giá và phân loại. Thứ hai, là người quyết định kết quả đánh giá đối
với công chức dưới quyền, kết quả đánh giá này là cơ sở cho các quyết định
nhân sự tiếp theo. Để làm tốt cả hai vai trò ấy, đòi hỏi người đứng đầu phải am
hiểu về công việc mà công chức đảm nhận; công bằng, khách quan và công tâm
trong đánh giá. Đánh giá phải gắn với công việc mà công chức đảm nhận, điều
quan trọng nhất mà người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần làm là cho nhân viên
cấp dưới thấy được rằng khi đánh giá nhân viên, họ phải đặt mình dưới tư cách
của một người thủ trưởng và cam kết rằng cho dù người khác ở cương vị thủ
trưởng ấy cũng đánh giá nhân viên như vậy. Người đứng đầu không được phép
để tình cảm chi phối, đánh giá hoàn toàn dựa trên thành tích cá nhân đạt được
cùng với sự nỗ lực, phấn đấu của từng thành viên. Mặt khác, mọi sự thay đổi
muốn thành công trước hết cần có người đứng đầu quyết tâm thay đổi từ trong
tư duy, nhận thức; biết cách thực hiện và cam kết thực hiện sự thay đổi ấy, từ
đó mới có thể thuyết phục, dẫn dắt người khác đi theo mình.
- Đối với công chức thừa hành, đánh giá kết quả thực hiện công việc luôn
là cơ hội tốt để bản thân công chức nhận biết những ưu, khuyết điểm của bản
thân. Vì vậy, cần có trách nhiệm hơn khi tham gia tự nhận xét, đánh giá, bám
sát kết quả đạt được trong công việc với kết quả tổ chức mong đợi. Phải nhận
87
thức rõ chỉ có phấn đấu trong chuyên môn, nghiệp vụ mới có cơ hội thăng tiến,
phát triển trong nghề nghiệp; nền hành chính gọi là chuyên nghiệp thì không
thể có công chức giỏi “vun vén” cho những mối quan hệ và yếu trong chuyên
môn, nghiệp vụ.
Để nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của công tác đánh giá kết quả
thực hiện công việc được giao, về phía người đứng đầu cơ quan, đơn vị trước
hết phải đi đầu trong việc chủ động nghiên cứu về mặt lý luận, khoa học song
song với đó đúc kết kinh nghiệm thực tiễn (có thể là kinh nghiệm từ những địa
phương khác) nhằm mục đích hiểu đúng, hiểu rõ về những lợi ích thật sự mà
công tác đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức mang lại. Khi hiểu
đúng, hiểu rõ vấn đề, người đứng đầu tiếp tục tuyên truyền, vận động, thuyết
phục cấp dưới để họ hiểu và làm theo. Đồng thời, vai trò làm gương của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc thay đổi nhận thức
của công chức về đánh giá kết quả thực hiện công việc. Cụ thể, trong chỉ đạo,
điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị, người đứng đầu phải chú trọng vào
kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của công chức, coi hiệu quả công việc là
căn cứ quan trọng trong đánh giá. Trường hợp công chức bị cấp có thẩm quyền
phê bình, nhắc nhở về việc chậm tiến độ công việc hoặc công việc chưa đáp
ứng yêu cầu, người đứng đầu phải có biện pháp xử lý ngay, công khai hình thức
xử lý trước tập thể cơ quan. Đây vừa là biện pháp chấn chỉnh cách thức làm
việc của công chức, làm gương trước tập thể công chức, vừa góp phần nâng cao
nhận thức của đội ngũ công chức về tầm quan trọng của kết quả thực hiện công
việc. Ngược lại, nếu người đứng đầu không nghiêm trong những trường hợp
như thế sẽ dẫn đến việc công chức cho rằng việc không đạt được kết quả như
mong đợi cũng không gây ra hậu quả nghiêm trọng nào, và vì thế dẫn đến cách
làm việc qua loa, hình thức. Bên cạnh đó, về cả hai phía cần nhận thức đúng
88
quan điểm trong đánh giá kết quả thực hiện công việc đã được các cơ quan nhà
nước cấp trên và địa phương quán triệt.
Tóm lại, UBND thành phố Biên Hòa thực hiện đánh giá kết quả thực hiện
công việc của công chức, xét về mặt chủ thể tham gia đánh giá cần có sự động
tình, ủng hộ và tích cực tham gia từ phía những người đứng đầu cơ quan, đơn
vị và đội ngũ công chức thừa hành. Sự đồng tình, ủng hộ, nhiệt tình tham gia
của họ xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của hoạt động đánh
giá kết quả thực hiện công việc đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, từng cá nhân
công chức và cả nền hành chính nói chung.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đánh giá kết quả thực hiện
công việc của công chức
Như đã phân tích hệ thống pháp luật ở nước ta quy định về đánh giá công
chức hàng năm gồm có Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và hệ thống vác văn
bản dưới luật (như Nghị định) của Chính phủ, văn bản hướng dẫn thi hành của
Bộ Nội vụ. Tuy nhiên, tất cả hệ thống văn bản này chưa hình thành một cách
thức đánh giá kết quả thực hiện công việc mà chỉ trên cơ sở quy định đánh giá
công chức hàng năm phải chú trọng vào kết quả thực hiện công việc được giao.
Đồng thời, ở cấp độ thấp hơn là ở địa phương, điển hình như thành phố Đà
Nẵng và một số ít địa phương khác đã được Bộ Nội vụ chấp thuận chủ trương
thực hiện đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của công chức. Như
vậy, đa phần những địa phương còn lại vẫn triển khai thực hiện đánh giá công
chức theo hướng dẫn chung của Chính phủ tại Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày
09/6/2015. Chính vì thế, để thực hiện công tác đánh giá kết quả thực hiện công
việc được giao của công chức trong thời gian tới cần có hướng nghiên cứu, sửa
đổi quy định hiện hành về đánh giá công chức hàng năm.
89
Theo đó, cần sửa đổi theo hướng làm rõ mức độ (%) hoàn thành nhiệm vụ
của công chức dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Việc xác định
tương đối chính xác về mức độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức sẽ giúp
người đứng đầu phân loại công chức một cách khách quan hơn. Vì thế việc
khẩn trương hoàn chỉnh nội dung còn thiếu đó là hệ thống các tiêu chí được sử
dụng trong đánh giá là cần thiết nhất trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật quy định về đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức. Qua hai
phương án quy định về trách nhiệm xây dựng các tiêu chí chi tiết để đánh giá
và phân loại công chứ mà Bộ Nội vụ báo cáo xin ý kiến Chính phủ, trong đó
tác giả xin đề xuất áp dụng phương án 1 như Dự thảo sửa đổi Nghị định
56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 là “giao Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị
xây dựng các tiêu chí chi tiết để đánh giá và phân loại công chức bảo đảm phù
hợp với điều kiện cụ thể của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Theo đó, trên cơ
sở chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan chuyên môn đã được quy định, Thủ
trưởng cơ quan, đơn vị có trách nhiệm xây dựng hệ thống các tiêu chí chi tiết
để đánh giá và phân loại công chức của đơn vị mình (trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt, ví dụ: Sở, ngành liên quan). Hệ thống tiêu chí này phải đảm bảo gắn
với từng vị trí công việc trong tổ chức, thông qua các tiêu chí sẽ phản ánh mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của công chức. Đồng thời, trong thời gian áp dụng tiêu
chí đánh giá nếu cần thiết thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ động điều chỉnh sao
cho phù hợp nhất với tình hình thực tiễn tại đơn vị những vẫn phải đảm bảo
phù hợp với quy định của pháp luật và tính chịu trách nhiệm cá nhân của Thủ
trưởng cơ quan, đơn vị trước quyết định đánh giá của mình.
Để làm được những điều đó, hệ thống pháp luật quy định về đánh giá công
chức cũng cần hoàn thiện theo hướng đề cao vai trò của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị. Bởi xây dựng hệ thống tiêu chí chi tiết, triển khai thực hiện đánh
giá theo các tiêu chí không thể thiếu vắng vai trò của lãnh đạo.
90
3.2.3. Xây dựng tiêu chí đánh giá hợp lý, phù hợp
Như đã phân tích, “kết quả thực hiện công việc” là nội dung để đánh giá
công chức nhưng để đo lường được kết quả thì phải xác định tiêu chí. Ứng với
mỗi vị trí công việc, kết quả thực hiện công việc phải được cụ thể hóa thành
các tiêu chí phản ánh về số lượng, chất lượng và thời gian. Để xây dựng tiêu
chí đánh giá hợp lý, phù hợp với công chức tại các cơ quan chuyên môn của
thành phố Biên Hòa, tác giả xin đưa ra một số nguyên tắc sau:
- Tiêu chí đánh giá phải được xây dựng trên cơ sở phân tích công việc,
phân tích con người làm công việc ấy; đảm bảo tính khoa học, xuất phát từ bản
chất công việc mà công chức phụ trách.
- Tiêu chí đánh giá phải đảm bảo phù hợp với những quy định hiện hành
có liên quan đến công việc do công chức phụ trách. Ví dụ, xây dựng tiêu chí
đánh giá liên quan đến nhóm vị trí công việc giải quyết khiếu nại, tố cáo phải
xuất phát từ những quy định về quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, khi các quy định hiện hành thay đổi, tiêu chí đánh giá cũng được
nghiên cứu thay đổi theo sao cho phù hợp.
- Tiêu chí đánh giá phải được cụ thể bằng các chỉ số giúp đo lường kết
quả. Ví dụ, chỉ số phản ánh số lượng, chất lượng, thời gian. Tiêu chí đánh giá
sau khi được xây dựng phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu hoặc tiêu chuẩn
thực hiện công việc. Nghĩa là, thông qua các tiêu chí đánh giá, người đứng đầu
cơ quan đơn vị và công chức phải xác định được mức độ hoàn thành mục tiêu
hoặc nhiệm vụ được giao. Ví dụ, mục tiêu đặt ra cho nhóm công việc “thực
hiện chính sách đối với người có công” (ví dụ, giải quyết chế độ thanh niên
xung phong) là 100% hồ sơ tiếp nhận trong tháng nếu đủ điều kiện phải được
giải quyết. Trường hợp, hồ sơ đủ điều kiện mà công chức chậm trễ trong việc
thụ lý xem như không hoàn thành mục tiêu.
91
Có 03 nhóm tiêu chí tác giả cho là phù hợp và cần thiết trong đánh giá kết
quả làm việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành
phố Biên Hòa:
Kết quả thực hiện công việc (tác giả cho rằng nhóm tiêu chí này đóng vai
trò trọng tâm trong việc đánh giá công chức - trọng số 70%).
Ở mỗi vị trí công việc cụ thể, kết quả thực hiện công việc của công chức
phải được cụ thể hóa thành các chỉ số giúp đo lường về số lượng, chất lượng và
thời gian thực hiện công việc. Tuy nhiên, chỉ số giúp đo lường kết quả thực
hiện công việc của công chức ở những vị trí công việc khác nhau là không
giống nhau, phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:
- Lĩnh vực công việc cụ thể từng công chức đảm nhận trong tổ chức. Ví
dụ, có những công việc đòi hỏi thời gian hoàn tất kéo dài, có thể là nhiều tháng.
Nhưng điều quan trọng là, người đứng đầu và công chức thực hiện phải cụ thể
hóa sản phẩm con trong từng giai đoạn cụ thể là gì. Chẳng hạn, công chức được
giao nhiệm vụ “dự thảo Quy chế tổ chức và hoạt động theo quy định mới cho
đơn vị”. Để hoàn tất việc dự thảo này có thể mất vài tháng. Để đánh giá chính
xác, người đứng đầu căn cứ vào những sản phẩm cụ thể trong từng giai đoạn
như sau khi dự thảo Quy chế, tiến hành lấy ý kiến đóng góp của các ngành, tiến
hành chỉnh sửa theo ý kiến đóng góp, rồi tham mưu UBND thành phố Quyết
định ban hành Quy chế chính thức, sau đó gửi các đơn vị liên quan. Như vậy
có nghĩa là Quy chế tổ chức và hoạt động là sản phẩm cuối cùng, nhưng để có
sản phẩm cuối cùng, công chức phải thực hiện những công đoạn trước đó. Như
vậy, khi xây dựng tiêu chí đánh giá, thủ trưởng cơ quan cần thể hiện được nội
dung này.
- Kế hoạch chung của cơ quan, đơn vị để từ xác định mục tiêu riêng cho
từng cá nhân công chức; từ mục tiêu này, thủ trưởng cơ quan sẽ xác định chỉ số
92
cho từng nhóm tiêu chí cụ thể giúp đó lường mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
công chức.
- Bản mô tả công việc tiêu chuẩn công việc của từng vị trí hoặc bản đăng
chương trình công tác của mỗi công chức (tham khảo bảng 3.1). Căn cứ vào
Bản mô tả tiêu chuẩn công việc, người đứng đầu cơ quan, đơn vị và công chức
hoàn toàn xác định được công việc do công chức đảm nhận có những nhiệm vụ
cụ thể nào và trách nhiệm của họ là hoàn thành tất cả các nhiệm vụ đó. Vậy
không hoàn thành một trong số các nhiệm vụ xem như công chức chưa hoàn
thành công việc được giao. Tuy nhiên, trong điều kiện UBND thành phố Biên
Hòa vẫn chưa thể xây dựng bản mô tả công việc, tác giả đề xuất các cơ quan
chuyên môn thành phố sử dụng giải pháp thay thế đó là “Bản đăng ký chương
trình công tác năm”. Bản này đơn giản là việc công chức đăng ký những công
việc trong năm phải thực hiện tương ứng với vị trí công việc do công chức phụ
trách; công chức cũng phải dự đoán thời gian bắt đầu và kết thúc của công việc
cụ thể. Khi đánh giá người đứng đầu căn cứ vào bản đăng ký của công chức để
nhận xét, phân loại.
Chấp hành các Quy định – Nội quy – Quy chế của cơ quan, đơn vị; Ý thức
chấp hành kỷ luật liên quan đến thực thi nhiệm vụ, công vụ; Chấp hành và thực
hiện đúng quy định của Pháp luật Nhà nước (trọng số 15%)
Mục đích của việc đánh giá này nhằm đảm bảo ý thức tuân thủ, chấp hành
nội quy cơ quan, đơn vị đồng thời nâng cao trách nhiệm của từng công chức
trong kết quả hoạt động chung của cơ quan, đơn vị. Vì hiện nay, vấn đề về đạo
đức công vụ rất được chú ý bên cạnh đó, bản thân công chức nếu không làm
tròn trách nhiệm trong việc tham mưu lĩnh vực do mình phụ trách, trường hợp
có văn bản phê bình, nhắc nhở của cơ quan cấp trên sẽ ảnh hưởng đến kết quả
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cả cơ quan, đơn vị (đánh giá công
93
vụ hàng năm). Để thực hiện đánh giá nội dung này, từng cơ quan thiết lập cho
mình bộ phận chuyên trách đánh giá, bộ phận này có trách nhiệm thống kê số
lần vi phạm về đạo đức, ý thức chấp hành kỷ luật cũng như rà soát các văn bản
phê bình, nhắc nhở, xử lý kỷ luật công chức, văn bản biểu dương,...làm căn cứ
để đánh giá.
Thái độ - Trách nhiệm đối với công việc – đối với tổ chức – đối với công
dân, đồng nghiệp và cơ quan, đơn vị (trọng số 15%)
Như vậy, trên cơ sở nội dung đánh giá công chức hàng năm được quy định
tại Luật cán bộ, công chức và Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 tác
giả đề ra 03 nhóm tiêu chí dùng để đánh giá công chức hàng năm, trong đó đảm
bảo “kết quả thực hiện nhiệm vụ” của từng công chức là nội dung trọng tâm
trong đánh giá.
3.2.4. Mở rộng sự tham gia của công dân tham gia vào hoạt động đánh
giá công chức
Sự tham gia nhận xét, đánh giá của chủ thể thứ ba với tư cách là khách
hàng sẽ giúp kết quả đánh giá khách quan hơn. Cần nghiên cứu đưa tiêu chí
đánh giá này vào nội dung đánh giá, tuy nhiên về trọng số điểm của tiêu chí
này phải thấp hơn các tiêu chí kết quả thực hiện công việc của công chức
Phương pháp tính điểm này đảm bảo không vi phạm nguyên tắc dàn trải trong
nội dung đánh giá, vẫn lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao là nội dung
chính trong đánh giá.
“Thái độ phục vụ nhân dân” là nội dung đánh giá công chức hàng năm,
nội dung này được quy định tại điểm e, khoản 1, điều 56 Luật Cán bộ, công
chức năm 2008. Đồng thời, Điều 17 Luật này cũng quy định “công chức không
được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành
công vụ”. Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh
94
giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, quy định “Nghĩa vụ, đạo đức,
văn hóa giao tiếp và những việc công chức không được làm quy định tại Luật
Cán bộ, công chức” là một trong những căn cứ để đánh giá và phân loại công
chức hàng năm (điểm a, khoản 2, điều 4). Như vậy, sự tham gia đánh giá của
công dân vào quá trình đánh giá công chức hàng năm là nội dung đã được luật
hóa, chính vì vậy, việc nghiên cứu, mở rộng sự tham gia của nhóm chủ thể này
là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Theo đó, UBND thành phố
Biên Hòa cần khảo sát ý kiến của người sử dụng dịch vụ công, tức là cần sự
tham gia của cả người dân vào quá trình đánh giá công chức đối với những
mảng việc liên quan đến dịch vụ công.
Bên cạnh đó, hầu hết các vị trí chuyên môn, nghiệp vụ nếu không tiếp xúc
trực tiếp với người dân với tư cách là khác hàng thì cũng tiếp xúc với những
công chức từ các cơ quan, đơn vị khác đến lên hệ công tác như vị trí “công tác
thi đua – khen thưởng”, “cải cách hành chính”, “tôn giáo”,...Như vậy, kênh
thông tin này hoàn toàn cần thiết trong việc cung cấp những thông tin có liên
quan đến thái độ phục vụ, tinh thần hợp tác trong công việc. Công chức không
thể được đánh giá là hoàn thành tốt hoặc xuất sắc nhiệm vụ trong khi lại có thái
độ hách dịch với khách hàng của mình, hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thực
hiện các nhiệm vụ mang tính chất phối hợp. Tuy nhiên, những ý kiến đánh giá
từ kênh thông tin này tốt nhất nên được lấy gián tiếp để tránh bị chi phối bởi
các yếu tố tâm lý (thông qua hệ thống đánh giá trực tuyến, đường dây nóng,
hay thông qua việc bỏ phiếu đánh giá vào hòm thư)
3.2.5. Rút ngắn thời gian định kỳ đánh giá, đảm bảo công tác đánh giá
được diễn ra trong suốt quá trình thực hiện công việc của công chức
Kết quả thực hiện công việc của công chức cần được theo dõi từng tháng,
từng quý và kết quả đánh giá năm phải dựa trên việc tổng hợp kết quả đánh giá
tháng và quý. Nghĩa là, cần nghiên cứu rút ngắn thời gian đánh giá công chức
95
thay vì đánh giá theo năm (12 tháng) sang hướng đánh giá theo từng tháng hoặc
từng quý. Với cách thức đánh giá này, người đứng đầu cơ quan, đơn vị sẽ có
thể theo dõi một cách chính xác hơn quá trình công tác năm của công chức. Về
phía công chức cũng thể có định hướng rõ ràng hơn những nhiệm vụ phải thực
hiện theo từng tháng, quý; bản thân công chức hoàn toàn xác định mục tiêu
trong từng giai đoạn. Việc đánh giá như thế sẽ cung cấp những bằng chứng rõ
ràng, xác thực hơn về kết quả thực hiện công việc được giao của công chức
trong mỗi giai đoạn.
Một số địa phương triển khai đánh giá kết quả thực hiện công việc của
công chức như thành phố Đà Nẵng cũng đã thực hiện nguyên tắc kết quả công
việc của công chức được theo dõi từng tháng để làm cơ sở cho việc đánh giá
công chức cuối quý, năm. Kết quả đánh giá công việc cuối năm là cơ sở chính,
kết hợp với tiêu chí riêng của từng cơ quan, đơn vị (nếu có) để thực hiện đánh
giá công chức hằng năm [25]. Một phần mềm chuyên dụng cũng được thiết kế
để hỗ trợ công tác đánh giá này giúp cho việc theo dõi kết quả đánh giá từng
tháng thuận tiện và dễ dàng hơn.
Theo đó, UBND thành phố Biên Hòa có thể học tập kinh nghiệm từ những
Quận cụ thể ở thành phố Đà Nẵng, triển khai đánh giá kết quả công việc theo
từng tháng, quý và cơ sở cho đánh giá năm. Tuy nhiên cũng cần có sự điều
chỉnh nhất định, chẳng hạn về quy mô thực hiện, nội dung, tiêu chí đánh giá,...
đảm bảo phù hợp với địa phương. Tác giả xin đề xuất giải pháp cụ thể cho các
cơ quan chuyên môn thành phố như sau:
- Vào đầu năm, công chức chuyên môn thực hiện đăng ký chương trình
công tác theo mẫu chung. Công chức dựa trên Quy chế tổ chức và hoạt động
của đơn vị mình tiến hành đăng ký tên công việc cụ thể, xác định thời gian bắt
đầu và thời gian kết thúc. Sau đó, bản đăng ký này được nộp về cho Ban lãnh
96
đạo mỗi cơ quan chuyên môn để tổng hợp, theo dõi. Ngoài những nhiệm cụ thể
cố định thực hiện theo vị trí công việc nhất định mà công chức đăng ký, lãnh
đạo cơ quan cũng có thể giao thêm các nhiệm vụ khác tùy theo tình hình thực
tế, nhiệm vụ này sẽ được đăng ký bổ sung vào bản đăng ký hàng năm của công
chức (lưu ý, nhiệm vụ này phải phù hợp với công việc mà công chức đang đảm
nhận). Về cách thức đánh giá, kết quả thực hiện công việc của công chức sẽ
được theo dõi từng tháng, tuy nhiên không thực hiện xếp loại theo tháng. Ngoài
ra, từng cơ quan chuyên môn căn cứ chỉ tiêu kế hoạch hàng năm để xác định
mục tiêu cho từng công chức. Công chức phụ trách vị trí công việc nhất định
và mỗi vị trí công việc phải lượng hóa kết quả mong đợt làm cơ sở cho việc
theo dõi kết quả thực hiện công việc hàng tháng và năm.
Bảng 3.1 – Bản đăng ký chương trình công tác năm dành cho công chức
tại các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND thành phố Biên Hòa
TÊN ĐƠN VỊ
BẢN ĐĂNG KÝ CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC NĂM ...
(TỔ: ........................)
S
T
T
Nội dung
công việc
Người
thực
hiện
Lãnh
đạo
phụ
trách
Thời
gian
bắt
đầu
Thời
gian
hoàn
thành
Mức độ hoàn thành
HTXS
NV
HTT
NV
HTNH
nhưng còn
hạn chế
năng lực
Không
HTNV
1
2
3
...
(Nguồn: Tác giả xây dựng bảng)
- Hàng tháng, cơ quan, đơn vị tổ chức họp đánh giá kết quả công tác trong
tháng của công chức. Trong cuộc họp này, từng công chức chuyên môn phải
báo nhanh với lãnh đạo cơ quan về nhiệm vụ được giao thực hiện trong tháng
97
đó; nêu rõ công việc đã hoàn tất, công việc chưa hoàn tất (nguyên nhân chưa
hoàn tất và hướng khắc phục).
- Trên cơ sở bản đăng ký, lãnh đạo phòng sẽ nhận xét về mức độ đạt hay
chưa. Trên cơ sở kết quả nhận xét, đánh giá theo từng tháng và từng quý, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị có thể đưa ra kết luận về kết quả thực hiện công việc
của công chức trong cả năm công tác.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế trong công tác đánh giá kết quả thực
hiện công việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành
phố Biên Hòa và những nguyên nhân của chúng, tác giả đã đề xuất một số giải
pháp cụ thể đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với cơ quan nhà nước cấp
trên nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả thực hiện công
việc của công chức và để công tác đánh giá thật sự là công cụ hữu hiệu trong
hoạt động quản lý nhân sự, tác giả cho rằng, về phía UBND thành phố Biên
Hòa cần nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của đánh giá kết quả thực hiện
công việc của công chức không chỉ đối với công chức lãnh đạo, quản lý mà cả
đội ngũ công chức thừa hành; xây dựng tiêu chí đánh giá hợp lý, phù hợp với
các chức danh chuyên môn theo danh mục đề án vị trí việc làm của thành phố;
tăng cường sự tham gia của công dân với tư cách là khách hàng trong đánh giá;
thực hiện đánh giá thường xuyên hơn (theo từng tháng). Bên cạnh đó, qua
nghiên cứu thực tiễn triển khai thực hiện đánh giá kết quả thực hiện công việc
của công chức tại một số địa phương trên cả nước, tác giả đề xuất có thể đưa ra
3 nội dung đánh giá công chức, trong đó đảm bảo “kết quả thực hiện nhiệm vụ
được giao” là nội dung chính trong đánh giá. Đồng thời tác giả đề xuất phiếu
xác định mục tiêu cho từng công chức.
98
PHẦN KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế tri thức phát triển thì nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với mỗi quốc gia. Chính vì lẽ đó việc quan tâm phát triển đội ngũ này luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng đầu, trong đó có nâng cao chất lượng đội
ngũ công chức và có thể thấy rõ điều này qua nội dung trọng tâm được xác định
trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính ở giai đoạn 2 (2011-2020) là:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ,
đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”. Như vậy có
thể thấy nâng cao chất lượng đội ngũ công chức là yêu cầu tất yếu, và để làm
được điều đó cần quan tâm đến vai trò của hoạt động quản lý nguồn nhân lực
nói chung và đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức nói riêng
trong việc góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn nhân lực.
Có thể thấy, đưa hoạt động đánh giá kết quả thực hiện công việc thành đề
tài nghiên cứu, tác giả muốn nhận mạnh vai trò quan trọng của công tác này
cho việc thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ khác của quản lý nguồn nhân lực như
tuyển dụng, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức. Mặt khác, bởi
nó còn có liên quan mật thiết đến việc thỏa mãn các nhu cầu của người lao động
như được thừa nhận, ghi nhận thành tích bằng những phần thưởng xứng đáng,
được đối xử công bằng, được quan tâm thông qua việc đánh giá đúng. Do
vậy, đánh giá kết quả thực hiện công việc được tiến hành theo hướng chú trọng
nhiều hơn đến tính chính xác, khách quan, công bằngcó ý nghĩa quan trọng.
Trên cơ sở hệ thống cơ sở lý luận về đánh giá kết quả thực hiện công việc
luận văn đã phân tích, nhận xét về thực trạng công tác đánh giá kết quả thực
hiện công việc của công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành
phố Biên Hòa trong giai đoạn 2011-2016, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được;
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của thực trạng. Đồng thời, trên cơ sở
99
những nguyên nhân hạn chế đã làm rõ, đề tài đưa ra định hướng giải pháp nhằm
hạn chế ảnh hưởng của sự cảm tính, hình thức, ít gắn với kết quả thực hiện công
việc của công chức trong đánh giá, từ đó nâng cao chất lượng đánh giá, góp
phần cải thiện hiệu quả làm việc của đội ngũ công chức tại UBND thành phố
Biên Hòa.
Với những kết quả nghiên cứu về đánh giá kết quả thực hiện công việc
của công chức từ lý thuyết và kinh nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới và
cả Việt Nam cụ thể như thành phố Đà Nẵng, tác giả cho rằng việc tiếp tục hoàn
thiện công tác đánh giá kết quả thực hiện công việc của công chức tại các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Biên Hòa là hoàn toàn cần thiết. Đây
là cách thức quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
trên địa bàn thành phố Biên Hòa đồng thời trong thời gian tới.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tổ chức Tỉnh ủy (2014), Hướng dẫn số 02-HD/BTCTU ngày 25/11/2010
về việc hướng dẫn đánh cán bộ, công chức, Đồng Nai.
2. Bộ Nội vụ (2015), Quyết định số 2054/QĐ-BNV ngày 31/12/2015 phê duyệt
danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính của tỉnh
Đồng Nai, Hà Nội.
3. Chính phủ (2015), Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính
phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Hồng Hải (2010), “Lựa chọn ưu điểm phù hợp của mô hình chức
nghiệp và việc làm cho nền công vụ Việt Nam”, Tạp chí Tổ chức nhà
nước, số 3 (2010), tr. 10-15.
5. Nguyễn Thị Hồng Hải (2013), Quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết
quả, Nxb Lao động, Hà Nội.
6. Tạ Ngọc Hải (2008), “Vài nét về công chức và Luật công chức ở một số
nước”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5 (2008), tr. 43-45.
7. Nguyễn Thị Ngọc Hoa – Hoàng Văn Thái (2016), “Hoàn thiện thể chế đánh
giá công chức hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 7
(2016), tr. 25-29.
8. Nguyễn Thu Huyền, “Hệ thống đánh giá thực thi công việc ở Hàn Quốc”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8 (2007), tr. 40-44.
9. Nguyễn Phương Liên, “Kinh nghiệm đánh giá công chức của một số quốc
gia trên thế giới”, Web: , Viện Khoa học tổ chức nhà
nước.
101
10. Phòng Nội vụ (2016), Báo cáo số 43/BC-NV ngày 06/3/2016 về việc kết quả
thực hiện công tác đào tạo cán bộ, công chức 05 năm (2011-2015), Biên
Hòa.
11. Phòng Nội vụ (2016), Báo cáo số 50/BC-NV ngày 20/6/2016 về việc sơ kết
thực hiện công tác đánh giá cán bộ 05 năm (2011-2015), Biên Hòa.
12. Phòng Nội vụ (2017), Báo cáo số 11/BC-NV ngày 28/02/2017 về tổng hợp
kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức năm 2016, Biên
Hòa.
13. Quốc Hội (2008), Luật số 22/2008/QH12 ngày 13/11/2008 về Cán bộ, công
chức, Hà Nội.
14. Sở Nội vụ (2012), Văn bản số 1782/SNV-TT ngày 22/10/2012 về việc đánh
giá công chức, viên chức năm 2012, Đồng Nai.
15. Sở Nội vụ (2013), Văn bản số 2162/SNV-CBCC ngày 08/11/2013 về việc
hướng dẫn đánh giá cán bộ, công chức, viên chức năm 2013, Đồng Nai.
16. Sở Nội vụ (2014), Hướng dẫn số 2170/HD-SNV ngày 11/12/2014 về việc
đánh giá và xếp loại công chức, viên chức năm 2014, Đồng Nai.
17. Sở Nội vụ (2015), Hướng dẫn số 1936/HD-SNV ngày 02/12/2015 về việc
đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, Đồng Nai.
18. Nguyễn Hữu Thân (2008), Quản trị nhân sự, Nxb Lao động-Xã hội, TP.
HCM.
19. Nguyễn Trang Thu (2014), Tập bài giảng môn Quản lý nguồn nhân lực
trong tổ chức, Học viện Hành chính.
20.Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ
công vụ, công chức, Hà Nội.
102
21. Đào Thị Thanh Thủy (2015), Đánh giá công chức theo kết quả thực thi
công vụ, Luận án Tiến sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện hành chính
Quốc gia, Hà Nội.
22. Đào Thị Thanh Thủy, “Đánh giá công chức theo kết quả thực thi công vụ
tại một số nước thuộc OECD”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1 (2015), tr.
57-60.
23. Tỉnh ủy (2015), Quyết định số 1075-QĐ/TU ngày 18/8/2015 ban hành Quy
chế về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ và giới
thiệu cán bộ ứng cử, Đồng Nai.
24. Ủy ban nhân dân (2016), Báo cáo số 32/BC-UBND ngày 20/2/2016 về kết
quả thực hiện cải cách hành chính 05 năm giai đoạn 2011-2015, Biên
Hòa.
25. Ủy ban nhân dân (2014), Quyết định số 8415/QĐ-UBND ngày 19/11/2014
về việc ban hành quy định tạm thời về đánh giá công chức theo mô hình
đánh giá kết quả làm việc tại các cơ quan hành chính thuộc UBND thành
phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
26. Ủy ban nhân dân (2012), Quyết định số 27/2012/QĐ-UBND ngày
05/4/2012 ban hành Quy định quản lý và phân cấp thẩm quyền quản lý
công chức; viên chức các cơ quan, ban, ngành và đơn vị sự nghiệp thuộc
UBND tỉnh, UBND cấp huyện, Đồng Nai.
27. Ủy ban nhân dân (2016), Dự thảo Quyết định Ban hành Quy định về bổ
nhiệm, bổ nhiệm lại, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm, điều động,
luân chuyển và quy hoạch cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý
các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, Đồng Nai.
103
28. Ủy ban nhân dân (2016), Dự thảo Quyết định Ban hành Quy định tiêu chuẩn
Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương các cơ quan hành
chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh, cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai, Đồng Nai.
29. Web: (2014), Vấn đề đánh giá kết quả thực thi công vụ
ở Việt Nam hiện nay;
30. Web: www.bienhoa-dongnai.gov.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_danh_gia_ket_qua_thuc_hien_cong_viec_cua_cong_chuc.pdf