Luận văn Đánh giá quá trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta

Những vấn đề đặt ra là làm thế nào để sản phẩm của ta chen được vào thị trường đó. Hiện nay, trừ dầu lửa và gạo, ưu thế sản phẩm của ta trên thị trường còn yếu do chất lượng giá cả không phù hợp. Nhiều ngành hàng ở tình trạng gia công, "lấy công làm lãi" như ngành da, giầy, may mặc.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2471 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá quá trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp thực phẩm, phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp năng, đặc biệt là cơ khí". Do có chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý chí như trên, cộng với sai lầm trong tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên trong thời kỳ 1976-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng yêu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm, sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9% một năm. Trước tình hình đó và từ hội nghị trung ương 6 (khóa IV) năm 1979 và tiếp đó là đại hội V, Đảng ta đã nhận thấy cần phải nhận thức đúng hơn vị trí của nông nghiệp và phải bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh cơ cấu đầu tư Đại hội Đảng lần thứ V (1981) đã xác định: "Nội dung chính của CNH XHCN trong 5 năm (1981-1985) và những 80 là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng"(1). Sự điều chỉnh, thay đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa. Bình quân hàng năm thời kỳ 1981-1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu công nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất vẫn được tăng từ 20,2% (1980) lên 30% (1985). 2. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo"(1) và "trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức người, sức (1) Văn kiện Đại hội V của Đảng (1) (2) Văn kiện Đại hội VI của Đảng của vào thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..."(2). Thực hiện 3 chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la năm, bằng gần 7% GNP và mất đi thị trường không chuyển đổi, mặc dù Mỹ còn gây khó khăn do tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986: 587,2%; 1987: 416,77%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989: 30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,665; cơ khí (bao gồm cả điện tử) 9,65%; hóa chất phân bón, cao su: 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là 5,1%:15,9%:9,4%. Nếu so sánh giá trị tổng sản lượng công nghiệp của năm 1990 với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước là 2,13 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần; cơ khí 3,52 lần; hóa chất, phân bón, cao su: 2,13 lần. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực: vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động, công nghiệp nhóm A chiếm 33,8% (thời kỳ 1976 - 1980): 33,5% (thời kỳ 1981-1985) và 32,9% (1990). Tương ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng: 66,5% và 67,1%. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế mới tưởng chứng không vượt qua nổi (năm 1989 giảm 2,5% so với 1988) nhưng đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích nghi dần với cơ chế mới một số ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung ương đã khôi phục đưọc sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh chiếm 58,6%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(1) "Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2005 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ 21"(2) Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là: (1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế"(3) Quá trình đổi mới đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong các năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất so với nhiều năm trước đây. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế: chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân tháng của năm 19911 4,4%; 1992:1,3%; 9 tháng đầu năm 1993: 0,5%. Chênh lệch giá trị nhập và xuất giảm đáng kể. Sự phát triển của công nghiệp trong những năm đổi mới, không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở việc chú trọng hơn tới đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc. Ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn. Ngành sản xuất điện phát triển mạnh. Thúc đẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần: Trong những năm đầu của quá trình đổi mới của CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể hóa bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm tàng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn.  Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào có trình độ dân trí được nâng cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp, kỹ thuật ngày càng cao. Có đạt được những thành tích và kết quả đó vào bối cảnh cụ thể của đất nước: (2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 Điểm xuất phát ban đầu thấp, chiến tranh kéo dài nhiều năm và để lại hậu quả nặng nề, diễn biến tình hình quốc tế phức tạp, có đột biến và bất lợi... mới thấy hết những thành tựu của CNH mà chúng ta đã đạt được là to lớn và có ý nghĩa. Tuy nhiên Quá trình CNH XHCN ở nước ta hơn 30 năm qua còn nhiều tồn tại, nhược điểm. Những tồn tại chủ yếu là:  Quá trình CNH diễn ra quá chậm  Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội.  Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm.  Sự nghiệp CNH phải đương đầu với nhiều khó khăn do sai lầm trước đây để lại và do thách thức mới đưa tới. Đó là: tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh đang gặp khó hăn về vốn và thị trường. II-/ Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu và giải quyết để thực hiện CNH- HĐH. 1. Phát triển thị trường của CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Thị trường của CNH-HĐH là điều kiện đầu tiên của CNH-HĐH. Thị trường của CNH-HĐH trước hế là thị trường đầu ra, thị trường đầu ra giúp chúng ta xác định được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế cần sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, chất lượng như thế nào, thời gian cung cấp ra sao. Nhu cầu của thị trường đầu ra sẽ quyết định qui mô, tốc độ và bước đi của CNH-HĐH. Có thể nói thị trường trong nước và ngoài nước không chỉ là điều kiện đầu tiên, mà còn là điều kiện quyết định, là một thách thức đối với quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam . Đối với Việt Nam, muốn phát triển thị trường rộng lớn ở trong nước, nhất là thị trường nông thôn, trước hết chúng ta cần phải phát triển thị trường ngoài nước. Để (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII phát triển được thị trường ngoài nước chúng ta cần thực hiện các phương hướng cơ bản sau:  Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu và khai thác các lợi thế so sánh để phát triển. Muốn vậy, cần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam để mở rộng thị trường ngoài nước. Chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, điều tra, thăm dò, dự báo thị trường trong nước và ngoài nước. Cần tổ chức nghiên cứu để hiểu đầy đủ các đối tác, kể cả những đối tác còn là tiềm năng để có chủ trương và chính sách thị trường thích hợp nhằm đạt được mục tiêu của chúng ta. Xây dựng tỷ giá hối đoái hợp lý để vừa khuyến khích mạnh việc phát triển xuất khẩu vừa điều tiết được nhập khẩu có hiệu quả những hàng hoá, dịch vụ cần thiết mà Việt Nam chưa làm được.  Đổi mới cơ cấu xuất khẩu, và thủ tục nhập khẩu. Đổi mới cơ cấu xuất khẩu để không ngừng tạo ra những mặt hàng xuất khẩu mới, hấp dẫn với thị trường ngoài nước theo hướng tăng hàm lượng công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám trong các hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, giảm tối đa xuất khẩu hàng hoá thô. Chủ động cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành hàng hoá và bao bì xuất khẩu để nâng cao sức cạnh tranh ở thị trường ngoài nước. Cải tiến các thủ tục xuất nhập khẩu, đơn giản hóa quy chế về cấp côta, giấy phép để nhanh chóng phát triển thị trường và hạn chế những tiêu cực do thủ tục phiền hà chậm trễ gây ra.  Tổ chức tốt công tác thông tin về thị trường. Công tác thông tin về thị trường rất quan trọng, trong đó chúng ta phải cung cấp các thông tin cần thiết về kinh tế và thương mại của Việt Nam cho nước ngoài; đồng thời tổ chức tốt việc thu nhập và cung cấp thông tin kinh tế và thương mại quốc tế, khu vực, cho các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp trong nước. Phát triển các tổ chức làm dịch vụ thăm dò, nghiên cứu, dự báo, giới thiệu thị trường bạn hàng. Tìm hiểu và chuẩn bị điều kiện để tham gia ngày càng nhiều vào các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực khi xét thấy cần thiết và có khả năng.  Ra sức mở rộng thị trường trong nước để phát triển. Đồng thời với việc mở rộng thị trường ngoài nước theo hướng xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, chúng ta phải phát triển thị trường trong nước, thị trường của hơn 70 triệu dân, trong đó hơn 80% là dân cư nông nghiệp. Phải đảm bảo cho hàng hoá, dịch vụ trong nước đạt chất lượng cao, giá thành hạ và mẫu mã phù hợp để cạnh tranh thắng lợi với hàng ngoại nhập vào Việt Nam. Hàng hoá, dịch vụ trong nước phải đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống cả ở thành thị và nông thôn. Phải phát triển sản xuất, bảo đảm công ăn việc làm, tăng sức mua của xã hội, của nhân dân.  Chấn chỉnh lưu thông, hàng hoá, phát triển các điểm và trung tâm thương mại. Một mặt, chúng ta cần có biện pháp chấn chỉnh lưu thông hàng hoá giữa thành tị và nông thôn, giữa công nghệ phẩm và nông sản phẩm, bảo đảm cho thị trường thống nhất trong cả nước và phát triển thị trường từng vùng, từng địa phương cho phù hợp với cung cầu về hàng hoá, dịch vụ của từng địa phương, mặt khác phải phát triển các điểm và trung tâm thương mại phù hợp với yêu cầu phát triển thị trường trong nước ở các thành phố, khu công nghiệp tập trung và quá trình đô thị hóa ở nông thôn, trung du, miền núi, vùng biên giới, vùng ven biển. Tổ chức một số siêu thị ở các thành phố lớn.  Đẩy mạnh xuất nhập khẩu phải đi đôi với bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo đảm cho sản xuất trong nước phát triển có hiệu quả. Nhưng cần nhấn mạnh rằng việc bảo hộ phải có mức độ, có thời hạn đối với những ngành, lĩnh vực thật cần thiết trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng, tính đến các thông lệ quốc tế, qui định thương mại quốc tế và khu vực. Thúc đẩy các cơ sở sản xuất vươn lên cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Nhà nước cần xác định và công bố rõ chính sách bảo hộ đối với từng mặt hàng cụ thể trong từng thời gian cụ thể tùy theo nhu cầu thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. 2. Phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện thành công quá trình CNH-HĐH, ngoài việc xác định rõ CNH- HĐH cái gì là tối ưu nhất, chúng ta phải xác định rõ CNH-HĐH được thực hiện bằng những nguồn lực nào trong đó nguồn nhân lực là điều kiện, là yếu tố đầu vào quyết định nhất. Quyết định nhất bởi vì nguồn nhân lực sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH-HĐH, sẽ quyết định việc lựa chọn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH, HĐH, sẽ quyết định và lựa chọn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; sẽ quyết định việc tổ chức và thực hiện quá trình CNH-HĐH. Trên ý nghĩa đó, việc phát triển nguồn nhân lực đủ số lượng, có chất lượng cao, đồng bộ về ngành nghề, trình độ là vấn đề rất cấp bách và cơ bản cho sự nghiệp CNH-HĐH. Trong việc phát triển nguồn nhân lực cần coi trọng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, kinh doanh, quản lý. Trong đào tạo cần kết hợp giữa đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ có tác phong công nghiệp, để phát triển nguồn nhân lực cho CNH-HĐH theo mục tiêu nói trên cần giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau đây:  Nâng cao trình độ văn hóa cho mọi người dân trong độ tuổi đi học. Muốn vậy cần phát triển và nâng cao chất lượng văn hóa trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến hết lớp 12 phổ thông và bổ túc văn hóa. Trong đó phải coi trọng trình độ văn hóa, trình độ ngoại ngữ và trình độ máy tính. Chúng ta phải tiến tới đào tạo cho học sinh phổ thông tốt nghiệp cấp 3 phải đạt trình độ ngoại ngữ và khả năng sử dụng được máy tính cần thiết. Yêu cầu này nên đặt ra cho phù hợp với sự phát triển của từng vùng: đồng bằng, miền núi, trung du, thành phố, và nông thôn. Trong đó cần ưu tiên cho các vùng đồng bằng, các thành phố thực hiện trước một bước.  Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài đủ về số lượng, đạt chất lượng cao, đồng bộ và ngành nghề và trình độ. Để đáp ứng được yêu cầu này cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau đây:  Phát triển việc đào tạo mới, có chất lượng cao đội ngũ công nhân, đặc biệt là công nhân lành nghề, công nhân bậc cao theo yêu cầu CNH-HĐH. Đào tạo lại, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật cho đội ngũ công nhân hiện có.  Phát triển việc đào tạo mới, có chất lượng cao đội ngũ có trình độ trung học, cao đẳng, đại học, trên đại học đáp ứng cho nền kinh tế quốc dân, cho các lĩnh vực, cho các cấp, nâng cao trình độ cho cán bộ đội ngũ hiện có để CNH-HĐH.  Tổ chức lại hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp theo yêu cầu CNH-HĐH.  Tổ chức lại hệ thống giáo dục phổ thông của cả nước và từng địa phương theo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đảm bảo nguồn đầu vào có chất lượng, đào tạo nguồn nhân lực cho các trình độ khác nhau.  Tổ chức lại mạng lưới đào tạo nghề trong cả nước, từng ngành, từng địa phương và cơ sở nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo công nhân, nhất là công nhân lành nghề, công nhân bậc cao.  Tổ chức lại hệ thống, mạng lưới các trường đại học và cao đẳng nhằm tập trung nguồn lực để đào tạo có chất lượng cao ở bậc cao đảng, đại học và sau đại học.  Đầu tư thỏa đáng để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, HĐH. Nguồn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cần có là: Nhà nước đầu tư nguồn nhân lực đúng mức cho việc phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng, cơ sở vật chất cần thiết, các máy móc thiết bị, đồ dùng học tập, hệ thống giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy học tập, cấp học bổng cho học sinh thuộc diện chính sách xã hội và học tốt.  Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư của nước ngoài và các tổ chức quốc tế để xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển giáo khoa, giáo trình, tài liệu, kinh nghiệm đào tạo và quản lý giáo dục đào tạo.  Động viên mọi tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế - xã hội, từng gia đình và từng học viên tham gia sự nghiệp giáo dục, đào tạo theo yêu cầu công nghiệp hóa, HĐH bằng nhiều hình thức thích hợp.  Cần xây dựng chinhs sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa, HĐH.  Đây là điều kiện kinh tế quan trọng để khuyến khích các nguồn nhân lực. Trước hết là nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có trình độ cao, tạo cơ hội thuận lợi để tìm được việc việc làm, có thu nhập xứng đáng, phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo sự công bằng trong kinh tế. Có chế độ đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.  Có chế độ khuyến khích thỏa đáng đối với đội ngũ giáo viiên rong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là đội ngũ giáo viên có trình độ cao, giảng dạy có chất lượng, nghiên cứu khoa học và ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu trong công nghiệp hóa, HĐH. Đề cao vị trí của người thầy trong xã hội, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, HĐH. 3. Phát triển các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu của CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Có thị trường, có thị hướng đúng đắn về công nghiệp hóa, HĐH mới chỉ tạo được khả năng. Muốn khả năng đó thành hiện thực cần tạo ra được điều kiện đồng bộ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, HĐH. Bởi lẽ CNH-HĐH đòi hỏi cần phải phát triển nguồn nhân lực, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghiệp hiện đại, tiên tiến để chuyển lao động từ thủ công lên hiện đại có năng suất lao động xã hội cao đạt hiệu quả kinh tế lớn. Muốn vậy chúng ta phải đầu tư một khối lượng vốn lớn, phải quản lý và sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất theo mục tiêu của CNH-HĐH . Nguồn vốn lớn được tạo ra có khả năng bảo đảm đủ số lượng và chất lượng các yếu tố đầu vào cho quá trình CNH-HĐH . Để thực hiện tốt việc tạo vốn, huy động và sử dụng có hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH cần giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau đây: a) Tạo vốn, huy động và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn vốn cho nhu cầu CNH-HĐH, bao gồm nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong suốt quá trình CNH-HĐH thì nguồn vốn trong nước là chính. Nhưng trong giai đoạn đầu, nguồn vốn trong nước rất hạn chế vì thu nhập quốc dân còn thấp, tích lũy nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé. Do đó nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Trong đó có những công trình mà vốn nước ngòai có vai trò quyết định, bởi vì nó thúc đẩy việc khai thác các nguồn lực, nguồn vốn trong nước và tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động.  Nguồn vốn trong nước phải huy động bao gồm các tài nguyên nhân lực, tài sản và vốn bằng tiền của Nhà nước và của nhân dân.  Nguồn vốn ngoài nước bao gồm các khoản viện trợ chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp (FDI), các loaị vốn vay và viện trợ khác.  Phải tính toán các phương án đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả, bảo tòan và phát triển được vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư tập trung và vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng chế độ làm chủ trực tiếp, cụ thể đối với mọi tài sản công, chống thất thoát, tham ô, hối lộ và lãng phí vốn của công. b) Định hướng đúng đắn việc đầu và xây dựng môi trường, đầu tư thuận lợi theo hướng chủ yếu là:  Quy hoạch các địa bàn phát triển kinh tế trọng điểm, hình thành những cụm, khu công nghiệp ở từng vùng, từng địa phương một cách hợp lý, xây dựng ở đó những cơ sở hạ tầng cần thiết và quy chế hành chính kinh tế thích hợp nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển sản xuất kinh doanh , theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo an ninh quốc gia.  Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi cho việc phát triển đầu tư; Xây dựng chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng, nhất quán để mọi người yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo quy hoạch của Nhà nước. Khắc phục nạn quan liêu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất, giải phóng mặt bằng, lắp đặt điện nước, máy móc thiết bị. Thực hiện tốt Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật thu hút vốn đầu tư nước ngoài. c) Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, tài chính để phát triển và quản lý nguồn vốn có hiệu quả theo hướng cơ bản sau:  Tiếp tục đổi mới hệ thống tín dụng - ngân hàng, mở rộng loại hình và chất lượng dịch vụ ngân hàng nhằm bảo đảm phục vụ nhanh chóng, thuận tiện, an toàn; có biện pháp huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tiếp tục đẩy lùi và kiềm chế lạm phát; phát triển các hình thức huy động vốn bằng góp cổ phần; bán cổ phiếu, trái phiếu cho nhân dân trong nước, thí điểm bán một phần ra thị trường vốn ngoài nước. Chuẩn bị tích cực để từng bước hình thành thị trường chứng khoán.  Đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, cải cách hệ thống thuế, bảo đảm huy động đủ nguồn ngân sách, phấn đấu tăng nguồn thu cho ngân sách, nâng tổng số tích lũy cho đầu tư trong toàn xã hội lên 25 - 30% GDP. Tiếp tục xóa bao cấp đối với hàng hóa dịch vụ như: điện, nước, giao thông vận tải, xăng dầu. Giảm dần và tiến tới bảo đảm cân bằng thu chi ngân sách. Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển, để lại khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp tái đầu tư. Hướng dẫn tiêu dùng và thực hành tiết kiệm để tăng vốn cho đầu tư phát triển. d) Tổ chức tốt việc tiếp nhận các nguồn vốn viện trợ và quy định chặt chẽ về vay và trả nợ theo phương hướng chủ yếu sau:  Khẩn trương hoàn thành việc xây dựng và thẩm định dự án để tiếp nhận nhanh và sớm đưa vào sử dụng các nguồn viện trợ chính thức ODA, các khoản cho vay của các tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới, tranh thủ chuyển giao vốn công nghệ hiện đại, kỹ năng điều hành tiên tiến, đổi mới căn bản phương thức đầu tư vốn của nhà nước theo hướng tập trung trước hết cho xây dựng kết cấu hạ tầng, các ngành, các lĩnh vực thiết yếu, chỉ cấp phát vốn cho dự án không thể trực tiếp thu hồi vốn.  Qui định chặt chẽ về vay, trả nợ, kể cả vay trong dân và vay nước ngoài. Bảo đảm sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả được nợ. Nhà nước vay chủ yếu để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng một số công trình hết sức trọng yếu. Đối với các doanh nghiệp áp dụng hình thức tự vay, tự trả có bảo lãnh của cơ quan tài chính ngân hàng, Nhà nước dành một phần vốn vay cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vay để đầu tư phát triển với lãi suất đủ trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài, nhưng cần làm có trọng điểm để rút kinh nghiệm. 4. Phát triển các thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ quan điểm CNH-HĐH là sự nghiệp của quần chúng nhân dân thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác nhau nên phát triển các thành phần kinh tế để huy động tối đã nguồn lực của toàn dân vào sự nghiệp CNH-HĐH là một điều kiện cần thiết quan trọng về tổ chức lực lượng cho sự phát triển. Bởi vì mỗi thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể, tư nhân đều có những thế mạnh riêng, có thể bổ sung cho nhau, cần phải được khai thác triệt để nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong quá trình CNH- HĐH. Việc phát triển các thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH có thể thực hiện theo phương hướng sau:  Không ngừng phát triển kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Các doanh nghiệp Nhà nước phải phát huy vai trò trung tâm công nghiệp, dịch vụ, trung tâm khoa học - kỹ thuật, trung tâm văn hóa trên cùng địa bàn. Các doanh nghiệp Nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp phải được củng cố và phát triển, đẩy mạnh liên kết và hợp tác, giúp đỡ hộ nông dân và các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực thương nghiệp cần được chấn chỉnh, củng cố, tăng cường để giữ vai trò chủ đạo nhất là trong khâu bán buôn, cùng với các thành phần kinh tế khác giữ ổn định và làm lành mạnh thị trường bảo đảm giao lưu hàng hoá thông suốt, phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo vệ lợi ích của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước.  Đánh giá, sơ kết và mở rộng việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, phát triển các công ty TNHH và các công ty cổ phần nhằm thu được nguồn vốn lớn trong cán bộ công nhân viên, trong nhân dân để phát triển sản xuất kinh doanh. Hình thức công ty cổ phần được phát triển sẽ thúc đẩy những người lao động có vốn làm chủ doanh nghiệp của mình. Hạn chế tiêu cực, tạo động lực phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo kinh doanh có lãi, góp phần tăng tích lũy cho nền kinh tế.  Phát triển rộng rãi các hình thức hợp tác phong phú, đa dạng, đặc biệt là dịch vụ phục vụ trong nông nghiệp và nông thôn; phát triển mạnh các hình thức hợp tác trong khu vực tiểu, thủ công nghiệp. Quá trình phát triển mạnh kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình tất yếu dẫn đến sự phát triển đa dạng về các tổ chức kinh tế hợp tác. Khuyến khích mạnh mẽ kinh tế phát triển, lựa chọn mô hình và phương thức hoạt động của HTX phải thích hợp, linh hoạt, đa dạng.  Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Muốn vậy, cần xác định rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong việc tăng trưởng kinh tế và thực hiện quá trình CNH-HĐH. Ban hành luật pháp và chính sách, tạo môi trường pháp lý để tư nhân yên tâm bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, làm ăn đúng luật pháp, khuyến khích kinh tế tư bản, tư nhân phát triển theo con đường liên doanh, liên kết với kinh tế Nhà nước dưới nhiều hình thức.  Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp theo hướng bảo đảm cho các doanh nghiệp thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Muốn vậy chúng ta cần phải giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau:  Bảo đảm cho các doanh nghiệp được quyền chủ động kinh doanh theo quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác, các doanh nghiệp được quyền quyết định lựa chọn các vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? trong giới hạn của luật pháp qui định.  Xây dựng đầy đủ hệ thống luật pháp, các qui định dưới luật, các chính sách đồng bộ nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp được yên tâm hoạt động trongmôi trường pháp lý cho phép. 5. Xây dựng Nhà nước đủ mạnh để quản lý tập trung có hiệu lực quá trình thực hiện CNH-HĐH. Thực tiễn phát triển thành công của nhiều nước trên thế giới đã xác nhận và khẳng định vai trò quyết định của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện quá trình CNH-HĐH nền kinh tế. Thực tiễn của Việt Nam trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ rằng Nhà nước định hướng không đúng đắn, không hợp lý quá trình CNH- HĐH đã không chỉ làm cho hiệu quả đạt thấp, mà còn để lại những hậu quả không nhỏ phải giải quyết trong nhiều năm mới khắc phục được. Để thực hiện thành công quá trình CNH-HĐH nền kinh tế ở Việt Nam trong thời gian sắp tới cần xây dựng Nhà nước đủ mạnh để quản lý tập trung, có hiệu lực, Nhà nước đó phải là:  Nhà nước biết nắm bắt sự tác động khách quan của các qui luật trong nền kinh tế thị trường để định hướng đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đúng đắn và thống nhất quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, định hướng đúng đắn kế hoạch thực hiện toàn bộ quá trình CNH-HĐH đất nước. Để làm được điều đó Nhà nước phải nắm vững nhu cầu và khả năng tiến hành CNH-HĐH, nắm bắt thị trường của CNH-HĐH. Tập trung đúng mức vào những ngành, những khâu, vùng, lĩnh vực quan trọng nhất có thể tạo ra sự tăng trưởng nhanh với hiệu quả kinh tế cao.  Nhà nước biết quyết định việc tổ chức và phối hợp các lực lượng kinh tế để thực hiện chiến lược, kế hoạch CNH, HĐH. Huy động và phân bổ tập trung các nguồn lực cần thiết của quá trình CNH, HĐH. Cân đối và điều chỉnh thường xuyên quá trình thực hiện CNH-HĐH. Trong vấn đề này phải tập trung sử dụng có hiệu quả cao nguồn lực hiện có của đất nước.  Nhà nước biết quyết định đúng các chính sách cần thiết để khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện nhanh, mạnh, vững chắc quá trình CNH-HĐH. Chỉ có như vậy mới có thể giảm bớt khoảng cách tụt hậu của nước ta so với các nước trong khu vực.  Nhà nước biết tổ chức lại, xây dựng lại bộ máy quản lý đủ mạnh về số lượng và chất lượng để quản lý có hiệu lực, kiên quyết thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ công chức Nhà nước, lựa chọn những cán bộ có khả năng, trình độ, kinh nghiệm để đưa đất nước ta nhanh chóng tiến lên HĐH hệ thống quản lý Nhà nước theo yêu cầu của CNH-HĐH.  Nhà nước biết kiên quyết thực hiện việc quản lý quá trình CNH-HĐH bằng pháp luật và các văn bản dưới luật. Hoàn thiện và xây dựng mới các công cụ cần thiết như chế độ thống kê, kế toán và kiểm toán, chế độ tài chính và báo cáo tài chính công khai chính xác để quản lý thống nhất.  Nhà nước biết xây dựng hệ thống dự trữ quốc gia đủ mạnh về số lượng và chất lượng để có thể quản lý có hiệu lực và có hiệu quả quá trình CNH-HĐH nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Phải có những quyết định đúng đắn, kịp thời việc sử dụng nguồn dự trữ quốc gia cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh CNH- HĐH. Muốn làm được như vậy phải kiên quyết tổ chức lại Nhà nước theo mô hình Nhà nước pháp quyền, quản lý tập trung có hiệu lực bằng hệ thống pháp luật. Bộ máy quản lý và cán bộ phải đồng bộ theo ngành nghề, trình độ. Trong đó phải xây dựng được đội ngũ chỉ huy đầu ngành cho chuyên gia giỏi về quản lý Nhà nước, am hiểu đầy đủ về kinh tế thị trường và kinh doanh. III-/ Nội dung của CNH, HĐH. Căn cứ vào bối cảnh hiện nay của tình hình đất nước, với những mục tiêuvà quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong thời gian tới công cuộc CNH, HĐH được xác định gồm 2 nội dung chính sau: 1. Nội dung thứ nhất:  Trang bị công cụ thích hợp theo hướng HĐH cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân, thông qua cách mạng khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ hiện đại. Trong lịch sử quá trình CNH, HĐH đất nước, khoa học công nghệ là một yếu tố quan trọng, đã có những đóng góp đáng kể: Nhờ có những ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta đã đạt được một bước tăng trưởng quan trọng về tổng sản lượng lương thực và năng suất cây trồng. Trong khoảng thời gian 10 năm năng suất lúa bình quân đã tăng gấp rưỡi (năm 1980 là 20,8 tạ/ha, năm 1993 là 35 tạ/ha). Trong công nghiệp nhờ đổi mới công nghệ một số ngành đã đứng vững cạnh tranh trên thị trường và góp phần xuất khẩu. Do đặc điểm mô hình CNH ở nước ta trước đây chịu ảnh hưởng không ít của mô hình CNH của Liên xô không đi từ công nghiệp nhẹ theo đúng tuần tự thủ công lên nửa cơ khí và từ cơ khí tới công nghiệp nhẹ lần lượt từng bước sang công nghiệp nặng. Song trên thực tế công nghiệp nặng ở nước ta đã được ưu tiên phát triển hơn công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Do nhiều nguyên nhân nhất là do cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp kéo dài, do khó khăn về vốn và công nghệ nên nước ta không chuyển biến được bao nhiêu trong mô hình CNH của mình khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nổ ra. Kết quả là tình hình công nghiệp nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đến nay công nghệ tiên tiến nhập vào nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Đặc biệt với một số ngành then chốt có tác động sâu rộng tới nền kinh tế như năng lượng. Giao thông, hoá chất, xây dựng... Số công nghệ được sinh sản ra trong nước nhờ các hoạt động triển khai còn ít, hàm lượng công nghệ và dịch vụ ở nông thôn còn ít và yếu ớt. Bên cạnh đó, hiện tượng thiếu đội ngũ cán bộ đủ hiểu biết về công nghệ và công tâm trong việc mua công nghệ của nước ngoài càng làm chậm quá trình đổi mới công nghệ. Sự khởi sắc, tăng trưởng của nền kinh tế nước ta gần đây phần lớn nhờ vào thành tựu đổi mới cơ chế quản lý, về chính sách thương mại mở cửa chứ không phải dựa vào nền tảng vững bền của công nghệ công nghiệp. Sự lạc hậu về thế hệ công nghệ do đó khó có thể đuổi kịp các nước có trình độ cao về kinh tế và văn minh xã hội. Không tận dụng đựơc các nguồn lực có lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh, sản phẩm làm ra không có khả năng cạnh tranh do đó rất khó hội nhập với thị trường thế giới. Vì vậy, nếu cứ giữ mô hình CNH như trước thì nền kinh tế nước ta còn lâu mới thoát ra khỏi tình trạng , lạc hậu, lạc lõng và lạc điệu. Nắm vững được tình hình, để khắc phục những thiếu xót trên đây nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển khoa học và công nghệ làm cho khoa học và công nghệ đóng được vai trò nền tảng của quá trình CNH, HĐH đất nước, hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ những quan điểm cơ bản, mục tiêu và các chương trình trọng yếu phát triển khoa học công nghệ đến năm 2005 và những năm sau đó, đồng thời chỉ rõ những chính sách biện pháp lớn để toàn Đảng toàn dân phấn đấu cùng thực hiện nhằm làm cho các mục tiêuvà chương trình này thành hiện thực.  Về phương hướng và mục tiêu: Hội nghị chỉ rõ công nghệ gắn với quá trình CNH, HĐH ở tầm trung và dài hạn phải góp phần tích cực vào việc thực hiện cách đi kết hợp "tuần tự" với "không tuần tự" trên con đường phát triển, nhanh chóng thu hẹp dẫn khoảng cách về trình độ công nghiệp so với các nước phát triển trước trên là vơí các nước trong khu vực . Khoa học và công nghệ tập trung đóng góp có hiệu quảvào quá trình quyết định ở các cấp quản lý Nhà nước đến các doanh nghiệp, đảm bảo cho các chính sách, chủ trương dự án đầu tư có căn cứ khoa học đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rõ rệt. Phát triển một số ngành công nghiệp có triển vọng dựa trên công nghệ cao tạo tiền đề cho việc đâỷ nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn tiếp theo. Nâng cao năng lực nghiên cứu triển khai công nghệ hiện đại trong nước, tạo được một đội ngũ cán bộ KHKT giỏi, có khả năng tiếp cận công nghẹ thế giới, phổ cập các loại hình công nghệ thích hợp trên địa bàn nông thôn, miền núi. Để thực hiện được những bước nhảy vọt về công nghiệp cần mạnh dạn tiếp cận, sử dụng công nghệ cao như: Vi điện tử, tin học, tự động hoá, sinh học, vật liệu mới... xóa bỏ quan niệm coi khoa học công nghệ chỉ là công việc của các nhà khoa học mà phải coi đây là công việc của mọi hoạt động kinh tế xã hội và tập trung cao ở các dự án quốc gia. Phấn đấu để lực lượng khoa học và công nghệ trở thành một phần quan trọng ở các khu tập trung công nghệ cao như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.  Về chính sách giải pháp. Từ nay đến năm 2005 chúng ta coi việc nhập công nghệ là một mục tiêưu tiên. Nhà nước vừa đưa ra các định hướng ưu tiên áp dụng các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích việc chuyển giao công nghệ tiên tiến có hiệu quả cao, ngăn chặn việc nhập các công nghệ lạc hậu , gây ô nhiễm môi trường và các hậu quả xã hội tiêu cực khác, hoặc cản trở những bứơc phát triển tiếp thu. Đầu tư công nghệ hợp lý để vừa nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm nghị quyết đại nhiều việc làm. Phát triển các ngành sản xuất cần nhiều công nhân mà không sử dụng các công nghệ lạc hậu. Với quan điểm nàychính sách công nghệ của ta là mạnh dạn đi thẳng vào công nghệ hiện đại và chọn lọc ở những khu vực cần thiết. Đồng thời vẫn sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có với điều kiện được đồng bộ hoá, cải tiến và nâng cao hiệu quả sử dụng, chú trọng HĐH công nghệ truyền thống. Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải ưu tiên HĐH công nghệ cho các k hu vực sản xuất nông nghiệp và dịch vụ xuất khẩu, các ngành nghề có sự tác động đến sự phát triển của các ngành nghề khác như: thông tin liên lạc, điện, hoá chất, chế tạo máy xây dựng cơ sở hạ tầng. Các quan điểm mục tiêu chính sách công nghệ nêu trên cần được hệ thống thành các chương trình, kế hoạch hoá và biện pháp cụ thể mang tính khả thi, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp CNH, HĐH đồng thời phát triển bản thân khoa học . Nhà nước áp dụng các chính sách đòn bẩy kỹ thuật để thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến. Ưu đãi phần vốn dành cho việc nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhà nước cần sớm ban hành các quychế kiểm soát các quá trình chuyển giao công nghệ theo các chỉ tiêu nghiêm ngặt về khoa học kỹ thuật và môi trường, ngăn chặn tình trạng biến nước ta thành bãi thải công nghệ lạc hậu của thế giới. 2. Nội dung thứ 2: Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao động xã hội và điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư. Nội dung của công cuộc CNH đất nước hiện nay không còn được hiểu theo nghĩa cũ nữa. CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Đó không chỉ là tăng nhanh tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới cơ bản về kỹ thuật và công nghệ, HĐH tất cả các ngành kinh tế quốc dân, tạo cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh đạt hiệu quả cao và lâu dài cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ là một xu thế tất yếu khách quan của nền kinh tế nước ta. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ và phổ biến sang nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hướng CNH, HĐH : từ một nền kinh tế tự nhiên (tự cấp, tự túc) sang nền kinh tế hàng hoá tương đối phát triển với thị trường nội địa thống nhất toàn quốc và mở rộng giao lưu trên thị trường thế giới . Cơ cấu kinh tế phải đa dạng để thích nghi được với những phát triển mới của cách mạng KHKT và công nghệ trên thế giới phải tăng nhanh khu vực công nghệ chế biến và dịch vụ, thực hiện CNH theo nghĩa xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành bảo đảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Xuất phát từ thực tiễn nước ta, trong bối cảnh thế giới ngày nay, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài có chọn lọc , nội dung chủ yếu của sự chuyển dịch cơ cấu trong quá trình CNH, HĐH là:  Cơ cấu ngành sản xuất gắn liền với cơ cấu công nghệ: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta sẽ tạo sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng phấn đấu trong vài thập kỷ tới tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn khoảng trên dưới 10% công nghiệp và dịch vụ đạt tới khoảng 90%. Trong công nghiệp thì công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (70 - 80%) phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nhất là chế biến thực phẩm, dệt, da, máy mặc, cơ khí, lắp ráp ô tô, xe máy hàng điện tử. Đẩy mạnh thăm dò và khai thác dầu khí, sử dụng có hiệu quả nguồn khí đốt. Xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng về điện, xi măng, luyện cán thép, phân bón. Hình thành một số ngành mũi nhọn trọng điểm trong vài thập kỷ tới như: khai thác chế biến dầu khí, công nghệ điện tử, thông tin, du lịch...  Cơ cấu công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp. Trong 5 năm trước mắt chúng ta vẫn phải coi trọng nông nghiệp phát triển kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn cần được phát triển mạnh, xây dựng các nhà máy chế biến liên kết trực tiếp với việc trồng trọt và khai thác nguyên liệu tại chỗ. Chúng ta vẫn phải đặc biệt coi trọng phát triển sản xuất lương thực thực phẩm, phấn đấu đạt sản lượng 30 triệu tấn vào năm 2005. Về cơ cấu công nghiệp trong kế hoạch 5 năm có tính đến việc hình thành các khu công nghiệp tập trung (khoảng 20 khu) và điểm công nghiệp rải ra xung quanh các thị trấn và dọc theo một số trục lộ chính. Trừ một số ít khu công nghiệp nặng còn chủ yếu dành cho các cơ sở công nghiệp nhẹ hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu... Về phát triển công nghiệp nặng chúng ta cần tranh thủ thời cơ huy động vốn trong nước và nước ngoài để xây dựng một số công trình then chốt có tính cấp bách và hiệu quả. Vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp nặng trong 5 năm tới chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp, đây là lĩnh vực dùng vốn lớn song rất quan trọng trong sự phát triển toàn diện.  Phân công lao động: Với đặc điểm nước ta có được lượng lao động nông nghiệp chiếm khoàng 73% tổng số lao động cả nước. Vì vậy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn liền với việc điều tiết quá trình phát triển và phân bố lại dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp ở nông thôn gắn liền với việc đô thị hóa tại chỗ là một nội dung quan trọng của quá trình chuyển dịch kinh tế và phương hướng đi lên chủ yếu của kinh tế nông thôn trong quá trình CNH-HĐH.  Phân phối vốn: Một phần lớn vốn đầu tư của Nhà nước sẽ được giao cho các ngành do Trung ương quản lý để xây dựng nhiều công trình nằm ở các vùng khác nhau, phần còn lại thì giao cho địa phương quản lý. Khoảng 30% cho vùng trọng điểm, 70% cho các vùng khác. Đối với số vốn mà Nhà nước chỉ có thể hướng dẫn bằng các chính sách ưu đãi khuyến khích (như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc vốn của thành phần kinh tế khác) thì vùng trọng điểm chiếm khoảng 70% còn 30% là các vùng khác. Như vạy Nhà nước tuy không điều khiển toàn bộ song cũng khống chế được phần quan trọng vốn đầu tư, hướng đó trước hết vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số công trình then chốt bảo đảm sự hài hòa trong sự phát triển của các vùng. IV-/ Các giải pháp cơ bản để tiến hành CNH-HĐH ở nước ta hiện nay: Những quan điểm, phương hướng và bước đi của CNH-HĐH có được thực hiện đầy đủ đúng đắn và có hiệu quả không hoàn toàn phụ thuộc vào các điều kiện chủ yếu có được đảm bảo hay không. Để xác định đúng đắn những điều kiện cần thiết nhăm thực hiện CNH-HĐH trước hết chúng ta phải xác định rõ tiến hành CNH-HĐH cái gì, CNH-HĐH như thế nào, CNH-HĐH cho ai. Theo hướng này, khi tiến hành CNH- HĐH cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau: 1. Vốn để CNH, HĐH ở nước ta: Để đạt mục tiêu từ nay đến năm 2005 phải tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì chúng ta phải có tốc độ tăng trưởng trên 9%/năm. Muốn có 1% tăng trưởng chúng ta phải đầu tư từ 25%-30% GDP, với giá trị tuyệt đối phải có khoảng 60 tỷ USD, trong đó vốn trong nước là chủ yếu. Vậy chúng ta phải làm gì và phải làm như thế nào để có vốn?. 2. Công nghệ Lựa chọn công nghệ thích nghi như thế nào để nước ta không bị tụt hậu về công nghệ sản phẩm của ta cạnh tranh được với sản phẩm thế giới (trong lúc đầu tư nước ngoài vào nước ta thường mang theo công nghệ trung bình, thậm chí công nghệ lạc hậu, cũ kỹ). 3. Cần phải có sự lựa chọn các ngành ưu tiên, mũi nhọn Dựa trên các tiêu chuẩn nhất định để có chính sách ưu tiên, ưu đãi phát triển, nhất là chọn một số sản phẩm xuất khẩu chứ không chỉ dựa vào 1, 2 sản phẩm duy nhất trong các ngành công nghiệp, ngành nào cần ưu tiên, xếp thứ tự ưu tiên như thế nào? 4. Vấn đề cơ cấu sở hữu trong công nghiệp: Giải quyết đúng đắn mỗi quan hệ giữa quốc doanh và dân doanh, giữa quốc hữu và tư hữu, cần làm rõ ngành nào, lĩnh vực nào, ở đâu cần phát triển quốc doanh; ngành nào, lĩnh vực nào, ở đâu phải để cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Trong công nghiệp ta dự kiến loại doanh nghiệp thì để lại sở hữu Nhà nước, loại nào thì cổ phần hóa... 5. Vấn đề tổ chức và cán bộ: a) Vấn đề tổ chức: Về tổ chức quản lý phải đồng thời giải đáp được các vấn đề sau đây:  Tổ chức quản lý tài sản và vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước như thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng của nó, trong tình hình số lượng doanh nghiệp Nhà nước còn rất nhiều (trên 6000). Các mô hình tổ chức tổng công ty, tập đoàn, tổng cục quản lý tài sản và vốn của quốc doanh có làm được chức năng chủ sở hữu không? hay vẫn "cha chung không ai khóc", "nhiều sãi nhưng không ai đóng cửa chùa"?  Để cho các doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp luật của Nhà nước cần phải xóa bỏ chế độ chủ quản, cấp chủ quản. Nhưng vấn đề tồn tại lớn là giải quyết mối quan hệ giữa tự do kinh doanh với sự can thiệp của Nhà nước, sự kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đến đâu thì có tác dụng ngăn ngừa, vừa có tác dụng thúc đẩy phát triển. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước còn có vấn đề quan hệ giữa người chủ sở hữu với người sử dụng. b) Vấn đề cán bộ: Cán bộ quyết định tất cả là một nguyên lý luôn luôn đúng và đúng với mọi trường hợp. Không có đội ngũ viên chức Nhà nước giỏi có phẩm chất thì không có nền hành chính quốc gia vững mạnh. Tất nhiên Nhà nước phải tạo điều kiện cho họ làm tròn chức năng kinh tế gia đình, không có đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi thì nền kinh tế không thể phát triển mạnh được. Do vậy, phải có mô hình tổ chức đào tạo cán bộ hành chính và nhà quản trị doanh nghiệp. Việc lựa chọn mô hình đào tạo thích hợp cho mỗi cán bộ là một vấn đề phải được nghiên cứu nghiêm túc. 6. Vấn đề lao động: Số lượng lao động có xu hướng tăng chậm hơn so với tiền công. Tiền công ngày càng đắt hơn, do vậy lợi thế lao động rẻ ở nước ta ngày càng giảm đi. Vấn đề đặt ra là phải chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng không thể di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành thị mà phải tìm cách chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ và nâng cao được năng suất lao động trong nông nghiệp cũng như công nghiệp. Trong sản phẩm hàng hoá hàm lượng kỹ thuật cao sẽ chiếm tỷ trọng lớn hơn lao động chân tay. 7. Vấn đề thị trường: Xu thế thị trường ngày càng mở rộng khi chúng ta gia nhập ASEAN, khi bình thường hóa quan hệ giữa ta với Mỹ... Những vấn đề đặt ra là làm thế nào để sản phẩm của ta chen được vào thị trường đó. Hiện nay, trừ dầu lửa và gạo, ưu thế sản phẩm của ta trên thị trường còn yếu do chất lượng giá cả không phù hợp. Nhiều ngành hàng ở tình trạng gia công, "lấy công làm lãi" như ngành da, giầy, may mặc... Chiến lược "hướng mạnh vào sản xuất để xuất khẩu" nhưng xuất cái gì, xuất ra đâu, làm gì để có cái mà xuất, đó là những câu hỏi mà nhiều ngành chưa có câu trả lời. Kết luận CNH-HĐH là một sự nghiệp vĩ đại, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải nỗ lực phấn đấu để cho vài ba chục năm tới để có thể biến nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp trên phương diện quốc tế. Để tạo đà cất cánh cho giai đoạn phát triển này cả dân tộc ta đang bắt tay vào sự nghiệp trồng người với quy mô lớn, chất lượng cao. Con người được đào tạo có tri thức và được nhân lên bởi lòng yêu nước, đoàn kết trong từng cộng đồng và cả dân tộc là sức mạnh như sóng thần của Việt Nam. Chỉ có đào tạo và huy động mọi nguồn lực trí tuệ của nhân dân, đoàn kết dân tộc mới giữ vững và xây dựng Việt Nam hưng thịnh, bền vững. Ngoài ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiếp thu đổi mới và mở cửa, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập thế giới là điều kiện không thể thiếu được nhằm tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi đảm bảo cho sự triển khai sự nghiệp CNH-HĐH đất nước được thực hiện thắng lợi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đánh giá quá trình CNH, HĐH ở nước ta.pdf
Luận văn liên quan