LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và bước đầu có tích lũy. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm. Đến nay, thế và lực của đất nước đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Chúng ta đã tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu đó có sự đóng góp rất lớn của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài .
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, từ một điểm xuất phát thấp, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Nó là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, là một kênh để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Trong giai đoạn 1991-1999, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp FDI chiếm 26,51% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội. Năm 2000, khu vực FDI tạo ra doanh thu 6.500 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho 350.000 lao động và đóng góp 12,7% trong GDP cả nước.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến năm 2010 đưa mức GDP bình quân đầu người của nước ta lên gấp đôi so với hiện nay. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, chúng ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn trong điều kiện hiện nay khi mà dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang chững lại và có biểu hiện giảm xuống nhất là từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra vào cuối năm 1997.
Do đó, việc phân tích, đánh giá một cách chi tiết, sâu sắc và cụ thể về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và ở Việt Nam nói riêng nhằm thấy rõ hơn tác động của nó đến nền kinh tế, thấy được những vấn đề đang đặt ra, đồng thời tìm các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước đang là một yêu cầu cấp bách đặt ra đối với chúng ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và trên cơ sở tham khảo ý kiến của các cô chú công tác tại Ban Phân tích và dự báo Kinh tế vĩ mô - Viện chiến lược phát triển - Bộ KH-ĐT, em đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình là:
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
Thông qua nội dung nghiên cứu của luận văn, em hy vọng có thể vận dụng những kiến thức lý luận và thực tiễn đã tích lũy được để có một sự đánh giá khái quát, toàn diện nhưng cũng tương đối chi tiết và cụ thể về cơ sở lý luận cũng như thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm vừa qua, từ đó có thể đề ra những định hướng cho hoạt động này trong thời gian tới.
Nội dung luận văn bao gồm 3 chương:
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
CHƯƠNG III : NHỮNG GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI ĐÁP ỨNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
Luận văn của em hoàn thành được sự hướng dẫn trực tiếp tận tình của thầy Ngô Văn Mỹ và sự chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của chú Ngô Việt Lâm cùng các cô chú Ban Phân tích và Dự báo kinh tế vĩ mô - Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy và các cô chú. Nhân dịp này, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình học tập những năm vừa qua.
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
I. Một số vấn đề cơ bản của đầu tư quốc tế .
1. Khái niệm về đầu tư quốc tế .
2. Các hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế
2.1. Đầu tư của tư nhân
2.2. Hỗ trợ phát triển chính thức
II. Các vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
1. Khái niệm và các đặc trưng . 4
2. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Lý thuyết kinh tế vĩ mô về FDI
2.2. Lý thuyết kinh tế vi mô về FDI
3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư
3.1. Đối với nước chủ đầu tư
3.2. Đối với nước nhận đầu tư .
3.3. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển 6
4. Quá trình vận động của luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển Châu á những năm gần đây . 8
Chương II: Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua . 11
I. Đánh giá tổng quan về FDI tại Việt Nam 11
1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài 11
1.1. Tình hình chung . 11
1.2. Các đối tác được cấp giấy phép đầu tư . 13
1.3. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ . 15
1.4. Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế . 17
1.5. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư . 19
2. Tình hình thực hiện của các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài 20
2.1. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 20
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu 23
2.3. Tình hình khai thác công suất các dự án . 25
II. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng và phát triển kinh tế . 26
1. Hoạt động ĐTTTNN góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển và gia tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế 26
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng GDP 30
3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. 34
4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động xuất nhập khẩu và quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới . 36
5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với giải quyết công ăn việc làm, 39
nâng cao năng lực của người lao động . 39
6. Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ, 41
nâng cao trình độ kỹ thuật của nền sản xuất 41
III. Những vấn đề đặt ra đối với FDI ở nước ta . 44
1. Sự sụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam 44
2. Sự gia tăng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài 49
3. vấn đề góp vốn giữa các bên đối tác và một số quan hệ trong liên doanh 53
3.1. Vấn đề góp vốn của hai bên đối tác 53
3.2. Một số quan hệ trong liên doanh . 54
4. Một số mặt trái của FDI tại Việt Nam 56
5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của ASEAN ở Việt Nam . 58
5.1. Các yếu tố xác định FDI của ASEAN tại Việt Nam . 58
5.2. Hạn chế của các nước chủ đầu tư 60
6. Các yếu tố xác định fdi vào Việt Nam 63
7. Tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 67
7.1. Khủng hoảng tiền tệ của các nước Châu Á . 67
7.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với hoạt động FDI tại Việt Nam 69
7.3. Mặt trái của việc sử dụng vốn nước ngoài và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực Châu Á 71
Chương III: Một số giải pháp huy động vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế . 74
I. Một số vướng mắc và yếu kém trong thu hút và sử dụng vốn FDI thời gian vừa qua 74
1. Những vướng mắc về mặt cơ chế, chính sách 74
2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng . 75
3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật 75
4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI . 76
5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI . 76
iI. Xác định nhu cầu vốn FDI cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2005 77
1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta 77
Năm 78
2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế . 80
III. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế . 81
1. Những giải pháp trước mắt . 82
2. Các biện pháp lâu dài . 83
Kết luận . 85
Tài liệu tham khảo 86
94 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DIi + a3.D1i + a4.D2i + a5.D3i + a6.LnS + ei
Trong đó :
FDIi - Lượng FDI của nước đầu tư i tại Việt Nam.
ODI - Lượng đầu tư ra ngoài của nước đầu tư i
D1i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư ở Châu Á
D2i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư có thu nhập trung bình.
D3i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư có thu nhập cao.
Si - Tổng lượng dự trữ của nước đầu tư i.
Do có nhiều hạn chế nên các số liệu sử dụng trong mô hình chỉ mới có đến năm 1995 và chỉ có của 27 nước. Qua hồi quy thử nghiệm ta thấy biến Si hầu như không có tác động đến biến FDIi, điều này có thể giải thích là do lượng dự trữ ngoại tệ và tổng lượng dự trữ có vai trò hoàn toàn khác nhau trong việc tác động đến khối lượng vốn đầu tư ra bên ngoài của một nước. Kết quả ước lượng mô hình cho ta phương trình hồi quy mẫu:
LnFDI = -2,9714 + 0,55962 ´ LnODI + 2,6074 ´ D1 + 3,134 ´ D2 + 2,8936 ´ D3
Ta thấy, ngoại trừ biến Si không được đưa vào mô hình, tất cả các biến số có mặt trong mô hình đều có ý nghĩa. Hệ số của các biến trong mô hình đều khác không một cách thực sự và có dấu phù hợp với kết quả phân tích định tính ở trên. Các kiểm định cho thấy kết quả ước lượng mô hình có thể chấp nhận được. Hệ số a2 nhỏ hơn 1 cho thấy dòng FDI vào Việt Nam tăng lên với tỷ lệ nhỏ hơn so với tỷ lệ trung bình trên toàn thế giới trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Dấu của hệ số a3 dương hàm ý rằng yếu tố vị trí địa lý dường như có ý nghĩa trong xác định FDI. Các nhà đầu tư sẽ đầu tư nhiều hơn ở những nơi họ có thể tối thiểu hóa các chi phí vận chuyển, giao dịch và tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán...nếu các yếu tố khác là như nhau. Hệ số a4 và a5 đều dương, chứng tỏ có mối quan hệ giữa trình độ phát triển kinh tế với lượng vốn đầu tư ra nước ngoài. Các nước có thu nhập cao và thu nhập trung bình sẽ thực hiện đầu tư ra ngoài nhiều hơn so với các nước có thu nhập thấp. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng, do các nhân tố “đẩy” đối với FDI vào Việt Nam hầu hết là không thể lượng hóa, do đó các yếu tố trong mô hình mới chỉ giải thích được một phần sự khác nhau về lượng vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư, hệ số R2 của mô hình bằng 0,615.
Như vậy, trong những năm qua, cả nhân tố “đẩy” và nhân tố “kéo” đều có tác động rất tích cực đối với việc gia tăng dòng FDI vào Việt Nam. Chúng ta cần kết hợp khai thác cả hai nhóm nhân tố này để thu hút có hiệu quả hơn nguồn vốn FDI. Cần phải thấy rằng các ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, chi phí lao động sẽ dần mất đi. Do đó, chính phủ cần phải có các biện pháp chủ động hơn nữa trong việc tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
Một chính sách thu hút FDI hữu hiệu là một chính sách được xây dựng trên cơ sở căn cứ vào thực trạng cụ thể của môi trường chính trị và kinh tế đất nước, chọn đúng đối tác đầu tư, nắm bắt được phương châm, chiến lược của chủ đầu tư và một điều hết sức quan trọng là phải hiểu thấu đáo các yếu tố quyết định đến dòng vốn đầu tư.
7. Tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
7.1. Khủng hoảng tiền tệ của các nước Châu Á
Cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở các nước Châu Á khởi đầu từ Thái Lan vào tháng 7/1997 và sau đó như một phản ứng dây chuyền lan rộng ra các nước láng giềng, phủ bóng đen lên hầu hết các nền kinh tế trong khu vực, làm cho kinh tế nhiều nước vùng Đông và Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề trên các khía cạnh, thể hiện:
- Tốc độ tăng trưởng bị giảm sút : Khu vực Đông Nam Á trong suốt thập niên qua có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới (9-10% năm) nhưng do bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh: năm 1997, Thái Lan giảm còn 0,6%, Malaixia 7,5%, Philippin 4,5%, Inđônêxia 3%, Hàn Quốc 6%, Nhật Bản 1,1%...
- Đồng tiền bị giảm giá :
Sự sụt giá các đồng tiền của khu vực có thể thấy qua bảng số liệu dưới đây. Ta thấy ngay cả đồng Yên Nhật cũng bị mất giá liên tục so với đồng đôla Mỹ: đầu năm 1997, 1USD = 100 Yên đến tháng 8/1998, 1USD = 143 Yên, mất giá 43%.
Tỷ giá một số đồng tiền khu vực trong năm 1997
Tỷ giá
12.1996
9.1.1998
Thái Lan
26,63
53,55
Malaixia
2528
4625
Inđônêxia
2362
8075
Philippin
26,30
44,65
Hàn Quốc
885
1740
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Hàng vạn doanh nghiệp bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp lớn : tỷ lệ thất nghiệp trong năm 1997 và nửa đầu năm 1998 lên đến gần 30% tổng số người trong độ tuổi lao động.
- Thị trường chứng khoán chao đảo, rối loạn : Hệ thống ngân hàng suy yếu, một số công ty chứng khoán bị phá sản, chỉ số chứng khoán ở nhiều nước bị giảm sút.
Chỉ số giá chứng khoán của một số nước Châu Á
Chỉ số
12.1996
9.1.1998
Thái Lan
831,57
349,67
Malaixia
1237
491,6
Inđônêxia
637,43
342,97
Philippin
3170
1518
Hàn Quốc
651,22
440,78
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Tính hấp dẫn thu hút vốn FDI của khu vực bị giảm sút : sự khủng hoảng về kinh tế, tài chính kéo theo sự bất ổn về chính trị, làm cho tính rủi ro của môi trường đầu tư tăng cao, tốc độ thu hút vốn đầu tư bị chậm lại.
- Sự khủng hoảng tài chính-tiền tệ kéo theo ảnh hưởng đến hoạt động chính trị sâu sắc : những cuộc bãi công, đình công nổ ra ở nhiều nước, thất nghiệp, mức sống giảm, chính phủ bị mất lòng tin.
Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về nguyên nhân của khủng hoảng, có thể tóm tắt những nét chính như sau :
* Chính phủ không duy trì được thế cân bằng giữa các chính sách kinh tế vĩ mô:
- Quá tập trung đầu tư cho chính sách hướng về xuất khẩu, lấy đó làm động lực để tăng trưởng kinh tế, trong khi các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đã lỗi thời, khả năng cạnh tranh thấp, kim ngạch xuất khẩu giảm.
- Sự tăng trưởng kinh tế ở mức cao cơ bản dựa vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn đầu tư ngắn hạn.
- Nợ nước ngoài so với GDP gia tăng qua các năm, đặc biệt là nợ quá hạn ở mức cao.
- Mất cân đối giữa cơ cấu đầu tư và mối quan hệ giữa đầu tư và tiêu dùng.
* Chính sách tài chính - tiền tệ không hợp lý, thể hiện là:
- Sự quản lý và điều hành yếu kém của hệ thống ngân hàng, các thị trường tài chính dễ đổ vỡ do tình trạng không minh bạch, không thực hiện các tiêu chuẩn phòng ngừa, công tác giám sát và quản lý kém.
- Chính sách tỷ giá hối đoái duy trì cứng nhắc, gần như cố định phụ thuộc vào đồng đôla Mỹ.
- Thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái, mua bán ngoại tệ ít được kiểm soát.
* Đầu cơ ngoại tệ : nạn đầu cơ ngoại tệ gây nên tình trạng thiếu hụt ngoại tệ đáp ứng yêu cầu dự trữ và đảm bảo khả năng thanh toán cho nền kinh tế, góp phần làm mất giá đồng bản tệ.
* Bất ổn về chính trị : sự xáo trộn trên chính trường ở nhiều nước cũng là nguyên nhân thúc đẩy khủng hoảng tiền tệ nổ ra.
7.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với hoạt động FDI tại Việt Nam
Việt Nam là thành viên của khối ASEAN, có nhiều đặc điểm phát triển kinh tế và tài chính giống các nước có khủng hoảng. Hơn nữa, kim ngạch buôn bán của Việt Nam với các nước trong khu vực chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Xét về cơ cấu nguồn vốn, 2/3 (73% số dự án và 68,2% vốn đầu tư) dòng vốn của Việt Nam bắt nguồn từ các quốc gia Châu Á như Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc...cho nên khủng hoảng tiền tệ ở các nước này đã và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động đầu tư FDI tại Việt Nam.
a. Những ảnh hưởng thuận lợi của cuộc khủng hoảng đến FDI tại Việt Nam
- Tạo động lực kích thích các cấp quản lý vĩ mô nghiên cứu những bài học và kinh nghiệm khắc phục hậu quả của khủng hoảng tiền tệ ở các nước trong khu vực để mau chóng đề xuất những giải pháp cải tổ nền kinh tế và ngăn chặn cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ, cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam để tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
- Kích thích cải tổ lại chiến lược thu hút vốn đầu tư, chuyển hướng thu hút vốn đầu tư sang các công ty, tập đoàn Bắc Mỹ, Tây Âu và Bắc Âu để tạo sự cân bằng giữa các lực lượng đầu tư, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước: đa dạng hóa thị trường đa phương hóa mối quan hệ kinh tế.
- Đối với các nhà đầu tư FDI sử dụng vật tư, nguyên vật liệu nhập khẩu từ các nước trong khu vực, do có cuộc khủng hoảng, giá nguyên liệu, giá thiết bị máy nhập khẩu sẽ giảm. Ví dụ: nguyên liệu nhựa giảm 10-20%, linh kiện điện tử giảm 10-30%; bông, sợi phục vụ cho ngành dệt giảm từ 20-30%...Việc giá nhập khẩu giảm giúp cho các doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trong và ngoài nước.
- Cạnh tranh khó khăn trên thị trường quốc tế khi xuất khẩu, cạnh tranh với hàng nhập khẩu với giá rẻ trên thị trường nội địa kích thích các nhà đầu tư nước ngoài thay đổi chiến lược đầu tư công nghệ, hợp lý hóa sản xuất của các dự án đầu tư vào Việt Nam.
- Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ là cơ hội giúp cho Việt Nam rút ngắn khoảng cách trong phát triển kinh tế với các nước trong khu vực. Vì theo các chuyên gia có uy tín, các nước Châu Á đang gặp khủng hoảng cần ít nhất 5 đến 10 năm để phục hồi sự phát triển. Đây chính là một khía cạnh tăng sức hấp dẫn của môi trường thu hút vốn FDI tại Việt Nam.
b. Ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng hoạt động FDI tại Việt Nam.
- Hoạt động thu hút vốn đầu tư giảm sút nghiêm trọng từ sau khi khủng hoảng nổ ra cả về số lượng dự án đầu tư và số vốn đầu tư. Đến năm 1999 và 2000, bắt đầu có sự gia tăng trở lại số dự án đầu tư nhưng quy mô vốn đầu tư so với các năm trước còn rất nhỏ bé. Số liệu cụ thể đã được trình bày ở thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phần trên. Những dự án đã được cấp giấy phép triển khai chậm và xin dãn và lùi tiến độ triển khai xây dựng lên tới gần 6 tỷ USD.
Nguyên nhân có thể do các công ty mẹ phá sản hoặc không còn khả năng tài chính, đồng tiền bản tệ mất giá nghiêm trọng, thị trường trong nước thu hẹp...nên nhiều quốc gia bị khủng hoảng phải quay lại dồn sức củng cố cơ sở trong nước; một số khác đã chuyển phần đầu tư sang một vài nước được coi là nằm ngoài tầm ảnh hưởng của khủng hoảng là Hồng Kông, Trung Quốc hoặc Singapore...
- Nhiều dự án đang hoạt động gặp khó khăn, đặc biệt là các dự án làm hàng xuất khẩu vì một mặt thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, mặt khác đồng tiền Việt Nam bị mất giá ít hơn nên giá thành sản xuất cao, khả năng cạnh tranh suy giảm. Kinh doanh khách sạn, nhà hàng, văn phòng cho thuê bị ế ẩm, hiệu quả kinh doanh kém. Nhiều dự án triển khai đang trong quá trình trả nợ các khoản vay bằng ngoại tệ, trong điều kiện làm ăn chưa có lãi, tỷ giá hối đoái tăng nên các doanh nghiệp này gặp khó khăn.
- Thu hẹp quy mô sản xuất của nhiều dự án FDI dẫn tới dãn thợ khoảng 10 nghìn nhân công; lương người lao động bị cắt giảm làm cho đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn.
- Cuộc khủng hoảng tiền tệ của các nước trong khu vực đặt Việt Nam vào tình thế cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực để thu hút vốn đầu tư vì nước nào cũng đều cần vốn để phục hồi và phát triển kinh tế, nên nhiều nước như: Malaixia, Singapore, Trung Quốc...đều thực hiện nhiều biện pháp tích cực cải thiện môi trường đầu tư để hấp dẫn và cạnh tranh với các nước khác trong thu hút nguồn vốn FDI. Hơn nữa, do giá bất động sản, giá trái phiếu của các nước ASEAN bị giảm mạnh kèm theo là khả năng đầu tư mở cửa hơn của các nước này sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào mua đầu cơ bất động sản, chứng khoán để chờ thời cơ bán đi khi giá tăng. Cạnh tranh gay gắt thu hút vốn vừa là khó khăn vừa là động lực giúp các ngành, các cấp, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam phải mau chóng đề xuất và thực hiện những giải pháp cải thiện tình hình khó khăn do cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực gây ra.
7.3. Mặt trái của việc sử dụng vốn nước ngoài và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực Châu Á
Dòng chảy của vốn tư bản vận động theo quy luật từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp đến nơi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Vì vậy nước có nhu cầu đầu tư có thể thu hút nguồn vốn to lớn để tạo ra động lực tăng trưởng bằng phát huy lợi thế so sánh về chi phí tư bản, thỏa mãn nhu cầu lợi nhuận của nhà đầu tư. Mặt khác khi mục tiêu tối thượng đó không được đảm bảo, dòng vốn này có thể bất ngờ chuyển chiều để rút ra khỏi nơi đầu tư không còn hấp dẫn, không có triển vọng mong đợi. Đặc biệt nguồn vốn đầu tư gián tiếp và ngắn hạn có tính chất linh hoạt rất cao, nó có thể vào nhanh và tháo chạy cũng rất nhanh tạo ra cú sốc cho nền kinh tế nước sở tại. Thực tế vừa qua, chỉ trong vòng 3 - 4 tháng các nhà tư bản đã rút khỏi Đông Nam Á trên 250 tỷ USD là một bằng chứng. Không chỉ riêng nguồn đầu tư ngắn hạn mà ngay cả đối với đầu tư trực tiếp (FDI), nếu không thấy có triển vọng phát triển thì doanh nghiệp nước ngoài cũng sẽ rút vốn về nước thay vì đầu tư trở lại. Tuy nhiên vì là đầu tư dài hạn nên không thể rút ra một cách nhanh chóng như luồng vốn nóng ngắn hạn. Trong cơ cấu vốn đầu tư của các nước Đông Nam Á chỉ khoảng 20-30% là vốn đầu tư trực tiếp, còn lại đều là vốn ngắn hạn theo luồng đầu tư gián tiếp. Nợ nước ngoài của các nước này cũng chủ yếu là nợ ngắn hạn. Việc vay nợ nước ngoài qua nhiều lại chủ yếu là vốn ngắn hạn và sử dụng vốn vay tràn lan, kém hiệu quả là nguyên nhân gánh nặng nợ nần chồng chất, thậm chí mất khả năng thanh toán có thể dẫn đến lệ thuộc bên ngoài không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, suy giảm tính độc lập dân tộc. Mặt khác do vốn đầu tư nước ngoài chiếm một phần quan trọng trong khu vực doanh nghiệp và việc chuyển thu nhập và lợi nhuận ra nước ngoài ngày càng tăng của các nhà đầu tư nước ngoài là nguyên nhân chính tạo nên mất cân đối nghiêm trọng thâm hụt tài khoản vãng lai, khi tư bản nước ngoài rút ra ồ ạt như vừa qua thì các đồng nội tệ buộc phải phá giá và các NHTM và các công ty ở các nước này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Thực tế cho thấy trong điều kiện tự do hóa thị trường tài chính mà không có sự tăng cường kiểm soát và quản lý có hiệu lực thì rất mạo hiểm. Hệ thống ngân hàng ở nhiều nước đã không kiểm soát các rủi ro tài chính mà họ phải gánh chịu và có những quyết định sai lầm.
Như vậy ta thấy rằng thị trường vốn quốc tế rất khắc nghiệt và là thước đo phán quyết chính xác với các chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Duy trì một hệ thống ngân hàng yếu kém trong một thế giới mà quá trình lưu chuyển vốn rất dễ biến động là điều cực kỳ nguy hiểm. Đồng thời, nền kinh tế muốn tăng trưởng một cách bền vững cần dựa vào nội lực là chính, không nên quá lạm dụng nguồn vốn nước ngoài.
Do đó cần thiết phải duy trì một tương quan hợp lý giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài, đồng thời vốn đầu tư trực tiếp và vốn vay dài hạn phải chiếm phần lớn trong vốn nước ngoài. Chúng ta xác định, về lâu dài phải giữ được tương quan vốn trong nước > vốn nước ngoài, nhưng đồng thời phải tận dụng vốn nước ngoài, tạo ra tích lũy, tăng nguồn vốn trong nước, đưa nguồn vốn trong nước dần giữ vai trò chủ đạo.
Không ai nghi ngờ về vai trò to lớn của nguồn vốn nước ngoài nói chung và vốn đầu tư trực tiếp nói riêng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế các các nước nhận đầu tư. Song cần phải thấy những tác động tiêu cực của nó cũng không nhỏ nếu không biết kiểm soát và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực vừa qua phần nào đã bộc lộ mặt trái đó và cho phép chúng ta rút ra một số bài học như sau :
Việc xác định các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế phải dựa trên cơ sở các nguồn lực có thể có được và phải đảm bảo các cân đối kinh tế vĩ mô, kịp thời điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp với những thay đổi nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố phát triển.
Cần phải có chiến lược tài chính quốc gia hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ mục đích của chính sách huy động và sử dụng vốn nước ngoài đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Huy động đủ vốn với các điều kiện vay trả thuận lợi.
- Vốn nước ngoài được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ.
- Vốn nước ngoài không có tác động xấu đến sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và tính độc lập dân tộc.
Cần xác định đúng đắn số lượng lợi dụng vốn nước ngoài : phải thường xuyên xem xét giới hạn mắc nợ, nắm chắc số lượng, điều kiện mắc nợ để điều chỉnh về mặt vĩ mô. Cần quan tâm chú ý các giới hạn số lượng sau: chỉ tiêu tỷ suất mắc nợ (tỷ lệ giữa tổng số nợ và lãi của một nước phải trả cho nước ngoài với tổng giá trị sản lượng quốc dân cùng năm), chỉ tiêu tỷ suất vay nợ (tỷ lệ giữa số dư mắc nợ còn lại sau khi trả nợ và lãi trong năm so với thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu của nước ấy cùng năm), tỷ lệ giữa số lượng dự trữ ngoại tệ với hạn ngạch nhập khẩu mỗi năm. Giám sát có hiệu quả khu vực tài chính, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và nâng cao khả năng quản lý nợ nước ngoài, nhất là nợ ngắn hạn.
Cần giám sát chặt chẽ đầu tư nước ngoài thông qua cổ phiếu, trái phiếu... tránh tình trạng các nhà đầu tư bán tháo trái phiếu gây ảnh hưởng tới đồng nội tệ.
Khi nguồn vốn nước ngoài lớn và đều đặn đổ vào trong nước, Chính phủ cần tăng cường thực hiện chính sách tiền tệ nhằm đối phó với những tác động tiêu cực về giá cả, lạm phát: tăng cường hoạt động trên thị trường mở bằng cách phát hành trái phỉếu Chính phủ, tăng dự trữ bắt buộc các khoản tiền gửi để kéo dài thời hạn các khoản tiền gửi và hạn chế luồng vốn nước ngoài vào hệ thống ngân hàng...
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN FDI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
I. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ YẾU KÉM TRONG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN FDI THỜI GIAN VỪA QUA
Hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ảnh hưởng tích cực của loại hình hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội nước ta. Tuy vậy, không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt động đầu tư nước ngoài cũng đưa lại những kết quả như mong muốn và nếu so với mục tiêu mà chúng ta đề ra cho đầu tư trực tiếp nước thì đâu phải dự án nào cũng đạt được. Điều này là khó tránh khỏi đối với chúng ta trong giai đoạn đầu của lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm vừa học này. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 là thời kỳ mà nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế còn rất lớn. Do đó chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận thực trạng hiện nay của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đánh giá đúng những mặt được và chưa được trong quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
Những hạn chế của môi trường đầu tư đã được đề cập trong phần xem xét sự sụt giảm của dòng vốn FDI vào Việt Nam. Ở đây ta chỉ khái quát lại một số vướng mắc và yếu kém còn tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời gian sắp tới.
1. Những vướng mắc về mặt cơ chế, chính sách
Trên nhiều vấn đề cụ thể liên quan tới FDI còn sự khác nhau về đánh giá và cách xử lý: hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp Việt Nam, quy mô phát triển các khu công nghiệp, v.v...Điều đó, trong một số trường hợp dẫn tới lúng túng và chậm chễ trong cách xử lý, điều hành, làm bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư, góp phần làm xấu thêm môi trường đầu tư .
Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được. Việc thực thi luật pháp, chính sách không nhất quán, tuỳ tiện. Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao, nhiều trường hợp làm đảo lộn các phương án kinh doanh của nhà đầu tư. Việc áp dụng một số chính sách thuế gần đây làm tăng chi phí sản xuất của một số ngành hàng, tăng giá bán sản phẩm dẫn đến tiêu thụ giảm đi và thị trường bị co hẹp.
Công tác quản lý Nhà nước đối với FDI còn nhiều bất cập, vừa buông lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực này phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu vì cán bộ kiểm tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài chính, về giá xuất nhập khẩu nguyên liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực. Trong một thời gian dài các cơ quan quản lý Nhà nước qua tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép; chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết dứt điểm và nhanh chóng các vấn dề phát sinh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc quản lý giá đầu vào và đầu ra còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp cũng như của Nhà nước Việt Nam.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, việc quản lý sau cấp phép chậm được cải tiến, nhất là đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu, thủ tục hành chính còn phiền hà, cấp dưới thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương của Nhà nước thiếu nghiêm túc đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI nhất là ở những nơi ít có lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Đảng và Nhà nước ta đã giành 50-60% tổng vốn đầu tư và hầu hết nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật-xã hội và môi trường của Việt Nam còn thấp kém và lạc hậu. Mặc dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa...nên vô hình trung đã triệt tiêu các ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ không tạo được sự hấp dẫn thu hút FDI trong thời gian tới.
3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật
Hiện nay đã có nhiều KCN được thành lập. Tuy nhiên cả các KCN đã đi vào hoạt động hoặc đang tiến hành xây dựng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm, khiến các nhà đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm đầu tư.
Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương thực sự chưa có quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở và trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể. Do phạm vi lĩnh vực được khuyến khích đầu tư rộng nên có nơi có lúc cơ cấu đầu tư thiếu sự phù hợp với cơ cấu sản xuất và thị trường. Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu thúc đẩy CNH, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa phương. Các ngành, các địa phương, các cơ sở kinh doanh chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác vận động đầu tư dẫn tới tranh giành dự án hoặc triển khai quá nhiều dự án không có nhu cầu nhiều về số lượng, làm thị trường các sản phẩm này nhanh chóng bị bão hòa. Do quy hoạch và dự báo thiếu chuẩn xác nên đã cấp phép đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu như ô tô, khách sạn, bia, nước ngọt có ga..Việc cấp phép trong những năm đầu thiên về dự án thay thế nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm trong nước nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh mạnh với sản phẩm của doanh nghiệp trong nước.
4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI
Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu người mỗi năm, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Số công nhân lành nghề rất hiếm. Việc tuyển một công nhân có tay nghề cao tại địa bàn Hà Nội khó khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi 1 công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp.
5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI
Ngân hàng Nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện Nhà nước và doanh nghiệp đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu, trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...không đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI.
Đi đôi với việc xem xét những mặt tồn tại, trong ta cũng cần phải chú ý học hỏi kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong số các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng lớn và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam Á và Nam Á có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ đặc thù của mỗi nước. Mỗi một hình thức sử dụng vốn bên ngoài có tác dụng hiệu quả đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với cách lựa chọn của mỗi nước. Không thể có sự sao chép và áp dụng máy móc phương pháp của một nước này cho một nước khác.
Chúng ta phải bằng mọi cách khắc phục triệt để những tồn tại và hạn chế nêu trên thì mới có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
II. XÁC ĐỊNH NHU CẦU VỐN FDI CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2005
1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta
ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm. Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất, ICOR bằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Về phương diện lý thuyết, khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra tuy ít nhưng tăng trưởng kinh tế đã đạt mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế, ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào, đã công nghiệp hóa chưa, đó là nền kinh tế “mở” hay “đóng”, mức độ tác động của bối cảnh quốc tế ra sao, chất lượng quản lý Nhà nướctrong đầu tư cao hay thấp, thực trạng tham nhũng trong đầu tư nhiều hay ít...
Đối với những nền kinh tế đang ở giai đoạn CNH-HĐH, thông thường, một hệ số ICOR ở mức cao nhưng thấp hơn 10 phản ánh thực tế đã có sự tùy tiện trong khâu lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những tính toán cụ thể về khả năng sinh lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án, vấp phải các vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguyên vật liệu đầu vào, giá cả, sức cạnh tranh...Khi phê duyệt còn nặng về quy mô hình thức, thiên về lợi ích trước mắt, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư.
Khai thác hệ quả công thức tính ICOR, người ta có thể dự báo được tiềm năng tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho một giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, khi dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế thông qua hệ số ICOR cần tôn trọng phép biện chứng và nguyên tắc thận trọng. Trong giai đoạn 2001-2005, với giả định hệ số ICOR bình quân từ 4 đến 4,5; để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 7% năm, tổng vốn đầu tư cần thiết được tính bằng tích giữa ICOR (4 hoặc 4,5) với tốc độ tăng trưởng kinh tế (7%), đưa tỷ suất đầu tư bình quân đạt từ 28% đến 31,5% GDP. Tính ra, nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho cả 5 năm 2001-2005 dao động trong khoảng từ 765 nghìn tỷ đồng đến 860 nghìn tỷ đồng, tương đương khảng 55 đến 61 tỷ USD theo giá cố định năm 2000. Về mặt toán học, các tính toán này không sai nhưng xét về kinh tế học, dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư nói trên dựa trên cơ sở 2 số liệu dự báo sẽ chỉ cho ra kết quả đáng tin cậy khi các số liệu dự báo đó (ICOR và tăng trưởng kinh tế) có độ tin cậy cao.
Hệ số ICOR của Việt Nam thời gian qua
Năm
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
ICOR
3.0
2.6
3.7
3.4
3.1
3.1
3.8
4.7
5.5
4
Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2000-2001
Tình hình đầu tư những năm qua cho thấy có một sự phù hợp khá chặt chẽ giữa đầu tư và kết quả tăng trưởng theo mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, thiên về số lượng. Khi lựa chọn và quyết định đầu tư, hầu như ta chỉ tập trung vào các dự án lớn, vốn nhiều, ít chú ý đến khả năng sinh lời và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của từng dự án, chưa coi trọng mức độ hiện đại của công nghệ, chưa quan tâm tới kết cấu ngành và kết cấu kỹ thuật của vốn đầu tư.
Phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn đóng vai trò chủ yếu, yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng khoảng 1,1%-1,2%, bằng mức của Nhật Bản những năm 1960-1970, và giống như mức của Malaixia (1,1%), Singapore (1,2%), và Inđônêxia (1,25%) trong thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90.
Năm
Tốc độ tăng trưởng (%)
GDP
Lao động
Vốn
Năng suất
1987
2.4
2.1
3.1
-0.1
1988
6.0
1.8
2.5
3.9
1989
8.0
1.6
5.2
5.0
1990
5.1
4.7
3.5
0.9
1991
6.0
2.2
4.8
2.7
1992
8.7
2.7
8.0
3.8
1993
8.1
2.8
10.4
2.2
1994
8.9
2.9
16.3
0.5
1995
9.5
2.7
15.4
1.6
Bảng trên là số liệu về tốc độ tăng trưởng các yếu tố của kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1995 do tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tính toán năm 1996. Đối với các nước khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, việc tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, tiến bộ khoa học công nghệ có tác động đến tăng trưởng chung của nền kinh tế không giống nhau. Mô hình hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng các yếu tố với tăng trưởng của nền kinh tế nước ta giai đoạn 1987-1995 ta được kết quả dưới đây:
Gr(G) = - 0,003 + 0,593´ Gr(L) + 0,41´Gr(C) + 0,996 ´ Gr(P)
Trong đó: Gr(G), Gr(L), Gr(C), Gr(P) lần lượt là tốc độ tăng trưởng GDP, lao động, vốn và năng suất lao động.
Kết quả trên cho thấy trong giai đoạn 1987-1995, khi các yếu tố khác không đổi, lao động tăng 1% sẽ làm GDP tăng 0,593%; khi vốn tăng 1% thì GDP tăng 0,41% và khi năng suất lao động tăng lên 1% sẽ làm cho GDP tăng 0,996%.
Ta thấy rằng khi cùng tăng lên 1% thì sự tăng lên của năng suất và lao động có ý nghĩa lớn hơn đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế so với yếu tố vốn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1987-1995, sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do sự tăng trưởng của vốn (45%), tăng năng suất lao động đóng góp 33% và tăng lao động đóng góp 22%.
Vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1997. Tính theo giá 1995, vốn đầu tư năm 1997 gấp 3,6 lần năm 1991, tăng bình quân 24% năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 10,5 lần trong cùng thời gian trên. Số liệu 1991-2000 cho một cơ cấu đầu tư toàn xã hội như sau:
Đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp : 10,37% tổng vốn đầu tư.
Đầu tư cho công nghiệp, xây dựng : 41,85% tổng vốn đầu tư.
Đầu tư cho dịch vụ : 47,78% tổng vốn đầu tư, trong đó 15,14% cho giao thông, bưu điện, kho bãi.
Do việc đánh giá vốn đầu tư toàn xã hội khác nhau nên việc ước tính hệ số ICOR gặp nhiều khó khăn và có điểm chưa thống nhất. Tuy vậy, có thể thấy rằng những năm gần đây để làm thêm ra một đồng GDP số vốn đầu tư ngày càng nhiều lên, ước tính chung cho cả giai đoạn 1996-2000 con số này là trên bốn (tương ứng tỷ trọng đầu tư trên GDP ở mức bình quân 27,5% và nhịp tăng trưởng GDP là 6,8% bình quân năm), nghĩa là để tăng thêm một đồng GDP cần hơn 4 đồng vốn đầu tư. Thực trạng đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR phản ánh sát thực mô hình kinh tế thiên về số lượng, cơ cấu kinh tế chứa đựng nhiều yếu tố không bền vững, mất cân đối, cần được xử lý; nền kinh tế đòi hỏi những biện pháp cụ thể, dứt khóat nhằm hạ thấp hệ số ICOR thông qua việc đổi mới thực sự cơ cấu đầu tư, tiến tới một sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nướcta trong giai đoạn tới, làm sao trong giai đoạn chiến lược 2001-2010, ta chỉ cần khoảng 4 - 4,5 đồng vốn đầu tư để tạo ra 1 đồng tăng trưởng GDP. Đây là một hệ số hợp lý, có thể chấp nhận được, đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với thế giới.
2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế
Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới những tiền đề khác nhau về điểm xuất phát năm 2000 của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP bình quân năm của các giai đoạn 2001-2010 co giãn trong một khoảng khá rộng tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Các yếu tố sau đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng cao của đất nước :
Thực tiễn 10 năm qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đường lối đổi mới một cách sâu rộng sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển đất nước ta trong những thập kỷ tới.
Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kỹ thuật trong tăng trưởng chưa cao, nếu có chính sách đầu tư đúng để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao trong những thập kỷ tới.
Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn
Tạo được sự bổ sung lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế.
Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60%-70%, lao động đóng góp 30-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước khu vực trong vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35%, của vốn 65% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% để mô phỏng cho Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8% năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở.
Dựa trên các kết quả phân tích, đánh giá đó Đảng và Nhà nước đã xác định phương án tăng trưởng cho nền kinh tế đến 2010 với giả thiết hết năm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể hạn chế mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư nên hiệu quả vốn tăng dần. Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm ở mức 7,0%-7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3%-3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9%-10%, dịch vụ tăng 6,3%-6,7%. Giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%-7,5%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 3,2% - 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%-10%, dịch vụ tăng 6,4%-6,8%. Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến 2010 là 17,3% - 39,6% - 43,2%.
Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhất là trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nếu có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Sự ổn định chính trị - xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới và những lợithế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam.
III. GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN FDI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các chuyên gia quản lý đầu tư nước dự kiến vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 năm tới sẽ có nhu cầu khoảng trên 11 tỷ USD (theo giá năm 2000), chiếm khoảng 18-20% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, vốn thực hiện từ các dự án đã cấp phép trước năm 2001 sẽ tiếp tục triển khai (khoảng 4-5 tỷ USD), từ các dự án hoạt động hiệu quả sẽ tăng vốn (khoảng 2 tỷ USD) và vốn thực hiện của các dự án cấp mới (khoảng 4-5 tỷ USD). Để thực hiện được nhiệm vụ này và nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước theo hướng CNH-HĐH, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, cần phải nghiên cứu đề ra một hệ thống các giải pháp trước mắt và lâu dài đồng thời thực hiện các giải pháp đó một cách đồng bộ. Một trong những giải pháp hàng đầu đẩy mạnh công tác thu hút ĐTNN cho giai đoạn 2001-2005 là cần thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược là nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN, coi việc quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực nói chung của cả nước, gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Dưới đây sẽ xem xét cụ thể hơn:
1. Những giải pháp trước mắt
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế XNK, thuế lợi tức, cụ thể hóa những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư...nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có, tránh cho phép đầu tư vào các ngành còn dư thừa năng lực
Xử lý linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao. Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp thua lỗ kéo dài hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ hoặc đang hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn.
Các văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI cần được dịch ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan để tránh sự diễn giải và áp dụng tùy tiện gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục thành lập các hiệp hội kinh doanh của giới doanh nhân các nước tại Việt Nam, duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, hội thảo giữa Chính phủ, cán bộ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Thực hiện giảm tiền thuê đất, đối với những vùng kinh tế khó khăn chỉ thu tiền thuê đất tượng trưng để giữ chủ quyền đất. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
Cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất.
Tổ chức theo dõi, rà soát khâu tổ chức thực hiện luật như: hải quan, thuế, cơ quan quản lý đất.. chống quan liêu, cửa quyền, tránh sự phiền hà và chi phí cho các nhà đầu tư.
Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp. Xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. áp dụng các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để chống nạn buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại...
2. Các biện pháp lâu dài
Sớm xây dựng một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà đầu tư hoạt động. Nghiên cứu tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách đầu tư cần ổn định và nhất quán, đặc biệt chính sách thuế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Ban hành quy chế tài chính riêng cho các doanh nghiệp FDI để quản lý và giám sát các doanh nghiệp này chặt chẽ hơn. Đồng thời cần có chính sách quy định về chống độc quyền, bán phá giá, chống gian lận thương mại để tránh hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp FDI.
Đẩy mạnh khâu quy hoạch, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, sớm xây dựng và công bố công khai quy hoạch đầu tư dài hạn của Việt Nam, công bố rộng rãi, rõ ràng các danh mục ngành, lĩnh vực và dự án rất khuyến khích đầu tư, khuyến khích, không khuyến khích và không cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tăng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư.
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư sao cho khoa học, đơn giản và thuận tiện. Bằng những quy định được công bố công khai và các hành động cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Xét duyệt và công khai chính sách thuế XNK của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp các nhà đầu tư hoạch định chính sách sản phẩm của mình trong tương lai.
Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển. Cải cách hơn nữa nền kinh tế để có đủ điều kiện gia nhập các tổ chức WTO và APEC.
Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở vì kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn nước ngoài thì nước chủ nhà phải bỏ ra hơn 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng.
Ổn định hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, có chế độ tỷ giá hối đoái uyển chuyển và phù hợp, những chính sách bảo hộ thương mại hữu hiệu..
Hướng hoạt động của các doanh nghiệp FDI cho phù hợp với yêu cầu hội nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Đối với những ngành hàng ta có lợi thế so sánh cao như nông sản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động thì nên đầu tư nhiều hơn. Đối với nông nghiệp nên tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn và đặc biệt là chế biến nông sản, mở rộng đầu mối xuất khẩu nông sản. Đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày..thì điều quan trọng là thị trường, chất lượng và mẫu mã. Một số mặt hàng ta không có lợi thế so sánh cao thì không nên đầu tư xây dựng mới mà chỉ nên củng cố những dự án đã có để sử dụng hết công suất, đặc biệt là khâu cung ứng nguyên liệu.
Các doanh nghiệp có vốn FDI phải hướng mạnh vào xuất khẩu hơn nữa vì sức mua của thị trường Việt Nam còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng đúng với kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực: tăng cường năng lực xuất khẩu phải là mục tiêu số một của các doanh nghiệp FDI. Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ về thuế, giá cả, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu.
Chú trọng thu hút các nhà đầu tư mạnh, có những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này bởi vì họ có thể làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh về Việt Nam. Chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ các nhà quản trị giỏi cho nước nhà để làm đối tác với các nhà đầu tư mạnh.
Cần đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Xây dựng chương trình, cách dạy và cách học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt Nam.
Trên đây chỉ là những giải pháp có tính định hướng cơ bản. Để thực hiện được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải cụ thể hóa những giải pháp định hướng trên nhằm quản lý và điều hành FDI một cách hữu hiệu, đảm bảo cân bằng giữa các ngành, các vùng cũng như các loại hình đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện phải thực sự sáng suốt, linh hoạt, đảm bảo các chính sách quy định luôn phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các doanh nghiệp và của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của đất nước Việt Nam.
*********
KẾT LUẬN
Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra...mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc...Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là đầu tư rực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề cơ bản về Kinh tế vĩ mô - ĐHKTQD HN - NXB Thống kê 1998
2. Giáo trình Kinh tế phát triển - Trường ĐHKTQD Hà Nội - NXB Thống kê 1997
3. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 -Viện Chiến lược Phát triển - NXB Chính trị quốc gia 2001.
4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam - Vũ Trường Sơn- NXB Thống kê 1997.
5. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam - PTS Lê Văn Châu - NXB Chính trị quốc gia 1995.
6. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
7. Chuyên san Kinh tế Việt Nam và Thế giới 1997-1998, 1998-1999, 1999-2000
và 2000-2001 - Thời báo Kinh tế Việt Nam.
8. Kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991- 2000. Bộ KH-ĐT- NXB Thống kê 2001
9. Niên giám thống kê 1998, 1999 - Tổng cục Thống kê .
10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - Các số tháng 4, 9, 11 năm 1996; tháng 1, 4, 7, 9, 12 năm 1997; tháng 1, 4, 5, 9 năm 1998 và các tháng 5, 6, 9 năm 2000.
11. Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Số tháng 10, 12 năm 1997, các tháng 4, 8, 9, 11 năm 1998; tháng 1, 3, 7, 8, 9 năm 2000.
12. Tạp chí Phát triển kinh tế số các năm 1995 - 2000.
13. Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số tháng 6/2000, 8/2000 và 10/2000.
14. Các tạp chí Kinh tế và phát triển, Ngân hàng, Thương mại, Những vấn đề kinh tế thế giới, Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, Thị trường Tài chính- tiền tệ,
Con số & Sự kiện, Thông tin Kinh tế - xã hội, số các năm 1996 - 2000
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.docx