Di cư không chỉ tác động tới vấn đề việc làm, thu nhập, điều kiện lao động, sức khỏe,
học vấn của phụ nữ mà còn ảnh hưởng tới vai trò làm con, làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ
trong việc chăm lo đời sống gia đình và nuôi dạy con cái trưởng thành, vì thế nó không chỉ
là vấn đề riêng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình mà là vấn đề chung của cả xã hội. Để người
phụ nữ vẫn làm tròn thiên chức, vai trò của mình và vẫn góp sức vào sự phát triển kinh tế gia
đình thì giải quyết việc làm, giải quyết lao động dư thừa và thời gian nông nhàn của người
nông dân là một vấn đề vô cùng quan trọng
82 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3950 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn Thực trạng và những tác động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới đều cho rằng phụ nữ chu đáo, quan tâm đến con cái hơn nam giới. Chỉ có lúc con ốm thì
các bậc ông bố đánh giá ở mức cao hơn, nhưng vẫn còn chưa bằng lúc vợ ở nhà. Và 100%
nam giới cho rằng họ đã thay đổi cách nghĩ là việc “nội trợ, việc gia đình” không phải là
việc dễ dàng như trước đây họ vẫn thường quan niệm.
Các em đều cho rằng thiệt thòi nhiều nhất về mặt tình cảm, vắng mẹ không biết chia
sẻ tâm sự với ai. Không được hưởng sự chăm sóc ân cần của mẹ trong cuộc sống cũng như
trong học tập
Ý kiến của các ông bà về những thiệt thòi của các em khi cả bố và mẹ di cư đi làm ăn
xa:
Mỗi năm bố mẹ cháu về 2 lần. Ở nhà với ông bà không được ăn uống đầy đủ như con
người ta, nhất là những lúc bố mẹ chưa kịp gửi tiền về. Ban ngày các cháu đi học,
đưa đứa lớn đưa đứa bé đi, khi các cháu ốm đau thì gọi mẹ cháu về. Năm 2008 tôi
phải gọi về 2 lần vì cháu nó bị viêm phổi, sốt cao. (Bà nội 67 tuổi xã Xuân Trung).
Để khẳng định thêm những tác động “tích cực” “tiêu cực” về sự di cư của phụ nữ đối
với gia đình, có thể xem xét những đánh giá của phụ nữ di cư về mối quan hệ giữa vợ chồng,
con cái và người cao tuổi.
Bảng 3.4: Ý kiến của phụ nữ di cư về những nhận định liên quan đến quan hệ gia đình
(%)
Nhận định Đúng Sai
Không
chắc
Gia đình có mẹ đi làm ăn xa con cái khó bảo và
dễ hư hỏng hơn có mẹ ở nhà
78.8 12 9.2
Gia đình có mẹ đi làm ăn xa không thể chăm sóc
con cái tốt như có mẹ ở nhà
95.8 1.1 3.1
Gia đình có mẹ đi làm ăn xa thì kết quả học tập 20.1 64.1 15.8
của con cái tốt hơn nếu mẹ ở nhà
Lựa chọn đi làm ăn xa là vì lợi ích tốt nhất đối
với người già
18.1 54 27.9
Sức khoẻ của người già sẽ kém đi do không
được chăm sóc chu đáo
71.6 12.5 15.9
Sức khoẻ của người già sẽ kém đi do tham gia
nhiều hơn vào việc giúp đỡ gia đình
70.8 15.9 13.4
Sức khoẻ của người già sẽ tốt hơn do điều kiện
vật chất được nâng cao
37.3 31.2 31.5
Kết quả bảng trên đây cho thấy, có đến 95,8% đồng ý với nhận định “Gia đình có mẹ
đi làm ăn xa không thể chăm sóc con cái tốt như có mẹ ở nhà”, 78,8% đồng ý với nhận định
“Gia đình có mẹ đi làm ăn xa con cái khó bảo và dễ hư hỏng hơn có mẹ ở nhà”
Như vậy, một lần nữa khẳng định sự di cư của phụ nữ đã tác động tiêu cực nhiều đến
con cái, đặc biệt là các em trong độ tuổi đi học
Đánh giá tác động đến người cao tuổi trong việc di cư của phụ nữ, kết quả ở bảng số
37 trên đây cho thấy có tới 71,6% đồng ý với nhận định “Sức khoẻ của người già sẽ kém đi
do không được chăm sóc chu đáo” và 70,8% đồng ý “Sức khoẻ của người già sẽ kém đi do
tham gia nhiều hơn vào việc giúp đỡ gia đình con cháu”, trong khi đó chỉ có 37,5% đồng ý
với nhận định “Sức khoẻ của người già sẽ tốt hơn do điều kiện vật chất được nâng cao”.
Qua phỏng vấn sâu cho thấy người cao tuổi gặp nhiều khó khăn và vất vả, chịu nhiều
thiệt thòi trong việc chăm sóc các cháu cho các gia đình có phụ nữ di cư và đặc biệt là những
gia đình cả hai vợ chồng đều di cư
Tôi năm nay đã 75 tuổi, ở nhà trông 3 cháu, một đứa 2 tuổi, đứa 2 tuổi rưỡi , đứa 4
tuổi cho 2 cặp vợ chồng đi làm ăn xa, chẳng có đêm nào được ngủ yên giấc. Khổ nhất
là thời gian mẹ cháu bé nhỏ nhất ra đi, lúc ấy cháu mới được 12 tháng đã cai sữa,
mẹ đi làm con ở nhà khát sữa khóc suốt đêm. Các cháu nhỏ hay ốm vặt, những hôm
cháu ốm ông bà phải thay nhau thức để chăm sóc cháu. Cả hai ông bà trông 4 đứa
cháu của 2 cặp vợ chồng. Mỗi năm chúng nó về nhà vài ba lần, mỗi lần về được vài
ba ngày là đi ngay. Thật sự chúng tôi quá vất vả gần 70 tuổi rồi mà chẳng có được
ngày nào nghỉ nghơi. (Nam 69 tuổi xã Xuân Trung)
Hàng ngày tôi phải dậy từ 5 giờ sáng, nấu ăn cho các cháu ăn, buổi tối nấu ăn, tắm
rửa cho đứa bé phải đến 10 giờ mới đi ngủ. Chẳng có thời gian nghỉ ngơi gì. Ngoài
ra còn phải đi làm ruộng, chúng tôi già rồi mà vất vả quá, đáng ra tuổi này đã được
nghỉ ngơi, con cái chăm sóc, đằng này lại phải chăm một lúc đến 4 đứa cháu của 2
cặp vợ chồng, đứa bé nhất lúc mẹ nó đi là 13 tháng, chưa cai sữa… (Nữ, bà nội 67
tuổi xã Xuân Trung).
1.2 Quan hệ vợ chồng và tổ chức cuộc sống GĐ
Để đánh giá tác động của di cư đến hạnh phúc gia đình, kết quả cho thấy, có 49,7%
phụ nữ được hỏi cho rằng “quan hệ vợ chồng không thay đổi” và có 33,1% cho biết “quan
hệ vợ chồng hạnh phúc hơn”; 21,1% cho biết là “vợ chồng ít cãi nhau vô lý hơn”.
Về lo lắng: chỉ có 21,1% cho biết có “lo lắng đến sự chung thuỷ của chồng” và 18,8%
cho biết “chồng lo lắng đến sự chung thuỷ của vợ”.Tỷ lệ cho biết “quan hệ vợ chồng rạn vỡ”
chỉ chiếm 3,9% và chủ yếu tập trung ở những gia đình mà trước khi vợ di cư kiếm việc làm
chồng đã có thói quen ham mê cờ bạc.
Biểu đồ 10: Việc di cư ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình
33.1
21.1
3.9
18.8 21.1
49.7
66.9
78.9
96.1
81.2 78.9
50.3
0
20
40
60
80
100
120
Quan hệ vợ
chồng hạnh
phúc hơn
Vợ/chồng ít
cãi nhau vô
lý hơn
Quan hệ vợ
chồng bị rạn
vỡ
Chồng lo
lắng về sự
chung thuỷ
của vợ
Tôi lo lắng
về sự chung
thuỷ của
chồng
Quan hệ vợ
chồng
không thay
đổi
Không đồng ý
Đồng ý
Kết quả thảo luận nhóm cũng cho thấy, vợ chồng đã có sự thoả thuận bàn bạc và
quyết định vợ đi di cư tìm việc làm với mục đích kinh tế cho nên cả hai vợ chồng đều cam
kết thực hiện và rất ít trường hợp xẩy ra những vấn đề xấu trong quan hệ vợ chồng .
Chúng tôi đã bàn bạc và thoả thuận với nhau rất kỹ, nên việc vợ đi làm ăn xa đã
được cả 2 vợ chồng xác định, mục đích ra đi rất rõ ràng, cho nên mỗi người đều cố
gắng làm tốt phần việc của mình. Tuy nhiên cũng có những lo lắng về nhau, vợ chồng
mà (Nam cả 6 xã)
Quan hệ vợ chồng còn được thể hiện qua mức độ mâu thuẫn giữa vợ và chồng. Khi
được hỏi “Trong gia đình chị có thường xảy ra trường hợp sau không? So với trước khi gia
đình có phụ nữ di cư thì như thế nào”. ở chỉ báo vợ chồng thường: Đánh đập nhau, có sự
thay đổi trong quá trình trước và sau khi phụ nữ di cư, 8.4% phụ nữ cho rằng thường xuyên
vợ chồng đánh đập nhau, 27.9% thỉnh thoảng, 63.7% là không bao giờ. Nhưng thời gian sau
khi trong gia đình có phụ nữ di cư thì quan hệ vợ chồng thay đổi theo chiều hướng tích cực,
chỉ có 1.7% cho rằng “vợ chồng thường đánh đập nhau”, 21,2 là thỉnh thoảng và 77.1%
không bao giờ. Ở chỉ báo “Vợ chồng lơ là bỏ mặc nhau” cũng có sự thay đổi trước và sau
khi có phụ nữ di cư, tuy sự thay đổi là không đáng kể. Điều này cho thấy mặt tích cực của di
cư mang lại. Sự di cư của phụ nữ giúp họ mở mang hơn về hiểu biết xã hội và việc di cư của
họ tạo ra thu nhập kinh tế gia đình. Kinh tế vốn là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống
gia đình, thực tế đó được chứng mình khi tìm hiểu nguyên nhân của sự thay đổi trong quan
hệ gia đình trước và sau khi có phụ nữ di cư. Hầu hết người trả lời cho rằng sau khi có phụ
nữ di cư quan hệ vợ chồng mang chiều hướng tích cực hơn là do kinh tế thay đổi. Kinh tế
của họ trước thiếu thốn thì vợ chồng cãi cọ nhau nhiều, nhưng sau đó khi phụ nữ di cư gửi
tiền về, thu nhập gia đình khá hơn thì quan hệ vợ chồng cũng đỡ nặng nề hơn.
Về cách tổ chức cuộc sống gia đình khi người vợ di cư, kết quả phỏng vấn sâu cho
thấy nam giới đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vai trò “nội trợ” của
phụ nữ. Hầu hết nam giới đã thay đổi quan niệm về việc nội trợ trong gia đình và đánh giá
cao vai trò của phụ nữ.
Trước đây, tôi quan niệm mấy cái việc vặt trong gia đình làm nhẹ nhàng và phụ nữ
thường làm việc nhẹ. Nhưng vợ đi rồi, tôi phải làm thay vợ, mới thấy nó phúc tạp quá,
nào phải chăm sóc,tắm rửa cho con bé, nào phải đưa con lớn đi học, rồi vào chợ mua
thức ăn, nào phải tính toán chi tiêu sao cho không bị thâm hụt vào số tiền vợ đã gửi
về… nói chung là rất vất vả và đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Đi làm về mệt mà thấy
cơm chưa nấu, nhà cửa không gọn gàng thì đầu đã nổi điên lên, nhiều khi đánh con vô
cớ, sau đó ân hận, nhưng vắng bà ấy mình cũng bức xúc lắm, mất cân bằng mà…(Nam
xã Giao Hà)
Sự thay đổi của nam giới trong công việc nội trợ còn được thể hiện qua ý kiến của
người trả lời về vấn đề hài lòng nhất trong quá trình di cư.
Bảng 3.5: Vấn đề hài lòng nhất trong quá trình chị di cư kiếm việc làm (%)
Hoạt động của chồng ở nhà Đồng ý Không đồng
ý
1. Chồng chăm chỉ việc nhà và chăm sóc con hơn so với
trước đây
68.3 31.7
2. Con cái ngoan học giỏi so với trước đây 26.6 73.4
3. Được chồng con tôn trọng hơn so với trước đây 37.9 62.1
4. Được gia đình chồng tôn trọng hơn so với trước đây 27.2 72.8
5. Kinh tế gia đình đầy đủ hơn 86.1 13.9
6. Không có gì hài lòng 5.8 94.2
7. Hài lòng với những vấn đề khác 3.9 96.1
Trong số 94.2% có sự hài lòng thì có đến 86,1% phụ nữ cho biết hài lòng với việc
“Kinh tế gia đình đầy đủ hơn”, tiếp đến có 68.3% phụ nữ cho rằng “Chồng chăm chỉ việc
nhà và chăm sóc con hơn so với trước đây” là vấn đề hài lòng nhất khi đi làm ăn xa, chỉ có
31.7% là không đồng ý với ý kiến này và 37,9% cho biết hài lòng nhất vì “Được chồng con
tôn trọng hơn so với trước đây”, 27,2% cho biết hài lòng vì “Được gia đình chồng tôn trọng
hơn so với trước đây”; “Con cái ngoan học giỏi so với trước đây” chỉ có 26,6% phụ nữ được
hỏi.
Như vậy, mục tiêu kinh tế vẫn là vấn đề có tỷ lệ phụ nữ di cư hài lòng cao nhất, tiếp
đến là sự thay đổi của người chồng: chăm chỉ làm việc nhà và chăm sóc con cái; và “được
chồng con tôn trọng hơn” cũng được nhiều phụ nữ lựa chọn.
Qua kết quả khảo sát cho thấy sự di cư của phụ nữ đã góp phần nâng cao vị thế, vai
trò của phụ nữ và góp phần tạo nên sự bình đẳng trong gia đình
1.3 Nguy cơ các vấn đề gia đình
Gia đình chỉ thực sự đầy đủ và ấm cúng là gia đình có sự hiện hữu của phụ nữ, được
bàn tay người phụ nữ sắp xếp, lo toan. Khi người phụ nữ rời xa gia đình dù đó là việc ra đi
chính đáng, có sự đồng thuận của chồng con thì cũng vẫn xảy ra những vấn đề, những nguy
cơ gia đình.
Có 6,1% cho rằng chồng ở nhà “hay tụ tập bàn bè ăn uống nhậu nhẹt” và 3,1% cho
biết chồng bị mắc vào tệ nạn xã hội (sử dụng ma tuý), 3,1% cho biết “Hay uống rượu, bỏ bê
việc gia đình không chăm sóc con cái”; có 1,9% cho biết chồng“ngoại tình đưa tiền bao gái”.
Như vậy tỷ lệ phụ nữ di cư đánh giá tiêu cực về người chồng có tỷ lệ thấp, nhưng cũng phản
ảnh một bộ phận nam giới chưa làm tròn trách nhiệm người chồng, người cha khi phụ nữ đi
làm ăn xa
Bảng 3.6: Thay đổi của nam giới khi phụ nữ đi làm ăn xa (%)
Hoạt động của chồng ở nhà Đồng ý Không đồng
ý
Chăm chỉ làm ăn, chăm sóc con cái cẩn thận 74.2 25.8
Chung thuỷ với vợ, tiết kiệm chi tiêu 60.6 39.4
Hay uống rượu, bỏ bê việc gia đình không chăm sóc con cái 3.1 96.9
Hay tụ tập bàn bè ăn uống nhậu nhẹt 6.1 93.9
Ngoại tình, đưa tiền cho gái 1.9 98.1
Bị mắc vào các tệ nạn xã hội 3.1 96.9
Khác 2.5 97.5
Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy vai trò của nam giới được đánh giá cao,
nhưng dù sao cũng không thay thế được vai trò của người mẹ, người vợ. Sự thiếu vắng của
người phụ nữ trong gia đình đã tác động mạnh mẽ đến các con.
Những nhận định của phụ nữ về các phương án có liên quan đến gia đình và các mức
độ “lo lắng” khác nhau của phụ nữ về những vấn đề liên quan, kết quả cho thấy có 42,5%
phụ nữ được hỏi đồng ý với nhận định“Từ khi gia đình có phụ nữ đi làm ăn xa, con cái hư
hỏng, học hành kém hơn”, tiếp đến có 41,5% đồng ý với nhận định “Tôi lo lắng về tình cảm
của chồng tôi đối với tôi”; chỉ có 15,6% đồng ý với nhận định “con cái học tốt hơn từ khi mẹ
đi làm ăn xa nhà”, và 8,3% đồng ý “quan hệ với bố mẹ họ hàng xấu đi so với trước đây”.
Biểu đồ 11: Những lo lắng của phụ nữ về gia đình trong quá trình di cư
41.4
8.3
15.6
42.5
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45
Tôi rất lo lắng về tình cảm của chồng tôi đối với tôi
Từ khi gia đình có phụ nữ đi làm ăn xa quan hệ
với bố mẹ và họ hàng xấu đi so với trước
Từ khi gia đình có phụ nữ đi làm ăn xa, con cái
tốt hơn trước
Từ khi gia đình có phụ nữ đi làm ăn xa, con cái
hư hỏng, học hành kém hơn
Như vậy, phụ nữ di cư luôn luôn có tâm trạng lo lắng về gia đình của mình, lo cho
con cái, về bố mẹ già và tiếp đến là lo lắng đến sự thiếu chung thuỷ của chồng. Những lo
lắng này là do từ bao đời nay người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn giữ vai trò “nội tướng”, luôn
là người đứng ở hậu phương lo toan việc gia đình, chăm sóc bố mẹ, con cái để chồng yên
tâm với việc kiếm sống ngoài xã hội. Khi rời xa vai trò mà trước đây chỉ do họ đảm nhiệm,
thì những băn khoăn lo lắng như trên cũng là đương nhiên.
2. Tới bản thân người phụ nữ
2.1 Tác động tích cực
Khi thực hiện di cư lao động, người phụ nữ phải rời xa gia đình, làng xóm, xa những
thói quen sinh hoạt, những mối quan hệ thân thuộc để đến với một vùng đất mới khác xa với
nơi sinh sống của mình. Để tồn tại, họ buộc phải học cách thích ứng với lối sống năng động,
hiện đại nơi thành thị, thích ứng để sinh tồn và cao hơn là làm kinh tế. Chỉ nguyên điều đó
thôi, vô hình cũng đã giúp cho những người phụ nữ chỉ quen chân lấm tay bùn, vốn chỉ biết
đến bờ tre, xóm ngõ có thêm bao điều hiểu biết, giúp cho họ nâng cao nhận thức xã hội.
Sự hiểu biết của phụ nữ được cụ thể hơn qua ý kiến của người trả lời về sự thay đổi
trong suy nghĩ, quan niệm về các vấn đề xã hội từ khi đi làm ăn xa.
Có 8 chỉ báo được đưa ra nhằm tìm hiểu sự tác động tích cực của di cư mang lại cho
người phụ nữ. Hầu hết người trả lời đều cho rằng có sự thay đổi nhiều về các vấn đề xã hội,
trong đó, 2 chỉ báo “Hiểu biết nhiều hơn các vấn đề xã hội” và “Nhận thức tốt hơn các vấn
đề xã hội” được đánh giá là thay đổi nhiều với 73.5%. Chỉ có 2.5% phụ nữ cho rằng “Hiểu
biết nhiều hơn các vấn đề xã hội” không thay đổi. 2.8% người trả lời cho rằng “Nhận thức
tốt hơn các vấn đề xã hội” không thay đổi. Tiếp theo, 53.5% phụ nữ di cư trả lời thay đổi
nhiều ở chỉ báo “Có thêm kiến thức nuôi dạy con”, 45.1% Biết thêm kinh nghiệm làm ăn.
Vấn đề thay đổi ít nhất là quan niệm về “Bình đẳng trong gia đình”, chỉ có 34.5% người trả
lời cho rằng thay đổi nhiều, 37.0% thay đổi ít, 28.4% khẳng định là không thay đổi. Rõ ràng,
về vai trò giới có thay đổi, nhưng bình đẳng giới vẫn là vấn đề còn nhiều bất cập.
Bảng 3.7: Sự thay đổi những suy nghĩ, quan niệm của phụ nữ di cư về các vấn đề xã hội
từ khi đi làm ăn xa (%)
Suy nghĩ, quan niệm Mức tác động tích cực
Thay đổi
nhiều
Thay đổi
ít
Thay đổi
nhiều
1. Hiểu biết nhiều hơn các vấn đề xã hội 73.5 24.0 2.5
2. Nhận thức tốt hơn các vấn đề xã hội 73.5 23.7 2.8
3. Có thêm kiến thức nuôi dạy con 53.5 32.6 13.9
4. Biết cách đối xử tốt hơn với chồng 43.2 37.0 19.8
5. Biết thêm kinh nghiệm làm ăn 45.1 38.2 16.7
6. Biết thêm kiến thức chăm sóc bản thân 39.3 41.2 19.5
7. Bình đẳng trong gia đình 34.5 37.0 28.4
8. Có thêm một nghề kiếm sống 41.8 31.2 27.0
Một trong những mặt tích cực nữa về mặt xã hội mà di cư có thể đem lại là vấn đề
thay đổi lối sống ở nông thôn. Bản thân người phụ nữ khi đi làm ở thành phố, sống trong
môi trường năng động, hiện đại, lối sống sinh hoạt ở thành phố thì bản thân họ thay đổi và
khi trở về cũng thay đổi ít nhiều đến lối sống khá lạc hậu ở nông thôn. Điều đó được thấy rõ
về vấn đề kiến thiết nhà cửa thì người di cư cũng tập trung xây dựng công trình phụ và bắt
đầu có sự quan tâm đến dành diện tích để làm nhà tắm, nhà vệ sinh.
Nâng cao nhận thức, hiểu biết xã hội cho người phụ nữ di cư không chỉ giúp họ tồn
tại nơi thành phố phồn hoa nhiều cạm bẫy mà còn góp phần nâng cao vị trí của người phụ nữ
trong gia đình và trong cộng đồng.
Có 93.0% phụ nữ trả lời đồng ý với quan điểm “Di cư đi làm ăn xa giúp phụ nữ mở
mang thêm hiểu biết” và 84,1% cho biết “có thêm kỹ năng sống”, 61% cho biết được chồng
chia sẻ công việc gia đình; 54,6% “được chồng tôn trọng hơn; 45,7% “được gia đình chồng
tôn trọng hơn”, 38,7% được các con tôn trọng hơn và 21,4% cho biết được hàng xóm và chị
em phụ nữ tôn trọng hơn trước.
Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy các “đức ông chồng” cũng tôn trọng vợ hơn và
xác định vợ có tiến bộ hơn nhiều về mọi mặt
Bà ấy sau khi đi xa về ăn nói giao tiếp nhanh nhẹn hẳn lên, ăn mặc cũng gọn gàng
hơn, đẹp hơn so với thời gian còn ở nhà, cách đối xử với chồng con cũng nhẹ nhàng
hơn trước đây” (Nam xã Bình Hoà)
Chồng con tôn trọng hơn nhiều là lẽ tất nhiên, trước đây cả 2 vợ chồng còn ở nhà,
kinh tế quá khó khăn, mà chị biết rồi đấy, mâu thuẩn vợ chồng có đến 80% là do
nguyên nhân kinh tế, về tình cảm cũng vậy, ở nhà với nhau hàng ngày nhìn thấy nhau
là đã thấy muốn cãi nhau, nhưng vợ đi vắng, hàng tháng về đem theo tiền, tiền vợ gửi
về giúp giải quyết rất nhiều việc, cho nên tình cảm vợ chồng cũng mặn nồng hơn,
chồng và các con yêu quý mẹ hơn trước đây, vợ chống ít cãi vã nhau (Nam xã Xuân
Châu )
Đối xử với bố mẹ chồng trước đây, khi ở nhà trong lòng thì cũng muốn quan tâm
nhưng không có tiền thì chịu, bây giờ đi làm về thỉnh thoảng có đồng quà tấm bánh,
lúc cái áo, lúc cái khăn, đôi dép biếu bố mẹ chồng, tết thì nào bánh, nào kẹo…bố mẹ
chồng cảm động lắm và đâm ra quý con dâu hơn, tôn trọng hơn (Nữ Giao Hà)
Vị trí của người phụ nữ trong gia đình thay đổi so với trước khi di cư còn được thể
hiện qua vai trò của người phụ nữ trong việc quyết định vấn đề, việc phải chi tiêu trong gia
đình, thông tin từ phỏng vấn sâu cho biết:
“Chúng em làm được mỗi tháng khoảng 1,5 triệu, dành dụm tiết kiệm để lúc có việc
mà chi tiêu, em đã giao khoán hẳn cho chồng kiếm đủ tiền chi cho cuộc sống của bố
con hàng ngày, tiền của em là để dành chị ạ, năm ngoái em mua được cho nhà em cái
xe máy để tiện đi lại làm thêm việc nọ việc kia, chồng em phấn khởi lắm, rồi cũng
sắm cho anh ấy cái di động để tiện vợ chồng liên hệ với nhau” (Nữ, xã Giao Hà)
Người phụ nữ thông qua việc di cư kiếm tiền của mình phần nào đã có tiếng nói cân
bằng hơn trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, đặc biệt là việc chi tiêu, có thể nói thông
qua phỏng vấn sâu được biết hầu như việc chi tiêu trong gia đình đều có sự bàn bạc thống
nhất từ trước giữa hai vợ chồng, đặc biệt là đối với những khoản chi lớn.
Như vậy việc di cư đi tìm việc làm đã góp phần nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ
trong gia đình và cộng đồng.
Như vậy, di cư được xác định là có những tác động tích cực tới bản thân người phụ
nữ theo hai cấp. Cấp một tác động tới chính bản thân người phụ nữ, nâng cao nhận thức,
hiểu biết về các vấn đề xã hội cho họ. Cấp hai di cư cũng đã có tác động tích cực tới người
phụ nữ trong những mối quan hệ với người thân, gia đình do có thêm các kiến thức nuôi dạy
con cái, ứng xử tốt với chồng con, đặc biệt người phụ nữ tự tin hơn trong cuộc sống vì có
thêm nghề để kiếm sống. Tuy nhiên khi xét tác động tích cực của di cư phải thấy rằng cái có
được cho bản thân người phụ nữ sau di cư cao hơn vì cá nhân họ tự nhận thấy sự thay đổi
tốt hơn trong mối quan hệ phức tạp với những người khác.
2.2 Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực mà di cư mang lại cho cá nhân người phụ nữ, cũng
cần phải xem xét và nhìn nhận nghiêm túc tới những yếu tố tiêu cực mà quá trình di cư lao
động có thể gây nên cho người phụ nữ, cụ thể là những khó khăn, thiệt thòi và cả những rủi
ro do điều kiện sống, điều kiện làm việc ở thành phố mang lại.
Trả lời câu hỏi “Chị thấy mình bị thiệt thòi gì do phải di cư đi làm ăn xa” kết quả cho
thấy trong tất vả các thiệt thòi được liệt kê trong biểu dưới đây, thì tỷ lệ cao nhất thuộc
“không được chăm sóc con cái” 86,1%, tiếp đến 85,8% cho biết “Làm việc nhiều hơn,
không có thời gian nghỉ ngơi”, thứ ba là “Phải sống trong những căn nhà ổ chuột ẩm thấp và
tồi tàn” chiếm 50,3%; 44,5% cho biết “không được xem vô tuyến và nghe đài”, và 30,6%
cho biết “không được tiếp cận với dịch vụ y tế chất lượng cao.
Biểu đồ 12: Những thiệt thòi của phụ nữ di cư
85.8
55.8
86.1
5
69.4
95
95.6
4.4
49.7
30.6
44.2
14.2
13.9
50.3
0 20 40 60 80 100 120
Phải làm việc nhiều hơn, không có thời gian nghỉ
ngơi
Không được giải trí như xem vô tuyến, nghe đài
Không được tiếp cận với dịch vụ y tế chất lượng
cao
Phải sống trong những căn nhà ổ chuột ẩm thấp và
tồi tàn
Không được chăm sóc con cái
Bị chồng nghi ngờ, ghen tuông vô lý
Tình cảm vợ chồng không còn mặn nồng như
trước đây
Không đồng ý
Đồng ý
Việc di cư đã làm cho người phụ nữ rời xa gia đình, rời xa vai trò người mẹ, họ cảm
thấy thiệt thòi khi không được ở gần để chăm sóc con cái. Thêm vào đó là điều kiện sống
khắc nghiệt nơi thành phố cũng như để thực hiện mục đích khi di cư, những người phụ nữ
phải chăm chỉ lao động kiếm sống và tích cóp gửi về quê hương. Vất vả lao động nhưng phải
sống trong những căn nhà ổ chuột ẩm thấp và gần như không được tiếp cận với các phương
tiện giải trí như ti vi, đài báo và các dịch vụ y tế. Để tìm hiểu rõ hơn điều kiện sống, sinh
hoạt khó khăn của người phụ nữ di cư ở thành phố có thể xem phỏng vấn sau:
“Tôi đã được đến ở cùng chị em lần mà tôi đưa vợ tôi đi bệnh viện, chỗ ở chung cả
nam và nữ, nằm đúng một cái lưng, nếu một người trở mình là cả những người khác phải trở
theo, tiền ở trả theo tối, hồi đó mỗi đêm một người 5000 đ, đi làm thu nhập thấp lấy đâu tiền
mà thuê chỗ ở tốt, chị em toàn nhịn ăn nhịn ở để gửi tiền về cho chồng con” (Nam, xã Xuân
Vinh
Sống trong môi trường khó khăn, phức tạp, lại làm những nghề lao động nặng nhọc,
đã làm cho quá trình di cư của người phụ nữ gặp phải những rủi ro. Kết quả khảo sát cho
thấy có 60,3 % phụ nữ cho biết là không gặp phải rủi ro nào và 39,7% cho biết có gặp rủi ro
trong quá trình di cư.
Biểu đồ 13: Những rủi ro khi phụ nữ gặp phải khi di cư
1.7
18.1 14.2
26.9
11.4
4.2
16.4
0.6 6.4
39.7
98.3
81.9 85.8
73.1
88.6
95.8
83.6
99.4
93.6
60.3
0
20
40
60
80
100
120
B
ị h
ãm
h
iế
p
B
ị c
hấ
n
lộ
t,
lừ
a
đả
o
m
ất
tiề
n
B
ị q
uấ
y
rố
i t
ìn
h
dụ
c
B
ị k
ỳ
th
ị,
ph
ân
b
iệ
t
đố
i x
ử
B
ị x
em
t
hư
ờ
ng
B
ị b
óc
lộ
t,
lạ
m
d
ụn
g
sứ
c
la
o
độ
ng
B
ị c
ư
ỡ
ng
b
ứ
c,
đ
án
h
đậ
p,
đe
d
oạ
B
ị d
ụ
dỗ
s
ử
d
ụn
g
m
a
tu
ý,
bu
ôn
b
án
M
T
K
há
c
K
hô
ng
g
ặp
r
ủi
ro
n
ào
c
ả
Đồng ý
Không đồng ý
Có tới 1/3 số người di cư được hỏi trả lời có gặp rủi ro khi di cư. Rủi ro phụ nữ gặp
nhiều nhất là “bị kỳ thị, phân biệt đối xử”: 26,9%; 18,1% cho biết “bị trấn lột lừa đảo mất
tiền, và 14,2% “bị quấy rối tình dục- bị sờ mó, sàm sỡ, mời chào bán dâm, ăn nói thô
tục”,16,4% “bị cưỡng bức, đánh đập, đe doạ”, 4,2% “bị bóc lột lạm dụng sức lao động, 1,7%
cho biết bị hãm hiếp.
Xét tương quan về độ tuổi với những rủi ro mà phụ nữ gặp phải. Trong những rủi ro:
bị hãm hiếp, bị chấn lột, lừa đảo mất tiền, bị quấy rối tình dục (sàm sỡ, sờ mó, nói năng thô
tục, mời chào bán dâm…) phụ nữ trẻ (trong độ tuổi từ 16 đến 35) thường gặp rủi ro nhiều
hơn so với trung niên và độ tuổi cao hơn. Tỷ lệ rủi ro càng thấp khi tuổi càng cao.
Khi xét tương quan giữa rủi ro với việc làm cho ta kết quả khá thú vị. Phụ nữ làm
nghề buôn bán đồng nát có tỷ lệ bị hãm hiết cao nhất so với các nghề còn lại, tiếp đó là nghề
nhặt đồng nát. Phụ nữ bị trấn lột, lừa đảo mất tiền chiếm tỷ lệ cao ở nghề buôn bán đồng nát
và lau nhà. Hầu hết phụ nữ di cư đều bị sự kì thị của người thành thị, tỷ lệ cao nhất là phụ nữ
làm nghề giữ trẻ, tiếp tới là buôn bán đồng nát và lau nhà. Bị bóc lột, lạm dụng sức lao động
nhất là những phụ nữ phục vụ ở các nhà hàng kinh doanh. Bị mất cắp, mất trộm nhiều nhất
là phụ nữ làm nghề buôn bán đồng nát. Qua phân tích tương quan nghề nghiệp cho thấy, đặc
trưng công việc có ảnh hưởng đến nguy cơ rủi ro của phụ nữ.
Có thể thấy, lao động nữ di cư có nguy cơ dễ gặp rủi ro và nhiều khó khăn trong cuộc
sống hơn nam giới. Để tìm hiểu kĩ hơn về nguyên nhân mà phụ nữ di cư gặp phải những rủi
ro, câu hỏi “nguyên nhân của những rủi ro mà phụ nữ di cư gặp phải” được đưa ra, kết quả
cho thấy có đến 68,2% phụ nữ được hỏi – và là tỷ lệ cao nhất cho biết nguyên nhân gặp rủi
ro là do “Phụ nữ di cư thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về di cư an toàn”; tiếp đến có 62,3%
đồng ý với nhận định “Phụ nữ di cư nhẹ dạ cả tin, muốn có việc làm thu nhập cao hơn”; và
37,7% cho biết do “Phụ nữ di cư một mình không có bạn bè hỗ trợ”; 43,9% cho rằng “Ở nơi
phụ nữ đến di cư còn có nhiều tệ nạn xã hội”; và 43,5% cho biết do “Ở nơi phụ nữ di cư có
nhiều tội phạm như trộm cắp, cướp giật” và cuối cùng có 25,5% cho biết phụ nữ gặp rủi ro
vì “Phụ nữ di cư chưa được pháp luật bảo vệ”.
Bảng 3.8: Nguyên nhân của những rủi ro mà phụ nữ di cư gặp phải (%)
Nguyên nhân Đồng ý Không
đồng ý
Phụ nữ di cư thiếu thông tin, thiếu hiểu biết 68.2 31.8
Phụ nữ di cư nhẹ dạ cả tin, muốn có việc làm thu nhập cao hơn 62.3 37.7
Phụ nữ di cư chưa được pháp luật bảo vệ 25.5 74.5
Phụ nữ di cư một mình không có bạn bè hỗ trợ
Ở nơi phụ nữ đến di cư còn có nhiều tệ nạn xã hội 43.9 56.1
Ở nơi PN di cư có nhiều tội phạm như trộm cắp, cướp giật 43.5 56.5
Khác 6.9 93.1
Xuất phát từ quan điển kinh tế học về lực lượng lao động, nguồn lao động nữ di cư đi
làm là hợp lý nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay, các đô thị cần
nhiều lao động nữ tham gia trong lĩnh vực dịch vụ. Thông qua việc di cư, người phụ nữ đã
chứng tỏ nỗ lực của mình trong việc tham gia lao động, tạo ra của cải vật chất cho gia đình,
góp phần vào các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Muốn người phụ nữ thực
hiện tốt vai trò là nguồn nhân lực cơ bản của đất nước cần phải tạo cho họ có được công việc
làm phù hợp, có thu nhập chính đáng và cần phải bảo vệ họ cả về thể chất lẫn tâm lý, tinh
thần, cần phải có những biện pháp,chính sách hỗ trợ và bảo vệ người di cư cả ở đầu đi và
đầu đến.
KẾT LUẬN
I. Kết luận
Ngày nay, di cư vẫn được coi là một lựa chọn “cơ hội” để các cá nhân nỗ lực cải thiện
đời sống của gia đình. Lao động nữ di cư mùa vụ từ các vùng nông thôn vào các thành phố
lớn là một hiện thực xã hội. Bên cạnh những cố gắng lao động lương thiện dù vất vả để phát
triển kinh tế gia đình, tích cực hoà nhập vào xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần
vào sự phát triển chung của đất nước; lao động nữ di cư cũng gặp phải nhiều vấn đề khó
khăn, trở ngại trong cuộc sống.
Thực tế qua nghiên cứu di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn Nam Định có thể
cho thấy phụ nữ đi di cư ở Nam Định theo nhiều hình thức: có tổ chức, tự do, lâu dài, mùa
vụ và tạm thời; trong đó hình thức chủ yếu là tự do (tự phát), tạm thời, theo thời vụ không do
nhà nước tổ chức, bảo trợ hay đầu tư. Người di cư tự do lo mọi chi phí di chuyển, tự quyết
định nơi đến, việc làm và sinh sống tại nơi di cư mới. Vẫn có một số phụ nữ di cư lâu dài và
có tổ chức, tuy nhiên số đó chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Đa phần phụ nữ chọn nơi đến để tìm kiếm việc làm là thành phố Trung ương (chủ yếu
là Hà Nội). Việc lựa chọn địa điểm làm việc là thành phố trung ương của người lao động có
thể được giải thích bởi các yếu tố: bạn bè ở Hà Nội giới thiệu đi làm; thành phố là nơi tập
trung nhiều loại hình công việc, công việc phong phú, đa dạng và nhiều; Khoảng cách địa lí
gần, tiện cho việc đi lại, về thăm gia đình.
Để thuận tiện cho việc gia đình, chăm sóc con cái, cũng như công việc đồng áng ở
quê nhà, hầu hết phụ nữ di cư chọn công việc làm ở nơi đến là những nghề tự do có tính đơn
giản, ít tính mạo hiểm, không đòi hỏi cao về trình độ và sự đầu tư lớn. Trong đó nghề thu
mua, nhặt đồng nát là nghề được chị em làm nhiều nhất.
Di cư của người phụ nữ đã ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống gia đình, kinh tế, chăm
sóc và giáo dục con cái, cả chính bản thân người phụ nữ theo hai chiều hướng tích cực lẫn
tiêu cực:
- Phụ nữ di cư đã có sự đóng góp rất lớn cho thu nhập gia đình. Tiền do thu nhập của
phụ nữ chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng thu nhập của gia đình và số tiền đó được sử dụng với
nhiều mục đích như: đầu tư cho con cái học hành, chi tiêu hàng ngày và để đóng góp cho
những công việc phát sinh như giỗ chạp, ma chay, cưới xin. Ngoài ra, số tiền đó còn được sử
dụng để mua sắm một số dụng cụ đắt tiền trong gia đình.
- Di cư của người phụ nữ còn góp phần tạo nên sự bình đẳng giới trong gia đình.
Người nam giới trong gia đình đã tham gia vào công việc nội trợ của gia đình và đã dần thay
đổi quan niệm về việc nội trợ trong gia đình và đánh giá cao vai trò của phụ nữ
- Sau khi phụ nữ di cư quan hệ vợ chồng có chiều hướng bình đẳng hơn, phụ nữ được
chồng, con và gia đình chồng tôn trọng hơn mức độ mâu thuẫn giữa vợ và chồng giảm bớt.
- Về con cái, việc di cư của phụ nữ đã mang về một khoản thu nhập đáng kể đầu tư
cho con cái học tập, chăm sóc bản thân về sức khoẻ và có điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế
tốt hơn.
- Ngoài ra, sự di cư của phụ nữ làm giảm áp lực về dân số, đất đai và đặc biệt việc
làm tại địa phương nơi phụ nữ ra đi.
Bên cạnh những tích cực mang lại, việc di cư của người phụ nữ còn dẫn đến những
tác động tiêu cực cho gia đình, con cái, quan hệ của họ trong xã hội
- Sự di cư của phụ nữ đã tác động tiêu cực nhiều đến con cái trên các khía cạnh: thiếu
người chăm sóc nhắc nhở con cái cho nên nhìn chung lực học của con cái giảm sút; Con cái
phải dành nhiều thời gian tham gia công việc gia đình. Thiếu tình thương yêu và hơi ấm của
người mẹ đã ảnh hưởng tâm sinh lí của các em, một bộ phận các em trở nên lầm lý, ít nói,
mặc cảm tự ty… Lực học của con cái khi phụ nữ di cư có chiều hướng giảm sút ở trên các
cấp học, trong đó tiểu học bị ảnh hưởng nhiều nhất.
- Sức khoẻ của người già trong gia đình có phụ nữ di cư kém đi do không được chăm
sóc chu đáo và phải tham gia vào việc gia đình chăm sóc các cháu, đặc biệt những gia đình
cả bố lẫn mẹ đều đi làm ăn xa.
- Chồng của phụ nữ di cư cũng có những ảnh hưởng nhất định, một bộ phận (ít) do
thiếu vắng sự quan tâm, chăm sóc của phụ nữ, mất cân bằng tâm sinh lý họ tìm đến bia rượu
giải sầu, ăn uống nhậu nhẹt cùng bạn bè, có một số ít ngoại tình. Tuy nhiên, tỉ lệ này không
nhiều.
Ngoài những tác động đến gia đình, chăm sóc con cái, người cao tuổi, việc di cư của
phụ nữ còn tác động đối với chính bản thân họ:
Tác động tích cực
- Di cư đi tìm việc làm đã góp phần nâng cao địa vị của phụ nữ trong gia đình và cộng
đồng.
- Di cư còn góp phần nâng cao sự hiểu biết cuả phụ nữ về các vấn đề xã hội. Hầu hết
phụ nữ di cư đều được nâng cao nhận thức, hiểu biết về các vấn đề xã hội và có thêm các
kiến thức nuôi dạy con cái, ứng xử tốt với chồng con và đặc biệt tự tin hơn trong cuộc sống
vì có thêm nghề để kiếm sống.
- Một trong những mặt tích cực nữa về mặt xã hội mà di cư đem lại là vấn đề thay đổi
lối sống ở Nông thôn. Bản thân người phụ nữ khi đi làm ở thành phố, sống trong môi trường
năng động, hiện đại, lối sống sinh hoạt ở thành phố thì bản thân họ thay đổi và khi trở về
cũng thay đổi lại ít nhiều so với lối sống ở nông thôn, biểu hiện rõ nhất là trong việc kiến
thiết nhà cửa và mua sắm tài sản đắt tiền
Tác động tiêu cực
- Về những rủi ro gặp phải khi di cư, phữ nữ thường bị kỳ thị, phân biệt đối xử khi di
cư, ngoài ra họ còn bị một số rủi ro khác (được liệt kê theo mức độ giảm dần) như: bị chấn
lột lừa đảo mất tiền, bị quấy rối tình dục (bị sờ mó, sàm sỡ, mời chào bán dâm, ăn nói thô
tục, bị cưỡng bức, hãm hiếp) bị đánh đập, đe doạ, bị bóc lột lạm dụng sức lao động…
- Phụ nữ cảm thấy thiệt thòi nhất khi không được chăm sóc con cái, làm việc nhiều
hơn và không có thời gian nghỉ ngơi xem vô tuyến, nghe đài…
- Nguyên nhân những rủi ro/nguy cơ mà phụ nữ gặp phải do “không hiểu biết, thiếu
thông tin nơi đến, di cư một mình, muốn có thu nhập cao…
II. Khuyến nghị
Di cư không chỉ tác động tới vấn đề việc làm, thu nhập, điều kiện lao động, sức khỏe,
học vấn của phụ nữ mà còn ảnh hưởng tới vai trò làm con, làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ
trong việc chăm lo đời sống gia đình và nuôi dạy con cái trưởng thành, vì thế nó không chỉ
là vấn đề riêng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình mà là vấn đề chung của cả xã hội. Để người
phụ nữ vẫn làm tròn thiên chức, vai trò của mình và vẫn góp sức vào sự phát triển kinh tế gia
đình thì giải quyết việc làm, giải quyết lao động dư thừa và thời gian nông nhàn của người
nông dân là một vấn đề vô cùng quan trọng.
Đối với địa phương được nghiên cứu, chính quyền xã nên xem xét một số vấn đề sau:
Một là: Để phụ nữ không phải xa gia đình, tới các thành phố lớn tìm kiếm việc làm
cần thực hiện chưong trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho phụ nữ nông thôn. Cụ thể
là
Huy động và mở rộng các kênh cho vay vốn tạo điều kiện cho phụ nữ được vay vốn
để phát triển kinh tế gia đình.
Lựa chọn ngành nghề phù hợp với sự phát triển kinh tế của địa phương, tiến hành
đào tạo nghề và tạo việc làm tại chỗ giúp phụ nữ có việc làm không phải di cư đi làm ăn xa.
Việc lựa chọn nghề đào tạo cần ưu tiên các nghề thích hợp với địa phương để họ có thể mở
mang sản xuất, kinh doanh nhỏ tại địa phương như các nghề truyền thống như thêu, móc túi
sợi….
Hai là: Đối với những lao động nữ di cư, cần phải trang bị cho họ những kiến thức,
kỹ năng cần thiết để giảm thiểu những rủi ro mà họ có thể gặp phải trong quá trình di cư lao
động của mình như tuyên truyền cho họ về Luật lao động, Luật cư trú….
Thiết lập mạng lưới xã hội hỗ trợ phụ nữ di cư từ chính những phụ nữ đang di cư tại
các nơi đến, nhằm tư vấn và thường xuyên trao đổi những thông tin liên quan đến di cư an
toàn và các rủi ro mà phụ nữ có thể gặp phải (như địa chỉ những người hay quấy rối tình dục,
các hành vi lừa đảo tài sản, tiền bạc, các hành vi lừa đảo buôn bán phụ nữ…) nhằm giúp phụ
nữ tự bảo vệ nhau, trao đổi kinh nghiệm cho nhau và đặc biệt cho phụ nữ trẻ mới di cư lần
đầu.
Ba là: Đảm bảo cung cấp dịch vụ xã hội cho người lao động nhập cư nói chung và lao
động nữ nói riêng, góp phần chăm sóc, bảo vệ giúp họ yên tâm lao động. Đó là những vấn
đề về điều kiện sinh hoạt như nhà ở, và các dịch vụ y tế.
PHỤ LỤC 1
Nội dung phỏng vấn sâu lao động nữ di cư
1- Những thông tin cơ bản liên quan đến di cư của bản thân
- Chị cho biết mình di cư vì mục đích gì?
- Quá trình đưa ra quyết định di cư chị bàn bạc với ai? Và ai là người quyết định cuối
cùng?
- Chị di cư đi tìm việc làm như thế nào? Chị đi một mình hay đi cùng người làng,
hoặc bà con?
2- Những thông tin về việc làm khi di cư
- Việc làm hiện nay của chị là việc gì? Chị có được việc làm này như thế nào? Chị
gặp khó khăn như thế nào trong việc tìm việc làm?
3- Trong quá trình di cư đi tìm việc làm chị gặp khó khăn gì?
- Khó khăn về nơi ở: Nơi chị ở trọ như thế nào? Vấn đề nước sạch? Vấn đề vệ sinh
môi trường? Vấn đề an ninh: Ma tuý mại dâm…
- Khó khăn về tiếp cận dịch vụ y tế: Những lúc đau ốm thì thường các chị thường đi
khám bênh ở đâu, hay tự điều trị? Chị có sử dụng được bảo hiểm y tế tại các cơ sở y tế nơi
các chị đến không?
4- Những rủi ro khi di cư mà chị gặp phải là gì?
- Bị lừa đảo, chiếm đoạt tiền công
- Bị lạm dụng, quấy rồi tình dục
- Bị lừa đảo đem bán
- Bị xem thường, kỳ thị phân biệt đối xử
- Bị người xấu rủ rê lôi kéo vào các hoạt động trái pháp luật
- Khó khăn trong việc đăng ký tạm trú tạm vắng…
5- Trong quá trình chị đi làm ăn thì gia đình chị gặp phải khó khăn gì?
- Khó khăn của chồng khi vắng mặt vợ ở nhà là gì?
- Khó khăn của bố mẹ chồng khi phải chăm sóc các cháu và làm việc nhà?
- Khó khăn của con cái khi không có mẹ ở nhà chăm sóc
6- Khó khăn trong đời sống vợ chồng
- Vợ đi làm có bị chồng nghi nghờ?
- Chồng ở nhà như thế nào? Chồng có rượu chè trai gái không?
7- Tác động tích cực của di cư
Đóng góp của chị cho gia đình không khi di cư đi làm như thế nào ?
Việc di cư có giúp chị nâng cao nhận thức và nâng cao hiểu biết không? Nếu có thì
như thế nào?
Trong quan hệ với chồng, gia đình chồng có gì thay đổi so với trước đây không? Nếu
có đó là những thay đổi như thế nào?
PHỤ LỤC 2
Nội dung phỏng vấn sâu người chồng có vợ di cư
1. Anh cho biết vợ anh di cư vì mục đích gì?
2. Quá trình đưa ra quyết định để vợ di cư tìm kiếm việc làm xẩy ra như thế nào? Và
ai là người quyết định cuối cùng?
3. Trong quá trình di cư đi tìm việc làm anh thấy vợ anh gặp khó khăn gì?
- Khó khăn về nơi ở
- Khó khăn về tiếp cận dịch vụ y tế
4. Những rủi ro mà vợ anh gặp phải là gì?
- Bị lừa đảo, chiếm đoạt tiền công
- Bị lạm dụng, quấy rồi tình dục
- Bị lừa đảo đem bán
- Bị xem thường, kỳ thị phân biệt đối xử
- Bị người xấu rủ rê lôi kéo vào các hoạt động trái pháp luật
5. Trong quá trình các vợ anh đi làm ăn xa thì gia đình anh gặp phải khó khăn
gì?
- Khó khăn của chồng khi vắng mặt vợ ở nhà là gì?
- Khó khăn của bố mẹ chồng khi phải chăm sóc các cháu và làm việc nhà?
- Khó khăn của con cái khi không có mẹ ở nhà chăm sóc
6. Khó khăn trong đời sống vợ chồng
- Vợ đi làm ăn xa anh thấy khó khăn nhất là vấn đề gì?
- Việc chăm sóc con cái ai đảm nhiệm, và như thế nào?
- Số tiền vợ giử về các anh dùng vào việc gì? Như thế nào?
7. Xa vợ các anh buồn nhất là dịp nào và tại sao?
8. Xa vợ các anh lo lắng nhất là vấn đề gì và tại sao?
9 Tác động tích cực
Anh cho biết sự di cư của vợ đã đem lại những gì tích cực cho cuộc sống gia đình?
Theo anh vợ thay đổi như thế nào sau thời gian di cư đi làm ăn xa trở về
(hiểu biết, nhận thức, làm ăn, đối xử với chồng, gia đình chồng, con cái…)
PHỤ LỤC 3
Nội dung phỏng vấn sâu trẻ em có mẹ di cư
1- Mẹ các em hiện làm gì? ở đâu?
2- Trong thời gian mẹ đi làm xa em ở nhà với ai?
- Không có mẹ ở nhà em gặp khó khăn gì?
- Mẹ không ở nhà thì ai là người chăm sóc em?
- Em có phải làm việc nhà nhiều hơn khi mẹ ở nhà hay không?
- So với thời gian mẹ ở nhà, việc học của em như thế nào?
3- Em thích mẹ ở nhà hay đi làm ăn xa như hiện nay? Tại sao?
Thời gian mẹ đi vắng bố ơ nhà thường làm gì?
Bố có hay uống rượu không?
Bố có hay vắng nhà hơn lúc mẹ ở nhà không?
Bố có hay mắng và đánh em không?
4- Việc học của em ở nhà ai nhắc nhở, hướng dẫn?
- Trước đây mẹ ở nhà thì ai hướng dẫn nhắc nhở em học?
- Ai là người đi họp phụ huynh cho em?
5- Em mong muốn điều gì?
PHỤ LỤC 4
Nội dung phỏng vấn sâu đối tượng bố mẹ chồng của phụ nữ di cư
1. Ông/bà cho biết con dâu ông bà di cư vì mục đích gì?
2. Quá trình đưa ra quyết định để vợ di cư tìm kiếm việc làm xẩy ra như thế nào? Và
ai là người quyết định cuối cùng?
3. Trong quá trình các con dâu ông bà đi làm ăn xa thì gia đình gặp phải khó
khăn gì?
- Khó khăn của bố mẹ chồng khi phải chăm sóc các cháu và làm việc nhà?
- Khó khăn của con cái khi không có mẹ ở nhà chăm sóc
- Số tiền vợ gửi về các anh chồng dùng vào việc gì? Như thế nào?
4- Con dâu đi làm ăn xa nhà ông bà thường lo lắng nhất là vấn đề gì và tại sao?
5- Dư luận xã hội trong thôn/xóm đối với phụ nữ di cư đi làm ăn xa
Trong thôn/xã có những dư luận gì về phụ nữ đi làm ăn xa không? Ông bà thấy dư
luận ấy đúng hay sai như thế nào? Tại sao đúng? Tại sao sai?
6- Ông bà cho biết sự di cư của con dâu ông bà đã đem lại những gì tích cực cho
cuộc sống gia đình?
Theo ông bà thì con dâu ông bà sau thời gian đi làm ăn xa về có những thay đổi như
thế nào? (hiểu biết, nhận thức, làm ăn, đối xử với chồng, gia đình chồng, con cái…)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chủ biên: PTS. Đỗ Văn Hoà – PTS. Trịnh Khắc Thẩm, Nghiên cứu di dân ở Việt
Nam, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội - 1999.
2. Philip Guest, người dịch: Th.s Nguyễn Thị Lan Hương, người hiệu đính: TS.Đặng
Nguyên Anh, Động lực di dân nội địa ở Việt Nam, Nhà xu 耀ất bản nông ng² ệp, Hà Nội -
1998.
3. TS. Đặng Nguyên Anh, Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở các tỉnh miền núi, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội - 2006
4. Dự án Tác động của di cư nội địa đến gia đình và các thành viên ở lại hợp tác giữa
Ủy ban DS GĐ & TE và Viện xã hội học do UNICEF tài trợ (2007).
5. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 - Di dân và sức khoẻ, Tổng cục thống kê – Quỹ
dân số liên hợp quốc, Hà Nội - 2006
6. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 - Chất lượng cuộc sống của người di cư ở Việt
Nam, Tổng cục thống kê – Quỹ dân số liên hợp quốc, Hà Nội - 2006
7. Điều tra di cư Việt Nam năm 2004 - Di cư trong nước và mối liện hệ với các sự
kiện của cuộc sống, Tổng cục thống kê – Quỹ dân số liên hợp quốc, Hà Nội - 2006
8. Nguyễn Đình Tấn, Xã hội học, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2004
9. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội -
2004
10. Tô Duy Hợp, Xã hội học nông thôn, Viện xã hội học, Hà Nội - 2006.
11. Mai Huy Bích, Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội - 2003
12. Thái Thị Ngọc Dư, Giới, nạn nghèo khó và phát triển bền vững, ĐHMBC TP
HCM - 1999.
13. Lê Ngọc Hùng, Xã hội học kinh tế, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội -2004.
14. Lê Ngọc Văn, Nghiên cứu gia đình, lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội - 2006.
15. Lê Ngọc Văn, Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện
nay, Uỷ ban dân số - gia đình, trẻ em, Hà Nội - 2005
16. Dương Kim Hồng, Làn sóng phụ nữ trẻ di cư từ nông thôn ra thành thị làm nghề
giúp việc gia đình: một số vấn đề và giải pháp, Diễn đàn phát triển Việt Nam, tháng 12 năm
2007.
17. Đặng Nguyên Anh, Di dân và giảm nghèo ở nông thôn: Một số vấn đề thực tiễn
và chính sách, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội – 2006.
18. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu, Gia đình Việt Nam và người
phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà xuất bản khoa học xã hội
- 2002
19. Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, Di dân và bảo trợ xã hội, NXB Thế giới, Hà
Nội - 2008
20. Nguyễn Hữu Minh, Đặng Nguyên Anh, Vũ Mạnh Lợi (Đồng chủ biên), Dân số
Việt Nam qua các nghiên cứu xã hội học, tập 2, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội -
2009
21. Trịnh Duy Luân, Đôi nét về người nghèo đô thị qua một cuộc khảo sát, Tạp chí
Xã hội học số 1, Hà Nội - 1993
22. Nguyễn Linh Khiếu, Vị thế của phụ nữ trong một số vấn đề của gia đình, Tạp chí
Xã hội học số 4(80), Hà Nội – 2002.
23. Trịnh Duy Luân, Hệ thống chính trị ở nông thôn qua ý kiến người dân (Một số
vấn đề thực tiễn và giả thuyết nghiên cứu), Tạp chí Xã hội học số 1 (77), Hà Nội - 2002
24..Trần Thị Minh Đức, Nguyễn Thúy Lành, Phác thảo một vài đặc điểm tâm lý xã
hội của người phụ nữ ngoại tỉnh bán hàng rong trên đường phố Hà Nội, Tạp chí tâm lý học,
số 6/2002.
25. Lê Trọng, Nguyễn Minh Ngọc, Lao động nữ ra thành phố cư trú tự do tìm việc
làm: Thực trạng và giải pháp, Khoa học về phụ nữ, số 2/2001.
26. Trịnh Khắc Thẩm, Vấn đề quản lý nhà nước đối với di dân để phát triển đồng
bằng sông Cửu long, Kinh tế dự báo, số 9/1992.
27. Đỗ Thiên Kính, Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia
đình nông thôn Việt Nam, Tạp chí xã hội học số 3, Hà Nội - 2007.
28. Đặng Nguyên Anh, Chiều cạnh giới của di dân lao động thời kỳ công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước, Xã hội học số 2 (90) - 2005.
29. Nguyễn Kim Hà, Một số vấn đề đặt ra trong nghiên cứu phụ nữ và di dân ở Việt
Nam, Khoa học về phụ nữ, số 2/2001.
30. Rolf Jensen, Donald M.Peppard Jr, Vũ Thị Minh Thắng, Di cư “tuần hoàn” của
phụ nữ ở Việt Nam: một nghiên cứu về người bán hàng rong ở Hà Nội
31. Rolf Jensen and Donald M.Peppard Jr, Người bán hàng rong ở Hà Nội – một cái
nhìn về khu vực phi chính thức ở thành phố, Tạp chí xã hội học số 4(76) - 2001
32. Phạm Quỳnh Hương, Nhập cư đô thị và an sinh xã hội, Xã hội học số 1 (93) -
2006.
33. Nguyễn Thanh Liêm, Di cư, thu nhập hộ gia đình và tiền gửi về (Nghiên cứu tại
Yên Bái, Thừa Thiên Huế và Tiền Giang), Viện xã hội học
34. Lê Ngọc Lân, Những chuyển đổi trong mô hình lao động và việc làm (nghiên cứu
tại Yên Bái), Viện Gia đình và giới
35. Nguyễn Hữu Minh, Khía cạnh giới trong phân công lao động gia đình, Tạp chí xã
hội học số 4 (104) - 2008
36. Vũ Mạnh Lợi, Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình, Tạp
chí xã hội học số 4 (72) - 2000
37. Emmanuel Pannier, Phân tích mạng lưới xã hội: các lý thuyết, khái niệm và
phương pháp nghiên cứu, Tạp chí xã hội học số 4 (104) - 2008
38. Lê Ngọc Hùng, Xã hội học giáo dục, Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội -
2006.
39. Hà Thị Phương Tiến, Hà Quang Ngọc, Lao động nữ di cư tự do nông thôn –
thành thị, Nhà xuất bản phụ nữ, Hà Nội - 2000.
40. Trịnh Duy Luân, Xã hội học đô thị, Nhà xuất bản Thuỷ lợi, Hà Nội - 2005.
41. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội - 2001.
42. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mĩ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nhà xuất
bản đại học quốc gia, Hà Nội - 2000.
43. Phạm Xuân Hảo, Phương pháp phân tích xã hội học theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nhà xuất bản quân đội nhân dân, Hà Nội - 2007.
44. Ngô Văn Thứ, Phân tích dữ liệu với phần mềm SPSS, Đại học kinh tế quốc dân,
Khoa toán kinh tế, trung tâm phân tích và xử lý dữ liệu KT – XH, Hà Nội - 2002.
45. Nguyễn Hữu Minh, Đặng Nguyên Anh, Vũ Mạnh Lợi, Dân số Việt Nam qua các
nghiên cứu xã hội học (tập 2), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội - 2009.
46. Nguyễn Minh Thắng, Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu xã hội học và dân
số, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội - 1998.
47. Cristina P.Parel, Glotia C.Caldito, Pilar L. Ferrer, Generoso G.De Guzman,
Ceferino S. Sinioco, Rudy H. Tan, (Người dịch: Phí Văn Ba), Thiết kế và quy trình lấy mẫu,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 1993.
48. Đặng Thị Hoa, Thực trạng giáo dục và vai trò của cha mẹ trong giáo dục con cái
ở nông thôn Việt Nam, Viện dân tộc học
49. PGS.TS.Trần Thị Trung Chiến (Chủ biên), TS.Nguyễn Quốc Anh, TS. Nguyễn
Thế Huệ, Th.s Đào Khánh Hoà, Dân số Việt Nam bên thềm thế kỷ XXI, Nhà xuất bản thống
kê, Hà Nội - 2003.
50. GS. Lê Thi, Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hoá và sự phát triển bền
vững, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội – 2004.
51. Nguyễn Đình Tấn và Nguyễn Văn Đoàn (Đồng chủ biên), Một số nghiên cứu xã
hội học về dân số (1991 - 2000), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000.
52. PGS,TS. Vũ Hiền – TS. Vũ Đình Hoè (Đồng chủ biên), Dân số và phát triển, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001.
53. Phó tiến sĩ Trần Cao Sơn (Chủ biên), Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số
và sự phát triển, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội – 1997.
54. Đặng Nguyên Anh, Biến đổi dân số trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá –
hiện đại hoá đất nước, Tạp chí XHH số 3 (95), 2006.
55. Đặng Nguyên Anh, Di cư nội địa ở Việt Nam 1984 – 1989: Phân tích sử dụng mô
hình mức tương đương dân số tĩnh, Tạp chí XHH số 3 (47), 1994.
56. Đặng Nguyên Anh & Nguyễn Bình Minh, Đảm bảo cung cấp dịch vụ xã hội cho
người lao động nhập cư ở thành phố, Tạp chí XHH số 4 (64), 1998.
57. Mai Huy Bích, Vài nhận xét về vai trò chăm sóc và dạy dỗ của người cha, Tạp chí
XHH số 2 (82), 2003.
58. Nguyễn Thanh Liêm, Di dân, phát triển và bất bình đẳng ở Việt Nam trên đường
Đổi mới và hội nhập, Tạp chí XHH số 3 (95), 2006.
59. Phùng Tố Hạnh, Người cao tuổi và sự tham gia xã hội, Tạp chí XHH số 4 (44),
1993
60. Tô Duy Hợp, Tìm hiểu về sự thay đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn trong thời kỳ đổi
mới, Xã hội học số 1 (49), 1995.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5. Khung lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Kết cấu của luận văn
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận của nghiên cứu
1. Các khái niệm liên quan
2. Lý thuyết, cách tiếp cận
Chương I: Thực trạng di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn
1. Mô tả địa bàn nghiên cứu
2. Đặc điểm của lao động di cư
Chương II: Tác động kinh tế - xã hội của di cư
1. Tác động kinh tế
2. Tác động xã hội
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐKH: Đã kết hôn
CKH: Chưa kết hôn
HN: Hà Nội
TP.HCM: thành phố Hồ Chí Minh
LC: Lào Cai
QN: Quảng Ninh
DANH MỤC BẢNG
Nội dung Trang
Bảng 2.1 Mô tả tình hình kinh tế xã hội của các xã nghiên cứu 29
Bảng 2.2 Số người di cư năm 2008 30
Bảng 2.3 Đặc trưng của người di cư và gia đình người di cư 31
Bảng 2.4 Thời gian mỗi lần di cư 38
Bảng 2.5 Thời gian ở nhà gần đây nhất (ngày) 40
Bảng 2.6 Nơi thường đến mỗi lần di cư 42
Bảng 2.7 Việc làm của người di cư có được từ nguồn 44
Bảng 2.8 Tổ chức nào tiến hành đào tạo 45
Bảng 2.9 Nơi ở của phụ nữ di cư 48
Bảng 3.1 Tài sản trong gia đình và sự đóng góp của phụ nữ 51
Bảng 3.2 Sự thay đổi lực học của con cái trong trong gia đình có PN di cư 57
Bảng 3.3 Mức độ tham gia của trẻ em vào công việc gia đình 59
Bảng 3.4 Ý kiến của phụ nữ di cư về những nhận định liên quan đến quan
hệ gia đình
61
Bảng 3.5 Vấn đề hài lòng nhất trong quá trình chị di cư kiếm việc làm 65
Bảng 3.6 Thay đổi của nam giới khi phụ nữ đi làm ăn xa 66
Bảng 3.7 Sự thay đổi những suy nghĩ, quan niệm của phụ nữ di cư về các
vấn đề xã hội từ khi đi làm ăn xa
69
Bảng 3.7 Sự thay đổi những suy nghĩ, quan niệm của phụ nữ di cư về các
vấn đề xã hội từ khi đi làm ăn xa
70
Bảng 3.8 Nguyên nhân của những rủi ro mà phụ nữ di cư gặp phải 76
DANH MỤC BIỂU
Nội dung Trang
Biểu đồ 1 Số lần di cư của phụ nữ 37
Biểu đồ 2 Số lần di cư trong 12 tháng vừa qua 39
Biểu đồ 3 Hình thức di cư khi đi làm ăn xa 41
Biểu đồ 4 Nghề nghiệp của người di cư 43
Biểu đồ 5 Mức độ trả lời được trang bị kiến thức, kỹ năng liên quan đến
công việc chuẩn bị làm
45
Biểu đồ 6 Đánh giá về điều kiện nơi sinh sống 48
Biểu đồ 7 Lý do thu nhập cao hơn trước đây 51
Biểu đồ 8 Tiền do phụ nữ gửi về được sử dụng vào mục đích 53
Biểu đồ 9 Lí do của những thay đổi về lực học kém hơn 58
Biểu đồ 10 Việc di cư ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình 63
Biểu đồ 11 Những lo lắng của phụ nữ về gia đình trong quá trình di cư 68
Biểu đồ 12 Những thiệt thòi của phụ nữ di cư
74
Biểu đồ 13 Những rủi ro khi phụ nữ gặp phải khi di cư 75
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn Thực trạng và những tác động.pdf