Pháp luật là phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó nó phụ thuộc vào hạ
tầng cơ sở - các quan hệ sản xuất. Trong sự đổi mới của cơ chế kinh tế nước nhà -nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó các quan hệ sản xuất có sự thay
đổi pháp luật phải nhất thiết có sự thay đổi cho phù hợp với các quan hệ sản xuất.
Trước sự thay đổi đó của nền kinh tế - xã hội, đất đai - nguồn tài nguyên trở
thành tài sản, tư liệu rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó quyền sử
dụng đất của người sử dụng đất từ cơ chế không có quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất chuyển sang có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cũng như việc thu
hồi đất để phục vụ các công trình công cộng, xây dựng các khu công nghiệp. phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nhiều biến chuyển sinh động trong khi
các quy định pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn
xã hội.
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2828 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Định hướng hoàn thiện pháp luật
về giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về đất đai
Mở đầu
Thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước, trong thời gian qua đất nước ta
đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Kinh tế tăng trởng đều hàng năm, đời
sống vật chất văn hóa, tinh thần của nhân dân được nâng lên, an ninh chính trị xã hội
được giữ vững tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai
đoạn tới.
Góp phần vào thành tựu kinh tế đã đạt được có sự đóng góp quan trọng của
chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng và Nhà nước ta mà dấu mốc quan trọng là
Hiến pháp 1992 và sự ra đời của luật đất đai năm 1993.
Luật đất đai năm 1993 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001 là một
trong những đạo luật quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước
ta. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện luật đất đai năm 1993, luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của luật đất đai năm 1998 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của luật đất đai năm 2001 là tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần ổn định
chính trị - xã hội.
Chính sách, pháp luật đất đai trở thành một trong những động lực chủ yếu để
đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản và thủy
sản. Kinh tế nông nghiệp từ sản xuất tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hóa, bộ
mặt kinh tế xã hội nông thôn được cải thiện. Người sử dụng đất gắn bó hơn với đất
đai, quyền sử dụng đất đã trở thành nguồn vốn để người sử dụng đất đầu tư phát triển
sản xuất, kinh doanh. Công tác quản lý nhà nước về đất đai dựa trên nền tảng hệ
thống pháp luật đất đai ngày càng hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ
thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy
tính tự chủ của địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình quản lý và sử dụng
đất đai hiện nay đang có những yếu kém. Hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý tài chính về đất
đai thiếu hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn yếu. Đặc biệt tình
trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về việc quản lý và sử dụng đất đai có xu hướng
tăng. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo thiếu hiệu quả...
Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như
những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nói riêng có
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn chế, bất cập
của chính sách, pháp luật đất đai.
Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai không thể thiếu cơ chế giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hoàn thiện và hiệu quả. Để nhằm khắc phục
những bất cập trong quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai hiện nay, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Nhận thức tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tó cáo về
đất đai trong quản lý nhà nước về đất đai, tiểu luận đi vào đề tài: "Định hướng hoàn
thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ".
Đề tài được giải quyết trong giới hạn của một tiểu luận môn học. Vì thế đề
tài không thể đi sâu vào nghiên cứu lịch sử và quá trình phát triển của vấn đề, đề tài
chỉ dừng lại ở việc định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
khiếu nại, tố cáo về đất đai từ thực trạng của quy định pháp luật hiện hành (Luật đất
đai 1993 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001). Tiểu luận có giá trị tham
khảo trong nghiên cứu, học tập của học viên.
Nội dung của tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai hiện nay và định hướng hoàn thiện.
Chương 1
Cơ sở lý luận định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai
1.1. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai và vai trò của giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Khái niệm tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Tranh chấp đất đai là các mâu thuẫn, bất đồng ý kiến của các chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật đất đai khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm hại.
Khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục luật
khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét
lại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý và sử dụng đất đai khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi hành chính về đất đai đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tố cáo về đất đai là việc công dân theo thủ tục do luật khiếu nại, tố cáo quy
định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp
luật về đất đai của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức.
Khái niệm giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ các tổ chức, hộ gia đình
và cá nhân tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm phục hồi lại các
quyền lợi bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật.
Giải quyết khiếu nại về đất đai là một nội dung của giải quyết khiếu nại là
xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại.
Giải quyết tố cáo về đất đai là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo về
đất đai và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo.
Vai trò của việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai có hiệu quả phù hợp pháp
luật đem lại lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Thông qua đó tuyên truyền giáo dục
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
trong việc chấp hành pháp luật đất đai. Từ đó phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ
trong cộng đồng dân cư, giữ gìn và phát huy truyền thống, đạo lý của người Việt
Nam.
Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai kịp thời, công minh sẽ làm
giảm tình hình khiếu nại, tranh chấp đất đai, tạo sự ổn định xã hội, phát triển sản xuất,
kinh doanh, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Giải quyết tốt tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai là một nhân tố quan
trọng, quyết định hiệu quả của quản lý nhà nước về đất đai. Giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai là một nội dung quan trọng trong nội dung quản lý nhà
nước về đất đai. Vì thế giải quyết tốt tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai tạo điều
kiện cho hoạt động quản lý nhà nước về đất đai đạt hiệu quả cao.
Giải quyết hiệu quả tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai đặc biệt đối với
các khiếu kiện tập thể đông người, lâu ngày còn có ý nghĩa ngăn ngừa tình huống
phát sinh "điểm nóng" chính trị xã hội - hiện tượng vốn rất nhạy cảm hiện nay.
1.2. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai hiện hành và quan điểm hoàn thiện
Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện
hành được quy định ở các văn bản luật sau: Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung
năm2001; Luật đất đai năm 1993 được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001; Luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật hình sự năm 1999; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2002; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã
được sửa đổi bổ sung năm 1999; Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
năm 1998...
Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp về đất đai:
Khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân tại khoản
1, Điều 38 Luật đất đai năm 1998 đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001
quy định như sau: "Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong
nhân dân. ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Hội nông dân, các tổ chức thành viên khác của mặt trận, các tổ
chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hòa giải các tranh chấp đất
đai".
Quy định về thẩm quyền giải quyết giữa cơ quan hành chính nhà nước và
Tòa án nhân dân được quy định như sau:
Thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý hành chính nhà nước được quy
định tại khoản 2 Điều 38, cụ thể như sau:
"Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có giấy
chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì do ủy ban nhân dân giải quyết
theo quy định sau đây:
a) ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các
tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức,
giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình.
b) ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các
tranh chấp giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân nếu tổ chức
đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc của Trung ương.
c) Trường hợp không đồng ý với quyết định của ủy ban nhân dân đã giải
quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên. Quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi
hành".
Các tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến địa giới giữa các đơn
vị hành chính được quy định tại Điều 39 luật đất đai.
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân được quy định tại khoản 3 Điều
38, cụ thể như sau: "Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã
có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản
gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do tòa án giải quyết".
Quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo về đất đai
Hành vi khiếu nại, tố cáo về đất đai là một trong những loại việc thuộc phạm
vi của khiếu nại, tố cáo theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo. Vì vậy cơ sở pháp lý
của việc khiếu nại, tố cáo về đất đai được quy định ở luật khiếu nại, tố cáo năm 1998.
Quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Điều 1 Luật khiếu nại, tố cáo cụ thể như
sau: "Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình". "Công dân có quyền tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức".
Các quan điểm về cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
hiện nay
Hiện nay tất cả các nhà khoa học nghiên cứu về pháp luật ở nước ta đều cho
rằng thực trạng giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai ở nước ta là yếu
kém cần phải tăng cường. Tuy nhiên về vấn đề này còn có những ý kiến khác nhau,
tựu trung lại có hai quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: Cần phải nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp khiếu
nại, tố cáo về đất đai, tuy nhiên để nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại
tố cáo về đất đai hiện nay thì không nhất thiết phải sửa đổi quy định pháp luật về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai mà chỉ cần hoàn thiện những yếu tố cấu
thành cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai mà thôi. Cụ thể là
phải hoàn thiện một số chế định pháp luật về đất đai như chế độ sử dụng đất, vấn đề
tài chính về đất đai... cũng như hoàn thiện chất lượng hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai và đặc biệt là hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Quan điểm thứ hai (quan điểm này chiếm số đông): Cần phải hoàn thiện
đồng bộ cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay. Bên cạnh
việc hoàn thiện cơ bản về hệ thống chính sách pháp luật về đất đai, hoàn thiện các
yếu tố quản lý như: tăng cường công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, cơ quan giải quyết tranh chấp đất
đai... nhất thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai hiện nay.
1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết, tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai
Giải quyết mọi quan hệ về tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phải bảo
đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân cho Nhà nước thống nhất quản lý.
Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng thời sửa chữa
đúng pháp luật những trường hợp đã xử lý sai trái hoặc xử lý không đúng.
Nắm vững quan điểm lấy dân làm gốc, phải dựa vào dân, bàn bạc dân chủ
công khai quỹ đất với dân để giải quyết và phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ
trong nội bộ nhân dân để họ tìm ra giải pháp, không gò ép mệnh lệnh. Đề cao vai trò
của các tổ chức, đoàn thể để hòa giải các vụ tranh chấp có hiệu quả.
Giải quyết tranh chấp khiếu nại, tố cáo đất đai phải nhằm mục đích phát triển
sản xuất, ổn định và từng bước cải thiện đời sống, nhân dân.
Gắn việc giải quyết các vấn đề ruộng đất với tổ chức lại sản xuất, bố trí lại cơ
cấu sản xuất hàng hóa theo hướng thâm canh, tăng vụ, kinh doanh tổng hợp, mở
mang ngành nghề, phân bố lại lao động, dân cư phù hợp với đặc điểm và quy hoạch
từng địa phương.
Chương 2
Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện
nay
và định hướng hoàn thiện
2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện
nay
2.1.1. Những điều kiện chính trị - xã hội tác động đến việc giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện nay
Chế độ sở hữu đất đai từ chế độ nhiều hình thức sở hữu trước đây chuyển
sang chế độ sở hữu toàn dân, do vậy yếu tố lịch sử cũng dẫn đến nhiều khó khăn
trong việc quản lý nhà nước về đất đai, trong đó có việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Về phía người sử dụng đất lại xem nhẹ về mặt chứng thư pháp lý về đất
đai của mình, yếu tố này ảnh hưởng đến việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai.
Từ nền kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường với
việc quy định không cho người sử dụng đất được quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất (Luật đất đai 1987) chuyển sang việc cho phép người sử dụng đất được
quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Luật đất đai 1993) làm cho giá trị quyền
sử dụng đất tăng lên dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện...
Chính sách pháp luật về đất đai của ta còn nhiều hạn chế, bất cập, thể hiện ở
những khía cạnh sau: Phân loại đất, quy định hạn mức đất ở chưa rõ ràng, cụ thể;
chính sách tài chính về đất đai có nhiều bất cập, chưa phù hợp thực tiễn, những yếu
tố này dẫn đến tình trạng khiếu kiện nhiều và gây trở ngại cho việc giải quyết tranh
chấp, khiếu kiện về đất đai.
Trình độ hiểu biết pháp luật của đại bộ phận nhân dân chưa cao trong khi đó
năng lực cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp còn hạn chế, phương tiện kỹ
thuật, nghiệpvụ lạc hậu chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai.
Đặc biệt cơ chế giải quyết tranh chấp khiếu nại, tố cáo về đất đai hiện hành
có nhiều bất cập dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
chưa cao.
Quá trình phát triển của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
về đất đai từ luật đất đai 1987 đến nay
Luật đất đai năm 1987 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước
thống nhất quản lý. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai theo Luật đất đai năm 1987 chủ yếu giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp,
khiếu nại tố cáo về đất đai cho ủy ban nhân dân các cấp. Tòa án nhân dân chủ yếu chỉ
giải quyết các tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
Luật đất đai năm 1993 quy định hai trường hợp: nếu tranh chấp về quyền sử
dụng đất mà người sử dụng có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Tòa án nhân dân giải
quyết, cụ thể quy định ở khoản 3 Điều 38 Luật đất đai. Tranh chấp về quyền sử dụng
đất mà người sử dụng đất không có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thì do ủy ban nhân dân giải quyết, cụ thể quy định tại khoản 2 Điều 38 Luật
đất đai.
2.1.2. Thực trạng của việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai
Trong mấy năm gần đây, tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của dân về
đất đai có xu hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ phức tạp, đặc biệt đã xuất hiện
khá nhiều đoàn khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương. Có lúc vấn
đề đất đai trở thành "điểm nóng" của cả huyện, cả tỉnh, cả vùng, có ảnh hưởng đến trật
tự, an toàn chính trị - xã hội ở địa phương.
Theo thống kê, hàng năm có trên 10 vạn vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai
(chiếm trên 65% tổng số vụ việc khiếu kiện của công dân gửi đến các cơ quan nhà
nước). Riêng thanh tra nhà nước hàng năm tiếp nhận từ 5.000 - 7.000 đơn khiếu kiện
vượt cấp liên quan đến đất đai. Qua thực tiễn cho thấy tranh chấp, khiếu kiện về đất
đai được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ hành chính giữa cơ quan nhà nước và
công dân, quan hệ dân sự giữa công dân với nông dân,
Tranh chấp đất đai lâu dài, trên diện rộng, đông người kéo dài là hiện tượng phổ
biến hiện nay. Nội dung chính của tranh chấp đất đai bao gồm:
- Tranh chấp ruộng đất giữa người đi xây dựng vùng kinh tế mới với người
địa phương, giữa người di cư tự do với người địa phương.
- Tranh chấp trong dân về những quỹ đất bãi bồi ven sông, ven biển có giá trị
nuôi trồng thủy sản.
- Tranh chấp giữa địa phương được nhà nước giao lại đất để quản lý sau khi
nhà nước quai đê lấn biển với người sử dụng đất đó do các đơn vị thi công lấn biển
đã tự quyền giao không đúng quy định.
- Tranh chấp về địa giới hành chính cấp xã có liên quan đến các khu vực đất
canh tác gắn với các khu dân cư nông thôn.
- Tranh chấp đất đường đi, ngõ xóm, ranh giới đất ở, đất vườn, đất sản xuất
thuộc quyền sử dụng của các hộ gia đình.
Những dạng khiếu kiện chủ yếu bao gồm:
- Đòi lại đất khi thực hiện chủ trương "nhường cơm, sẻ áo" ở các tỉnh phía
Nam thời kỳ 1975 - 1980 mà hiện nay người được nhường đất chuyển nhượng quyền
sử dụng đất để thu lợi.
- Đòi lại đất đã đưa vào các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất ở các tỉnh phía
Nam thời kỳ 1980 - 1990 nhưng sau đó ruộng đất đã được giao khoán cho các hộ
khác.
- Đòi lại đất mà nhà nước đã giao cho các đơn vị lực lượng vũ trang, lâm
trường, nay một số đơn vị sử dụng không đúng mục đích, sử dụng đất công để làm
kinh tế gia đình...
- Chủ cũ đòi lại ruộng đất để cho người khác mượn, nay người mượn lại đem
bán...
- Chủ cũ đòi lại đất hương hỏa trước đây nhờ người khác trông coi, nay
người được nhờ trông coi lại coi như của mình.
- Đòi lại đất có nhà ở thuộc khu vực đô thị do Nhà nước quản lý trong quá
trình cải tạo công thương nghiệp nhưng không làm đúng thủ tục hồ sơ trưng dụng,
trưng mua...
- Không đồng ý với giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các
công trình công cộng.
- Đòi lại nhà, đất của các cơ sở tôn giáo.
Những thành tựu đạt được và những tồn tại trong giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai
Những thành tựu đạt được:
Mặc dù trước những điều kiện không thuận lợi về mặt khách quan và chủ
quan của việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nhưng các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết đã cố gắng giải quyết kịp thời, nhanh chóng,
dứt điểm một số lượng tương đối về các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện, góp phần ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ổn định được sản xuất, kinh doanh.
Đạt được những thành tựu trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu ở
đây là sự quyết tâm của Nhà nước ta trước vấn đề bức xúc của xã hội. Từ những vấn
đề nhạy cảm này, nhà nước đã không ngừng ban hành các văn bản về quản lý đất đai
nhằm kịp thời khắc phục sự bất cập trong quản lý nhà nước về đất đai, từ năm 1993
đến nay cơ quan nhà nước ở Trung ương đã ban hành hơn 200 văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, kịp thời tìm ra những giải pháp hữu hiệu
trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, trong đó có việc kiện
toàn các cơ quan giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai cũng như nâng
cao nghiệp vụ các cán bộ chuyên trách. Đáng kể đến là việc tháo gỡ được những
vướng mắc về thẩm quyền giải quyết giữa các cơ quan nhà nước như việc ban hành
Thông tư liên tịch số 01-TTLT ngày 3/1/2002 của TANDTC, VKSNDTC, Tổng cục
Địa chính về "Hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết
các tranh chấp về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật đất đai năm
1993".
Những tồn tại và nguyên nhân:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai hiện nay còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục trong thời gian đến.
Theo thống kê, hiện nay còn hơn 3.000 vụ chưa được giải quyết, trong đó có
nhiều trường hợp người có công với cách mạng, đi hoạt động cách mạng vắng nhà
nhưng nhà đất đã bị giao cho người khác sử dụng, nay trở về không có nhà để ở, đất
để sản xuất. Tình trạng giải quyết chưa hợp lý, thỏa đáng dẫn đến tranh chấp, khiếu
kiện kéo dài, phức tạp, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, đình trệ đến
sản xuất kinh doanh... Sở dĩ có sự tồn tại trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó có
thể nêu ra những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất: Do điều kiện lịch sử về đất đai cũng như những điều kiện về xã hội
tác động mà việc tranh chấp, khiếu kiện ngày càng nhiều với tính chất phức tạp.
Tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo về đất đai thường dai dẳng, nhân dân ta có câu: "Nhất
hộ hôn, nhì điền thổ, vạn cổ tri thù".
Thứ hai: Do chính sách, pháp luật về đất đai của Nhà nước ta còn nhiều bất
cập,chưa phù hợp với thực tiễn vốn rất sinh động.
Thứ ba: Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước cũng như của cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại hiện nay còn nhiều yếu kém. Bên cạnh đó, đội
ngũ cán bộ chuyên trách còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, đặc
biệt là đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ tha hóa, biến chất lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi, vi phạm pháp luật về quản lý,
sử dụng đất đai.
Thứ tư: Nguyên nhân chủ yếu, cốt lõi dẫn đến sự tồn tại trên là do chúng ta
chưa có cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phù hợp. Đây là
nguyên nhân mà chúng ta cần khắc phục, đặc biệt là việc xây dựng pháp luật về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Sự bất cập, chưa phù hợp thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật không quy định thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã là thủ
tục bắt vuộc, do đó việc hòa giải tại UBND cấp xã bị xem nhẹ, từ đó số vụ tranh chấp
đất đai mà cơ quan UBND và TAND phải thụ lý giải quyết nhiều.
Thứ hai, pháp luật quy định những tranh chấp quyền sử dụng đất mà người
sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền UBND,
tranh chấp quyền sử dụng mà người sử dụng có giấy chứng nhận quyền sử dụng
thuộc thẩm quyền của TAND. Trên thực tế việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất còn rất hạn chế, đặc biệt đối với đất lâm nghiệp (chỉ đạt 35% tổng diện tích đất đã
giao sử dụng), đất đô thị (đạt 35% tổng số hộ và khoảng 25% diện tích đất ở đô thị
cần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng). Do đó số vụ việc tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của UBND còn cao.
Thứ ba, về khiếu nại đất đai, pháp luật hiện hành quy định, đương sự có
khiếu nại gửi đơn khiếu nại lên cơ quan đã ra quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính để cơ quan này giải quyết khiếu nại lần đầu. Khi có quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu, nếu không đồng ý đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên
trực tiếp của cơ quan đã giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện ra tòa hành
chính. Do hạn chế về sự hiểu biết pháp luật và do tâm lý ngại đưa vụ kiện ra tòa án
của công dân, do đó phần lớn các vụ việc theo trình tự khiếu nại được khiếu nại tiếp
tục lên cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và cơ quan hành chính nhà nước ở
trung ương.
Những lý do trên dẫn đến tình trạng quá tải của cơ quan hành chính nhà nước
nói chung cũng như của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương nói riêng.
Xu hướng vận động của tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
trong thời gian tới
Trước sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất đai
hiện nay là tài nguyên vô cùng quan trọng trong sản xuất và kinh doanh. Vấn đề đất
đai hiện nay là vấn đề hết sức nhạy cảm, có khả năng dẫn đến việc tranh chấp, khiếu
kiện ngày càng nhiều và theo chiều hướng ngày càng phức tạp nếu như chúng ta
không tìm được giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn. Vấn đề này đòi hỏi Đảng, Nhà
nước ta phải quan tâm hơn nữa, thực hiện quyết liệt hơn nữa việc tìm ra giải pháp
hữu hiệu để quản lý, trong đó yêu cầu đòi hỏi có tính quyết định là phải hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai
2.2.1. Điều kiện để định hướng hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai
Hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan Tòa án,
Viện kiểm sát trong giai đoạn hiện nay đã từng bước được kiện toàn. Đặc biệt theo
quy định của pháp luật, Viện kiểm sát hiện nay không thực hiện chức năng kiểm sát
chung (chức năng kiểm sát văn bản quy phạm pháp luật và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật) mà chỉ thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cơ quan Tòa
án nhân dân với sự ra đời của Tòa hành chính trong thời gian qua đã từng bước được
kiện toàn.
Hệ thống pháp luật trong đó có các ngành luật về tố tụng ngày càng được
hoan thiện, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của đời sống xã hội trong lĩnh vực điều
chỉnh quan hệ xã hội cũng như chức năng bảo vệ pháp luật.
Kỹ thuật vật chất nói chung và những phương tiện kỹ thuật - nghiệp vụ phục
vụ cho công tác quản lý cũng như công tác điều tra, xét xử, giải quyết các tranh chấp,
khiếu kiện về đất đai ngày càng được kiện toàn.
2.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về hoàn thiện quy định pháp luật về giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai được thể hiện trong nghị quyết Hội nghị
Trung ương VII khóa IX về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" và dự án luật đất đai sửa
đổi trình Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ ba.
Thứ nhất, tăng cường hòa giải về các tranh chấp đất đai. Coi việc hòa giải là
phương thức giải quyết tranh chấp đất đai, mọi tranh chấp về đất đai buộc phải qua
thủ tục hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Thứ hai, đổi mới cách giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại của công dân
về đất đai theo hướng đưa hệ thống tòa án nhân dân nhập cuộc, giảm bớt áp lực của
bộ máy hành chính nhà nước nói chung và lên Trung ương nói riêng. Nhà nước quy
định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại, không để kéo dài. ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cấp giải quyết cuối cùng các khiếu nại
về đất đai trong phạm vi, thẩm quyền của các cấp ở địa phương.
Thứ ba, việc giải quyết tố cáo về đất đai thực hiện theo pháp luật về tố cáo.
2.2.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai
Trên cơ sở lý luận về thực trạng giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai hiện nay. Tiếp thu, vận dụng Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" và nhu cầu hoàn thiện
pháp luật và đất đai, pháp luật giải quyết tranh chấp khiếu nại tố cáo về đất đai có
thể được hoàn thiện theo những định hướng sau đây:
2.2.3.1. Hòa giải các tranh chấp về đất đai là thủ tục bắt buộc
Quy định hòa giải các tranh chấp về đất đai là thủ tục bắt buộc được hiểu là
thủ tục mà UBND cấp xã phải tiến hành khi có tranh chấp trước khi đương sự có các
yêu cầu về tố tụng tiếp theo. Quy định theo hướng này có ý nghĩa trong việc đề cao
vai trò hòa giải ở cơ sở cũng như trách nhiệm hòa giải của ủy ban nhân dân xã, coi đó
là trách nhiệm, một phương thức giải quyết tranh chấp đất đai. Đồng thời phải xem
đây là một thủ tục tiền tố tụng mà các đương sự phải tiến hành, là điều kiện để các cơ
quan thụ lý giải quyết vụ án. Vì thế phải quy định thời hạn hòa giải ở ủy ban nhân dân
cấp xã.
2.2.3.2. Cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai là cơ quan tòa án
Mọi tranh chấp về đất đai của bất kỳ các chủ thể (cá nhân, tổ chức, hộ gia
đình) đều phải được giải quyết bằng cơ quan tòa án nếu như việc hòa giải tại UBND
cấp xã không thành. Như vậy, nếu quá thời hạn hòa giải tại UBND cấp xã mà UBND
cấp xã hòa giải không thành hoặc không hòa giải được (không hòa giải được ở đây
được hiểu là không thể tiến hành hòa giải) thì Tòa án nhân dân có nhiệm vụ thụ lý
giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nếu đương sự yêu cầu.
2.2.3.3. Giải quyết tranh chấp đất đai có liên quan đến địa giới hành chính
Giải quyết các tranh chấp đất đai có liên quan đến địa giới hành chính về cơ bản
nên giữ như quy định của pháp luật hiện hành.
2.2.3.4. Giải quyết khiếu nại về đất đai
Nhà nước phải quy định thời hiệu và thời hạn giải quyết các khiếu nại, có cơ
chế giải quyết khiếu nại nhằm làm giảm bớt áp lực đối với cơ quan hành chính nhà
nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương. Trình tự giải quyết
theo hướng sau: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có khiếu nại phải gửi đơn đến cơ quan
nhà nước đã ra quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị khiếu nại.
Cơ quan hành chính đã ra quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị
khiếu nại có trách nhiệm giải quyết lần đầu.
Trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có
quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đã ra quyết định giải quyết
lần đầu. Riêng đối với các khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân
cấp tỉnh nên chỉ có thủ tục giải quyết lần đầu.
Trường hợp đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của
cơ quan cấp trên trực tiếp hoặc không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu của
ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì có quyền khởi kiện đến Tòa án theo thủ tục tố tụng hành
chính.
2.2.3.5. Việc giải quyết tố cáo về đất đai
Việc giải quyết các tố cáo về đất đai được thực hiện theo pháp luật tố cáo.
2.2.4. Kiến nghị
Để quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai đạt hiệu quả cao
cần tiến hành hoàn thiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hoàn thiện đồng bộ chính sách, pháp luật về đất đai, trong đó có
pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Bên cạnh đó phải tiến
hành rà soát sửa đổi các quy định của một số văn bản luật cho phù hợp với Luật đất
đai, cụ thể là BLDS, Luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, phải tiến hành sửa đổi Luật khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, đồng thời tăng cường các
hoạt động quản lý của Nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan
quản lý hành chính nhà nước; hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp; kiểm tra giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn
thể chính trị - xã hội.
Thứ tư, kiện toàn bộ máy quản lý hành chính nhà nước và bộ máy tòa án về
hiệu quả hoạt động, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, đạo đức của đội ngũ
cán bộ công chức.
kết luận
Pháp luật là phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó nó phụ thuộc vào hạ
tầng cơ sở - các quan hệ sản xuất. Trong sự đổi mới của cơ chế kinh tế nước nhà -
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó các quan hệ sản xuất có sự thay
đổi pháp luật phải nhất thiết có sự thay đổi cho phù hợp với các quan hệ sản xuất.
Trước sự thay đổi đó của nền kinh tế - xã hội, đất đai - nguồn tài nguyên trở
thành tài sản, tư liệu rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó quyền sử
dụng đất của người sử dụng đất từ cơ chế không có quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất chuyển sang có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cũng như việc thu
hồi đất để phục vụ các công trình công cộng, xây dựng các khu công nghiệp... phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nhiều biến chuyển sinh động trong khi
các quy định pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn
xã hội.
Từ những nguyên nhân trên, tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai
đang diễn ra rất trầm trọng, trở thành vấn đề bức xúc của xã hội, có chiều hướng phát
triển xấu, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến phát triển sản
xuất, đến quá trình thực hiện CNH, HĐH của nước nhà.
Trước nhu cầu đòi hỏi đó, việc tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nói
riêng là yêu cầu tất yếu.
Thực hiện yêu cầu này, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX đã ra nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước". Chính phủ đã trình Quốc hội khóa XI,
kỳ họp thứ 3 về dự án luật đất đai sửa đổi, hiện đang tiếp tục lấy ý kiến để tu chỉnh
trình Quốc hội thông qua trong thời gian tới.
Với sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn dân trong xây dựng pháp luật đáp
ứng thời kỳ đổi mới đất nước, hy vọng Quốc hội nước ta sẽ thể hiện trí tuệ của mình ban
hành Luật đất đai sửa đổi đáp ứng nhu cầu quan hệ xã hội về đất đai, đáp ứng nhu cầu
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo đất đai, đáp ứng
nhiệm vụ thực hiện CNH, HĐH đất nước.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
2. Luật đất đai năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Luật khiếu nại, tố cáo, ngày 2-12-1998, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
4. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.
6. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 1999).
7. Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở ngày 25-12-1998, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
8. Nghị quyết số 26-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương
khóa IX, Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩymạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
9. Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật đất đai (1993 - 2003) của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, ngày 10-4-2003.
10. Tờ trình Quốc hội về Dự án Luật đất đai sửa đổi của Chính phủ, ngày 7-4-
2003.
11. Triệu Văn Bé, Tăng cường quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện
nay, Tạp chí Cộng sản, số 10, 2002.
12. Lê Phương Dung, Một phương thức quản lý nhà đất đang phát huy tác dụng,
Tạp chí Thương mại, số 23, 2003.
13. Đinh Văn Minh, Mấy suy nghĩ về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành
chính trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Thanh tra, số 9, 2002.
14. Nguyễn Văn Xa, Định hướng sửa đổi Luật đất đai, Tạp chí Tài chính, tháng
8/2002.
15. Nguyễn Quang Tuyến, Về mối quan hệ giữa các quy định về chuyển quyền sử
dụng đất của Luật đất đai và Bộ luật dân sự, Tạp chí Luật học, số 3, 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 128_6758.pdf