Từ thực tiễn và phát triển nền kinh tế nước ta, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới.
Đảng không ngừng đổi mới chủ trương chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, trực tiếp tác động thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Sự phát triển
của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao bồm trí tuệ, kinh nghiệm năng lực
quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2282 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị kinh tế tư nhân phát
triển dưới nhiều hình thức theo các quy định của pháp luật. Đặc biệt kinh tế tư nhân
phát triển mạnh kể từ khi nhà nước ban hành luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty,
luật khuyến khích đầu tư trong nước và gần đây là luật doanh nghiệp. Kinh tế tư nhân
phát triển rộng khắp trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều
nhất là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiếp đến là công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp. Kinh tế tư nhân phát triển rộng rãi trong cả nước nhưng tập trung cao ở các đô
thị, những địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi, được chính quyền quan tâm,
khuyến khích, hỗ trợ.
Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 1996-2000 số lượng đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong
khu vực kinh tế tư nhân tăng lên đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng 6,02%, số
doanh nghiệp tăng 45,61% nhưng không đều qua các năm. Trong cơ cấu các hình thức
tổ chức kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân, các hộ cá thể chiếm số lượng rất lớn,
đến cuối năm 2000 có 2.137.731 hộ và 29.548 doanh nghiệp. Trong các loại hình
doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân chiếm số lượng lớn nhất, tiếp đến là công ty trách
nhiệm hữu hạn, sau đó là công ty cổ phần, công ty hợp doanh chiếm số lượng không
đáng kể. Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn, phát triển rộng rãi từ nhiều năm nay.
Hộ kinh doanh cá thể phân bố không đều giữa các địa phương. Quy mô của hộ kinh
doanh cá thể nói chung là rất nhỏ, sử dụng lao động trong gia đình là chính, vốn kinh
doanh ít. Đối với doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng kí kinh doanh từ khi có luật
công ty và luật doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh. Tính chung thời kì 1991-2000, số
doanh nghiệp đăng kí kinh doanh tăng bình quân là 96,24%/năm. Từ năm 2000 đến
nay khi luật doanh nghiệp được thực hiện, số lượng doanh nghiệp đăng kí kinh doanh
tăng rất nhanh. Sau 2 năm thực hiện luật doanh nghiệp đến ngày 31/12/2001 cả nước
đã có 35.440 doanh nghiệp mới đăng kí hoạt động. Tính đến ngày 31/12/2000, cả
nước có 56.834 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, nhưng số doanh nghiệp thực tế hoạt
động chỉ chiếm 51,99% các doanh nghiệp chưa hoạt động chiếm 16,85%, số doanh
nghiệp giải thể chuyển sang loại hình thức khác chiếm 24,44%, doanh nghiệp chưa tìm
thấy là 6,72%. Số doanh nghiệp thực tế hoạt động phân bố không đều ở các địa
phương. Số lượng doanh nghiệp thực tế hoạt động tập trung cao ở ngành thương mại,
dịch vụ. Quy mô của các doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ và vừa.
Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân.
Tổng vốn đầu tư phát triển của các hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267 tỉ
đồng tăng 12,93% so với năm 1999. Tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ
kinh doanh cá thể chỉ chiếm 63.668 tỉ đồng, chiếm 36,61% trong tổng số vốn dùng vào
sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Vốn của doanh nghiệp tăng nhanh cả
về vốn đăng kí kinh doanh, tổng vốn thực tế sử dụng và vốn đầu tư phát triển. Tổng
vốn đăng kí kinh doanh liên tục tăng cùng với số doanh nghiệp tăng. Tính từ khi có
luật doanh nghiệp đến hết tháng 04/2002 cả nước có trên 41.000 doanh nghiệp mới
thành lập với tổng số vốn đăng kí tương đương 3,6 tỉ USD. Nếu tính cả số vốn điều
chỉnh bổ xung của các doanh nghiệp thì tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư
nhân trong nước trong hơn 2 năm qua đạt khoảng 60.000 tỉ đồng tương đương 4 tỉ
USD. Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp cũng tăng nhanh. Tổng vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp tư nhân tăng cả về lượng vốn và tỉ trọng trong tổng vốn
đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và của toàn xã hội.
Về lao động của khu vực kinh tế tư nhân.
Tính từ năm 1996 đến nay số lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân phi
nông nghiệp trong các năm đều tăng. So với tổng số lao động toàn xã hội thì khu vực
này chiếm tỉ lệ khoảng 11% qua các năm. Trong các ngành phi nông nghiệp, số lao
động khu vực kinh tế tư nhân năm 2000 tăng 20,12% so với năm 1996; bình quân mỗi
năm tăng 4,75 %/ năm. Năm 2000, lao động khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp chiếm 63,9% tổng số lao động nông nghiệp toàn quốc. Năm
2000, trong khu vực kinh tế tư nhân các ngành phi nông nghiệp, lao động trong công
nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất. Lao động trong công nghiệp chiếm 45,67%; lao động
trong ngành thương mại, dịch vụ chiếm tỉ trọng 37,37%; lao động các ngành khác
chiếm 16,94%. Tính từ năm 1996 đến nay, lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn
ngành thương mại dịch vụ. Lao động công nghiệp ở doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh
hơn ở hộ kinh doanh cá thể; năm 2000 so với năm 1996, lao động công nghiệp ở
doanh nghiệp tăng 114,02%; lao động công nghiệp ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng
được 6,4%.
Xuất xứ lao động khu vực kinh tế tư nhân.
Đối với hộ kinh doanh cá thể, lao động ở khu vực này là các xã viên của các hợp
tác xã trước đây, các hộ cá thể hoạt động từ lâu theo kiểu truyền nghề từ đời trước (đối
với nghề tiểu thủ công nghiệp, cửa hiệu kinh doanh), các hộ sản xuất nông nghiệp
chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, lực lượng lao động trẻ được bổ
xung hàng năm, cán bộ, công nhân từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước chuyển
sang, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ…Đối với doanh nghiệp một phần lớn phát triển từ
kinh tế hộ đi lên, một số được chuyển từ hình thức hợp tác xã, một số khác được
thành lập mới. Trong số chủ doanh nghiệp: chủ doanh nghiệp tư nhân hầu hết trưởng
thành trong chế độ mới. Theo báo cáo của các địa phương, nhiều người trong số họ là
cán bộ, đảng viên đã từng tham gia công tác trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước, lực lượng vũ trang; trong đó có cả thanh niên, phụ nữ, có một số doanh nghiệp
do nguời dân tộc thiểu số làm chủ.
Tăng trưởng sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân.
Tổng sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục trong
những năm gần đây. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân tăng bình quân 7%/năm.
Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân xấp xỉ tốc độ tăng GDP của toàn
bộ nền kinh tế. Năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP của cả nước.
Trong đó GDP của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp là 63,6%GDP của khu
vực kinh tế tư nhân, và bằng 26,87% GDP cả nước. Trong ngành nông nghiệp, năm
2000 GDP của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 15,4% GDP toàn quốc và chiếm 63,2%
GDP của nông nghiệp nói chung.
1.4.2 Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhưng
trong sản xuất của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhưng khiếm khuyết, hạn chế cần
phải khắc phục.
Trước hết bắt đầu từ bản thân chủ thể kinh tế tư nhân. Tuy thời gian qua kinh tế
tư nhân phát triển mạnh về số lượng nhưng nếu xét tổng thể trên cả 3 tiêu thức vốn, lao
động và công nghệ thì nhìn chung các loại hình doanh nghiệp tư nhân, cá thể còn rất
nhỏ bé và công nghệ lạc hậu. Về quy mô vốn cho thấy 80,26% các loại hình doanh
nghiệp có số vốn nhỏ hơn 5 tỉ đồng, con số này đối với doanh nghiệp nhà nước là
20,03%. Về lao động, phần lớn các doanh nghiệp có quy mô lao động nhỏ. 80% doanh
nghiệp có số lao động dưới 50 người trong trong khi đó đối với doanh nghiệp nhà
nước quy mô lao động hơn 200 người chiếm hơn 50% tổng số doanh nghiệp. Về trình
độ công nghệ, đa số các loại hình doanh nghiệp tư nhân dang sử dụng công nghệ ở
mức trung bình và lạc hậu so với thế giới. Như vậy thực trạng hiện nay ở khu vực kinh
tế tư nhân cho thấy quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu đang làm hạn chế sức cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước mà sức cạnh tranh là yếu tố cơ bản cho sự
tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp và đó cũng là khó khăn, yếu kém mà doanh
nghiệp tư nhân cần phải khắc phục nhanh chóng khi mà hiện nay chúng ta đã gia nhập
lộ trình AFTA.
Còn xét ở trình độ quản lí của chủ doanh nghiệp tư nhân, đa số hiện nay chưa
được qua đào tạo. Họ điều hành quản lí chủ yếu dựa vào các kinh nghiệm được tích
luỹ trong quá trình kinh doanh quy mô gia đình, kinh doanh nhỏ. Thực tế cho thấy đại
đa số chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo không có bằng cấp chuyên môn rất khó đáp
ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường, do đó trong điều kiện hội nhập hội nhập với
nền kinh tế, khu vực thì chắc chắn kinh nghiệm quản lí kinh doanh kiểu trên sẽ không
còn phù hợp và lối kinh doanh ấy sẽ là rào cản doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận để
mở rộng tầm nhìn, mở rộng giao lưu với các đối tác bên ngoài. ở khía cạnh khác, do
không hội đủ các điều kiện chuyên môn, am tường pháp luật, kiến thức quản lí, kinh
doanh.. cho nên không ít giám đốc doanh nghiệp tư nhân đã đẩy đơn vị mình vào tình
trạng nợ nần, mất khả năng kinh doanh, phá sản. Đa số nhà doanh nghiệp khi ra trước
toà đều có chung tình trạng là kém trình độ kinh doanh, không thông hiểu pháp luật
dẫn đến các vi phạm pháp luật. Nhìn từ góc độ chiến lược đầu tư, ngành nghề đầu tư,
phần lớn các chủ thể kinh tế tư nhân hiện nay tập trung vào các ngành thương mại,
dịch vụ nhưng ít đầu tư vào hoạt động sản xuất.
Bên cạnh những khó khăn về vốn, lao động, trình độ công nghệ còn có những khó
khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân
được thành lập và phát triển từ khi có chủ trương đổi mới, và tăng nhanh sau khi luật
doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Nhà nước đã tiến hành giao quyền sử dụng đất theo
luật đất đai, do đó về cơ bản là không còn đất vô chủ. Do các doanh nghiệp tư nhân ra
đời muộn, không còn đựơc Nhà nước ưu đãi về đất như trước, chính vì vậy thiếu mặt
bằng kinh doanh đang là trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu dân cư làm nơi sản
xuất, kinh doanh. Một số doanh nghiệp tư nhân phải đi thuê lại đất, nhà xưởng bỏ
hoang của các đơn vị khác mà thường là cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước,
hợp tác xã. Chính vì phải thi đi thuê lại đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh nên
doanh nghiệp phải trả giá cao hơn rất nhiều so với giá thuê của Nhà nước quy định.
Nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư lâu dài vào nhà xưởng, máy móc thiết bị vì lo
phải trả lại đất, trong khi chưa thu hồi đủ vốn. Ngoài ra, doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, thiệt thòi trong việc chuyển mục đích sử dụng đất hoặc phải trả tiền thuê đất cho
chính mảnh đất mà mình sử dụng trước đó của mình, đã phải bỏ tiền ra đền bù hoặc
mua lại. Thủ tục liên quan đến đất đai quá rườm rà, phải mất nhiều thời gian, công sức,
chi phí và cả những tiêu cực trong xã hội của một số cán bộ có thẩm quyền về nhà đất,
nhiều khi làm lỡ cơ hội sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Và đặc biệt khó khăn lớn nhất đối với các doanh nghiệp tư nhân đó chính là khó
khăn về môi trường pháp lí và tâm lí xã hội. Trở ngại lớn nhất đối với các doanh
nghiệp tư nhân là môi trường pháp lí chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều quy
định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán hay thay đổi phức tạp và chồng chéo,
dẫn tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc
chấp hành pháp luật. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành văn bản hướng dẫn đã gây
khó khăn cho việc đăng kí và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù các cơ
quan nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp đươc tham gia ý kiến vào nhiều văn
bản, chính sách khác nhau song nhìn chung kết quả còn hạn chế, mới dừng lại ở mức
tham khảo có giới hạn, chưa thành quy chế. Một số ý kiến, đề xuất của doanh nghiệp
chưa được tiếp thu, nhiều khó khăn cho doanh nghiệp chưa được giải quyết một cách
cơ bản, triệt để. Bên cạnh đó là sự thiên lệch đối xử của nhiều cấp thừa hành giữa
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Điều này là một yếu tố tác động tiêu
cực đến môi trường kinh doanh. Hiện tượng thanh tra, kiểm tra chồng chéo và kéo dài
đã gây phiền hà cho khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra còn một số cơ quan nhà nước
chuyên ngành thường can thiệp quá sâu vào lĩnh vực kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp. Một số công chức đi kiểm tra, thanh tra còn mang nặng tính cửa quyền, sách
nhiễu, vi phạm quyền tự do kinh doanh của công dân. Không chỉ môi trường pháp lí
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân mà môi
trường tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của khu vực kinh tế tư
nhân. Xuất phát từ những định kiến trong quá khứ đối với khu vực kinh tế tư nhân, là
thành phần cần phải cải tạo, hình thức sở hữu tư nhân và mang hình bóng của CNTB,
không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ. Trong xã hội còn
có phần định kiến đối với khu vực kinh tế tư nhân, chưa nhìn nhận đúng vai trò nhà
kinh doanh tư nhân trong xã hội. Do vậy còn có tâm lí e ngại, dè dặt, sợ chệch hướng
XHCN, không muốn thúc đẩy khu vự c này phát triển. Quan niệm coi kinh tế tư nhân
gắn liền với bóc lột, tính tự phát, luôn chỉ nhìn thấy những tiêu cực của khu vực kinh
tế tư nhân như làm hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thương mại... đã dẫn đến tâm lí kì
thị, phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân trong một số không nhỏ cán bộ ở các
cấp của Đảng, Nhà nước, trong nhân dân. Mặc dù từ khi Luật doanh nghiệp ra đời, môi
trường pháp lí, tâm lí xã hội đã tạo thuận lợi hơn rất nhiều cho các hoạt động của khu
vực kinh tế tư nhân nhưng thực tế vẫn còn nhiều khó khăn đối với khu vực này khiến
nhiều người không dám mạnh dạn đầu tư phát triển, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến việc huy động các nguồn lực, tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân cho đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Bên cạnh các yếu tố từ bên ngoài gây tác động đến hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân thì ngay trong bản thân khu vực này cũng có những khó khăn riêng. Do nước
ta đang ở trong chế độ XHCN, vừa mới thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch tập trung
nên bản thân các doanh nghiệp Việt nam hầu hết mới thoát thân từ cơ chế bao cấp, nên
còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng mong chờ sự giúp đỡ, che chở của Nhà nước. Một số
hoạt động kinh doanh còn mang tính chụp giật, không ổn định lâu dài. Tính liên kết,
hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp, nên khó tạo được
sức mạnh chung trên cơ sở phát huy lợi thế của từng cơ sở. Các doanh nghiệp chưa
mạnh dạn khai thác các loại dịch vụ của các cơ sở chuyên nghiệp, nhất là vấn đề đầu
tư, thuế, tài chính, kế toán... mà thường tự mình tiến hành, trong nhiều trường hợp
không phải là cách làm có hiệu quả. Hơn thế nữa, bản thân khu vực kinh tế tư nhân
cũng chưa thực hiện tốt các quy định của Nhà nước. Một số doanh nghiệp của tư nhân
lợi dụng sự cởi mở của Luật doanh nghiệp để khai man, tự lấy tên, địa chỉ các cá nhân
khác để đăng kí thành lập công ty, hình thành pháp nhân giả. Vẫn còn tình trạng không
đủ điều kiện về nhân thân, bị cấm thành lập doanh nghiệp cũng xin đăng kí thành lập
doanh nghiệp. Có tình trạng doanh nghiệp đăng kí kinh doanh xin cấp mã số thuế, sau
đó chỉ thực hiện mua bán hoá đơn kiếm lời mà không hoạt động kinh doanh như đăng
kí. Một số doanh nghiệp tư nhân đăng kí xong nhưng không hoạt động. Tình trạng một
số doanh nghiệp tư nhân làm hàng nhái, hàng giả, vi phạm bản quyền về sở hữu công
nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, buôn lậu, gian lận thương mại có chiều hướng
gia tăng.
Tóm lại, mặc dù trải qua nhiều khó khăn trong những thời điểm nhất định nhưng
kinh tế tư nhân vẫn khẳng định được tiềm năng của mình trong công cuộc phát triển
xây dựng đất nước. Bản thân trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tồn tại những hạn chế
do cả chủ quan lẫn khách quan. Vì vậy để khu vực kinh tế này phát huy hết khả năng
của mình đòi hỏi phải có những chính sách, cơ chế phù hợp.
2. Thực trạng cơ chế chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Để khu vực kinh tế tư nhân đi đúng quỹ đạo, theo đúng định hướng XHCN, Đảng
và nhà nước ta đã đưa ra các cơ chế để phát triển hết các tiềm năng của thành phần này
nhưng hướng nó đi theo con đường XHCN mà nước ta đã lựa chọn là phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
2.1 Sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Đất nước ta sau những năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong
kiến đã quyết định đi lên con đưòng XHCN mà Bác đã lựa chọn, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chính vì vậy vai trò của Đảng trong việc hoạch định các
chính sách đối với phát triển đất nước đặc biệt quan trọng nhất là các chính sách liên
quan đến việc phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta. Đảng ta đã không ngừng đổi mới
chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, đã thúc đẩy kinh tế tư nhân
phát triển. Ngay từ đại hội VI Đảng đã xác định: "nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kì quá độ". Các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí lâu dài. Nhà nứơc tạo điều kiện và giúp đỡ để
phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các
doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân
rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lí để kinh tế tư bản tư nhân phát
triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến
khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên
doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Tại Đại hội khoá VII,
Bộ chính trị đã ra chỉ thị về tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân
dân trong các doanh nghiệp tư nhân nhằm thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần và đảm bảo cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp tục phát triển lành
mạnh đúng hướng, đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nhằm đảm bảo cho chủ trương đương lối của Đảng đi vào cuộc sống, Quốc hội,
Chính phủ đã từng bước thể chế hoá, trước hết bằng luật cơ bản, đó là Hiến pháp năm
1992. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành các luật từ luật doanh nghiệp tư nhân và
luật công ty đến Luật doanh nghiệp. Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành các văn
bản dưới luật quy định chi tiết và hướng dẫn để triển khai thực hiện ở các ngành, các
địa phương. Ngoài ra, trong nhiều văn bản luật và dưới luật đã khuyến khích đầu tư
trong nước, phát huy nội lực, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ... Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến phát triển khu vực kinh
tế tư nhân ngày càng được hoàn thiện, thúc đẩy khu vực này tăng trưởng nhanh hơn
nữa.
2.2 Quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Để thể chế hoá các chủ trương đường lối của Đảng đi vào hoạt động, nhà nứơc
đã thực hiện chức năng quản lí của mình đối với khu vực kinh tế tư nhân.
2.2.1 Xây dựng luật và các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng
khung khổ pháp lí, hoàn chỉnh dần, tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích khu vực kinh
tế tư nhân phát triển mạnh và có hiệu quả hơn theo những quy định của pháp luật, đảm
bảo sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển lâu dài giữa các thành phần
kinh tế, không phân biệt đối xử, bảo đảm thực hiện thuận lợi quyền kinh doanh theo
pháp luật của công dân, bảo hộ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, thực hiện tốt
nghĩa vụ trong kinh doanh, phát huy nội lực và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc xây dựng hệ thống các luật và các văn bản
quy phạm pháp luật bước đầu đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trình độ
quản lý, đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, sử dụng lao động xá hội theo định hướng
ưu tiên của Nhà nước, nhằm kết hợp hài hoà quan hệ lợi ích giữa chủ kinh doanh,
nguời lao động và Nhà nước trong khu vực kinh tế tư nhân. Khung khổ pháp lí liên
quan đến khu vực kinh tế tư nhân rất rộng, nhưng chủ yếu là các luật và chính sách.
Hai luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước là những luật có những
tác động rất rõ nét đến sự phát triển và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân. Bên
cạnh đó là các quy định, nghị định liên quan đến hoạt động kinh doanh của khu vực
kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, còn không ít những quy định chưa rõ ràng, chưa đồng bộ
và cụ thể, chưa phù hợp với trình độ khu vực kinh tế tư nhân, do vậy, thực tế còn khó
áp dụng và thực hiện. Hệ thống pháp luật, luật điều chỉnh hoạt động của khu vực kinh
tế tư nhân còn có một số hạn chế như: Một số quy định của các luật chuyên ngành
được ban hành từ trước, chưa được bổ sung, sửa đổi kịp thời, không phù hợp với luật
doanh nghiệp, do vậy khó thực hiện, nhiều văn bản dưới luật còn chống chéo, chưa rõ
ràng, có khi vừa thừa, vừa thiếu. Một số quy định về quản lí nhà nước đối với khu vực
kinh tế tư nhân còn thể hiện sự lúng túng. bất cập, chưa phù hợp với trình độ, quy mô
phát triển của hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân.
2.2.2 Xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân.
Chính sách tín dụng đầu tư.
Những năm gần đây, hệ thống ngân hàng đã có những hình thức tín dụng đa dạng
và có cạnh tranh hơn nhằm thực hiện chính sách cho vay bình đẳng không phân biệt
hình thức kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân. Ngân hàng đã áp dụng những chính
sách ưu tiên đối với khu vực kinh tế tư nhân, điều mà trước kia chỉ áp dụng đối với các
doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, trong khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận, nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại và Quỹ hỗ trợ phát triển.
Chính sách mặt bằng, đất đai cho kinh tế tư nhân.
Như đã đề cập ở trên, một trong số những hạn chế đến hoạt động, kết quả của khu
vực kinh tế tư nhân là mặt bằng sản xuất, đất đai thì Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998
đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâu dài cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức,
yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình và các thành phần kinh tế muốn sử dụng
đất đai được cấp để kinh doanh phải chuyển sang hình thức thuê đất. Luật khuyến
khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm đáng kể tiền thuê đất, đặc biệt đối
với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tuy nhiên, một số quy định trong các luật, nghị
định trong thực tế đang còn gây khó khăn, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân
như đối với đất đã được cấp quyền sử dụng hoặc mua lại của cá nhân, khi dùng vào
mục đích kinh doanh phải qua nhiều thủ tục quy định phức tạp, phiền hà, tốn kém, mất
nhiều thời gian thậm chí mất cơ hội kinh doanh. Khi doanh nghiệp đầu tư vào khu
công nghiệp tập trung không có hỗ trợ nên chi phí thuê đất quá cao so với khả năng
của doanh nghiệp nhỏ và vừa của khu vực kinh tế tư nhân.
Chính sách về khoa học công nghệ.
Nhà nước có một số văn bản khung tạo pháp lí chung về chính sách khoa học,
công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành phần kinh tế, đã
hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng, khoa học- kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ, sản xuất được
những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng hơn, tăng được năng
suất lao động, khả năng cạnh tranh ... đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và tăng
được hàng xuất khẩu. Song trên thực tế, do năng lực nội tại còn non yếu như tài chính
còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ chuyên môn trình độ cao nên ít nhận
được sự hỗ trợ của Nhà nước về đổi mới công nghệ, bản thân doanh nghiệp không đủ
khả năng, tiến hành các hoạt động liên quan đến sở hữu công nghiệp.
Chính sách thuế,tài chính, kế toán, kiểm toán.
- Chính sách thuế: Các mức thuế được ban hành và áp dụng đồng bộ cho các
doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. Tuy còn một số hạn chế nhưng những
chính sách thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...bước đầu đã
xoá bỏ được sự cách biệt giữa kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Nhưng
chính sách thuế vẫn còn một số tồn tại ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh nói chung
và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Một số điểm trong chính sách thuế chưa được
quy định cụ thể, rõ ràng làm cho việc thực hiện gặp khó khăn, một số sắc thuế quy
định thủ tục kê khai nộp thuế còn phức tạp. Trong điều hành cụ thể chính sách thuế
còn chưa thể hiện được sự công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Các quy định về tài chính, kế toán, kiểm toán: Hiện nay Nhà nước chưa có các
quy định riêng về chế độ quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp tư nhân. Thực tế
các cơ quan nhà nước phải vận dụng chế độ quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp
nhà nước để áp dụng quản lí, thanh tra các doanh nghiệp tư nhân. Còn đối với chế độ
kế toán, chế độ kiểm toán đã góp phần tăng tăng cường công tác quản lí tài chính khu
vực này.
- Về thủ tục hải quan: các quy định về cơ bản đáp ứng yêu cầu của chính sách
phát triển kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng
tăng.
Chính sách về đạo tạo nghề cho lao động, chính sách tiền lương đối với khu
vực kinh tế tư nhân.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở dạy nghề dân lập, tư
thục. Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động
trong lĩnh vực giáo dục, văn hoá, thể thao. Còn đối với chính sách tiền lương thì theo
quy định của Bộ luật lao động và Bộ luật dân sự, chế độ tiền lương, tiền công của
người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thực hiện trên nguyên tắc thoả
thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượn và hiệu
quả công việc. Mức lương người lao động được trả không thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định.
III. Định hướng đổi mới và các giải pháp có tính khuyến nghị về đổi mới các
chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân.
1. Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Những năm gần đây hệ thống ngân hàng đã có những hình thức tín dụng đa
dạng và có cạnh tranh hơn nhằm thực hiện chính sách cho vay bình đẳng không phân
biệt hình thức kinh tế Nhà nước hay kinh tế tư nhân.
Nhà nước cũng dành một khoản vốn đáng kể, thông qua quỹ hỗ trợ phát triển
(kế hoạch năm 2001 là 23.800 tỷ đồng) để cho vay trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu
đãi, hỗ trợ lãi suất đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư cho các dự án đầu tư vào các lĩnh
vực khuyến khích đầu tư tại các địa bàn khó khăn, hoặc theo các chương trình kinh tế
lớn của chính phủ, không phân biệt thành phần kinh tế.Nghị định 05/NĐ-CP về việc
bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2001 đã tháo gỡ
được một phần khó khăn, vướng mắc về thủ tục đầu tư cho khu vực kinh tế tư
nhân.Tuy nhiên trong khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn do đó cần khuyến nghị các
giải pháp: Bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà
nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được Nhà
nước khuyến khích.
Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước,
thông tin liên lạc..) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển
Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thuế phù hợp với đặc điểm của các hộ
kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh, vừa
chống thất thu thuế.
Có chính sách bảo hiểm rủi ro cho hoạt động của kinh tế tư nhân trong kinh tế
thị trường; khuyến khích thành lập và tham gia quỹ bảo hiểm tương hỗ của các doanh
nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước
Ban hành quy định về đăng ký sở hữu tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
kinh doanh.
2. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho phát triển của
kinh tế tư nhân.
-Sửa đổi bổ sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa
các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân, theo
hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo thể hiện đồng bộ,
nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, tính cụ thể, minh
bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong luật
pháp, thủ tục hành chính.
- Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép
kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các quy định cần có thời gian
chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho
người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong
đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân.
Sửa đổi bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi vừa chặt chẽ
trong việc cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu "một cửa - một dấu".
Rà soát lại, bãi bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây
khó khăn cho đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời quản lý
chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm minh những vi phạm của các đơn vị kinh tế tư
nhân trong đăng ký kinh doanh và hoạt động cũng như những vi phạm của cơ quan,
cán bộ Nhà nước trong khi thi hành công vụ.
- Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư nhân.Cổ vũ và biểu dương kịp thời
những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng
góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bảo hộ sự phát triển, tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho phát triển kinh
tế tư nhân.
3. Sửa đổi các chính sách về mặt bằng, đất đai tạo điều kiện cho kinh tế tư
nhân phát triển.
Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâu dài
cho các hộ ga đình, cá nhân, tổ chức, yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình và
các thành phần kinh tế muốn sử dụng đất đai được cấp để kinh doanh phải chuyển
sang hình thức thuê đất.Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm
đáng kể tiền thuê đất, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Tuy nhiên, một số quy định trong các luật, nghị định trong thực tế đang còn gây
khó khăn, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân như: đối với đất đã cấp quyền sử
dụng (phải trả tiền), hoặc mua lại của cá nhân, khi dùng vào mục đích kinh doanh phải
qua nhiều thủ tục quy định phức tạp, phiền hà, tốn kém, mất nhiều thời gian thậm chí
mất cơ hội kinh doanh do đó cần phải có những sửa đổiSửa đổi bổ sung Luật đất đai
theo hướng:
- Đất của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất, đất đang được tư nhân dùng
làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại mọt cách hợp pháp
quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật, thì tư nhân đó được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất
cho Nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng
cần thiết, có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp, trong đó có kinh tế tư
nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh.
- Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng có nhiều
đất chưa được sử dụng, đất trống đồi núi trọc.
- Doanh nghiệp tư nhân được dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp vay
vốn ngân hàng hoặc góp cổ phần liên doanh với doanh nghiệp trong nước và nước
ngoài.
- Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
cho nhân dân.
- Trong khi chờ sửa đổi, đợi bổ sung luật đất đai và các văn bản pháp luật có
liên quan, sẽ thí điểm thực hiện các chủ trowng trên
4. Các chính sách về lao động đối với thành phần kinh tế tư nhân
4.1. Đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân.
Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các sơ sở dạy nghề dân lập, tư
thục, cụ thể được quy định tại Nghị định 73/1999/NĐ-CP, ngày 19/8/1999 của chính
phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
văn hoá, thể thao. Tuy nhiên việc đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu lao động có
tay nghề, có kỹ thuật của các doanh nghiệp. Đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng
xa tỷ lệ lao động được đào tạo rất thấp, phần lớn là lao động chưa qua đào toạ.
Đa số lao động trong doanh nghiệp tư nhân được đào tạo, thực hành kinh
nghiệm ngay tại cơ sở sản xuất. Phần lớn các chủ kinh doanh chưa được đào tạo cơ
bản, có hệ thống, chủ yếu theo kinh nghiệm gia đình, hạn chế về trình độ quản lý và
kiến thức về kinh tế thị trường.
Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ
thuật, năng lực kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động.
Đối với chủ doanh nghiệp cần quan tâm bồi đưỡng, giáo dục phát huy tinh thần
yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng
chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời
sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp.
Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước đặc biệt là ở khu vực nông
thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động.
Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động.
Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh
và doanh nghiệp
Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học,
công nghệ cho các hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp
ứng dụng công nghệ thông tin, thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ; thực
hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Khen thưởng các cá nhân và doanh nghiệp áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên
tiến, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
4.2. Các chính sách về tiền lương cho lao động của khu vực kinh tế tư nhân
Theo quy định của Bộ luật lao động và Bộ luận dân sự, chế độ tiền lương, tiền
công của người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thực hiện trên nguyên
tắc thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất
lượng và hiệu quả công việc. Mức lương người lao động được trả không thấp hơn mức
lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
4.3. Chính sách về bao hiem xã hội cho lao động trong thành phần kinh tế tư
nhân.
Theo Bộ luật lao động năm 1995: Loại hình bảo hiểm xã hội được áp dụng bắt
buộc đối với những doanh nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên, cho nên những doanh
nghiệp có dưới 10 lao động và các hộ kinh doanh cá thể không được tham giaNhiều
doanh nghiệp lợi dụng quy định này để trốn trách nhiệm của người sử dụng lao động
trong việc đóng bảo hiểm cho người lao động như: ký hợp đồng lao động ngán hạn
dưới 3 tháng với người lao động; hoặc chỉ hợp đồng miệng; hay chỉ đăng ký lao động
dưới 10 người để không phải đóng bảo hiểm xã hội.
Việc quy định một tỷ lệ đóng cố định, thời gian đóng và đóng đến tuổi về hưu,
người lao động mới được hưởng chế độ hưu trí (đã đóng bảo hiểm 20 năm trở lên, nam
đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi) chưa hấp dẫn người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã
hội.Người sử dụng lao động trong doanh nghiệp tư nhân phải đóng bảo hiểm xã hội
bằng 15% trên tổng quỹ lương, họ cho là quá cao.
5. Các chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán.
Đây là những khung pháp lý chung cho các thành phần kinh tế. Song trên thực
tế, do năng lực nội tại còn non yếu như tài chính còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, thiếu
cán bộ chuyên môn trình độ cao nên ít nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước để đổi mới
công nghệ, bản thân doanh nghiệp không đủ khả năng tiến hành các hoạt động liên
quan đến sở hữu công nghiệp.
- Chính sách thuế.
Các chính sách thuế dần được ban hành và áp dụng thống nhất cho các thành
phần kinh tế trong nước. Tuy còn một số hạn chế nhưng những chi phí thuế doanh thu,
thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...bước đầu đã xoá bỏ được sự cách biệt
giữa kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước và hợp tác xã. Từ năm 1999 việc áp dụng Luật
thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và tiếp tục hoàn thiện các loại
thuế khác làm cho chính sách thuế đã thể hiện rõ sự công bằng, bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, khắc phục dần sự chống chéo về thuế, chính sách thuế đã khuyến
khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu.
Tuy nhiên chính sách thuế vẫn còn một số tồn tại ảnh hưởng đến sản xuất, kinh
doanh nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng như: một số điểm trong chính
sách thuế chưa được quy định cụ thể, rõ ràng làm cho việc thực hiện gặp khó khăn;
một số sắc thuế quy định thủ tục kê khai nộp thuế còn phức tạp; những quy định về thủ
tục hồ sơ miễn giảm thuế còn mang nặng tính "xin-cho"... Trong điều hành cụ thể
chính sách thuế còn chưa thể hiện được sự công bằng và bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế
- Về chế độ tài chính: Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định riêng về chế độ
quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế các cơ quan Nhà nước
phải vận dụng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước để áp dụng
quản lý, thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp của tư nhân.
Đây là vấn đề gây tâm lý không tố đối với các doanh nghiệp vì như vậy đã có
sự can thiệp không đúng bản chất sở hữu của các cơ quan Nhà nước vào doanh nghiệp
tư nhân.
- Về chế độ kế toán: ngày 23/12/1996 Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế toán
doanh nghiệp vừa và nhỏ kèm theo Quyết định 1177/TC-CĐKT tương đối đơn giản
hơn so với chế độ kế toán áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp cả nước theo
Quyết định 11411177/TC-CĐKT ngày 1/11/1995 và sau đó thay thế bằng Quyết định
số 167/2000/QĐ-BTC ngày 25/10/2000, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp tổ
chưc thực hiện công tác kế toán, nộp báo cáo tài chính. Chế độ kế toán đã góp phần
tăng cường công tác quản lý tài chính khu vực này.
- Về kiểm toán: Hiện nay có kiểm toán độc lập (từ năm 1991), kiểm toán Nhà
nước (năm 1994), kiểm toán nội bộ (từ năm 1997). Về nguyên tắc, việc kiểm toán độc
lập và kiểm toán nội bộ là rất cần thiết và có lợi cho tất cả các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thực tế các doanh nghiệp tư nhân thường rất ít khi thực hiện kiểm
toán. Hơn nữa, giá trị pháp lý của báo cáo tài chính đã qua kiểm toán không được đánh
giá và công nhận đúng mức.
6. Các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ
Nhà nước có một số văn bản tạo khung pháp lý chung về chính sách khoa học,
công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành hần kinh tế, đã
hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ, sản xuất được
những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng, tăng được năng suất
lao động, khả năng cạnh tranh... đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và tăng được
hàng xuất khẩu.
7. Các chính sách về thủ tục hải quan
Các quy định hải quan về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của chính sách phát
triển kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng.Tuy
nhiên, các doanh nghiệp thực hiện xuất nhập khẩu vẫn còn phàn nàn về sự thiếu đồng
bộ và thiếu thống nhất trong các văn bản pháp luật đang gây nhiều khó khăn cho
doanh nghiệp xuất, nhập khẩu hàng hoá:
- Việc thiếu thống nhất trong quy định việc đăng ký mã số kinh doanh giữa các
ngành thuong mai (Thông tư 18/1998/TT-BTM) đã gây nhiều khó khăn cho doanh
nghiệp khi thực hiện xuất khẩu
- Về xác định giá tính thuế nhập khẩu là vấn đề gây nhiều tranh cãi, hiện nay áp
dụng giá tối thiểu do Bộ Tài chính quy định để tính thuế cho một số mặt hàng, trong
khi thông lệ quốc tế áp dụng tính thuế theo gí hợp đồng giữa nhà xuất khẩu và nhập
khẩu khi mua bán hàng.
Vấn đề kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu cũng không có sự thống nhất
giữa trách nhiệm của cơ quan giám định chuyên nghiệp
Thủ tục hải quan còn rườm rà, thời gian kiểm hoá chưa được quy định rõ ràng,
cụ thể nên dễ tạo điều kiện để một số cán bộ thừa hành gây khó khăn cho doanh
nghiệp
Các công ty hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mai
Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc đáp ứng thông tin cho doanh nghiệp
về luật pháp, chính sách và tình hình thị trường. Doanh nghiệp được quyền tiếp cận thị
trường, kể cả việc ra nước ngoài để quảng bá , tiếp thị.
Mặc dù vậy, nhiều quy định pháp luật của Nhà nước vẫn chưa đến được doanh
nghiệp kịp thời, hạn chế việc thực thi pháp luật và thụ hưởng đầy đủ các chính sách hỗ
trợ của Nhà nước.
Đối với lĩnh vực thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp tư nhân đang gặp khó
khăn về khả năng tiếp cận thông tin về chính sách xuất khẩu, thông tin thị trường, tiếp
cận thị trường so với doanh nghiệp Nhà nước
Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân còn gặp phải những khó
khăn như ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều
kiện để giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu kiên sthức và
kinh nghiệm thương mại quốc tế, thiếu thông tin toàn diện về thị trường, mặt hàng và
đối thủ cạnh tranh.
Có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân nhận được
những thông tin cần thiết về luat phap, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, của ngành, các vùng; các thông tin dự báo trung hạn, dài hạn
về các ngành, các sản phẩm ở trong nước và trên thế giới; các dự án phát triển có
nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân và các
hiệp hội đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước
C. Kết luận
Từ thực tiễn và phát triển nền kinh tế nước ta, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới.
Đảng không ngừng đổi mới chủ trương chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, trực tiếp tác động thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Sự phát triển
của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho
phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao bồm trí tuệ, kinh nghiệm năng lực
quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên...
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần tăng cường lực lượng sản xuất kinh
doanh, tham gia cạnh tranh, thúc đây rpt thị trường. Dưới sự quản lý của Nhà nước
khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Song bên cạnh đó khu vực kinh tế tư nhân cũng gây ra
những tiêu cực, khiếm khuyết. Do đó chúng ta phải xác định rõ định hướng đổi mới và
tiến hành đổi mới các chính sách nhằm phát triển thành phần kinh tế tư nhân một cách
thích hợp. Đây là một vấn đề rộng và tương đối phức tạp. Thông qua đền án này,
chúng ta có thể hiểu được phần nào thực trạng phát triển của thành phần kinh tế tư
nhân và cơ chế đổi mới chính sách nhằm khuyến khích phát triển thành phần kinh tế
này ở Việt Nam hiện nay.
Trên đây là toàn bộ bài viết của em về "đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến
khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam hiện nay".
D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trần Ngọc Bút: Phát triển kinh tế tư nhân định hướng XHCN. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà nội - 20020.
2. Tiến sĩ Hà Huy Thành: Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân -
Lí luận và chính sách. Nhà xuất bản chính trị quốc gia- 2/2002.
3. Hồ Văn Vĩnh: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tạp chí cộng sản - 7/2002.
4. Tiến sĩ Phạm Văn Linh: Phát triển kinh tế tư nhân - tình hình và triển vọng.
Kinh tế và dự báo- số3/2002.
5. Thạc sĩ Đặng Danh Lợi: Kinh tế tư nhân Việt Nam những thuận lợi, khó khăn
trong qua trình phát triển. Phát triển kinh tế- tháng 4/2002.
6. Tiến sĩ Hồ Trọng Viện: Vấn đề sở hữu và kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện
nay. Phát triển kinh tế- tháng 7/2002.
7. Tiến sĩ Lê Khoa: Chính sách kinh tế vĩ mô đối với khu vực tư nhân. Phát triển
kinh tế tháng - 7/2002.
8. PGS.Ts Nguyễn Thị Cành: Quan điểm và chính sách phát triển kinh tế tư nhân
trong thời kì quá độ lên CNXH. Phát triển kinh tế - tháng 7/2002.
9. Giáo trình Kinh tế Chính trị.
10.Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
11. Văn Kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
11. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân.
Mục lục
A. Lời mở đầu .................................................................................................................... 1
B. Nội dung ......................................................................................................................... 3
I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân .......................................................... 3
1. Bản chất của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ................................................................................................................. 3
1.1. Phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với quy luật khách
quan của sự phát triển kinh tế xã hội ...................................................... 3
1.2. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta .......................................................................... 4
2. Các bộ phận của kinh tế tư nhân ................................................................... 5
2.1. Kinh tế cá thể tiểu chủ ..................................................................... 6
2.2. Kinh tế tư bản tư nhân ..................................................................... 7
3. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ..................................................................................................... 7
3.1. Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước GDP ..... 8
3.2. Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội, nộp ngân sách
cho Nhà nước ......................................................................................... 8
3.3. Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xoá đói giảm
nghèo ..................................................................................................... 8
3.4. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ
chế chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế .............................................................................................. 9
II. Thực trạng phát triển và thực trạng cơ chế chính sách đối với kinh tế tư
nhân ........................................................................................................................... 10
1. Thực trạng kinh tế tư nhân trong thời gian vừa qua .................................. 10
1.1. Kinh tế tư nhân thời kỳ phục hồi kinh tế 1955 - 1957 ..................... 10
1.2. Kinh tế tư nhân thời kỳ cải tạo xã hội nền kinh tế (1958 - 1960) và
tới năm 1976 ........................................................................................ 10
1.3. Kinh tế tư nhân thời kỳ 1976 - 1985 ............................................... 11
1.4. Sự phát triển vượt bậc của thành phần kinh tế tư nhân trong những
năm đầu của thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay ............................... 11
2. Thực trạng cơ chế chính sách đối với kinh tế tư nhân ............................... 18
2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân ..................................... 18
2.2. Quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân .................. 19
III. Định hướng đổi mới và các giải pháp có tính khuyến nghị về đổi mới các
chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân ........................................................ 22
1. Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác .................................... 22
2. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho phát triển của
nền kinh tế tư nhân ........................................................................................... 23
3. Sửa đổi các chính sách về mặt bằng, đất đai tạo điều kiện cho kinh tế tư
nhân phát triển .................................................................................................. 24
4. Các chính sách về lao động đối với thành phần kinh tế tư nhân ............... 25
4.1. Đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân....................... 25
4.2. Các chính sách về tiền lương cho lao động của khu vực kinh tế tư
nhân ..................................................................................................... 26
4.3. Chính sách về bảo hiểm xã hội cho lao động trong thành phần kinh
tế tư nhân ............................................................................................. 27
5. Các chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán .................................... 27
6. Các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ ........................................... 29
7. Các chính sách về thủ tục hải quan ............................................................. 29
C. Kết luận ........................................................................................................................ 31
D. Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................... 32
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.pdf