Luận văn Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước

Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đã gặp phải nhiều khó khăn và thử thách nghiêm trọng. Chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào; nền kinh tế trong nước nghèo nàn, chậm phát triển, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn ra sức chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược diễn biến hoà bình. Nhưng với đường lối cải cách mở cửa đúng hướng và có những bước đi thích hợp trong những năm qua, đã đưa nền kinh tế nước ta vượt qua khỏi khủng hoảng, chính trị được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng ta chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính quốc gia, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta rất coi trọng quyền dân chủ nhân dân, dân chủ hoá mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước.

pdf112 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2853 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã ở Thái Bình trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ão làng". Việc tuyển chọn cán bộ phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, khắc phục tình trạng ô dù, bè phái, cục bộ, kéo bè kéo cánh hoặc đưa họ hàng thân thích vào bộ máy. Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ cũng cần quán triệt quan điểm dựa vào quần chúng để lựa chọn nhân tài. Bất kỳ một vị trí nào, đều được giới thiệu công khai, rộng rãi, yêu cầu tiêu chuẩn điều kiện cần thiết để mọi người có thể tham gia ứng cử, thi tuyển một cách dân chủ. Người tham gia ứng cử hoặc được đề cử có đề án công tác, có mục tiêu chương trình hành động cụ thể. Cần kết hợp thi tuyển, sát hạch năng lực với việc đánh giá các phẩm chất chính trị đạo đức thông qua thăm dò tín nhiệm và sự lựa chọn dân chủ của quần chúng, của tổ chức Đảng. Thực hiện quy chế tuyển chọn cán bộ có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Một mặt đảm bảo sự trong sáng về chính trị, làm cho quần chúng được biết, được lựa chọn, được kiểm tra giám sát cán bộ, thực hiện được dân chủ trong công tác cán bộ. Mặt khác khắc phục được tình trạng cán bộ chỉ lo chạy chọt vào chức nọ chức kia mà không tự lo học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt của mình. Và cũng khắc phục được tình trạng cán bộ chỉ lo đối phó, chịu trách nhiệm trước cấp trên mà không quan tâm chịu trách nhiệm trước quần chúng và cấp dưới. Cùng với việc thực hiện chế độ thi tuyển cần kết hợp với các hình thức khác như: khuyến khích cán bộ có thành tích xuất sắc; đồng thời thực hiện nghiêm chế độ thưởng, phạt đối với cán bộ có thành tích hoặc bị khuyết điểm làm cho đội ngũ cán bộ luôn được sàng lọc, được bổ sung. - Thực hiện tốt quy trình quy chế bầu cử, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ: Vấn đề bổ nhiệm công chức ở cấp xã đến nay chưa thực hiện. Đó là điều bất cập vì rất vô lý là chính quyền 4 cấp mà cấp xã lại không nằm trong ngạch bậc công chức. Hiện nay các chức danh trong UBND hình thành theo cơ chế bầu. Các chức danh tài chính, văn phòng, địa chính, tư pháp được hưởng quy chế giống công chức, còn lại các chức danh khác đều hoạt động mang tính hoàn toàn nghiệp dư, có thể thay thế bất kỳ lúc nào. Chính điều này tạo tâm lý không ổn định, trong hoạt động công tác của họ, tư tưởng "chụp giật, tranh thủ quyền lực" để thu vén cá nhân trong quá trình công tác xảy ra, không chú tâm tu dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ được giao ở từng cương vị công tác, dẫn đến tình trạng làm việc được chăng hay chớ, thiếu trách nhiệm. Tình hình trên tất yếu ảnh hưởng đến kết quả công việc chung của UBND. Vì vậy nên nghiên cứu chuyển một số chức danh sang chế độ công chức (nếu chưa thực hiện chuyển được toàn bộ). Chẳng hạn như phụ trách địa chính, phụ trách tư pháp hộ tịch. Những người này phải được đào tạo chuyên môn, được bổ nhiệm xếp vào một ngạch bậc của công chức và được giao việc ổn định, lâu dài. Việc bầu cử bổ nhiệm và sử dụng cán bộ phải đảm bảo thực sự dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể. Bầu cử, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ phải đúng lúc, đúng tầm, đúng việc, đúng tiêu chuẩn, hợp với năng lực và sở trường, đúng với chuyên môn đã được đào tạo. Giao việc cho cán bộ phải giao đúng lúc cán bộ đang độ chín, đang đi lên, không nên để lúc cán bộ đã chững lại hoặc có chiều hướng đi xuống mới đề bạt. Không nên để một người giữ chức vụ lãnh đạo quản lý chủ chốt kéo dài quá 2 nhiệm kỳ ở một địa phương, cơ sở. Đồng thời cũng không nên để một người đảm đương quá nhiều chức vụ, công việc làm ảnh hưởng đến hiệu quả của nhiệm vụ chủ yếu. Tuy nhiên, để không lãng phí nhân tài, có trường hợp mà cán bộ thực sự xuất sắc, được tín nhiệm của tuyệt đại đa số quần chúng, được cơ quan cấp trên ủng hộ, thì có thể được tái cử lần thứ 3. Trong việc bổ nhiệm cán bộ, giảm bớt chế độ uỷ nhiệm, tăng cường chế độ bổ nhiệm trực tiếp, vì nó làm tăng tính trách nhiệm của chủ thể bổ nhiệm trong việc quản lý, theo dõi và xử lý đối với cán bộ được đề bạt, đối với cán bộ được bổ nhiệm. Cần quy định trong mỗi nhiệm kỳ, trong thời hạn được bổ nhiệm, cán bộ phải được lấy phiếu tín nhiệm và đánh giá kết quả công việc theo định kỳ và tiêu chí cụ thể. Nếu số cán bộ nào không đủ tín nhiệm của 2/3 quần chúng cấp dưới hoặc trong địa phương mình xảy ra nhiều vụ việc tiêu cực lớn thì buộc phải từ chức, không nhất thiết phải hết nhiệm kỳ hoặc hết thời hạn bổ nhiệm. Bổ nhiệm và sử dụng cán bộ cần gắn chặt với công tác đào tạo bồi dưỡng và quy hoạch cán bộ. Chỉ bổ nhiệm cán bộ trong diện quy hoạch, đã được đào tạo bồi dưỡng, đủ tiêu chuẩn theo quy định của vị trí chức danh đó và phù hợp với chuyên môn đào tạo. Không bổ nhiệm cán bộ chưa được đào tạo; hạn chế bổ nhiệm cán bộ ngoài diện quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ không đúng chuyên môn được đào tạo hoặc quan niệm đã là cấp uỷ, thường vụ thì việc gì cũng làm được và có thể phân công bất kỳ vị trí nào. Cần nghiên cứu quy trình bầu cử, phải thực hiện quy trình "dân bầu, Đảng chọn" trong tuyển chọn cán bộ. Khắc phục tình trạng cơ cấu hình thức trong bộ máy cán bộ, không vì cơ cấu mà bổ nhiệm cả những người thiếu tiêu chuẩn. Việc bố trí cán bộ phải nhằm mục đích cuối cùng là hiệu quả hoạt động của bộ máy, hiệu quả hoạt động của từng người chứ không phải để thực hiện chính sách cán bộ bằng cơ cấu và thông qua cơ cấu. 3.2.3.3. Đổi mới chính sách đối với cán bộ Chính sách là sản phẩm của con người, nhằm tác động vào một khâu hay một quá trình để vận động cùng chiều với quy luật phát triển khách quan của xã hội, nhằm đạt tới những mục tiêu đã định. Chính sách đúng hướng, có lợi nhất góp phần thúc đẩy sự phát triển. Chính sách sai sẽ là vật cản gây ách tắc trong quá trình vận hành kinh tế - xã hội, làm giảm tốc độ phát triển hoặc gây hậu quả nghiêm trọng. Đổi mới chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, mục tiêu trước mắt là tháo gỡ những bất cập, những tồn đọng về chế độ chính sách đối với cán bộ theo các quy định hiện hành. Mục tiêu lâu dài là tiến hành để đổi mới toàn diện đối với cấp cơ sở, trong đó tập trung vào việc đổi mới chính sách cán bộ xã, phường, thị trấn vào những năm tiếp theo. Đây là những vấn đề mà Đảng cộng sản và Nhà nước ta luôn quan tâm. Bởi chính giải quyết cơ bản được các vấn đề của cấp cơ sở sẽ tạo điều kiện thuận lợi để mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với từng người dân, làm cho dân hiểu, dân tin và thực sự đi vào cuộc sống. Đồng thời chính quyền cấp xã sẽ là những nhịp cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt cần sớm ban hành thông tư, hướng dẫn bổ sung thi hành Nghị định 09/1998/NĐ-CP nhằm giải quyết dứt điểm thoả đáng những tồn đọng, vướng mắc về chế độ chính sách, nhất là chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã, phường, thị trấn theo những quy định hiện hành tại Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ mà tại Thông tư liên tịch số 99/1998/TT-LT TCCB CP-BLĐTB và xã hội ngày 19/5/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định 09/1998/NĐ-CP chưa đầy đủ và cụ thể. Cải cách chế độ chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn về lâu dài cần tập trung vào một số vấn đề sau đây: Xác định lại biên chế cán bộ xã, phường cho phù hợp, giảm đến mức tối đa bộ máy lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, các xã, phường có điều kiện địa lý dân cư tính chất khác nhau thì số lượng biên chế khác nhau. Nghiên cứu chuyển một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cơ sở xã, phường thành công chức nhà nước, được hưởng lương và mọi chính sách chế độ khác như cán bộ công chức nhà nước hiện nay. Lương cơ bản của cán bộ chủ chốt cơ sở tương đương với lương trưởng, phó phòng cấp huyện. Đối với cán bộ chủ chốt do bầu cử, khi đảm đương chức vụ thì được hưởng chính sách tương đương với cán bộ chính quyền, khi không còn giữ chức vụ thì thôi hưởng chính sách, như vậy sẽ làm tăng trách nhiệm của cán bộ trước dân. Có phụ cấp riêng cho cán bộ những xã, phường nơi có số dân quá đông, diện tích quá lớn hoặc những xã phường có đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước, không cân bằng trong chính sách cán bộ cấp xã như hiện nay. Do tính chất hoạt động, mức độ đóng góp công sức và vị trí vai trò ngày càng tăng của đội ngũ trưởng thôn, Nhà nước cần sửa đổi bổ sung quy định chế độ phụ cấp đối với cán bộ trưởng thôn, xóm. Kinh phí này được lấy trong nguồn ngân sách và các nguồn thu của địa phương. 3.2.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát quản lý cán bộ Kiểm tra giám sát và quản lý cán bộ là hoạt động nhằm nắm chắc thông tin, diễn biến về tư tưởng, hoạt động của cán bộ, giúp cho cấp uỷ, lãnh đạo phát hiện vấn đề nảy sinh, kịp thời điều chỉnh và tác động làm cho đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ luôn luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc quy định. Thực tế cho thấy, một số cán bộ khi mới được bầu, được bổ nhiệm đều là những người tốt, có đạo đức, trung thành tận tụy, liêm khiết, có uy tín. Song trong quá trình hoạt động, một phần do thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ, không được quản lý tốt đã dẫn đến thoái hoá biến chất, sa ngã. Để giữ gìn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ theo phương châm: - Mọi hoạt động của cán bộ đều phải được quản lý kiểm tra và giám sát chặt chẽ. - Cấp uỷ và tổ chức Đảng phải trực tiếp tiến hành quản lý, kiểm tra cán bộ. - Tăng cường việc kiểm tra giám sát của quần chúng đối với cán bộ, của cán bộ cấp dưới đối với cán bộ cấp trên và ngược lại. - Kiểm tra phải có kết luận cụ thể rõ ràng, phải đạt được mục đích là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ phải chú trọng tính toàn diện, tính kịp thời cả về chính trị, tư tưởng đạo đức và kết quả hoạt động chuyên môn; về sinh hoạt tư tưởng; quản lý và kiểm tra chế độ tự học tập, rèn luyện của cán bộ. Kết hợp chế độ kiểm tra định kỳ thường xuyên với việc kiểm tra đột xuất. Đặc biệt là xây dựng quy chế bắt buộc mọi cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải chịu sự kiểm tra giám sát của quần chúng. Thực tế trong những năm qua, quần chúng có vai trò rất lớn trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, nhiều vụ việc tiêu cực tham nhũng của cán bộ đều do quần chúng hoặc các cơ quan thông tin đại chúng phát hiện, tố giác và đấu tranh. Cần có quy chế cụ thể để quần chúng tham gia vào hoạt động này. Làm tốt việc kiểm tra giám sát sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại, phân cấp quản lý, theo dõi giám sát bảo vệ cán bộ, đưa công tác này vào nền nếp. 3.2.4. Củng cố mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức này Củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền cần phải gắn liền với việc củng cố, kiện toàn mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương. Một mặt, xuất phát từ nguyên lý: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xét về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng nhân dân thì giai cấp đó sẽ thắng; xuất phát từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc và thực tế cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công đại thành công. Trong thời kỳ đổi mới, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chăm lo lợi ích cho đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ vì đổi mới xã hội, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Tháng 6/1999 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khẳng định vị trí, vai trò của mặt trận, một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên. Cùng với mặt trận tổ quốc, vai trò của các đoàn thể cũng ngày càng được đề cao. Để phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đoàn thể, cần đa dạng hóa các hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp với điều kiện, đặc điểm tâm lý các tầng lớp xã hội, tôn trọng tự nguyện, tự trang trải kinh phí, bình đẳng hiệp thương và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với chức năng xã hội và vì lợi ích thiết thực của các hội viên. Mặt khác, trong chế độ ta, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thông qua Nhà nước bằng các cơ quan đại biểu của mình (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) mà quyền làm chủ của nhân dân còn thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của mình. Vì vậy chính quyền cấp xã phải thực hiện tốt mối quan hệ này, thể hiện chính quyền là của dân, do dân và vì dân. Các kỳ họp của HĐND nhất thiết phải mời Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân như thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh... đến dự. Những người này được phát biểu ý kiến đóng góp với HĐND, nhưng không biểu quyết. HĐND xã luôn giữ mối liên hệ và phối hợp công tác Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mỗi năm 2 lần thông báo cho Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở xã về tình hình hoạt động của HĐND, chuẩn bị chương trình đưa ra kỳ họp HĐND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc vận động nhân dân và các đoàn thể thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của HĐND. Kỳ họp của UBND cấp xã khi bàn đến những vấn đề có liên quan đến Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thì phải mời những người đứng đầu của các tổ chức này đến dự. UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt ở xã cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong xã tổ chức, động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã, đại biểu HĐND và cán bộ, thành viên của UBND. UBND cấp xã và các thành viên của UBND có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong xã. 3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của cấp trên đối với chính quyền cấp xã Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính quyền cấp xã không chỉ thực hiện tốt Hiến pháp, Luật, các Chỉ thị, Nghị quyết của cơ quan Nhà nước cấp trên mà còn phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện các chủ trương Nghị quyết của cấp uỷ Đảng. Với HĐND, sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy quyền lực của HĐND, làm cho hoạt động của HĐND thể hiện đầy đủ hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Trước hết các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến địa phương phải thật sự đổi mới cả về nội dung và phương pháp lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi sự thắng lợi của cách mạng. Vì vậy muốn đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã cũng phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, khoá VIII Đảng ta khẳng định: "Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa "[29, tr.59]. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, thực chất là giải quyết đúng đắn mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời vẫn đề cao phát huy được vai trò quản lý nhà nước của chính quyền. Đảng lãnh đạo là lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, Nghị quyết. Trên cơ sở đó chính quyền đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện. Đảng lãnh đạo chính quyền thông qua công tác cán bộ, đào tạo rèn luyện cán bộ đảng viên để giới thiệu, ứng cử vào các cơ quan bộ máy chính quyền. Đảng lãnh đạo chính quyền cần thông qua công tác kiểm tra sự hoạt động của chính quyền. Đảng lãnh đạo chính quyền còn là việc bắt buộc các tổ chức Đảng, các đảng viên phải tôn trọng thực hiện đúng các chính sách của Nhà nước, Hiến pháp, pháp luật, các Quyết định của chính quyền và coi đây là kỷ luật của Đảng. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền cấp xã, Đảng phải có Nghị quyết, chủ trương đúng đắn, phản ánh kịp thời đúng quy luật khách quan, đảm bảo tính thực tiễn, phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhân dân. Có như vậy thì chủ trương đường lối, Nghị quyết của Đảng mới có tính khả thi và đi vào cuộc sống, chính quyền mới có các biện pháp tổ chức chỉ đạo và đạt được kết quả cao, làm cho vai trò, uy tín của Đảng, năng lực lãnh đạo của chính quyền được nâng lên. Để lãnh đạo được chính quyền, vấn đề đặt ra là yêu cầu mọi đảng viên phải thực sự gương mẫu thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời phải vận động quần chúng nhân dân tham gia cùng chính quyền trong việc quản lý nhà nước bằng pháp luật. Đảng phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của chính quyền, kịp thời phát hiện và uốn nắn những lệch lạc trong quá trình quản lý nhà nước của chính quyền. Cùng với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ dẫn trực tiếp của cơ quan Nhà nước cấp trên có vai trò hết sức quan trọng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chính quyền cấp xã phải chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của chính quyền nhà nước cấp trên, trước hết là HĐND và UBND huyện. Vì vậy trong hoạt động của HĐND và UBND cấp huyện phải bám sát cơ sở để chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền cấp trên nhưng có liên quan đến quá trình tổ chức hoạt động của cấp cơ sở. Tăng cường sự chỉ đạo, kiểm tra của chính quyền nhà nước cấp trên bằng việc thông qua các hoạt động tiếp xúc thực tế của HĐND và UBND huyện để nắm bắt kịp thời, chính xác tình hình diễn ra ở cơ sở để có kế hoạch biện pháp chỉ đạo hướng dẫn chính quyền cấp xã thực hiện tốt nhiệm vụ, chức năng thẩm quyền theo luật định. Cơ quan chức năng giúp chính quyền nhà nước cấp trên trong việc thường xuyên theo dõi, đánh giá đúng thực trạng hoạt động của chính quyền cấp xã trong quá trình quản lý nhà nước ở địa phương. Nhất là phòng tổ chức - lao động xã hội (cơ quan tổ chức chính quyền cấp huyện) phải có kế hoạch giúp UBND huyện trong việc phân loại cơ sở. Từ đó tập trung đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã phù hợp với giai đoạn hiện nay, nhằm từng bước xây dựng củng cố chính quyền cấp xã trong sạch, vững mạnh về mọi mặt theo quan điểm của Đảng đề ra. 3.2.6. Xây dựng xóm thôn tự quản là vấn đề cần thiết trong đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã Thôn xóm tự quản cần phải có quy mô dân số nhất định, vì nó còn liên quan đến cơ sở vật chất và hệ thống tổ chức phù hợp cho một đơn vị dân cư tự quản. Trường hợp xã có các làng quá lớn trên 3000 dân trở lên thì có thể tách thành 2 xóm tự quản nhưng vẫn gắn với xây dựng làng văn hoá. Để xây dựng thôn, xóm tự quản phải phân cấp hợp lý các nhiệm vụ chỉ đạo điều hành sản xuất, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, xây dựng nông thôn mới cho thôn xóm tự lo. Các khoản đóng góp của nhân dân trong xóm nên nộp về UBND xã quản lý giữ hộ, khi làm xã phải khảo sát thiết kế dự toán và xuất kinh phí cho xóm tổ chức thực hiện dưới sự giám sát của đại diện nhân dân trong xóm. Làm xong, xã phải cùng xóm nghiệm thu quyết toán theo đúng định mức kinh tế, kỹ thuật và đơn giá với đầy đủ chứng từ theo đúng nguyên tắc quản lý tài chính và trưởng xóm báo cáo công khai ngay với nhân dân trong xóm. Các hoạt động thể thao văn hoá của xóm, họp nhân dân trong xóm, sinh hoạt đoàn thể của xóm nằm trong kế hoạch chi phải có giấy chi của người chủ trì được xóm phê duyệt, chủ tịch UBND mới cắt chi. Cách quản lý trên đây đối với xóm và đoàn thể cơ sở xóm giúp chủ tịch UBND xã nắm chắc và quản lý được các hoạt động của thôn xóm. Xóm không giữ tiền hoàn toàn loại trừ được tiêu cực tham nhũng ở cơ sở xóm. Từng bước xây dựng hoàn thiện cơ sở vật chất đáp ứng cho các hoạt động theo mô hình tự quản của thôn, xóm. Thôn, xóm phải có quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất riêng của mình để từng bước hoàn thiện lưới điện, hệ thống đường xá trong thôn, xóm đến tận hộ gia đình. Phải có quy hoạch xây dựng khu trung tâm văn hoá bao gồm phòng nuôi dạy trẻ, phòng học mẫu giáo, phòng làm câu lạc bộ nơi sinh hoạt họp hành của nhân dân và các đoàn thể nhân dân. Các điểm vui chơi cho trẻ em, sân chơi thể thao cho nhân dân. Quy mô xây dựng tuỳ thuộc vào điều kiện của từng xã và khả năng đóng góp của nhân dân. Các nhà văn hoá đều phải có bàn ghế, loa đài tăng âm để phục vụ tuyên truyền của trưởng thôn, trưởng xóm, là nơi họp hành làm việc của thôn, xóm. Ngoài ra phải định hướng cho nhân dân thôn, xóm trùng tu, tôn tạo các di sản văn hoá của làng, nghĩa trang của thôn. Quan tâm củng cố hệ thống chính trị và các tổ chức văn hoá xã hội của thôn, xóm. Thôn, xóm tự quản có chi bộ Đảng lãnh đạo toàn diện tuyệt đối theo mô hình tự quản (được quy định bằng quy chế lãnh đạo của chi bộ). Trưởng xóm do các chủ hộ gia đình trực tiếp bỏ phiếu kín bầu ra. Mỗi xóm có từ 2 - 3 an ninh xóm, có thể kiêm cả thuỷ nông của thôn, xóm do trưởng xóm điều hành. Về tổ chức văn hoá xã hội ở thôn tự quản có: Ban tư vấn làng văn hoá gồm có đại diện chi bộ, trưởng thôn, đại diện cho các đoàn thể trong xóm, đại diện ban khánh tiết đình chùa, nhà thờ, trưởng các dòng họ trong thôn. Có các tổ văn nghệ, các câu lạc bộ, các đội thể thao do thanh thiếu niên, hội nông dân và cựu chiến binh lập ra để phục vụ cho việc hội làng và giao lưu văn hoá. Các tổ chức xã hội ở thôn, xóm tự quản có tổ hoà giải của mặt trận, tổ gia đình liệt sỹ, tổ thương binh, tổ hưu trí, chi hội chữ thập đỏ... Các tổ chức này làm cho các hoạt động ở thôn, xóm trở nên sôi nổi và còn tham gia giao lưu với các làng trong xã, trong huyện. Việc xây dựng hương ước làng văn hoá do Ban tư vấn soạn thảo, nhân dân trong thôn bàn bạc tham gia góp ý hoàn chỉnh, UBND xã thẩm định và phê duyệt. Hương ước làng phải phù hợp với xây dựng mô hình thôn, xóm tự quản, gia đình văn hoá và không trái với các quy chế quản lý điều hành của chính quyền cấp xã, không trái pháp luật. Vì vậy trước khi ban hành, UBND xã phải thẩm định kỹ lưỡng để tránh tư tưởng cục bộ làng xóm làm sai chủ trương đường lối chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Xây dựng thôn xóm tự quản gắn với xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá là điều kiện quan trọng để tạo ra quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân thôn, xóm trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội, trật tự trị an để xây dựng cuộc sống mới khu dân cư và xây dựng nông thôn mới văn minh, tiến bộ. Thông qua xây dựng thôn, xóm tự quản mà củng cố được hệ thống chính trị cơ sở thôn, xóm trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết, gần gũi với cuộc sống mọi mặt của nhân dân. Chi bộ phải lo lãnh đạo nhân dân thôn, xóm mình thực hiện các nhiệm vụ theo mô hình xây dựng thôn, xóm tự quản, sát với cuộc sống của nhân dân trong thôn, xóm mình. Làm tốt việc xây dựng thôn, xóm tự quản thì cấp xã chỉ phải tập trung giải quyết những vấn đề chung của toàn xã, và những vấn đề vượt quá khả năng giải quyết của xóm. Từ đó dẫn đến đổi mới hoạt động của các ngành, các đoàn thể của xã hướng xuống thôn, xóm vừa giúp các tổ chức ở cơ sở thôn, xóm xây dựng phong trào của chính mình ngay tại cơ sở. 3.2.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động của chính quyền cấp xã Thực tiễn những năm qua cho thấy rằng những sai phạm của chính quyền cấp xã nếu không được kiểm tra, uốn nắn kịp thời sẽ tích đọng thành những vấn đề lớn gây bất bình trong nhân dân, có nơi trở thành phản ứng tập thể gay gắt, gây hậu qủa lớn. Kiểm tra, thanh tra hoạt động của chính quyền cấp xã phải được tiến hành thường xuyên, kết hợp kiểm tra, thanh tra của cấp trên với kiểm tra, thanh tra tại chỗ của nhân dân, không chờ có vụ việc xảy ra mới tiến hành thanh tra, kiểm tra. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy thực hiện tốt dân chủ ở xã, phường là hình thức kiểm tra có hiệu lực, hiệu quả và kịp thời đối với hoạt động của chính quyền cấp xã. Trong tình hình hiện nay phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã. Những yếu kém, khuyết điểm, những khiếu kiện của nhân dân đối với chính quyền cấp xã nếu được kiểm soát ngay từ khi mới phát sinh ở cơ sở sẽ giúp cho công tác giải quyết đỡ phức tạp, khó khăn, kịp thời ngăn chặn để không dẫn đến tình trạng tích đọng lâu ngày bùng phát thành những điểm nóng khiếu kiện tập thể đông người kéo dài như ở Thái Bình trong thời gian vừa qua. Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền cấp xã, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước ở cấp huyện và tỉnh phải thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân hàng tháng (dành thời gian trực tiếp tiếp dân), mặt khác phải thường xuyên xuống cơ sở để lắng nghe ý kiến của nhân dân, trực tiếp quan sát giải quyết ngay những vụ việc phát sinh ngay từ cơ sở, nhất là xử lý kịp thời những cán bộ chính quyền có sai phạm. Cần có những quy định để cơ quan thanh tra cấp trên, thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể xử lý nhanh chóng, kịp thời đối với những cán bộ có sai phạm rõ ràng, nhanh chóng thiết lập trật tự kỷ cương. 3.2.8. Xây dựng cơ sở vật chất của chính quyền cấp xã Cùng với việc đổi mới tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cơ chế hoạt động, phương pháp quản lý, vấn đề xây dựng cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho bộ máy chính quyền cấp xã hoạt động có chất lượng và hiệu quả là điều hết sức quan trọng. Sau gần 30 năm miền Nam hoàn toàn giải phóng, bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng thống nhất trong cả nước. Nhưng đến nay ở Thái Bình nhiều nơi trụ sở UBND xã, phường, thị trấn còn quá sơ sài, phương tiện làm việc thiếu thốn, đơn sơ, thậm chí nơi tiếp dân cũng không được khang trang, sạch đẹp... Một trong những nguyên nhân cơ bản là do địa phương quá nghèo, thu không đủ chi, phải huy động sự đóng góp của nhân dân. Nhưng mặt khác quan trọng hơn là thiếu sự quan tâm của Đảng và chính quyền cấp trên. Cần phải thấy được, trụ sở chính quyền cấp xã không chỉ là nơi hội họp, làm việc mà còn biểu hiện bộ mặt của chính quyền cấp xã, quyền lực của nhà nước. Trước tình hình đó, đề nghị chính quyền cấp trên đặc biệt là cấp tỉnh nên hỗ trợ đầu tư kinh phí xây dựng lại trụ sở xã ở những nơi kinh phí còn quá nghèo, không xây dựng được, đối với những nơi mà cơ quan Đảng, các bộ phận giúp việc UBND không ở gần nhau thì nên cho xây dựng lại gọn về một chỗ, vừa tiện quan hệ với nhau, vừa thuận tiện cho nhân dân khi cần liên hệ với chính quyền. Bên cạnh việc xây dựng trụ sở, cần trang bị cho xã có đủ phương tiện tối thiểu để hoạt động. Hiện nay 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh có điện thoại, song các phương tiện khác cần phải có như: - Bàn ghế làm việc, tiếp dân, bàn ghế hội trường. - Một bộ trang trí: cờ, ảnh, tượng Bác Hồ, khẩu hiệu. - Máy vi tính. - Tủ sách pháp lụât, tủ đựng hồ sơ và lưu trữ tài liệu. Nói đến xây dựng chính quyền cấp xã, cải cách hành chính mà không chú ý đến cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho chính quyền hoạt động thì cũng không thể nào mang lại kết quả như mong muốn. 3.2.9. Đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã không thể tách rời việc quản lý tốt hộ gia đình trong điều kiện của nền kinh tế thị trường Nhà nước đã giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình, xác định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ hoạt động theo cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra là phải quản lý hộ gia đình trong cơ chế mới như thế nào để đi đúng đường lối chính sách pháp luật và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân về mọi mặt. Để thực hiện yêu cầu trên phải thiết lập sự quản lý trực tiếp của UBND xã đối với gia đình trên 4 mặt là hộ khẩu, đất đai, các quan hệ tài chính và chấp hành chính sách pháp luật. - Về quản lý hộ khẩu: Phải quản lý khẩu một cách chính xác, đặc biệt về con người, tuổi tác vì nó liên quan đến nghĩa vụ công dân, đến các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước. Các giấy tờ khai sinh, chứng minh thư, sổ hộ khẩu phải chính xác, khớp nhau, chuyển đi, chuyển đến, chia tách hộ phải đủ thủ tục theo đúng pháp luật quy định. - Về ruộng đất: Phải nắm chắc từng loại hạng đất đai gia đình đang sử dụng, quản lý chặt chẽ cả về số lượng và chất lượng hiện trạng đất đai. Tăng cường kiểm tra hộ gia đình sử dụng đúng mục đích, không tùy tiện thay đổi hiện trạng đất đai. Sổ sách, giấy tờ, bản đồ phải rõ ràng, cụ thể, ăn khớp nhau. Đất đai vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ sử dụng đất nên thường nảy sinh tranh chấp giữa các hộ gia đình, giữa các cá nhân với tập thể. Vì vậy phải thiết lập cơ sở pháp lý với hộ gia đình một cách chặt chẽ. - Các quan hệ tài chính đối với hộ gia đình: Đối với các khoản thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, các quỹ nộp cho nhà nước, cấp trên, các khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng của xã theo Nghị quyết của HĐND, xây dựng kiết thiết xóm theo Nghị quyết của nhân dân xóm. Thu sản phẩm đấu thầu đất đai công ích của UBND xã, hàng vụ UBND xã phải xây dựng phương án thu, có thông báo cho hộ gia đình đối chiếu. Khi thu phải có đủ hoá đơn, chứng từ cho hộ gia đình. Kết thúc vụ thanh toán đối khớp từng khoản giữa gia đình và UBND xã theo sổ thanh toán có chữ ký của gia đình. - Các khoản quỹ nộp hợp tác xã nông nghiệp, thuỷ lợi phí, dịch vụ của hợp tác xã, ban chủ nhiệm xây dựng phương án thu có thông báo các khoản thu gửi đến hộ gia đình để đối chiếu. Khi thu phải có đủ chứng từ cho hộ gia đình, cuối vụ phải thanh toán đối khớp từng khoản thu, những khoản hoàn thành và những khoản nợ ghi trên sổ thanh toán có chữ ký của hộ gia đình. Như vậy về mặt tài chính đối với hộ gia đình phải trực tiếp với UBND xã và hợp tác xã nông nghiệp. Các tổ chức thu và thanh toán với hộ gia đình hàng vụ đảm bảo nguyên tắc tài chính và thực sự dân chủ công khai. Do đó sẽ chống được phụ thu lạm bổ để tham ô của cán bộ xóm và cán bộ chuyên môn của xã. 3.2.10. Xây dựng quy chế hoạt động một cách dân chủ và đưa hoạt động vào quy chế, thông qua quy chế tạo thành nề nếp trong toàn bộ hoạt động của chính quyền cấp xã Chính quyền cấp xã cần có những quy chế sau: - Quy chế hoạt động của HĐND: Ngoài những quy định chung về hoạt động của HĐND theo luật định cần quy định chi tiết những vấn đề mà chủ tịch HĐND, phó chủ tịch HĐND phải giám sát được hoạt động của UBND và báo cáo sự giám sát đó trước HĐND và cử tri trong toàn xã, phường, thị trấn đặc biệt là giám sát về tài chính, xây dựng cơ bản, ban hành các văn bản có đúng luật hay không. - Quy chế làm việc của UBND: Xác định chức năng, nhiệm vụ của HĐND, chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của chủ tịch, phó chủ tịch UBND, chức năng nhiệm vụ của từng uỷ viên UBND. - Quy chế tổ chức tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu kiện, đề nghị của nhân dân để vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đề cao trách nhiệm chính quyền cấp xã đối với dân. Chống quan liêu, thiếu trách nhiệm của cán bộ chính quyền. - Xây dựng quy chế quản lý điều hành ngành. - Quy chế quản lý tài chính: Căn cứ vào luật ngân sách, căn cứ vào yêu cầu chống tham ô lãng phí, cửa quyền, đảm bảo chế độ dân chủ công khai, đảm bảo các chế độ nguyên tắc kế toán tài chính để xây dựng quy chế quản lý tài chính được chặt chẽ, không tạo ra những kẽ hở để cá nhân lợi dụng. Từ đó quy chế quy định cụ thể vấn đề thu - chi ngân sách xã, vấn đề huy động đóng góp của dân cho xây dựng cơ bản, vấn đề quản lý các quỹ do dân đóng góp để xây dựng kiến thiết thôn, xóm. Vấn đề quan hệ tài chính với hộ gia đình, thực hiện chế độ quản lý thống nhất một chủ tài khoản là chủ tịch UBND xã. - Quy chế quản lý điều hành lực lượng an ninh, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của an ninh cơ động xã, của an ninh xóm, quy định sự chỉ đạo điều hành của trưởng công an xã đối với an ninh cơ động, an ninh xóm và cơ chế thưởng, phạt đối với lực lượng an ninh để nâng cao trách nhiệm bảo vệ sản xuất, giữ gìn trị an của lực lượng an ninh cơ sở. - Quy chế quản lý xây dựng cơ bản theo huyện xây dựng nhưng cần đưa thêm vào vấn đề quản lý các công trình cơ sở tự xây dựng. - Quy chế quản lý bảo vệ mặt bằng đất đai các công trình giao thông thuỷ lợi. - Quy chế thực hiện nếp sống văn hoá trong việc tang, việc cưới, lễ hội, nơi sinh hoạt làm việc công cộng. - Quy chế quản lý điện truyền thanh. - Quy chế giữ gìn vệ sinh môi trường. Các quy chế trên nhất thiết phải được lấy ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân các xóm. Đồng thời nhân dân cũng cử đại diện của mình giám sát việc thực hiện các quy chế của hệ thống chính trị. Quy chế hàng năm cần được xem xét, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với các chính sách pháp luật mới của Đảng, nhà nước ban hành. kết luận Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đã gặp phải nhiều khó khăn và thử thách nghiêm trọng. Chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào; nền kinh tế trong nước nghèo nàn, chậm phát triển, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn ra sức chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược diễn biến hoà bình. Nhưng với đường lối cải cách mở cửa đúng hướng và có những bước đi thích hợp trong những năm qua, đã đưa nền kinh tế nước ta vượt qua khỏi khủng hoảng, chính trị được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ngày càng được củng cố vững chắc hơn. Cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng ta chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính quốc gia, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta rất coi trọng quyền dân chủ nhân dân, dân chủ hoá mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước. Để thực hiện nền dân chủ thực sự chỉ có cách là xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, và chính quyền cấp xã vững mạnh, làm cho chính quyền càng gần gũi với quần chúng, phục vụ cho lợi ích của quần chúng, được quần chúng tin yêu, đồng thời phát huy được sự sáng tạo của quần chúng, thu hút ngày càng đông đảo quần chúng tham gia xây dựng chính quyền. Quan điểm chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về chính quyền cấp xã thể hiện ở các văn kiện Hội nghị Trung ương 8 khoá VII, Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, Hiến pháp năm 1992, các quyết định của nhà nước những năm qua. Và gần đây nhất là trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, thể hiện sự đổi mới lớn trong việc nhận thức về vị trí vai trò của cấp xã. Từ nhận thức đó, Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến cấp xã, từng bước quan tâm giải quyết, đảm bảo quyền lợi chính đáng của đội ngũ cán bộ cấp xã để cán bộ cấp xã có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ. Đảng coi công tác đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là trung tâm của hệ thống chính trị cấp cơ sở, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước. Trải qua những bước phát triển trong các giai đoạn lịch sử đã có những thay đổi tương ứng. Bước sang giai đoạn phát triển mới, bộ máy chính quyền cấp xã cần được hoàn thiện để quản lý toàn diện các mặt đời sống cơ sở, thúc đẩy phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và động lực phát triển các vùng nông thôn. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã về nguyên tắc phải xuất phát từ yêu cầu chung của cải cách bộ máy nhà nước, đồng thời phải tính đến những nét đặc trưng riêng của cơ sở, tạo ra một cơ chế thích hợp cho hoạt động quản lý các quá trình kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn ở tỉnh. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã là quá trình liên tục thích ứng với sự phát triển kinh tế - xã hội và phải được thực hiện trên cơ sở những căn cứ pháp lý vững chắc. Ngoài những kiến giải cụ thể về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã nêu trên, xuất phát từ thực tiễn của quá trình đổi mới đã và đang diễn ra ở cơ sở, luận văn có một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã, góp phần xây dựng nền hành chính quốc gia thông suốt: 1- Nghiên cứu việc sửa đổi một số điều qui định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức đơn vị hành chính cấp cơ sở, về tổ chức HĐND và UBND của cấp này phù hợp với xu hướng phát triển và hoà nhập quốc tế. 2- Sớm nghiên cứu sửa đổi những bất cập nhằm hoàn thiện các lụât, Pháp lệnh, các văn bản pháp quyền về tổ chức HĐND và UBND, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp xã cho phù hợp với từng loại đơn vị hành chính của cấp này. 3- Nghiên cứu để có thể ban hành một Pháp lệnh hoặc một Nghị định quy định về cán bộ xã, phường, thị trấn vào cuối năm 2001 hoặc đầu năm 2002, nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX về tập trung xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở; tạo cơ sở pháp lý cụ thể hướng tới mục tiêu kiện toàn tổ chức, cán bộ của hệ thống chính trị cấp cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu lực hiệu quả, đồng thời là căn cứ thực hiện cải tiến về cơ chế chính sách đối với cán bộ cấp cơ sở, góp phần tạo sự công bằng và có sự ổn định, tháo gỡ những bất cập về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. 4- Phải tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND, nên thành lập thường trực HĐND ở cơ sở; lập thêm 2 tiểu ban của HĐND: tiểu ban tư vấn, giáo dục pháp luật và tiểu ban kiểm tra, giám sát. Bởi lẽ cùng với đà phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các văn bản luật và văn bản pháp quy của nhà nước ta được ban hành ngày càng nhiều, vì vậy cần có chương trình hành động cụ thể phổ biến và giáo dục pháp luật để dân biết dân hiểu, dân tin, sống và làm việc theo pháp luật. Mặt khác, sức mạnh thực tế của kiểm tra, kiểm soát vốn là của nhân dân, được coi như là chiếc chìa khóa để thực thi dân chủ. ở cấp xã vấn đề này liên quan thiết thân tới quyền lợi của người dân: quyền bầu và bãi miễn, quyền đãi ngộ hay chấm dứt sự đãi ngộ người đại diện cho mình vào gánh vác việc chính quyền. 5 - Đẩy mạnh công việc cải cách nền hành chính nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, năng động, hoạt động thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả, hướng vào phục vụ dân, bảo vệ lợi ích của dân, huy động sức dân một cách hợp lý và chịu sự giám sát của dân. Theo hướng đó thì UBND xã cần được tăng thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận (công nhận) cho dân mà không cần phải qua công chứng nhà nước (chẳng hạn giấy chứng nhận về quyền sở hữu nhà đất, chứng nhận thừa kế tài sản, chứng nhận văn bằng văn hóa cấp 1, 2, 3...). 6- Điều quan trọng hàng đầu hiện nay là phải thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, nhất là kiểm kê, kiểm soát công việc của nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát do các cơ quan nhà nước thực hiện theo thẩm quyền là cần thiết, nhưng cần phối hợp chăt chẽ với thanh tra, kiểm tra, giám sát của dân. Danh mục Tài liệu tham khảo 1. Đào An (1994), "Mấy nét về đổi mới tổ chức bộ máy quản lý và cải cách hành chính", Tạp chí quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, (8), tr. 9. 2. Nguyễn Dương An (1999), Thư từ quê lúa Thái Bình, Nxb Tài chính, Hà Nội. 3. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (1993), Sổ tay công tác chính quyền, Hà Nội. 4. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (1995), Về tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND các cấp, Phương thức hoạt động của người đại biểu HĐND, Hà Nội. 5. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Thống kê chất lượng đại biểu HĐND cấp xã (nhiệm kỳ 1999-2001), Hà Nội. 6. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (2000), Khuyến nghị về chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 7. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (1991), Kỷ yếu hội thảo khoa học về chính quyền cấp cơ sở, tổ chức tại Bắc Thái, tháng 9/1991. 8. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (1998), Báo cáo của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ, tháng 10/1998. 9. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ (2001), Công văn số 151 ngày 8/5/2001 của Ban tổ chức cán bộ Chính phủ về việc góp ý đề án kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở. 10. Ban chấp hành Trung ương (1998), Thông báo số 111-TB/TW ngày 4/3/1998 về ý kiến kết luận của Bộ Chính trị về tình hình tỉnh Thái Bình. 11. Chính phủ (1995), Quyết định 97/QĐ-UB ngày 15/10/1995 về củng cố tổ chức bộ máy làm việc của cấp xã, phường, thị trấn. 12. Chính phủ (1993), Nghị định 46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. 13. Chính phủ (1994), Nghị định 174/CP ngày 29/9/1994 của Chính phủ về quy định cơ cấu thành viên UBND. 14. Chính phủ (1995), Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. 15. Chính phủ (2001), Chiến lược cải cách hành chính 2001-2010, Dự thảo lần 2 ngày 16/2/2001. 16. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở nông thôn, Công báo 1945, (số 10). 17. Chủ tịch nước (1945), Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân tại các thành phố, thị xã, Công báo 1945, (số 16). 18. Cục Thống kê Thái Bình (2000), Báo cáo xu hướng biến động dân số và tác động của nó đến sự phát triển của Thái Bình. 19. Phạm Thế Duyệt (1997), Báo cáo tình hình Thái Bình, ngày 26/12/1997, Hà Nội. 20. Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (1994), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb CTQG, Hà Nội. 21. Nguyễn Đăng Dung (1988), HĐND trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 22. Nguyễn Tiến Đoàn (1993), Đổi mới hệ thống tổ chức chính quyền địa phương, Kỷ yếu Hội thảo đề tài KX 05, 08 về phương thức tổ chức hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước, tập 1, Nxb KH-KT, Hà Nội. 23. Bùi Xuân Đức (1991), "Về vấn đề tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay", Tạp chí nhà nước và pháp luật, (số 3), tr.14. 24. Đảng Đoàn Quốc hội (2001), Tờ trình Bộ Chính trị về những vấn đề cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi bổ sung một số điều Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước. 25. Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb CTQG, Hà Nội. 26. Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật nhà nước, Nxb CTQG, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8, BCH Trung ương khóa VII, Nxb CTQG, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, BCH Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 31. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1996), Đại hội VIII những tìm tòi và đổi mới, Thông tin chuyên đề tài liệu phục vụ lãnh đạo và nghiên cứu. 32. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1997), Giáo trình Nhà nước và pháp luật, Nxb CTQG, Hà Nội. 33. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1998), Điểm nóng Thái Bình - Những bài học kinh nghiệm và những vấn đề lý luận, Tài liệu nghiên cứu nội bộ. 34. Học viện Hành chính quốc gia (1994), Giáo trình về quản lý đô thị, Nxb CTQG, Hà Nội. 35. Hội đồng Nhà nước (1990), Báo cáo tổng kết tình hình tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp từ 1985-1989 do HĐNN thực hiện tại Hội nghị HĐND toàn quốc lần thứ 3 ngày 4/4/1990. 36. Học viện Hành chính quốc gia (2000), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập 1, 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 37. Học viện Hành chính quốc gia (1994), Nâng cao quyền lực, năng lực hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực pháp luật, Nxb Lao động, Hà Nội. 38. Học viện Hành chính quốc gia (2000), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. 39. Hội đồng Bộ trưởng (1981), Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981 của HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy chính quyền cấp phường. 40. Hội đồng Nhân dân tỉnh Thái Bình (2001), Nghị quyết số 18/2001 ngày 11/1/2001 của HĐND tỉnh khóa XIII kỳ họp thứ 4 về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2001. 41. Lê ất Lợi (1994), "Đổi mới công tác quản lý của chính quyền các cấp", Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 9), tr.15. 42. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb CTQG, tập 6, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb CTQG, tập 5, Hà Nội. 44. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội. 45. Quốc hội (1994), Luật bầu cử đại biểu HĐND (sửa đổi), UBND tỉnh Thái Bình, 8/1994. 46. Quốc hội (1989), Luật tổ chức HĐND và UBND thông qua 30/6/1989, UBND tỉnh Thái Bình, 8/1994. 47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, UBND tỉnh Thái Bình. 48. Quốc hội (1994), Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi), Nxb CTQG, Hà Nội. 49. Bùi Tiến Quý (2000), Một số vấn đề tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb CTQG, Hà Nội. 50. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2001), Cộng đồng làng xã Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. 51. Hồ Văn Thông (1991), Kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2, Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội. 52. Trần Công Tuynh (1993), "Mấy vấn đề cần suy nghĩ để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương", Thông tin công tác tổ chức nhà nước, (số 3), tr.10. 53. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội. 54. Tỉnh ủy Thái Bình (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XV, tháng 4/1996. 55. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI, tháng 1/2001. 56. Tỉnh ủy Thái Bình (1999), Lịch sử Đảng bộ Thái Bình 1927-1954, Nxb CTQG, Hà Nội. 57. Tỉnh ủy Thái Bình (1998), Nghị quyết 06 của BCH Đảng bộ tỉnh về những chủ trương, giải pháp ổn định tình hình trong tỉnh, Thái Bình tháng 1/1998. 58. Tỉnh ủy Thái Bình (1995), Báo cáo số 65/BC-TW ngày 11/12/1995, về sơ kết thực hiện Nghị quyết BCHTW lần thứ 4 (khóa VII), nghị quyết 06 của BCH Đảng bộ tỉnh (khóa XIV) về phát triển kinh tế nông thôn đến năm 2000. 59. Tỉnh ủy Thái Bình (1999), Thông báo ngày 22/2/1993 về kết quả sau 1 năm thực hiện nghị quyết 06 của BCH Đảng bộ tỉnh về những chủ trương, giải pháp ổn định tình hình trong tỉnh. 60. Tỉnh ủy Thái Bình (1997), Thông báo số 20/TB-TU ngày 16/10/1997, Kiểm điểm của Tỉnh ủy về sự lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân để ổn định tình hình trong thời gian qua. 61. Tỉnh ủy Thái Bình (1986), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Thái Bình. 62. Tỉnh ủy Thái Bình (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ (khóa XIV), Thái Bình. 63. Tổ Công tác Bộ Chính trị tại Thái Bình (25/12/1997), Báo cáo tình hình tài chính và công nợ của tỉnh Thái Bình, Hà Nội. 64. Thường trực HĐND tỉnh Thái Bình (2000), Báo cáo số 137-BC/HĐ tổng hợp ý kiến cử tri, Thái Bình ngày 22 tháng 12 năm 2000. 65. Thường trực HĐND tỉnh Thái Bình (2000), Báo cáo số 140 BC/HĐ về giải quyết ý kiến cử tri và đại biểu HĐND tỉnh nêu ra tại kỳ họp thứ 3 HĐND tỉnh khóa 13, Thái Bình ngày 4 tháng 12 năm 2000. 66. Thường trực HĐND, UBND - UBMTTQ Việt Nam tỉnh Thái Bình (1997), Quy chế số 239, QCPH ngày 22/5/1997 về quan hệ phối hợp hoạt động giữa UBMTTQVN tỉnh với Thường trực HĐNT và UBND tỉnh Thái Bình, Thái Bình. 67. UBTVQH (1996), Quy chế hoạt động của HĐND các cấp, Nxb CTQG, Hà Nội. 68. UBND tỉnh Thái Bình (1998), Quyết định số 607/1998/QĐ-UB bố trí cán bộ và chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. 69. ủy ban kiểm tra tỉnh ủy Thái Bình (2000), Báo cáo số 88-BC/KTTU ngày 15/8/2000 tổng kết công tác kiểm tra nhiệm kỳ Đại hội XV của Đảng bộ tỉnh Thái Bình. 70. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2000 và những nhiệm vụ trọng tâm năm 2001. 71. ủy ban kiểm tra Trung ương (1997), Công văn số 192 CV/KTTW ngày 19/9/1997, Hà Nội. 72. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1993), Quyết định 652/QĐ-UB ngày 17/11/1993 của UBND tỉnh Ban hành quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, Thái Bình. 73. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1997), Chỉ thị số 13/CT-UB ngày 23/7/1997 của UBND tỉnh về việc chấn chỉnh hoạt động của thanh tra xã và Ban thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn, Thái Bình. 74. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Chỉ thị số 08/2000/CT-UB ngày 10/3/2000 của UBND tỉnh về việc tăng cường công tác tiếp và giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, Thái Bình. 75. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1996), Quyết định 228/QĐ-UB ngày 6/6/1996 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định quản lý và sử dụng đất đai, Thái Bình. 76. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1997), Quyết định 242/QĐ-UB ngày 5/6/1997 của UBND tỉnh ban hành quy định về tổ chức xóm và chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của trưởng xóm. 77. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1998), Quyết định 551/QĐ-UB ngày 5/10/1998 của UBND tỉnh Thái Bình về việc sửa đổi mức phụ cấp sinh hoạt phí hàng tháng của Bí thư chi bộ và trưởng xóm ở xã, thị trấn. 78. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (1998), Quyết định 552/QĐ-UB ngày 5/10/1998 của UBND tỉnh Thái Bình về việc sửa đổi mức phụ cấp sinh hoạt phí hàng tháng của Tổ trưởng dân phố thuộc thị xã Thái bình. 79. Vụ địa phương I Ban Tổ chức Trung ương (2/9/1997), Một số ý kiến ban đầu xung quanh những sự kiện ở Thái Bình, Hà Nội. 80. Văn phòng HĐND và UBND tỉnh - Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình (12/2000), Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND tỉnh Thái Bình, tập 1, Thái Bình. 81. Văn phòng HĐND và UBND tỉnh - Sở Tư pháp tỉnh Thái Bình (8/2001), Hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND tỉnh Thái Bình, tập 2, Thái Bình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf106_6292.pdf
Luận văn liên quan