Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Thứ hai, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở tỉnh Hưng Yên cần tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề cao trách nhiệm của các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng trong việc xây dựng đội ngũ công nhân ở tỉnh Hưng Yên. Tùy theo vị trí, cương vị, vai trò của các tổ chức mà đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực xác định mục tiêu cụ thể để xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên cho từng giai đoạn.

pdf102 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3089 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân. - Quan tâm đến nâng cao đời sống tinh thần của đội ngũ công nhân… Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được tăng cường, các cấp chính quyền tỉnh Hưng Yên ngày càng quan tâm và có trách nhiệm trong phát triển đội ngũ công nhân sẽ là giải pháp cơ bản nhất làm cho đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.2.2.2. Xây dựng, củng cố tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên trong tất cả các doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của giai cấp công nhân. Điều này đã được quy định trong Hiến Pháp nước ta năm 1992 (chương 2 điều 10) và Luật công đoàn được Quốc Hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 khóa VIII, ngày 30/ 6/ 1990. Vai trò của công đoàn thể hiện ở chỗ nó là sợi dây liên hệ Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân. Chức năng chủ yếu công đoàn là bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động, đại diện cho họ tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ ý thức xã hội chủ nghĩa để công nhân lao động gương mẫu trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với chức năng đó công đoàn là một tổ chức không thể thiếu của giai cấp công nhân. Vì vậy, xây dựng, củng cố công đoàn vững mạnh là điều kiện để phát huy vai trò của công nhân đồng thời sự lớn mạnh của công nhân càng củng cố tổ chức công đoàn vững chắc hơn. Trong thời gian qua, Hưng Yên là một tỉnh có tổ chức công đoàn hoạt động khá. Vai trò của công đoàn được phát huy tốt và trở thành chỗ dựa tin cậy cho đội ngũ công nhân lao động. Số lượng công nhân tham gia vào tổ chức công đoàn ngày càng đông, nhất là khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Để xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh hơn nữa, nhất là xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn trong tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cần phải thực hiện những biện pháp sau: - Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm hơn nữa và có sự đầu tư cả về kinh phí, đào tạo cán bộ chuyên trách đến việc phát triển các tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp. - Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn. Lâu nay, trong cơ chế quản lý cũ, công đoàn do Đảng tổ chức, chỉ đạo để thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo, thậm trí bằng phương thức bao biện làm thay. Tình hình đó khiến công đoàn trở thành “cái bóng mờ” của tổ chức đảng, chính quyền. Đã đến lúc cần đổi mới quan niệm và cách thức tổ chức công đoàn, đặc biệt là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để ở những nơi này công đoàn thực sự cần thiết cho cả công nhân và giới chủ. Trong hoạt động, việc khắc phục đầu tiên là bệnh quan liêu, hành chính để hoạt động công đoàn luôn gắn liền với phong trào công nhân, sâu sát quần chúng, tránh nặng về hội họp, nặng về giấy tờ, nghị quyết; tránh hình thức, phô trương kém hiệu quả. Coi trọng vận động, thuyết phục, tổ chức quần chúng. Quan trọng hơn, hoạt động công đoàn phải gắn với những phong trào cụ thể, thiết thực của công nhân như: phong trào thi đua, đền ơn đáp nghĩa, phụ nữ giúp nhau trong nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm và thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Trong điều kiện mới, công đoàn cần tìm ra những hình thức hoạt động mới, linh hoạt để công nhân tham gia tích cực trong công tác xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh cũng như công tác quản lý sản xuất, kiểm tra sản xuất, kinh doanh. Công đoàn cần tổ chức phong trào thi đua yêu nước để lôi cuốn công nhân tham gia hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị, nhất là nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, kế hoạch công tác, xây dựng điển hình tiên tiến, tổ chức đời sống cho người lao động. Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, công tác cán bộ, trong đó có cán bộ công đoàn, đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi vậy, cán bộ công đoàn cần được rà soát lại, đào tạo lại, đào tạo mới. Ngoài những tri thức cần thiết về khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, cần trang bị những tri thức nghiệp vụ về công đoàn, đặc biệt nghiệp vụ hoạt động công đoàn. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn cơ sở nhất là chủ tịch công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, về trình độ chính trị, hiểu biết chính sách, pháp luật lao động và kỹ năng công tác. Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng, trang bị những tri thức toàn diện, cần huấn luyện những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể, quan trọng hơn là giáo dục cho đội ngũ cán bộ công đoàn thấy được: “nghề công đoàn” là nghề vinh quang như mọi nghề. Đồng thời, Đảng, Nhà nước cần đổi mới chế độ chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ công đoàn, để cán bộ công đoàn yên tâm và sáng tạo trong hoạt động. Một khi cán bộ công đoàn được đào tạo bài bản, vừa vững vàng về lập trường bản lĩnh, vừa giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, lại có chế độ chính sách thỏa đáng, chắc chắn hoạt động các công đoàn nói chung, hoạt động công đoàn trong xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Do vậy, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng, trang bị những tri thức toàn diện, kỹ năng nhiệm vụ cụ thể, để hình thành một đội ngũ cán bộ làm công tác công đoàn chuyên nghiệp là việc làm cấp bách của Liên đoàn lao động tỉnh Hưng Yên và các cấp chính quyền tỉnh Hưng Yên hiện nay. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, trong đó có thanh niên công nhân, vì thế tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong việc tập hợp công nhân lao động trẻ, hướng họ vào các hoạt động chung, có định hướng chính trị, định hướng nghề nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có cơ hội phát triển tài năng, sở thích để trở thành người công nhân tốt, những quần chúng ưu tú có thể giới thiệu vào Đảng. Hiện nay ở tỉnh Hưng Yên, tổ chức đoàn thanh niên hoạt động có hiệu quả chủ yếu ở khối hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước; đa số doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động đoàn còn yếu kém. Lợi thế của đoàn thanh niên là dễ vận động, lôi cuốn, tập hợp công nhân trẻ thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa thể thao. Trên cơ sở đó, đoàn thanh niên có thể lồng ghép các nội dung tuyên truyền mục tiêu, lý tưởng, định hướng chính trị, giác ngộ giai cấp cho thanh niên. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động của đoàn thanh niên trong các loại hình doanh nghiệp muốn phát triển tốt thì tổ chức đoàn thanh niên cần đổi mới nội dung, phương thức, hình thức hoạt động cho phù hợp để thu hút nhiều thanh niên công nhân tham gia như : tổ chức hội thi tay nghề, thi đua lao động sáng tạo, khuyến khích các phong trào học văn hóa, ngoại ngữ, tin học, ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, các cuộc thi tìm hiểu về đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tìm hiểu về Đảng, về Đoàn, về vị trí, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, qua đó làm cho thanh niên công nhân càng thấy rõ niềm vinh dự, tự hào cũng như thấy trách nhiệm của thế hệ trẻ trong xây dựng tổ chức Đoàn, Đảng. Để thực hiện tốt những điều này, tổ chức đoàn phải được kiện toàn từ cấp tỉnh đến cơ sở sản xuất. Nếu không thành lập được tổ chức đoàn thì việc tập hợp, vận động thanh niên công nhân thực hiện những nhiệm vụ chính trị của đoàn là vô cùng khó khăn. Nếu chưa thành lập được tổ chức Đoàn thanh niên thì phải nhanh chóng thành lập được Hội Liên hiệp thanh niên để tập hợp đoàn kết thanh niên công nhân, nhất là ở khu vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉnh Hưng Yên nên đầu tư về kinh phí để hỗ trợ cho các hoạt động của đoàn, tăng hiệu quả thu hút đoàn viên. Công tác cán bộ đoàn cũng cần phải được chú trọng, không thể có tổ chức đoàn vững mạnh trong khi cán bộ làm công tác đoàn lại hạn chế về năng lực và trình độ. Tổ chức công đoàn và Đoàn thanh niên là những tổ chức chính trị - xã hội rất quan trọng, có điều kiện thu hút số lượng lớn công nhân tham gia. Vì thế, cần đẩy mạnh công tác tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động nhằm thu hút tập hợp nhiều hơn nữa công nhân tham gia. 3.2.3. Nhóm giải pháp kinh tế 3.2.3.1. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho người lao động Đây là vấn đề mà người lao động luôn mong đợi ở phía chủ sử dụng lao động. Trong toàn bộ nguồn thu nhập của người lao động thì nguồn thu nhập từ tiền lương là quan trọng nhất, là nguồn thu chủ yếu trong đời sống người lao động. Trong mấy năm trở lại đây, thu nhập của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên còn thấp, nên đời sống vật chất của các hộ gia đình công nhân còn nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, doanh thu của nhiều doanh nghiệp không ổn định, do vậy, thường trả lương theo ngày, hay khoán theo thành phẩm, làm việc không hợp đồng lao động nên ngoài lương ra công nhân không được hưởng bất cứ một quyền lợi nào khác, nhất là ở những doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải thực sự quan tâm đến đời sống vật chất cho người công nhân mà ở đây thiết thực nhất là hướng tới đảm bảo việc làm đầy đủ và nâng cao chất lượng việc làm cho công nhân, từ đó nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của công nhân ngày càng tốt hơn. Khi đời sống của công nhân không ngừng được nâng lên thì họ sẽ yên tâm lao động sản xuất và ngày càng gắn bó với doanh nghiệp đó hơn, doanh nghiệp cũng không bị tình trạng biến động lao động sau mỗi dịp nghỉ Tết nguyên đán. Hơn nữa tỉnh Hưng Yên cũng cần sớm có chính sách hỗ trợ đối với người lao động có thu nhập thấp hay mất việc, có cơ chế giám sát các doanh nghiệp trong thi hành Luật lao động…, có như vậy đời sống vật chất của người lao động mới được nâng lên. 3.2.3.2. Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ để tạo môi trường, điều kiện cho sự phát triển đội ngũ công nhân Sự phát triển của công nghiệp hiện đại và cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất là yếu tố khách quan làm tăng số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân. Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên là lực lượng lao động trực tiếp gắn bó với nền sản xuất công nghiệp, với khoa học - kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Phát triển nền công nghiệp hiện đại với việc ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ vào sản xuất là nhân tố không thể thiếu được để tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại, làm cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên phát triển về mọi mặt. Bởi công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất sẽ là chìa khóa trong cạnh tranh kinh tế để vươn lên tạo chỗ đứng và thế mạnh cho sự phân công lao động xã hội. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất sẽ có kết quả là tạo ra những sản phẩm mới, những phương pháp công nghiệp hiện đại, những công cụ lao động có năng suất cao, đồng thời, qua đó sẽ làm cho số lượng công nhân lao động giản đơn có xu hướng ngày càng giảm, công nhân có trình độ kỹ thuật ngày càng tăng lên. Để đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ, cần phải tiến hành một số biện pháp sau: - Tiếp tục đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tất cả các thành phần kinh tế làm cơ sở để phát triển lực lượng sản xuất. - Tăng cường công tác quy hoạch và đầu tư kết cấu hạ tầng, kỹ thuật - Lựa chọn, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ nhằm đổi mới thiết bị và công nghệ. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các hoạt động nghiên cứu về khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ là biện pháp cơ bản để phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.2.4. Nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo 3.2.4.1. Tăng cường công tác giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật, kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đang được bổ sung một lực lượng lớn công nhân có tuổi đời còn rất trẻ, chưa trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, ngày nay lại đang bị cạnh tranh lẫn nhau bởi nhu cầu việc làm và thu nhập, vì thế mà ý thức chính trị, ý thức pháp luật, tác phong công nghiệp đều còn hạn chế. Vì vậy, để đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng thì một trong những vấn đề cơ bản nhất là phải thường xuyên giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật, hình thành tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cho đội ngũ công nhân. ý thức chính trị (của cá nhân hoặc cộng đồng: giai cấp, tầng lớp, nhóm…) là tổng thể những quan niệm về những vấn đề chính trị lớn. Cụ thể, là thái độ đối với các thể chế chính trị (Nhà nước, đảng phái…); là nhận thức về những nội dung chính trị quan trọng (chế độ chính trị, đường lối, chính sách… phát triển quốc gia); là sự hiểu biết về mình với tính cách là một giai cấp trong mối quan hệ với các giai tầng cơ bản khác (kẻ thù, bạn đồng minh…)… nảy sinh từ quá trình xây dựng một chế độ chính trị của xã hội ấy [15, tr.207]. Như vậy, giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên thực chất là quá trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách đổi mới của Đảng, về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất, truyền thống cần cù sáng tạo của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, khẳng định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Việc bồi dưỡng, giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước, trực tiếp là các chính sách kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên là yêu cầu khách quan để xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trưởng thành về chính trị, giác ngộ giai cấp, lớn mạnh về mọi mặt để vươn lên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” [16, tr.20]. Mặt khác, trong quá trình phát triển, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên thường xuyên tiếp nhận vào hàng ngũ của mình những thành viên mới. Đó là những công nhân trẻ, sinh ra và lớn lên trong chế độ mới đa phần xuất thân từ nông dân và học sinh. Vì vậy, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa quen ngay với nền sản xuất công nghiệp hiện đại mà còn chịu ảnh hưởng bởi tâm lý, thói quen, tác phong lao động gắn với nền sản xuất nhỏ, lạc hậu. Hơn nữa khi gia nhập đội ngũ công nhân, đa số có tuổi đời rất trẻ và được sinh ra, lớn lên trong chế độ mới. Bên cạnh đó những mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng hàng ngày, hàng giờ tác động làm cho một bộ phận công nhân có tư tưởng phường hội chỉ thấy lợi ích trước mắt mà quên mất lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp mình. Chính vì vậy, giáo dục ý thức pháp luật, kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân là quá trình giáo dục Hiến Pháp và Pháp luật, đặc biệt là Luật lao động, Luật công đoàn, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, các chế độ chính sách có liên quan đến người lao động như chính sách việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội; tuyên truyền và đề cao kỷ luật lao động trong sản xuất công nghiệp, từ đó hình thành ở đội ngũ công nhân tác phong và kỹ năng lao động công nghiệp hiện đại với tính linh hoạt cao trong việc thường xuyên đổi mới kỹ thuật và công nghệ. Để công tác này thực sự đạt hiệu quả, thực sự nâng cao nhận thức, thái độ của mỗi công nhân chuyển biến thành hành động tích cực, cần chú ý đến một số điểm cơ bản sau: - Tỉnh phải xây dựng nội dung giáo dục thống nhất phù hợp với mọi đối tượng công nhân. Trên cơ sở tổ chức một cách thường xuyên các hoạt động giáo dục, tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, hấp dẫn, dễ nắm bắt, phải có sự tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm để có hướng điều chỉnh kịp thời. - Phải có sự phối hợp của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức đoàn thể có liên quan tuyên truyền, giáo dục rộng khắp đến công nhân ở các loại hình doanh nghiệp. - Đa dạng hóa các loại hình tuyên truyền như: thông qua các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, qua hội thi tìm hiểu, hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao, giải trí… với những nội dung dễ hiểu, dễ nhớ, qua đó sẽ giúp công nhân tiếp nhận một cách tự giác. - Người làm công tác tuyên truyền phải có trình độ tri thức, có khả năng thu hút, tập hợp quần chúng… - Trong quá trình giáo dục ý thức chính trị cần phát hiện những công nhân ưu tú, có tay nghề, lập trường chính trị vững vàng để tiếp tục đào tạo thành những nhà quản lý, nhà lãnh đạo giỏi xuất thân từ công nhân. Giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật, tác phong công nghiệp là việc làm cơ bản, liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ công nhân. Đây là việc làm phải được thực hiện thường xuyên, lâu dài và phải có sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự quan tâm của chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, ý thức tự giác của bản thân đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên. 3.2.4.2. Đẩy mạnh và tổ chức thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn và trình độ nghề nghiệp cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên Vấn đề nâng cao trình độ học vấn, trình độ tay nghề cho đội ngũ công nhân là việc rất cần trong xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay. Thực tế, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua còn rất thấp, tỷ lệ công nhân mới tốt nghiệp phổ thông cơ sở còn cao, số công nhân có trình độ tay nghề (bậc 6 -7) còn quá ít, phân bố lại không đồng đều. Số công nhân chưa được qua đào tạo còn nhiều (41,6%), trong khi số công nhân được đào tạo lại không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn sản xuất. Số công nhân trước đây vốn trong doanh nghiệp nhà nước nay giải thể do làm ăn không có lãi hoặc cổ phần hóa chưa được đào tạo lại đang tiếp tục bổ sung vào đội ngũ công nhân chưa được đào tạo. Tình trạng thiếu công nhân có tay nghề kỹ thuật đã làm cho các doanh nghiệp ở tỉnh Hưng Yên rất khó tuyển được lao động theo yêu cầu. Có doanh nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay vẫn chưa tìm đủ lực lượng lao động cho một số dự án đầu tư mới được ký kết đầu năm 2008. Có doanh nghiệp thông báo tuyển 1500 - 2000 công nhân nhưng đã qua từ 2 - 3 tháng mà vẫn chưa tuyển đủ được. Có học sinh vừa tốt nghiệp các trường dạy nghề cho biết, trong quá trình các em học nghề thì chỉ được thực tập và vận hành những loaị máy móc đã cũ, trong khi đó máy móc thiết bị của các doanh nghiệp lại hoàn toàn mới và hiện đại nên họ khó đáp ứng được. Rõ ràng, sự thiếu hụt đội ngũ công nhân lành nghề đã qua đào tạo, đủ khả năng ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đang là vấn đề bức xúc của hầu hết các doanh nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, đây cũng là một lực cản lớn đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của tỉnh. Theo chúng tôi, để nâng cao trình độ học vấn, trình độ tay nghề cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, cần thực hiện một số giải pháp sau: - Ngành giáo dục - đào tạo tỉnh Hưng Yên cần liên kết, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa, ngoại ngữ một cách thuận tiện, phù hợp tạo điều kiện cho những công nhân chưa có trình độ phổ thông trung học tham gia vào học để nâng cao tỷ lệ công nhân có trình độ tốt nghiệp phổ thông trung học nhiều hơn nữa. Các hình thức học phải đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện của người lao động như: học bổ túc, học tại chức, học vào các buổi tối sau giờ làm việc của công nhân… - Tỉnh cần tăng cường kinh phí cho việc đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các trường tham gia vào công tác dạy nghề. Bên cạnh 5 trường dạy nghề ở tỉnh đã có, cũng cần phải xây dựng thêm một số trường dạy nghề và xây dựng từ một đến hai trung tâm dạy nghề chất lượng cao để đào tạo, bổ sung lực lượng công nhân kỹ thuật trẻ cho các doanh nghiệp. Đặc biệt quan tâm đến xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ giáo viên dạy nghề để có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên, tạo cơ chế cho giáo viên có điều kiện thâm nhập thực tế để cập nhật được những kỹ thuật công nghệ mới, đồng thời có những chính sách đãi ngộ đúng mức và phù hợp đối với đội ngũ giáo viên, nhất là những giáo viên giỏi đam mê với nghề nghiệp. Theo sự đánh giá của các doanh nghiệp có sử dụng lao động thì hiện nay hầu hết các học viên ra trường vào làm ở các công ty đều phải đào tạo lại. Nội dung đào tạo của các trường, các trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh còn nặng về lý thuyết nên cần phải đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho phù hợp. Trong quá trình đào tạo cần trang bị thêm cho học viên những kiến thức về kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, đây cũng là điều kiện cần thiết khi người sử dụng lao động vào làm việc tại các doanh nghiệp. Trong quá trình đào tạo nghề, các trường hay các trung tâm dạy nghề cần phải gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp về thị trường lao động. Có sự phối hợp, liên kết giữa các doanh nghiệp có sử dụng lao động và cơ sở đào tạo, tức là phải có sự đặt hàng từ các doanh nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp hỗ trợ các trường về trang thiết bị, để giúp học viên thực tập tại doanh nghiệp, gắn đào tạo với lao động sản xuất. - Tuyên truyền để mọi người nhận thức rõ vấn đề đào tạo đội ngũ công nhân là nhiệm vụ của toàn xã hội, nên cần thực hiện xã hội hóa công tác dạy nghề; khuyến khích các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức xã hội và mọi người lao động tham gia vào việc đào tạo bồi dưỡng công nhân theo yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phương pháp đào tạo bồi dưỡng phải thích ứng với đối tượng nhằm phát huy khả năng sáng tạo của người học. Chú trọng mô hình dạy nghề tại chỗ trong doanh nghiệp vì mô hình này có nhiều ưu điểm. Các kiến thức và kỹ năng nghề mà người học tiếp thu được đáp ứng lợi ích của cả người học và người sử dụng lao động. Người học nghề ngoài việc học lý thuyết nghề cần được thực tập ngay trên máy móc, thiết bị đang sử dụng tại doanh nghiệp. Người sử dụng lao động cũng không phải gửi người lao động của mình đến cơ sở đào tạo, không bị gián đoạn công việc, nên tiết kiệm được chi phí… Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nên phối hợp các doanh nghiệp thường xuyên tổ chức thi tay nghề để xác định bậc thợ cho công nhân. Mở rộng các hình thức liên doanh đào tạo, dạy nghề với một số trường ở nước ngoài để tận dụng vốn, kỹ thuật, công nghệ của các nước công nghiệp phát triển, qua đó nâng dần trình độ người công nhân lên ngang tầm với quá trình hội nhập khu vực và thế giới. - Có chính sách và cơ chế tăng cường mối quan hệ giữa doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề; khuyến khích doanh nghiệp tham gia hoạt động dạy nghề từ khâu xây dựng tiêu chuẩn, kỹ năng nghề, thiết kế chương trình và tham gia giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của người học nghề… Các doanh nghiệp đảm nhận việc thực hành cho người học, các cơ sở dạy nghề đảm nhận việc dạy lý thuyết và cấp bằng/chứng chỉ cho người học. - Có chính sách khuyến khích cho các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh thành lập các cơ sở dạy nghề như chính sách về đất, về thuế, về thiết bị dạy nghề. - Cần động viên sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài chính của các thành phần kinh tế, các đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh để thành lập quỹ đào tạo, qua đó nâng cao tay nghề cho công nhân, bồi dưỡng văn hóa, khen thưởng những công nhân, những đơn vị có thành tích trong học tập, bồi dưỡng đào tạo công nhân. - Tổ chức đào tạo nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho người công nhân cần phải dựa vào các đoàn thể quần chúng như công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ…, qua đó tạo thành phong trào thi đua học tập sôi nổi liên tục trong mỗi doanh nghiệp. Bản thân người công nhân cũng phải ra sức học tập để nâng cao trình độ học vấn và tay nghề, phát huy tính sáng tạo, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, từng bước trí thức hóa để trở thành người công nhân hiện đại, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3.2.5. Nhóm giải pháp chính sách xã hội đối với đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên 3.2.5.1. Bảo đảm chính sách việc làm và điều kiện làm việc cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên Việc làm là một nhu cầu thiết yếu đối với người lao động, là điều kiện để đội ngũ công nhân tồn tại và phát triển, đồng thời nó cũng lại là vấn đề mang tính chính trị sâu sắc. Trong những năm gần đây, tỉnh Hưng Yên rất quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm, hàng năm tạo thêm việc làm mới bình quân trên 2,2 vạn lao động/ 1 năm. Tuy nhiên để đảm bảo việc làm cho đội ngũ công nhân lao động một cách thường xuyên và ổn định, tỉnh Hưng Yên cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau: - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư làm ăn tại tỉnh, khai thác mọi thế mạnh với mục đích tăng nhiều việc làm cho người lao động. - Phục hồi một số làng nghề truyền thống để giải quyết lao động dư thừa tại nông thôn. - Có chính sách ưu đãi vay vốn, hỗ trợ công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất tạo công ăn việc làm cho người lao động. - Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ công nhân trên địa bàn. Mở rộng dịch vụ giới thiệu việc làm, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội tìm việc làm phù hợp. - Cần sớm xây dựng quỹ trợ cấp thất nghiệp để người lao động tìm lại khả năng nghề nghiệp, có điều kiện tự đào tạo lại, do đó tăng khả năng tìm việc làm mới. - Khuyến khích mọi người tự tạo việc làm trong khuôn khổ pháp luật, hạn chế đến mức tối thiểu tình trạng người có sức lao động mà không có việc làm; xóa bỏ dần mặc cảm giữa lao động trong biên chế và ngoài biên chế nhà nước, giữa lao động trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước. - Mở rộng việc xuất khẩu lao động nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đồng thời để người lao động có điều kiện, cơ hội tiếp cận với nền kinh tế công nghệ cao của thế giới, góp phần trau dồi trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và tác phong công nghiệp. - Chú trọng cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân. ở tỉnh Hưng Yên, điều kiện môi trường làm việc của công nhân lao động nhìn chung còn kém như: điều kiện làm việc bị ô nhiễm, bụi, khói, tiếng ồn. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn nhiều. Việc tăng cường độ và thời gian lao động của các doanh nghiêp ngoài nhà nước khiến sức khỏe của công nhân không được đảm bảo, có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng. Do vậy, biện pháp cấp bách hiện nay là chú trọng cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho công nhân tỉnh như: tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định về vệ sinh môi trường, an toàn lao động. Kiểm tra việc chấp hành luật và các điều khoản liên quan đến bảo vệ sức khỏe người lao động, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, các cơ sở sản xuất - kinh doanh có điều kiện lao động không đảm bảo phải dừng ngay sản xuất và có biện pháp cụ thể để doanh nghiệp phải chấp hành các quy định về an toàn lao động và trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cũng như các điều khoản trong Luật lao động và Luật công đoàn… nhằm tạo ra môi trường ngày càng tốt cho hoạt động của người công nhân trong sản xuất. 3.2.5.2. Xây dựng chính sách khuyến khích tài năng, tiếp cận khoa học- kỹ thuật, công nghệ hiện đại Cần đề cao và thực hiện tốt các chính sách khuyến khích tài năng, tiếp cận khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực lao động chất lượng cao bởi nó chính là động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉnh phải hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi để thu hút cao nhất nhân tài phục vụ cho sự phát triển địa phương, nhất là những tài năng thuộc lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Cần vận dụng sáng tạo chính sách thi đua, khen thưởng để động viên người lao động vượt qua khó khăn, lao động sáng tạo, phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật làm lợi cho các doanh nghiệp và Nhà nước. Thực hiện các chính sách này không chỉ dừng lại ở hình thức động viên bằng vật chất đơn thuần mà phải kết hợp với sự nêu gương tạo nên một hoạt động rộng khắp trong công nhân lao động. Nên có những phần thưởng vật chất thỏa đáng và những danh hiệu cao quý để động viên công nhân hăng say lao động. Tuyên truyền sâu rộng trong đội ngũ công nhân các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người lao động. 3.2.5.3. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Những năm qua một số doanh nghiệp ở tỉnh Hưng Yên bước đầu đã thực hiện công tác đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại đó là: việc thực hiện trách nhiệm đóng bảo hiểm của người sử dụng lao động chưa được đầy đủ. Có doanh nghiệp còn né tránh việc nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động, có doanh nghiệp nợ Nhà nước một số lượng lớn tiền bảo hiểm xã hội trong thời gian dài. Một số doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng lao động thường lợi dụng sự kém hiểu biết của người lao động ký hợp đồng thời hạn ngắn để khỏi chi trả phí bảo hiểm. Tất cả những điều ấy sẽ gây thiệt thòi cho người lao động, nhất là với lao động nữ ở một tỉnh chiếm đến (53%) vào những khi ốm đau, thai sản. Nguyên nhân của tình trạng trên là do: việc sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ không lo được kinh phí đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mà chỉ đủ phát lương cho người lao động; xã hội chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế mà chủ yếu là vận động tuyên truyền. Để khắc phục tình trạng trên một mặt phải tuyên truyền về quyền lợi của người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, mặt khác đề ra những quy định bắt buộc các doanh nghiệp và người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đầy đủ. Giảm bớt các thủ tục khi thanh toán chi trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, xử phạt nghiêm với những tổ chức và cá nhân cố tình vi phạm không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động. Cần đưa công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vào nội dung thi đua bên cạnh các nội dung khác. Phía công đoàn có trách nhiệm giải thích cho người lao động hiểu rõ quyền lợi của người tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Có cơ chế giám sát việc thực hiện các chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, các chế độ nghỉ ngơi của người lao động… Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động tạo sự ổn định trong đời sống của công nhân trong các giai đoạn tiếp theo. 3.2.5.4. Chính sách về môi trường an sinh xã hội cho đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên Môi trường an sinh xã hội của công nhân là rất đa dạng như: nhà ở và những dịch vụ phục vụ đời sống công nhân (chợ, nhà trẻ, học tập, giải trí…). Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay có ít các điều kiện an sinh xã hội. Nên hệ thống này là cần thiết và xã hội có thể làm được để qua đó, cùng chia sẻ những thành quả mà phần không nhỏ lại chính từ lao động của công nhân tạo ra. Về nhà ở: chi phí về nhà ở hiện đang chiếm từ 18 - 20% tổng thu nhập của công nhân. Trước vấn đề bức xúc này, tỉnh Hưng Yên cần đẩy mạnh thực hiện “chương trình nhà ở cho công nhân”. Tỉnh nên ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, nhất là tại các khu công nghiệp, trên cơ sở quy hoạch của tỉnh. Quy định việc phát triển các khu công nghiệp phải đi liền với phát triển các công trình phúc lợi công cộng, trong đó có khu nhà ở cho công nhân. Các doanh nghiệp nên có chính sách về nhà ở cho công nhân thuê hoặc mua trả dần phù hợp với thu nhập thực tế của công nhân. Về chợ búa, trường học, nơi giải trí tại những khu vực tập trung đông công nhân: Cần định hướng để kinh tế thị trường chú ý tới nhóm xã hội dân cư đặc thù này và có những khuyến khích để thị trường có thể góp phần tạo dựng những dịch vụ xã hội. Tỉnh cũng nên có chính sách giảm thuế đối với quỹ đất để các doanh nghiệp dự định xây dựng những dịch vụ cho đời sống của công nhân (nhà ở, khu vui chơi - giải trí). Cần xét lại việc quy hoạch các khu công nhân sắp tới. Thực tế, qua một số khu công nghiệp ở tỉnh cho thấy, đây không chỉ là khu sản xuất công nghiệp mà còn là nơi an cư của một cộng đồng xã hội đặc thù là đội ngũ công nhân. Họ còn có những nhu cầu tự nhiên và xứng đáng được xã hội đáp ứng nhưng hầu như chưa đáp ứng được. Giải pháp đặt ra hiện nay là những vành đai dịch vụ cần được ưu tiên hình thành trước, sau đó mới là các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Về xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa - xã hội nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần cho công nhân: Hiện nay, hệ thống các thiết chế văn hóa - xã hội phục vụ cho việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của đội ngũ công nhân ở các khu công nghiệp của tỉnh Hưng Yên còn yếu và thiếu trầm trọng, thậm trí có nơi còn chưa có các thiết chế này. Vì vậy, trên cơ sở quy hoạch tổng thể chung, lãnh đạo các cấp của tỉnh cần đầu tư xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa - xã hội như hệ thống trường học, bệnh viện, bệnh xá, thư viện, rạp chiếu phim, khu vui chơi giải trí thể thao giành cho công nhân sau giờ lao động tại khu nhà ở công nhân hay các khu vực có đông công nhân sinh sống. Mặt khác, cần khuyến khích các hoạt động văn hóa công cộng không thu tiền thông qua các đoàn thể chính trị, xã hội như: công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ hay các câu lạc bộ công nhân, nhà văn hóa tự quản của công nhân. Việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa và khai thác có hiệu quả các thiết chế này là điều cơ bản đảm bảo về nâng cao đời sống tinh thần của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên. Về tổ chức phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong công nhân: Đại đa số công nhân ở tỉnh Hưng Yên tham gia lao động trong các khu công nghiệp đều xuất thân từ nông dân. Bên cạnh những thói quen, phong tục tập quán tốt đẹp đem theo, thì họ còn mang cả những tập quán lạc hậu. Đó là tính tự do vô kỷ luật; ngại học hỏi và chậm tiếp thu cái mới; tác phong lề mề, luộm thuộm, ngại va chạm, ít quan tâm đến cộng đồng…Vì vậy, xây dựng nếp sống văn minh công nghiệp và xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh gắn với các tiêu chí cụ thể của từng địa phương, từng nơi cư trú và từng doanh nghiệp là giải pháp bức thiết, để góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của công nhân, vừa phát huy vai trò tích cực của họ trong việc phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xây dựng văn hóa. Các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể, đặc biệt là công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ phải tham gia tích cực vào phong trào vận động công nhân để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trong công nhân, xây dựng các câu lạc bộ công nhân, tuyên truyền giáo dục công nhân giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các tiêu cực trong công nhân, đặc biệt là tình trạng cờ bạc, mê tín dị đoan, số đề, nghiện hút, buôn bán ma túy, mại dâm. Đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà chưa có tổ chức đảng, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên thì cần phải sớm thành lập để chỉ đạo và lôi cuốn công nhân vào hoạt động văn hóa tinh thần lành mạnh. Thực hiện chính sách xã hội hóa quá trình xây dựng và hoàn thiện môi trường văn hóa, xã hội nhằm phát huy vai trò của đội ngũ công nhân. Chính sách xã hội hóa quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu văn hóa, xã hội của đội ngũ công nhân là một chính sách đúng để khai thác và phát huy các nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và công nhân dựa trên cơ sở những quy định chung của pháp luật. Làm tốt những điều trên sẽ xây dựng được một môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh tạo điều kiện cho sự phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên. Kết luận chương 3 Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là việc cần thiết đối với tỉnh Hưng Yên hiện nay. Song, việc xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh đạt đến mức độ nào lại phụ thuộc vào việc xây dựng các hệ thống nhóm giải pháp đúng đắn, đồng bộ và khả thi hay không, nhằm khơi dậy và phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng trí tuệ của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên. Các nhóm giải pháp nêu trên được xây dựng trước hết từ việc nhận thức rõ vai trò, đặc điểm cũng như từ thực trạng của đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay, trên cơ sở quán triệt những phương hướng, những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam. Các nhóm giải pháp nêu ra trên đây chỉ có tính độc lập tương đối. Trên thực tế, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, muốn xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên một cách tốt nhất trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải thực hiện đồng bộ hàng loạt các nhóm giải pháp. Kết luận Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc nghiên cứu về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên cho thấy, bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn bộc lộ không ít những hạn chế, biểu hiện ở những mặt sau: Số lượng đội ngũ công nhân của tỉnh tuy tăng nhanh, nhưng lại chưa cân đối giữa các ngành nghề các khu vực kinh tế. Trong khu vực kinh tế nhà nước, số lượng đội ngũ công nhân giảm mạnh và càng có xu hướng giảm hơn trong những năm tới. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề còn nhiều bất cập, trình độ nhận thức chính trị, giác ngộ giai cấp còn yếu; tác phong lao động công nghiệp và sự hiểu biết về pháp luật, nhất là Luật lao động còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân còn nhiều khó khăn. Các tổ chức cơ sở Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh dù đã được các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, song chất lượng hoạt động còn nhiều thiếu sót, nhất là đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quan hệ chủ - thợ còn xảy ra tình trạng tranh chấp dẫn đến đình công ở một số doanh nghiệp. Trong những năm tới, dưới sự tác động của các nhân tố quốc tế, trong nước và của tỉnh Hưng Yên, những vấn đề này sẽ tiếp tục còn tồn tại nếu không có những giải pháp tích cực. Vấn đề đặt ra ở đây là để khắc phục những mặt hạn chế đó cần phải tiến hành đồng bộ, có hiệu quả những nhóm giải pháp trên với những biện pháp cụ thể như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục… thông qua các tổ chức chính trị - xã hội để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để góp phần xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau: Thứ nhất, các Đảng bộ trong tỉnh Hưng Yên, nhất là ở khối các doanh nghiệp cần phải tiến hành việc nghiên cứu, học tập một cách sâu sắc và có chương trình hành động cụ thể để đưa Nghị quyết Trung ương 6 khóa X của Đảng “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” vào cuộc sống. Thứ hai, các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở tỉnh Hưng Yên cần tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề cao trách nhiệm của các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng trong việc xây dựng đội ngũ công nhân ở tỉnh Hưng Yên. Tùy theo vị trí, cương vị, vai trò của các tổ chức mà đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực xác định mục tiêu cụ thể để xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên cho từng giai đoạn. Thứ ba, trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 6 khóa X của Đảng, tỉnh Hưng Yên cũng nên ra một Nghị quyết riêng về đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên cho phù hợp với sự phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên hiện nay. Thứ tư, Chi cục Thống kê, Liên đoàn Lao động và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cần tiến hành khảo sát, điều tra, đánh giá một cách toàn diện hơn nữa về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, tìm ra những điểm hạn chế, những nguyên nhân làm cản trở cho sự phát triển của đội ngũ công nhân tỉnh, từ đó tham mưu với Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh và một số ngành liên quan để điều chỉnh một số chủ trương, chính sách cho phù hợp hơn, nhằm tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ công nhân. Thứ năm, tỉnh cần có chính sách cụ thể hơn để thu hút nhân tài, thu hút những nhà đầu tư ở những lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, chú trọng đến phát triển công nghiệp nặng để tạo ra những ngành nghề mới tiến tới hình thành bộ phận công nhân có trình độ cao, thúc đẩy sự phát triển chung của đại đa số công nhân trên địa bàn tỉnh. Thứ sáu, trên cơ sở sự quan tâm và nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân lớn mạnh, bản thân đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên cũng cần nhận thức được một cách đầy đủ vị thế của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có ý thức tự nâng cao năng lực, trình độ, tự giác thúc đẩy sự phát triển của bản thân giai cấp mình, đáp ứng những đòi hỏi đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Bài học về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Trung tâm thông tin, Hà Nội. 2. Cục Thống kê tỉnh Hưng Yên (2008), Niên giám thống kê 2007. 3. Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên (2007), Thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên theo kết quả điều tra xã hội hoc. 4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9 - 1960), Văn kiện Đại hội, tập 1, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành hành Trung ương Khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tỉnh ủy Hưng Yên (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVI, Nxb Tổng Hợp, Hưng Yên. 11. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Phạm Thị Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 14. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb, Thống kê, Hà Nội. 15. Phan Thanh Khôi (2002), Nâng cao ý thức chính trị của công nhân trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Lao động, Hà Nội. 16. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 17. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 18. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 19. C.Mác và Ph.Ăngnghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đỗ Nguyên Phương (1993), Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Dương Văn Sao (chủ biên) (2004), Một số vấn đề cơ bản về xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lao động, Hà Nội. 29. Dương Văn Sao (2005), Đề tài khoa học: thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam, Hà Nội. 30. Nguyễn Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đan Tâm (1997), "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại - một cách tiếp cận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.29. 32. “Tìm hiểu khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1994), Tạp chí Cộng sản, (8), tr.63. 33. Tỉnh uỷ Hưng Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1995), Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công, Nxb Lao động, Hà Nội. 35. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn (2001), Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội. 36. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên (1999), Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hưng Yên, Nxb Lao động, Hà Nội. 37. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên (2008), Báo cáo của Ban Chấp hành Liên doàn Lao động tỉnh Hưng Yên khóa XV tại Đại hội XVI công đoàn tỉnh Hưng Yên (nhiệm kỳ 2008 - 2013). 38. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo kết quả kiểm tra chế độ chính sách đối với công nhân lao động của Ban chính sách kinh tế - xã hội Liên đoàn lao động tỉnh Hưng Yên. 39. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2007), Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên (2007), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2007. 41. Dương Thị Thanh Xuân (2007), ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chi Minh. Phụ lục Phụ lục 1 Cơ cấu xuất thân đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên năm 2007 Đơn vị: % TT Toàn tỉnh Khu vực kinh tế Nhà nước Ngoài nhà nước Tổng số 100% 100% 100% 1 Nông dân 33,2 31,8 33,7 2 Học sinh phổ thông 20,2 19,2 22,2 3 Tốt nghiệp THCN và dạy nghề 15,9 16,9 14,9 4 Tốt nghiệp CĐ, ĐH 15,4 17,4 13,4 5 Công chức 5,2 6,2 4,0 6 Khác 10,4 8,5 11,8 Nguồn: Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên. Kết quả điều tra xã hội học về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, 2007. Phụ lục 2 trình độ học vấn của đội ngũ công nhân tỉnh hưng yên Đơn vị: % Trình độ học vấn Mốc thời gian 1997 2001 2007 Tiểu học (cấp I) 27,2 7,7 2,2 Ph thông cơ sở (cấp II) 38,2 42,2 36,3 Phổ thông TH (cấp III) 34,6 50,2 61,5 Nguồn: Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên. Kết quả điều tra xã hội học về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, 2007. Phụ lục 3 trình độ chính trị của công nhân tỉnh hưng yên tính đến năm 2007 Đơn vị: % TT Toàn tỉnh Khu vực kinh tế Nhà nước Ngoài nhà nước Tổng số 100% 100% 100% 1 Chưa qua các lớp chính trị 65,72 60,40 81,32 - Chưa học 51,71 50,40 60,72 - Không có điều kiện đi học 13,01 9,60 18,23 - Không muốn đi học 1,0 0,4 2,37 2 Đang học ở các lớp chính trị 2,1 2,4 1,82 3 Đã qua các lớp chính trị 32,18 37,20 16,86 - Sơ cấp 24,32 28,85 12,17 - Trung cấp 7,23 7,37 4,51 - Cao cấp (tương đương) 0,63 1,08 0,18 Nguồn: Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên. Kết quả điều tra xã hội học về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, 2007. Phụ lục 4 Quan hệ giữa người quản lý và công nhân Đơn vị: % ý kiến công nhân Thành phần kinh tế Nhà nước Tập thể Tư nhân Có vốn đầu tức nước ngoài Quan hệ tốt 45,48 65,45 24,90 20,90 Quan hệ bình thường 60,7 30,70 63,47 67,60 Công nhân bị xúc phạm 0,45 0,50 0,70 1,45 Công nhân bị đuổi việc vô cớ 3,35 6,72 7,30 Nguồn: Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Hưng Yên. Kết quả điều tra xã hội học về thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên, 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đội ngũ công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.pdf
Luận văn liên quan