Những thành quả trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hoạt động
hợp tác quốc tế về khoa học của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong những năm
qua không chỉ góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, mà còn tạo ra những
tiền đề quan trọng cho việc tiếp thu những tiến bộ KH&CN trên thế giới vào nước ta.
Ngoài ra, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện, giám định xã hội và các
hoạt động chính trị xã hội khác, các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội đã tham mưu, góp
ý kiến cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh,
cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chiến lược, chính
sách và nhiều đề án lớn để phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện CNH,
HĐH đất nước.
102 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2549 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y.
Chính vì vậy, để phát huy được vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội
đạt hiệu quả cao phải cần có một chiến lược phát triển toàn diện và lâu dài. Từ việc phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng đến việc sử dụng, đãi ngộ và tạo mọi điều kiện phát triển tài
năng của đội ngũ trí thức đều phải được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ đầu, nếu
không sẽ dẫn đến hiện tượng "bạc chất xám", "lãng phí chất xám", "chảy máu chất xám"
ngay tại chỗ và không tạo ra động lực cho lao động sáng tạo và kích thích sự phát triển
của đội ngũ này.
Do đó, việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội cũng phải nằm trong chiến lược phát triển GD&ĐT và KH&CN của đất nước. Đảng
và Nhà nước cần phải coi đó là một trong những yếu tố cốt lõi của việc đào tạo, phát triển
và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
3.1.4. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phải trên cơ sở nắm vững thực trạng và những
yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ này
Sự vận động, phát triển của đội ngũ trí thuộc Liên hiệp Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy,
việc nắm vững thực trạng như: số lượng, chất lượng, đặc điểm, xu hướng, nhu cầu, tâm
tư nguyện vọng... có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho việc đưa ra chủ trương, chính
sách và các giải pháp nhằm xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ này được chính xác,
hiệu quả, tránh rơi vào chủ quan, duy ý chí, giáo điều dẫn đến hiện tượng vừa lãng phí
chất xám, vừa không đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong
xu thế hội nhập quốc tế.
Một trong những bất cập hiện nay là: khi chúng ta đang rất cần những chuyên gia,
nhà khoa học đầu ngành để phát triển KH&CN và tiến hành CNH, HĐH đất nước, song lại
lúng túng, lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực trí thức hiện có tại chỗ. Nguyên nhân chủ
yếu là do chưa nắm vững thực trạng đội ngũ trí thức và nhu cầu của xã hội đối với đội ngũ
này. Để khắc phục tình trạng trên, việc đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội cần phải gắn với thực tiễn, quán triệt quan điểm biện chứng mác xít trong việc đưa ra
các giải pháp liên quan đến đội ngũ trí thức.
Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong giai đoạn hiện nay
chính là khơi dậy và làm cho tiềm năng về KH&CN trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Công việc đó
trước hết phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn của việc phát triển KH&CN, những vấn
đề đang đặt ra cho khoa học, đồng thời xem xét khả năng, những ưu điểm, thế mạnh của
đội ngũ trí thức trên cơ sở đó có kế hoạch thực hiện.
Hoạt động nổi bật nhất hiện nay là tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Liên
hiệp Hội có thuận lợi lớn là tập hợp trí thức thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, có thể
liên kết các nhà khoa học của những Hội liên quan đến đề án để cùng thực hiện. Nhưng
để hoạt động này đạt hiệu quả cao, mỗi Hội cùng với cơ quan trung ương Liên hiệp Hội
cần nắm vững số lượng, trình độ, sở trường, dự báo khả năng đáp ứng các yêu cầu của
đội ngũ này, khi cần có thể thực hiện được ngay. Việc khai thác tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức cần phải căn cứ vào năng lực, trình độ thực để phát huy.
Xuất phát từ thực trạng và những yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này phải xuất phát từ
thực trạng của họ trong hoạt động thực tiễn, không được chủ quan, duy ý chí, áp đặt và
phải coi đây là một nguyên tắc trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Do vậy, việc
nghiên cứu, đánh giá, dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội
cần được Đảng và Nhà nước thực hiện một cách thường xuyên, kịp thời.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.2.1. Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo
Giáo dục - đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng nguồn
nhân lực, trong đó giáo dục đại học là bậc trực tiếp đào tạo ra những trí thức mới. Do vậy,
để nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ trí thức KH&CN - nguồn bổ sung cho đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp Hội - cần phải đổi mới công tác giáo dục đại học và sau đại học.
Trước hết, đảng và Nhà nước cần tập trung ở những vấn đề cơ bản sau:
Một là, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học và sau đại học.
ở mỗi thời kỳ, những tiêu chí về nguồn nhân lực lại có những biến đổi phù hợp
với trình độ phát triển, nên nội dung giáo dục - đào tạo cũng cần biến đổi để thích ứng kịp
với sự phát triển của thời đại ngày nay. Để có nội dung phù hợp, trước hết phải căn cứ
trên những nhu cầu mà xã hội đang đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ trí thức, xác định
rõ tiêu chí của từng ngành, từng vùng để trên cơ sở đó có chương trình đào tạo hợp lý.
Nội dung giáo dục từ bậc đại học trở lên ở nước ta hiện nay còn nặng về lý
thuyết, thời gian cho thực hành rất ít, chương trình đào tạo nhìn chung còn lạc hậu, xa rời
thực tiễn, không thích ứng kịp với sự phát triển của KH&CN thế giới, nên phần lớn
những sinh viên sau khi tốt nghiệp rất khó thích ứng với công việc thực tế. Chúng ta đã
quen nếp dạy những gì mình có, chưa quen với việc dạy những gì mà xã hội đang cần.
Do đó, đổi mới nội dung giáo dục đại học và sau đại học là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Việc đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần theo hướng hiện đại và toàn
diện.
Phương pháp giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu tri thức
của người học. Mỗi cấp bậc, với trình độ nhận thức và đối tượng khác nhau phải có sự
lựa chọn phương pháp riêng, phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Hiện nay, việc giảng dạy
trong các trường đại học và cả sau đại học chủ yếu là truyền thụ tri thức một chiều, giáo
viên thuyết trình là chủ yếu, ít có sự trao đổi giữa người dạy và người học. Điều này ảnh
hưởng đến sự phát triển tính chủ động, sáng tạo của người học, không kích thích được tư
duy, sáng tạo cũng như sự hứng thú tìm hiểu, nghiên cứu khoa học của người học, phần
lớn là nghe một cách thụ động rồi học thuộc, ít được học tập bằng thực tiễn. Việc truyền
đạt tri thức ở các cơ sở đào tạo dường như mang nhiều tính áp đặt.
Cho nên, đổi mới phương pháp đào tạo là một trong những khâu quan trọng nhất
của việc cải cách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay. Đối với giáo dục đại học và sau
đại học, đòi hỏi phải có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu. Đối tượng
giảng dạy ở bậc này đã có nền tảng kiến thức cơ bản cho nên nhiệm vụ đào tạo chủ yếu
nhằm xây dựng phương pháp tiếp cận và tiếp nhận thông tin một cách khoa học và hiệu
quả. Hình thành cho người học năng lực nghiên cứu độc lập, tư duy sáng tạo sát với thực
tiễn cuộc sống. Đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực khoa học - kỹ thuật cần chú
trọng hơn đến phương pháp trực quan và các hoạt động thực hành nhằm giúp người học
gắn lý thuyết với thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần phải đầu tư trang thiết bị cho dạy và học, với một lượng kiến
thức lớn và không ngừng gia tăng nhanh chóng như hiện nay, để đạt hiệu quả cao thì việc
đổi mới phương pháp giảng dạy phải gắn với hiện đại hóa trang thiết bị giáo dục. Đối với
đào tạo thuộc ngành khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật, yếu tố này là rất cần thiết để
theo kịp sự phát triển của thế giới trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Để có phương pháp giáo dục - đào tạo hiệu quả, cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố
như nội dung, đối tượng..., không thể có một phương pháp chung cho mọi đối tượng. Tuy
nhiên, việc đổi mới trong hệ thống giáo dục và đào tạo cần phải theo hướng mở rộng dân
chủ cho người học, học đi đôi với hành.
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học, cụ
thể cần phải chú trọng những khâu cơ bản sau:
Trước hết, việc tuyển chọn cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học phải là những
người xuất sắc, có đạo đức trong sáng, trình độ chuyên môn vững vàng, phương pháp
giảng dạy tốt và có năng lực nghiên cứu khoa học.
Hàng năm, Đảng và Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung
những kiến thức mới để nâng cao trình độ cho giảng viên. Bản thân cán bộ giảng dạy
cũng phải tự học, học suốt đời và tự cập nhật những kiến thức mới để đáp ứng kịp sự phát
triển của thực tiễn. Mặt khác, ngoài việc nắm vững chuyên môn, giảng viên cần phải bổ
sung các kiến thức khoa học khác có liên quan. Bên cạnh đó, việc giao lưu, hợp tác, trao
đổi kinh nghiệm với trí thức của các nước trong khu vực và trên thế giới là cơ hội tốt để
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học.
Ba là, xây dựng chiến lược lâu dài về đào tạo nguồn lực trí thức KH&CN.
Trong thời gian tới, nhu cầu về các chuyên gia có trình độ KH&CN cao tiếp tục
tăng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đến cuối năm
2003, nước ta có khoảng trên 1,8 triệu người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Như
vậy, so với tổng số dân Việt Nam (năm 2003) là 79 triệu người (lấy tròn số), mới đạt 227
người/ 1 vạn dân (chỉ chiếm 2,27% dân số). Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần có
chiến lược và kế hoạch đào tạo và phát triển dài hạn đội ngũ trí thức KH&CN ở nước ta
hiện nay. Do vậy, việc đào tạo bổ sung cho đội ngũ này là rất cần thiết, trước hết cần thực
hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tăng chỉ tiêu tuyển sinh đại học và sau đại học ở những ngành khoa học kỹ
thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh đó, cần mở rộng các loại
hình đào tạo như đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa... nhằm tạo ra những cơ hội tốt nhất
để thu hút người học.
- Cần có kế hoạch phát hiện và bồi dưỡng những tài năng trẻ trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, tạo điều kiện để họ phát huy năng khiếu, sở trường của mình, từ đó có
hướng phát triển nâng cao.
- Có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những sinh viên giỏi, khuyến khích họ trong
việc nghiên cứu khoa học, góp phần tạo nguồn cho trí thức KH&CN của đất nước.
- Có chính sách và chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
nghiên cứu khoa học và đào tạo để họ yên tâm, tập trung vào nghiên cứu và giảng dạy,
cùng như cống hiến trí tuệ cho sự phát triển của đất nước. Phát huy quyền dân chủ của họ
trong nghiên cứu và trao đổi khoa học ở trong nước và quốc tế.
Bốn là, tăng cường bồi dưỡng kiến thức các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong đào tạo đội ngũ trí thức KH&CN.
Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có "con người xã hội chủ nghĩa". Do vậy,
giáo dục - đào tạo không chỉ có nhiệm vụ đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp mà còn có
nhiệm vụ hình thành cho thế hệ trẻ lý tưởng CSCN.
Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ nói chung, trí thức thuộc Liên hiệp Hội nói
riêng là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho CNH, HĐH. Chính
vì vậy, họ phải là những người thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, sống có lý tưởng và trung thành với CNXH. Trên cơ sở được trang bị thế
giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ giúp họ
có định hướng đúng đắn trong mọi hoạt động nghiên cứu của mình, góp phần xây dựng
những nhân tố XHCN trong việc phát triển KH&CN Việt Nam.
Năm là, thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng và hội thảo khoa học cho
đội ngũ trí thức.
Lượng tri thức mà con người sản sinh ra hiện nay tăng theo cấp số nhân, nếu
không nhanh chóng tiếp thu những tri thức mới chúng ta sẽ ngày càng bị lạc hậu. Để
nâng cao trình độ, bản thân đội ngũ thí thức thuộc Liên hiệp Hội cần không ngừng tự bổ
sung kiến thức. Ngoài ra, việc mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng là rất cần thiết và nó cần
nhân rộng ở các Hội ngành với nhiều hình thức, nội dung phong phú.
Các cuộc hội thảo khoa học là dịp tốt nhất để đội ngũ trí thức nâng cao trình độ
của mình. Để đạt hiệu quả cao, ngoài tăng số lượng hội thảo riêng, mỗi Hội ngành cần
mở rộng hình thức liên kết trao đổi khoa học giữa các ngành trong một số lĩnh vực. Trí
thức Liên hiệp Hội có lợi thế là tập trung nhiều ngành khoa học khác nhau, do đó rất
thuận lợi cho việc trao đổi, hội thảo khoa học mang tính liên ngành. Hoạt động này vừa
nhằm bổ sung, hoàn thiện trí thức, hiểu biết của đội ngũ trí thức, đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế khách quan hiện nay, đó là, để giải quyết những vấn đề lớn, đòi hỏi phải
có sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực.
Một trong những hoạt động cần được tăng cường hơn nữa là cử các đại biểu
tham gia các hội thảo khoa học của các tổ chức, các nước khác trên thế giới, và mời
các chuyên gia, các nhà khoa học có trình độ cao ở các nước đến tham dự các hội
thảo trong nước. Sự trao đổi đó không chỉ có ý nghĩa về ngoại giao, hợp tác hữu
nghị, mà đó còn là cơ hội tốt để tiếp nhận những kinh nghiệm, tri thức KH&CN tiên
tiến trên thế giới để nâng cao trình độ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội hiện
nay.
3.2.2. Nhóm giải pháp về thu hút, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội
Một là, về công tác phát triển hội viên.
Hiện còn khá nhiều trí thức khoa học và kỹ thuật trong và ngoài nước (Việt Kiều)
chưa được tập hợp vào Liên hiệp Hội. Để thu hút lực lượng này cần tập trung giải quyết
một số vấn đề cơ bản sau:
- Tiêu chí kết nạp hội viên nên theo hướng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi để trí
thức có thể gia nhập.
+ Yêu cầu về trình độ, là một tiêu chí quan trọng đảm bảo yêu cầu trong lao động
sáng tạo của trí thức. Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung hoạt động của mỗi Hội ngành và
căn cứ vào thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc ngành đó mà có những tiêu chí sao cho
hợp lý, không nên quy định trình độ quá cao so với mặt bằng và khả năng đáp ứng của trí
thức.
+ Yêu cầu về độ tuổi,. không nên giới hạn tuổi của các thành viên trong Liên
hiệp Hội. Mặc dù trí thức trẻ còn hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, song ở họ có ưu thế
là sức trẻ, năng động, khả năng thích ứng với cái mới nhanh, bản thân họ được tiếp thu
những tri thức hiện đại, có tâm huyết và mong muốn đóng góp cho sự nghiệp phát triển
đất nước. Nếu tập hợp được, đội ngũ này không những sẽ là nguồn kế cận cần thiết mà
còn khắc phục được những hạn chế do tuổi cao mang lại.
Mặt khác, cần từng bước thu hút sinh viên tham gia từng bước vào các hoạt động
của Liên hiệp Hội. Sinh viên chưa phải là trí thức nhưng nếu biết khơi dậy sự sáng tạo
của lực lượng này sớm, sẽ kích thích sự say mê đi vào nghiên cứu khoa học - công việc
mà hiện nay thế hệ trẻ đang ngại đi theo.
Vì vậy, để phục vụ cho chiến lược phát triển đội ngũ trí thức lâu dài, Liên hiệp
Hội cần liên kết với một số trường đại học tổ chức những phong trào sinh viên nghiên
cứu khoa học gắn liền với hoạt động nghiên cứu của Liên hiệp Hội. Thông qua đó giới
thiệu cho thế hệ trẻ một môi trường khoa học mở rộng, hướng những sinh viên yêu thích
nghiên cứu khoa học sau khi tốt nghiệp tham gia vào Liên hiệp Hội.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội ngành Trung ương.
Điều lệ không khắt khe, điều kiện làm việc thuận lợi, nhưng nếu hoạt động không
hấp dẫn, không tạo được môi trường khoa học thực sự thì cũng không thể thu hút được trí
thức tham gia, nhất là với một tổ chức mang tính tự nguyện như Liên hiệp Hội và các Hội
ngành Trung ương.
Hiện nay có một số Hội hoạt động còn mờ nhạt, mang tính hình thức, ít có tác
dụng thiết thực, tổ chức lỏng lẻo, nội dung hoạt động không phong phú… là nguyên nhân
khiến hội viên thiếu gắn bó và không tạo được sức hút đối với trí thức KH&CN ngoài
Hội. Để khắc phục tình trạng này, cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Đổi mới nội dung hoạt động theo hướng đa dạng, phong phú, phù hợp với đòi
hỏi của sự phát kinh tế - xã hội và nhu cầu của hội viên. Đặc biệt là công tác nghiên cứu,
ứng dụng khoa học - kỹ thuật cần bám sát thực tiễn, không ngừng mở rộng quy mô
nghiên cứu, kích thích sự say mê khám phá ra những chân lý mới trong khoa học. Hàng
năm, thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi chuyên đề, thông tin khoa học mới và chọn
một số vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra làm nội dung cho các hội thảo khoa học.
+ Bên cạnh đó, cũng cần phát huy lợi thế về đa ngành trong việc liên kết với các
Hội ngành khác để trao đổi học thuật. Việc duy trì sinh hoạt đều đặn và theo nhiều chủ đề
thiết thực sẽ có tác dụng gắn kết các thành viên và thu hút được nhiều hội viên mới tham
gia.
+ Để có thể thu hút trí thức tham gia đông đảo vào các hoạt động của Liên hiệp
Hội, cần mở rộng phạm vi hoạt động đến khắp các vùng miền, lĩnh vực của đời sống xã
hội với nhiều nội dung mới, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
+ Dân chủ hóa mọi hoạt động của các Hội ngành cũng như của cơ quan trung
ương Liên hiệp Hội nhằm thu hút được sự tham gia góp ý kiến của nhiều hội viên, nhất là
trong việc tổ chức, xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội. Điều này sẽ tạo
ra sức hút mạnh mẽ đối với trí thức.
+ Xây dựng cơ chế quản lý các thông tin liên quan đến hội viên đảm bảo tính
chính xác và luôn cập nhật. Nếu tổ chức quá lỏng lẻo không chỉ tạo ra tâm lý thiếu sự gắn
kết giữa hội viên với Trung ương Hội, giữa các hội viên với nhau mà nó còn hạn chế việc
huy động nguồn lực trí tuệ khi cần thiết. Hiện nay, Liên hiệp Hội đã có mạng nội bộ
(LAN) nhưng việc cập nhật thông tin của các Hội còn chưa đầy đủ và thiếu tính thống
nhất. Theo chúng tôi, Liên hiệp Hội không quản lý về mặt hành chính đối với các Hội
thành viên, nhưng cũng cần có quy chế bắt buộc báo cáo những thông tin cần thiết về số
lượng, trình độ, tuổi, sở trường…và một số hoạt động tiêu biểu của hội viên theo những
mẫu thống nhất, định kỳ hàng năm.
- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục hành chính để trí thức là
người Việt Nam ở nước ngoài có thể dễ dàng về nước và đóng góp xây dựng quê hương.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, nước ta cần phải dỡ bỏ những hàng
rào hành chính để thu hút đầu tư của nước ngoài. Trí thức Việt kiều, trước hết họ cũng
như những đối tác nước ngoài mà chúng ta đang thu hút. Mặt khác, họ là những người
mong muốn đóng góp sức mình cho dân tộc, tính hướng về cội nguồn tích cực này rất cần
được sự ưu tiên, khuyến khích đặc biệt của Nhà nước.
Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay rất cần những chuyên gia giỏi trong
các lĩnh vực KH&CN. Chính vì vậy, hơn 30 vạn trí thức Việt kiều là lực lượng có tiềm
năng trí tuệ lớn có khả năng đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc
hướng hoạt động của đội ngũ này về quê hương vừa phù hợp với chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc, vừa phù hợp với chủ trương, chính sách tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài để phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, đơn giản hóa thủ tục hành
chính đối với trí thức Việt kiều khi tham gia Liên hiệp Hội là rất cần thiết.
Hai là, về sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Đây là lực lượng giàu tiềm năng trí tuệ, nhưng trong thực tế việc khai thác và sử
dụng còn đạt hiệu quả thấp. Một mặt, do chưa có sự nghiên cứu đánh giá đúng trình độ,
năng lực của đội ngũ này. Mặt khác, xã hội nói chung và lãnh đạo các cấp nói riêng còn
chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Để nguồn lực "chất xám" này không bị lãng phí, trước tiên cần phải thực hiện
những giải pháp sau:
- Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội đến các cấp lãnh đạo, cơ quan, ban, ngành và đoàn thể từ Trung
ương đến địa phương. Coi Liên hiệp Hội thực sự là một tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp Hội có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Tổ chức nghiên cứu đánh giá đúng năng lực, trình độ, chất lượng của trí thức
thuộc Liên hiệp Hội, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ để từ đó có cơ sở cho việc
đào tạo và sử dụng. Việc đánh giá chất lượng của đội ngũ này phải hết sức khách quan,
khoa học.
- Khi đã đánh giá đúng chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thì
việc sử dụng phải trên cơ sở tôn trọng, coi trọng năng lực chuyên môn, sử dụng đúng
người, đúng việc. Giao nhiệm vụ phù hợp, tương xứng với khả năng, trình độ. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước cần tạo môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ ưu đãi về vật chất
và tinh thần xứng đáng.
- Việc sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần vận dụng bài học dùng
trí thức của chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là phải tin tưởng và trọng dụng trí thức. Không nên
quá khắt khe về nguồn gốc xuất thân, quá khứ... để bỏ lỡ nhân tài. Hiện nay việc giao
nhiệm vụ cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn dè dặt, chưa tương xứng với tiềm
năng của Liên hiệp Hội. Đảng và Nhà nước ta cần phải có chính sách mạnh dạn tin dùng,
giao nhiệm vụ ngang tầm với vị trí, vai trò cũng như khả năng đáp ứng của đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội.
Ba là, về chế độ và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội.
Việc đãi ngộ xứng đáng đối với trí thức là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy tinh thần tích cực trong lao động sáng tạo. Mặc dù Điều lệ của Liên hiệp Hội đã
khẳng định: Mục tiêu hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội không vì lợi
nhuận. Song cũng cần phải có một khoản kinh phí nhất định - điều kiện cần để các hoạt
động nhằm phát triển KH&CN, phục vụ đất nước được thực hiện.
Những năm qua, cùng với ngân sách Nhà nước chi cho các đề tài, dự án mà đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội tham gia, nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu huy động
sự đóng góp, tài trợ của hội viên và các tổ chức nước ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế
nước ta hiện nay, chế độ đãi ngộ đối với trí thức thuộc Liên hiệp Hội phải cân đối với các
chính sách xã hội khác, trên cơ sở phù hợp khả năng đáp ứng của đất nước. Chúng ta
không thể thực hiện ngang bằng với các nước phát triển, nhưng đối với từng lĩnh vực,
công trình, cá nhân cụ thể rất cần phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng về vật chất, tinh thần
tương xứng với giá trị và đóng góp mà họ đã cống hiến. Tuyệt đối tránh sự cào bằng, chia
đều giữa thành viên. Để có chính sách đúng đắn đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội, Đảng và Nhà nước cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Khuyến khích thu nhập chính đáng bằng chất xám
Một thực tế hiện nay, nhiều nhà khoa học không thể sống bằng khoa học, số những
người suốt đời giành hết tâm huyết, công sức cho khoa học phần lớn rất nghèo, số còn lại
phải làm thêm công việc khác để đảm bảo cuộc sống. Nhiều công trình khoa học sau khi
nghiệm thu bị "bỏ quên" trong "ngăn kéo", điều này không những gây lãng phí chất xám mà
nguy hại hơn nó làm giảm bớt sự hứng thú, say mê sáng tạo của các nhà khoa học. Không
phải là những công trình này không có tính ứng dụng, mà chủ yếu do không có kinh phí đầu
tư, xã hội có nhu cầu nhưng chưa được đầu tư để ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Do vậy
xuất hiện nhiều bất cập, một mặt kết quả nghiên cứu khoa học cất vào "ngăn kéo", mặt khác
nước ta phải nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài với giá rất cao.
Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần thực hiện nghiêm quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sở hữu công nghiệp và tác giả, cần nhanh chóng xây dựng thị trường
KH&CN. Thông qua thị trường này, các kết quả nghiên cứu khoa học, những phát minh,
sáng chế được thực hiện trao đổi ngang giá, giúp cho các nhà khoa học thuộc Liên hiệp
Hội có thêm thu nhập chính đáng từ lao động của mình.
Mặt khác, khuyến khích sự liên kết giữa nhà khoa học với nhà sản xuất cũng là
một phương pháp tăng thêm thu nhập cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Trên cơ
sở những yêu cầu của nhà sản xuất, nhà khoa học thực hiện việc nghiên cứu theo đơn đặt
hàng. Thực hiện tốt công tác này, Nhà nước vừa bớt được gánh nặng về kinh phí, đồng
thời nguồn thu nhập của đội ngũ trí thức cũng được đảm bảo, giúp họ yên tâm tập trung
cho nghiên cứu khoa học.
- Đảm bảo chế độ khen thưởng hợp lý.
Đối với trí thức, ngoài những lợi ích vật chất, họ rất cần có những khích lệ về
tinh thần. Họ coi trọng sự tôn vinh của xã hội và Nhà nước cho những giá trị khoa học
mà họ cống hiến.
Chế độ khen thưởng ở đây không nhất thiết là sự bù đắp lượng giá trị ngang với
giá trị kinh tế mà công trình đó mang lại, mà chủ yếu nhằm khuyến khích, ghi nhận
những công trình có đóng góp lớn cho sự phát triển chung của đất nước. Thưởng (bằng
hiện vật hay tiền) còn có ý nghĩa đem lại điều kiện vật chất, kinh tế cho các nhà khoa
học. Mặt khác, chế độ khen thưởng, tôn vinh còn có tác dụng khơi dậy mọi nguồn lực
sáng tạo trong nhân dân, đối với trí thức càng có thêm động lực để lao động sáng tạo
khoa học.
Đối với những trí thức tài năng và những nhà khoa học đầu ngành của Liên hiệp
Hội, Nhà nước cần phải có chế độ ưu đãi, khen thưởng đặc biệt. Sự ưu đãi đó phải căn cứ
vào hiệu quả, chất lượng các công trình, những giá trị khoa học mà họ mang lại, tùy theo
mức độ hiệu quả của công trình nghiên cứu, mà có chế độ thưởng hay ưu đãi thỏa đáng.
- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến lợi ích tinh thần của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp Hội.
Đối với người trí thức nói chung, đôi khi nhu cầu tinh thần lại lớn hơn nhu cầu về
vật chất, họ cần được xã hội, Đảng và Nhà nước tôn vinh, coi trọng những thành quả làm
ra. Nhất là đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, họ nghiên cứu khoa học và lao động
sáng tạo không vì động cơ vật chất, kinh tế cá nhân đơn thuần, mà vì mục tiêu cao hơn là
lợi ích của cộng đồng, xã hội và của dân tộc, là trách nhiệm của nhà khoa học đối với đất
nước, công cuộc xây dựng CNXH, xuất phát từ lòng say mê khoa học và tinh thần yêu
nước.
Quan tâm đến lợi ích tinh thần, trước hết phải đánh giá đúng, công bằng kết quả
lao động và sự đóng góp của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước. Họ là những nhà khoa học có tâm huyết lớn đối với đất nước,
song họ cần đất nước đánh giá khách quan, trung thực về mình. Bên cạnh những đãi ngộ
vật chất, Nhà nước cần phải có chế độ tôn vinh các nhà khoa học, các tổ chức, tập thể
thuộc Liên hiệp Hội có đóng góp lớn thông qua việc trao tặng các giải thưởng, phong
tặng các danh hiệu cao quý như: giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước về
KH&CN; giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam..., danh hiệu Anh hùng lao động,... Đó
vừa là sự ghi nhận của xã hội đối với những thành tựu và cống hiến của các nhà khoa
học, vừa thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội.
3.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự
quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước có tác động chi phối hoạt
động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Những năm qua, Liên hiệp Hội và các hội
thành viên đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trước tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, cần phải tăng cường hơn
nữa vai trò lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ này,
góp phần định hướng và tạo điều kiện để họ hoạt động có hiệu quả phục vụ nhiều hơn
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc thông qua những quan điểm, chủ trương,
đường lối, Đảng định hướng cho hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Trên cơ sở những Nghị quyết, đường lối trên, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội triển khai
quán triệt đến các chi bộ, đảng viên, từ đó xác định phương hướng, kế hoạch hành động
cụ thể của từng đơn vị thành viên và của cả Liên hiệp Hội. Những năm qua, Đảng Đoàn
của Liên hiệp Hội đã bước đầu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong giai đoạn hiện
nay, các thế lực thù địch đang ra sức tìm cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta, với những thành quả và tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, chúng lợi dụng tuyên truyền tư tưởng phản động, đi ngược lại đường lối, chủ trương
của Đảng. Mặt khác, sự tác động của toàn cầu hóa dẫn đến nguy cơ chệch hướng đối với
sự phát triển của đất nước. Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức là
nhiệm vụ cấp thiết. Điều này không có nghĩa là Đảng sẽ quản lý, can thiệp trực tiếp vào
các hoạt động của Liên hiệp Hội, mà nhằm bồi dưỡng, tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng sâu rộng đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, từ đó triển khai có
hiệu quả.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trước hết Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội
phải tổ chức quán triệt sâu rộng và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt
là về KH&CN. Việc nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và những hoạt động khác
của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đều nhằm cụ thể hóa những chủ trương của
Đảng, thực hiện những mục tiêu của Đảng đã đề ra. Bên cạnh đó, Đảng Đoàn cần nâng
cao công tác phát triển Đảng trong Liên hiệp Hội. Mở rộng hoạt động đến các hội ngành
Trung ương, Liên hiệp Hội địa phương. Thông qua các chi bộ, đảng viên, thực hiện sự
lãnh đạo đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Hai là, đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội.
Để đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội được độc lập, khách quan trong hoạt
động, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Nhà nước
không nên thực hiện quản lý theo hình thức giao các Hội ngành về các Bộ liên quan quản
lý, mà chỉ nên quản lý bằng pháp luật, sớm ban hành Luật về Hội để các Liên hiệp Hội và
các Hội thành viên thống nhất hoạt động. Nếu giao các Hội ngành cho các Bộ quản lý sẽ
có nhiều bất cập :
Thứ nhất, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội sẽ ít tính khách quan,
hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không còn độc lập, mà phụ thuộc
vào cơ chế "xin - cho" giữa Bộ quản lý và Hội ngành.
Thứ hai, các bộ hiện nay đang có chủ trương cải cách hành chính, tránh tập trung
quan liêu, tinh giản gọn nhẹ bộ máy hoạt động, nếu quản lý thêm hội ngành và với số
lượng hội viên đông thì khó quản lý hết và không thể sát sao được. Do vậy, các hội này
nên giao cho Liên hiệp Hội quản lý, thông qua Liên hiệp Hội và pháp luật, Nhà nước
thực hiện quản lý, giám sát đối với hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Trên đây là những giải pháp cơ bản cần thực hiện trong quá trình xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ này. Việc thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi phải thực hiện
thống nhất, đồng bộ và có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như những nỗ lực
của cơ quan trung ương Liên hiệp Hội và đội ngũ trí thức. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước
cần đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn ở trong nước và quốc
tế, có sự đãi ngộ và tôn trọng xứng đáng để phát huy được nguồn lực trí tuệ to lớn của đội
ngũ trí thức trong Liên hiệp Hội vào sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Kết luận chương 3
Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là yêu cầu
cấp thiết của việc phát huy nguồn lực trí tuệ trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước hiện nay. Để thực hiện, trước hết Đảng và Nhà nước phải nhận thức đúng đắn về vị
trí, vai trò của đội ngũ này, coi đây là lực lượng quan trọng góp phần đem lại thắng lợi
cho sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay. Các giải pháp đưa ra phải trên cơ sở lập
trường của giai cấp công nhân, học tập những kinh nghiệm về việc đào tạo và sử dụng
nhân tài trong lịch sử dân tộc và một số nước phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt cần nắm vững thực trạng về đội ngũ này.
Để góp phần khai thác tối đa nguồn lực trí tuệ của Liên hiệp Hội, Đảng và Nhà
nước cần phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau, trong đó cơ bản là ba nhóm giải
pháp chính: Nhóm giải pháp về GD&ĐT, nhóm giải pháp về thu hút, sử dụng và chế độ
đãi ngộ, và nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự quản lý
của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Đồng thời, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội đạt hiệu quả cao, ngoài việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong mỗi giai
đoạn cụ thể cần có những nghiên cứu, đánh giá thực trạng và những yêu cầu đặt ra đối
với đội ngũ này, từ đó có những giải pháp cụ thể.
Kết luận
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa mọi mặt của đời sống xã hội,
khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy, việc sản sinh, truyền
bá và ứng dụng những tri thức khoa học vào thực tiễn giữ một vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đối với nước ta, điều đó có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi của quá trình CNH, HĐH và sự nghiệp xây dựng CNXH.
Cùng với những tiến bộ của KH&CN, đội ngũ trí thức Việt Nam có những bước
phát triển nhất định: số lượng, chất lượng không ngừng tăng cao, cơ cấu đa dạng và
phong phú. Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trí thức không chỉ cung cấp những
luận cứ khoa học cho việc xây dựng những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, tuyên truyền, đưa những nội dung này vào cuộc sống, với vai trò chủ thể,
họ chính là lực lượng trực tiếp, đi đầu thực hiện các nội dung của sự nghiệp đó. Thông
qua chức năng truyền bá, phổ biến kiến thức, đội ngũ trí thức đã góp phần chủ yếu đào
tạo nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Những đóng góp
thiết thực trên đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của đội ngũ này trong khối liên
minh công nhân - nông dân - trí thức.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là
một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam. Ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ này
còn có đặc điểm riêng là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức
KH&CN Việt Nam và là lực lượng trí thức chuyên ngành lớn nhất nước ta hiện nay.
Với một số lượng khá đông đảo gồm hơn 40 vạn hội viên (chiếm 22% tổng số trí thức
Việt Nam), trong đó riêng các Hội ngành Trung ương thu hút được khoảng hơn 20 vạn
hội viên, cơ cấu ngành nghề đa dạng, phong phú với 56 Hội ngành Trung ương, thuộc
ba lĩnh vực chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học công
nghệ. Lực lượng này thực sự là một nguồn lực trí tuệ quý báu của đất nước.
Những thành quả trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hoạt động
hợp tác quốc tế về khoa học của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong những năm
qua không chỉ góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, mà còn tạo ra những
tiền đề quan trọng cho việc tiếp thu những tiến bộ KH&CN trên thế giới vào nước ta.
Ngoài ra, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện, giám định xã hội và các
hoạt động chính trị xã hội khác, các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội đã tham mưu, góp
ý kiến cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh,
cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chiến lược, chính
sách và nhiều đề án lớn để phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện CNH,
HĐH đất nước.
Thực hiện chức năng cơ bản là truyền bá, phổ biến kiến thức khoa học và công
nghệ, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xã hội
hóa giáo dục, phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo, đưa những tiến bộ khoa học -
kỹ thuật vào phục vụ sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, trong quá trình hoạt động, đội ngũ này
vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: Số lượng, chất lượng chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; việc thu hút trí thức là Việt kiều còn
gặp nhiều khó khăn; không cân đối trong cơ cấu ngành nghề, giới tính, lứa tuổi và chưa
phát huy hết vai trò, tiềm năng sẵn có của đội ngũ trí thức trong Liên hiệp Hội.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức,
kế thừa truyền thống trọng dụng "hiền tài" của dân tộc ta và tiếp thu kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới về đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức, đồng thời căn cứ vào thực
trạng và những yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, luận văn đã đề
xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Để những giải pháp này thực hiện có hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống, cần
phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ từ nhiều ngành, nhiều địa phương trên quan điểm
coi việc đầu tư cho phát triển con người là đầu tư cho chiến lược phát triển nguồn nhân
lực lâu dài, bền vững của đất nước. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước liên
quan đến phát triển KH&CN nói chung, trí thức KH&CN nói riêng phải thực sự tương
xứng với vị trí là "quốc sách hàng đầu" trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện
nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trong lĩnh vực
khoa giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch (1998), Trí thức trong công cuộc đổi mới đất
nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Khoa học và Công nghệ quốc gia (2004),
Giáo dục và Đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Tổng luận, (4).
4. Bộ Nội vụ (2003), Công văn số 1980/BNV- TCPCP của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 25/8
về việc tạo cơ chế chính sách để Liên hiệp Hội Trung ương và Liên hiệp Hội tỉnh
hoạt động có hiệu quả, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 27/2003/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính cho
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01/8 của Thủ tướng Chính phủ
về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
7. Chính phủ (2002), Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01 của Thủ tướng Chính
phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội
khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7 của Chính phủ quy định
về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.
9. Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học - Từ điển (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb Sự
thật, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (1991), "Để cho Khoa học và Công nghệ trở thành sức thúc
đẩy sự phát triển của đất nước ta", Triết học, (2). tr. 3-6.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng Chủ biên) (2002),
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Phạm Tất Dong (Chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Tất Dong (Chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Tất Dong (2003), "Tác động của kinh tế tri thức và sự phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam", Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (8), tr. 10-12.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa
Triết học (2003), Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. "Đại hội Đại biểu lần thứ VI - Đảng Bộ cơ quan Liên hiệp Hội",
vusta.org.vn, (ngày 01/09/2005).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11/11 về đẩy mạnh
hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 145-TB/TW ngày 09/7 của
Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 45-CT/TW đối với Liên
hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm
2010, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Dự thảo đề cương các Văn kiện trình Đại hội X,
Hà Nội.
30. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Ngọc Hiên (2003), "Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển đội ngũ trí
thức và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam", Tin hoạt động
các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (4), tr. 15-17.
32. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Những quan điểm cơ bản của
các nhà kinh điển về tầng lớp trí thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu
Đề tài cấp bộ 1999-2000, Hà Nội.
33. Đặng Hữu (2000), "Phát huy đội ngũ trí thức trẻ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa", Xây dựng Đảng, (11), tr. 17-19.
34. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta
hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
35. Phan Thanh Khôi (1996), "Những bài học từ quan điểm của V.I.Lênin về trí thức",
Thông tin khoa học xã hội, (4), tr. 3-8.
36. Phan Thanh Khôi (1998), Đội ngũ trí thức, chuyên gia và cán bộ quản lý khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề tài KX05. 03, Hà Nội.
37. Phan Thanh Khôi (1998), "Luận điểm về trí thức trong "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản" và người trí thức hôm nay", Quốc phòng toàn dân, (2), tr.26-28.
38. Phan Thanh Khôi (1999), "Trí thức trong khối liên minh công-nông-trí vì sự
nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí cộng sản (22), tr.34-38.
39. Phan Thanh Khôi (2000), "Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện nay", Thông
tin lý luận, (4), tr.17-19.
40. Phan Thanh Khôi (2000), "Quan điểm đối với trí thức trong thời kỳ cải cách, mở
cửa ở Trung Quốc", Nghiên cứu lý luận, (10), tr.52-56.
41. Phan Thanh Khôi (2001), "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí
thức", Lịch sử Đảng, (2), tr 4-8.
42. Phan Thanh Khôi (2002), "Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội",
Khoa học Chính trị (1), tr.33-38, 62.
43. Phan Thanh Khôi (2005), "Trí thức hóa công nhân"- Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn", Lao động và công đoàn, (323 + 324), tr.17-19,51.
44. Kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa "rút ngắn" ở Việt Nam (2003),
Hội thảo khoa học, Hà Nội.
45. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
47. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (1993), Mười năm xây dựng và
hoạt động, Hà Nội.
48. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhiệm kỳ 1993 - 1998, Hà Nội.
49. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Hội thảo: "Đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của các Hội khoa học và kỹ thuật Trung
ương", Hà Nội.
50. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Tài liệu Hội thảo khoa
học triển khai Quyết định 22/2002/QĐ-TTg về tư vấn, phản biện và giám định
xã hội, Hà Nội.
51. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Hội
đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ I V, Hà Nội.
52. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị Hội
đồng trung ương lần thứ năm, nhiệm kỳ I V, Hà Nội.
53. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Tọa đàm Đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của cơ quan thường trực Liên hiệp Hội, Hà
Nội.
54. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Báo cáo của Hội đồng
Trung ương tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
55. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ năm nhiệm kỳ 2004-2009, Hà Nội.
56. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2005), Công văn số 516/CV-
LHH ngày 09 tháng 05 về việc "Góp ý bổ sung và hoàn thiện Nghị định 88/CP
về hoạt động tổ chức và quản lý Hội".
57. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đặng Thị Mai (2003), Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đình Minh (2003), Phát huy vai trò nguồn lực trí thức Khoa học xã hội và
nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
64. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Chu Tuấn Nhạ (2001), "Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và
động lực của sự phát triển", Tạp chí Cộng sản, (13) tr.17-22.
66. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Sơn (2001), Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
69. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay -
Tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Nxb Lao động - Xã hội.
71. Nguyễn Duy Thông (chủ biên) (1984), Chủ nghĩa xã hội và trí thức, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
72. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học, công nghệ với nhận thức, biến đổi thế giới
và con người: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
73. "Trí thức kiều bào bàn việc xây dựng quê hương",Http: //www.vusta.org.vn, (17/8/2005)
74. Nguyễn Thanh Tuấn (1991), "Về nội dung phạm trù trí thức", Triết học, (2), tr.62-
64.
75. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
76. Trịnh Quốc Tuấn (1995), "Quan điểm của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa", Nghiên cứu lý luận, (4), tr.7-11.
77. mục lục
Trang
mở đầu 1
Chương 1: đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ
thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam
hiện nay
7
1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ 7
này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam.
22
Chương 2: Thực trạng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
31
2.1. Khái quát về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
31
2.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các
hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
38
2.3. Xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
67
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
77
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam
77
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
84
Kết luận 99
Danh mục tài liệu tham khảo 104
Phụ lục 109
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.pdf