Là một tổ chức tín dụng đặc thù, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với nhiệm
vụ chủ yếu là chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng
chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời và được tổ chức hoạt động theo những
chuẩn mực của một tổ chức tín dụng có hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn và phát triển
đúng hướng để Ngân hàng thực sự trở thành một công cụ chính sách quan trọng, bảo đảm
tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
85 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2772 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng, Nhà nước ta đối với
người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; nêu những gương điển hình, nhân rộng các mô hình làm
giàu, sản xuất - kinh doanh giỏi, mô hình xói đói giảm nghèo tiêu biểu…nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm cao về xói đói giảm nghèo trong toàn xã hội. Trước
hết công tác xói đói giảm nghèo phải được đặt thành nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu
trong chiến lượt phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, đưa vào Nghị quyết Hội
đồng nhân dân các cấp hàng năm những chỉ tiêu cụ thể về xói đói giảm nghèo của
từng địa phương để phấn đấu thực hiện. Đồng thời làm tốt công tác vận động, tuyên
truyền để bản thân người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự thân vươn lên thoát nghèo,
xói bỏ tư tưởng trông chờ vào bao cấp của Nhà nước, làm cho công cuộc xói đói giảm
nghèo trở thành phong trào sâu rộng trong nhân dân, có sự gắn kết trách nhiệm trong
gia đình, họ tộc, thôn bản, khối phố. Làm được như vậy thì công tác xói đói giảm
nghèo mới đạt hiệu quả và mang tính bền vững, mới thật sự làm thay đổi bộ mặt nông
thôn, thay đổi cuộc sống của người dân.
3.2.1.2 Triển khai và thực hiện tốt các chính sách xã hội nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hộ
nghèo, vùng nghèo phát triển
- Chính sách hỗ trợ về y tế:
Bằng nguồn vốn ngân sách và huy động từ các nguồn lực khác trong xã hội để mua
và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho số người nghèo, thực hiện việc khám chữa bệnh miễn phí cho
người nghèo dưới nhiều hình thức, đảm bảo người nghèo được chăm sóc sức khoẻ khi ốm
đau, có chính sách cho hộ nghèo vay vốn ưu đãi để xây dựng công trình nước sạch, vệ sinh
nông thôn.
- Chính sách hỗ trợ về giáo dục:
Tiếp tục thực hiện miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp trong học tập, hỗ trợ
vở, viết, sách giáo khoa và xét trợ cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo học khá giỏi
theo Quyết định 1121/QĐ-TTg và quyết định 70/1998/QDD-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, vận động và khuyến kích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, giúp đỡ học sinh, sinh viên gia
đình nghèo trong học tập cũng như trong tuyển chọn cán bộ…
Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ, cải thiện nhà ở đối với hộ nghèo, hộ
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trợ giúp đối tượng yếu thế có khả năng lao động được học
nghề, tìm việc làm để đảm bảo cuộc sống, trợ cấp thường xuyên cho những đối tượng
thuộc diện cứu trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Triển khai tốt các chương trình, dự án về định canh, định cư, phân bổ và quy hoạch
hợp lý các vùng dân cư gắn liền với phát triển giao thông, trường học, trạm xá để ổn định
cuộc sống, sinh hoạt và sản xuất, khai thác tiềm năng, thế mạnh vùng miền núi phía Tây
của tỉnh, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng này.
- Tổ chức triển khai thực hiện tốt kế hoạch hành động về dân số - gia đình và trẻ em,
đảm bảo đạt các mục tiêu để ra về giảm tỷ lệ tăng dân số, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên.
- Thực hiện chủ trương xói đói giảm nghèo trên cơ sở đẩy mạnh cơ cấu kinh tế, cơ
cấu cây trồng, con vật nuôi, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng các loại hình kinh tế vườn đồi, vườn rừng, kinh tế trang
trại có hiệu quả, tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học kỷ thuật vào sản xuất, phát
triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống ở nông thôn,
góp phần thực hiện xói đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng tỷ lệ
thời gian sử dụng lao động ở nông thôn và tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù
hợp với cơ cấu kinh tế.
- Quy hoạch và xây dựng cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề
và dịch vụ việc làm, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, đảm bảo đến năm 2010 có 35% lao động qua đào tạo, trong
đó 29% qua đào tạo nghề.
- Giải quyết vấn đề lao động dư thừa, tạo việc làm cho người lao động là một trong
những nhu cầu bức bách của tỉnh hiện nay và đây cũng là giải pháp xói đói giảm nghèo.
Do vậy, ngoài việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động về
tài chính, cơ sở vật chất, thuế ưu đãi, giảm các khoản người lao động phải đóng góp...
Thành lập công ty chuyên doanh xuất khẩu lao động để cung ứng lao động xuất khẩu, tăng
cường đào tạo công nhân có tay nghề đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lao động.
3.2.1.3. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn
Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn là nhân tố có ý nghĩa quan trọng,
quyết định đến tiến trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong những năm qua
tỉnh Quảng Nam đã coi trọng và chỉ đạo tích cực công tác quy hoạch và đầu tư phát triển
xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư tập trung đúng hướng, theo thứ tự ưu tiên các mục tiêu,
vùng quan trọng và bức xúc, nhất là khu vực nông thôn miền núi. Nhiều công trình xây
dựng cơ bản hình thành góp phần phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội, bộ mặt Quảng
Nam nói chung và vùng nông thôn nói riêng đang từng bước khởi sắc, tạo nên diện mạo
mới, góp phần tích cực xói đói giảm nghèo. Tuy nhiên việc đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Do vậy trong những năm đến cần ưu tiên vốn để phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu ở
nông thôn, trong đó chú trọng đầu tư cho các xã nghèo nằm ngoài chương trình 135 có tỷ
lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
3.2.1.4. Củng cố, xây dựng bộ máy tổ chức, cán bộ
* Về tổ chức bộ máy: Để chương trình được triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu
quả, cần phải thiết lập bộ máy tổ chức hoạt động điều hành chương trình từ tỉnh đến cơ sở.
ở tỉnh, huyện, thị xã thành lập Ban chỉ đạo do một Phó chủ tịch UBND cùng cấp làm
trưởng ban, bộ phận chuyên trách có thể từ 2 đến 3 cán bộ.
ở xã, phường, thị trấn thành lập Ban xói đói giảm nghèo, tuỳ theo tình hình từng
địa phương có thể bố trí một cán bộ làm chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm.
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo là tổ chức, hướng dẫn các địa phương làm tốt công tác
điều tra, xác định đúng thực trạng hộ đói nghèo của địa phương mình. Phối hợp với các cơ
quan chuyên môn nghiên cứu huy động nguồn lực, đề ra các chính sách, giải pháp về xói
đói giảm nghèo. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tạo nguồn, quản lý, sử dụng
quỹ xói đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu xói đói giảm nghèo của địa phương, nhất
là tổ chức lồng nghép công tác xói đói giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia
và an sinh xã hội.
* Về cán bộ: Đây là nhân tố đóng vai trò động lực quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội, xói đói giảm nghèo. Cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ có năng lực
thực tiễn, trình độ chuyên môn làm công tác xói đói giảm nghèo. Đồng thời có kế
hoạch bồi dưỡng, đào tạo về lý luận và kiến thức cơ bản về kinh tế - xã hội, xói đói
giảm nghèo để nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành chương trình của đội ngũ cán bộ
xã, phường, nhất là những cán bộ được phân công làm công tác xói đói giảm nghèo.
Đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa cần phải có chính sách cụ thể và đặc thù. Có chính
sách thoả đáng để nâng cao trách nhiệm và năng lực quản lý, điều hành, vận động nhân
dân của trưởng thôn; xây dựng cơ chế phối hợp giữa trưởng thôn và già làng để làm tốt
công tác quản lý và vận động nhân dân. Có chính sách tuyển dụng cán bộ trẻ, khoẻ, có
trình độ chuyên môn, kỷ thuật, có đạo đức, tâm huyết lên công tác ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa để vận động và hướng dẫn nhân dân cách làm ăn, nhằm thay đổi lối sống,
phương thức canh tác, bộ mặt nông thôn nơi đây, tiến tới giảm dần khoảng cách về thu
nhập giữa miền núi và miền xuôi.
3.2.2 Giải pháp thuộc về lĩnh vực hoạt động của ngân hàng
3.2.2.1. Giải pháp tăng trưỏng nguồn vốn một cách vững chắc nhằm mở rộng việc
cho vay đối với hộ gia đình nghèo
Theo Nghị định 78 của Chính phủ, nguồn vốn họat động của NHCSXH bao gồm các
nguồn sau: Vốn từ Ngân sách nhà nước, vốn huy động, vốn đi vay, vốn đóng góp tự
nguyện, vốn nhận uỷ thác, các nguồn vốn khác.
* Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước bao gồm vốn điều lệ, vốn của Chính phủ dành cho
chương trình, vốn của các cấp ngân sách và nguồn vốn ODA được Chính phủ giao.
Trong giai đoạn đầu thành lập, có chính sách ưu đãi lớn về lãi suất cho vay do đó nguồn
vốn hoạt động của Ngân hàng chủ yếu từ ngân sách nhà nước.
Muốn tăng trưởng nguồn vốn này đòi hỏi hằng năm nhà nước phải dành một khoản
chi nhất định trong các khoản chi ngân sách để tạo lập quỹ cho vay; thực hiện phương
châm Trung ương và Địa phương cùng làm, các cấp ngân sách hằng năm trên cơ sở tăng
thu, tiết kiệm chi để dành một lượng vốn cho chương trình. Đối với các địa phương có khả
năng về ngân sách có kế hoạch bổ sung thêm vốn uỷ thác cho NHCSXH cho vay theo các
chương trình dự án chỉ định của địa phương. Ngoài ra Chính phủ cần dành một phần
nguồn vốn tài trợ ODA của các tổ chức quốc tế (ODB, WB…) và của Chính phủ nước
ngoài để dành riêng hoặc ưu tiên bổ sung vốn cho NHCSXH.
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh nghèo nguồn thu ngân sách chưa đủ để chi trong
khi tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân chung cả nước do đó cần tiếp tục nhận được
nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, bên cạnh đó hằng năm ngân sách địa phương
cần phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng nguồn thu ngân sách địa phương để thiết lập
Quỹ cho vay hộ nghèo, giải quyết việc làm trên địa bàn. Trong điều kiện nguồn ngân sách
thấp có thể sử dụng phương pháp cấp bù lãi suất cho NHCSXH để thực hiện mục tiêu
chương trình giảm nghèo mà tỉnh nhà đề ra.
* Nguồn vốn huy động
Về tương lai đây là nguồn vốn huy động chủ yếu của NHCSXH. Đến 31/12/2005 nguồn
vốn huy động theo lãi suất thị trường của toàn ngành là 7.988 tỷ trong tổng nguồn vốn trên
16.300 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 49%. Do chưa có mạng lưới cơ sở vật chất, đặc biệt công tác thanh
toán để để tổ chức hoạt động vốn như các Ngân hàng thương mại, việc huy động phải phụ
thuộc vào kế hoạch cấp bù của ngân sách do đó khó có thể huy động vốn từ thị trường như các
Ngân hàng thương mại. Để huy động nguồn vốn cần phải có các giải pháp sau:
Bộ Tài chính cần nghiên cứu trình Chính phủ phát hành công trái vì người nghèo để tăng
nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách.
Hằng năm Ngân sách nhà nước cần bố trí chỉ tiêu cấp bù chênh lệch lãi suất cho
NHCSXH theo nguyên tắc năm sau cao hơn năm trước để chủ động trong huy động vốn và
cho vay.
Chính phủ nên quy định bảo hiểm xã hội, kho bạc nhà nước duy trì một số dư tiền gửi
tại NHCSXH để làm nguồn vốn vay, giảm cấp bù của ngân sách nhà nước.
Ngoài việc tập trung và tăng cường các nguồn vốn như phân tích ở trên còn phải
quan tâm đến việc khơi tăng các nguồn vốn như: nguồn vốn huy động theo lãi suất thị
trường nhưng theo một tỷ lệ nhất định hợp lý nhằm đảm bảo an toàn thanh toán cho toàn
hệ thống, bao gồm huy động từ tiết kiệm dân cư, các loại tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia
đình nghèo vay vốn ngân hàng dưới các hình thức tiết kiệm bắt buộc, tiết kiệm định kỳ,
tiết kiệm tự nguyện. Chủ yếu thực hiện việc huy động qua kênh phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu và hoạt động từ nguồn vốn vay tiết kiệm Bưu điện.Trước mắt cần tập trung huy
động vốn trong cộng đồng người nghèo, nếu bình quân mỗi tháng một người tiết kiệm từ
20 đến 30 ngàn đồng thì với 90.000 hộ vay, chi nhánh 1 năm có thể huy động được 27 tỷ
đồng, đồng thời tập cho người nghèo có thói quen để dành tiền tiết kiệm…
Bên cạnh đó còn có thể mở rộng hình thức huy động vốn thông qua việc khuyến
khích mở tài khoản; hình thức này có thể thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân
hoặc những người nghèo ở thị trấn, thị xã, thành phố có khả năng giao dịch thường xuyên
với ngân hàng hoặc có thu nhập thường xuyên như thu nhập tiền lương…
* Nguồn hình thành từ các tổ chức tín dụng khác
- Tiếp tục duy trì chính sách tiền gửi 2% số dư nguồn vốn huy động tại thời điểm 31
tháng 12 năm trước của các tổ chức tín dụng Nhà nước tại Ngân hàng Chính sách xã hội
theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với
người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nghiên cứu để mở rộng chính sách này đối
với tất cả các tổ chức tài chính, tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, coi đây là một
nghĩa vụ tham gia thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo của
Việt Nam.
* Vốn đi vay
- Ngân hàng Nhà nước thực hiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội được vay vốn
dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu và bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách xã hội
được vay vốn của các tổ chức quốc tế và của nước ngoài khi cần thiết.
* Nguồn vốn nhận tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
Ngoài nguồn vốn đóng góp bắt buộc của các tổ chức tín dụng Nhà nước, NHCSXH
có thể huy động nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức kinh tế, tài chính tín dụng và các cá nhân
kể cả trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn này được trích từ một phần vốn trong kinh
doanh hoặc nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để tài trợ theo các chương trình
nhân đạo, từ thiện hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Để khơi tăng được nguồn vốn này Ngân hàng Chính sách xã hội
cần phải:
- Thực hiện tốt việc cho vay hộ nghèo từ các nguồn vốn tài trợ theo các chương
trình, dự án của nước ngoài đang thực hiện như: dự án IFAD, RIDP Tuyên Quang; dự án
Phát triển vùng nước ngập mặn; KFW cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ; dự án Phát triển
ngành Lâm nghiệp…
- Phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể hữu quan xây dựng các chương trình, dự án
xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn có tính khả thi để thu hút nguồn tài
trợ trong và ngoài nước.
- Cùng với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức, hiệp hội trong nước kêu gọi và ký kết
các hiệp định vay vốn từ nước ngoài; chủ động xây dựng các chương trình, dự án để vận
động, thu hút nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài, thông qua việc đầu tư vốn vào các chương
trình, dự án thử nghiệm, tài trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên trong hệ thống NHCSXH.
- Tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá mối quan hệ, hợp tác trong và ngoài nước để có
thể tiếp cận và xúc tiến việc vận động, tranh thủ các nguồn tài trợ ưu đãi của nước ngoài.
Ngoài ra, để phát huy tốt vai trò hiệu quả vốn cho vay đối với hộ nghèo trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo, cần phải cơ cấu hợp lý giữa vốn dành để xây dựng cơ
sở hạ tầng (vốn do Ngân sách trung ương hoặc vốn do Ngân sách địa phương cấp
không hoàn lại), với vốn vay để hộ nghèo phát triển sản xuất, hợp lý cho từng vùng,
từng địa phương và như vậy tạo môi trường kinh tế phát triển theo xu hướng thị
trường, giúp người nghèo tiêu thụ sản phẩm làm ra thuận lợi, phát huy hiệu quả đồng
vốn. Nếu sử dụng nguồn vốn cho vay hộ nghèo đầu tư nhiều vào những vùng cơ sở hạ
tầng chưa phát triển, môi trường kinh tế thị trường khó khăn thì hiệu quả đồng vốn bị
hạn chế, nợ khó đòi nhiều, an toàn vốn sẽ kém hơn. Mặt khác cũng từ kinh nghiệm ở
Trung Quốc để gắn trách nhiệm địa phương cơ sở cùng với trung ương về nguồn vốn
xoá đói giảm nghèo nên quy định tỷ lệ phần trăm bắt buộc các địa phương phải tìm
giải pháp khai thác nguồn vốn tại chỗ, tăng cường phát huy nội lực góp phần thực
hiện có hiệu quả công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ chế tạo lập nguồn vốn chính thức cho NHCSXH
mà phụ thuộc vào nguồn cấp bù hàng năm của NSNN, với cơ chế như hiện nay nguồn vốn
này không ổn định vì phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của ngân sách hàng năm. Vì vậy,
cơ chế tạo vốn cho Ngân hàng cần tham khảo ở một số nước như đã nêu trên.
3.2.2.2. Giải pháp về hoạt động cho vay
Phạm vi cho vay của NHCSXH được quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày
04/0/2002 bao gồm: Hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng
vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị định 120/HDDBT, các đối tượng chính sách đi
lao động có thời hạn ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất - kinh doanh thuộc
hải đảo, khu vực II, III miền núi và các xã thuộc chương trình 135, các đối tượng khác khi
có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Đối tượng cho vay của NHCSXH tương đối rộng, đại bộ phận hộ nghèo và các đối
tượng chính sách đều cư trú ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi có môi trường
sản xuất kinh doanh không thuận lợi, lại chịu sự tác động lớn của diều kiện tự nhiên khắc
nghiệt. Chính vì vậy, để đồng vốn tín dụng đầu tư cho hộ nghèo và các đối tượng chính
sách khác phát huy được hiệu quả cả về kinh tế và xã hội, cần phải được tổ chức lồng ghép
với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội. Bởi lẽ việc hỗ trợ tài chính cho
hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua “con đường” tín dụng chỉ mới là
điều kiện “cần”, ví như trao cho họ “chiếc cần câu”, còn việc “câu” ở đâu và bằng cách
nào để “câu” được nhiều “cá”, đó là trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành, mà quan
trọng là vai trò của công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao công
nghệ, ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất - kinh doanh, hướng dẫn
cách làm ăn cho người nghèo và các đối tượng chính sách.
Cơ chế cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trước tiên nó phải
tuân theo nguyên tắc của tín dụng, nhưng đồng thời nó phải phù hợp với đặc điểm của khách
hàng là người nghèo và các đối tượng chính sách.
Giải pháp về cơ chế cho vay cụ thể như sau:
* Về phương thức cho vay
Tiếp tục duy trì, củng cố phương thức cho vay uỷ thác từng phần qua các tổ chức hội,
đoàn thể vì các tổ chức này đã có mạng lưới sẵn ở khắp các xã, phường, thôn, bản, vùng
sâu, vùng xa, cánh tay đắc lực giúp NHCS XH thực hiện có kết quả nhiệm vụ của Chính
Phủ giao. Với phương thức này Nhà nước không phải cấp kinh phí để mở rộng mạng lưới,
tăng thêm cán bộ nên có thể tiết kiệm được chi phí cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, để
nâng cao chất lượng hoạt động uỷ thác của các tổ chức chính trị - xã hội phải không ngừng
nâng cao công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ đoàn thể thực hiện công tác này. Bên
cạnh công tác đào tạo tập huấn cần xây dựng các mô hình thí điểm trình diễn để học tập
phổ biến kinh nghiệm giữa các tổ chức hội, đoàn thể thực hiện việc ủy thác cho vay, giữa
các địa phương trong toàn quốc.
* Về điều kiện cho vay
Để nguồn vốn vay có hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba nhà, NHCSXH
(đầu tư vốn), Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm (hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi,trồng
trọt) và các tổ chức hội đoàn thể (quản lý vốn vay, chuyển giao kỹ thuật…)giúp hộ nghèo
nắm vững kỹ thuật ngành nghề mà họ bỏ vốn đầu tư. Từ đó vốn đầu tư có hiệu quả hơn,
tăng thu nhập cho hộ nghèo, thời gian xoá đói giảm nghèo được rút ngắn hơn.
Để dự án tín dụng cho người nghèo có hiệu quả, đảm bảo sự giám sát của xã hội, của
cộng đồng đúng với mục tiêu của dự án thì việc điều tra, phân loại hộ nghèo tại các địa
phương thông qua việc củng cố Ban xoá đói giảm nghèo của xã, Huyện là việc làm rất
quan trọng và cần thiết. Điều tra phân loại rõ từng nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của
từng hộ để có những giải pháp phù hợp, chẳng hạn những hộ đói nghèo không có sức lao
động do già cả, tàn tật, neo đơn… phải dùng các biện pháp hỗ trợ khác chứ không thể dùng
phương pháp tiếp cận bằng vốn tín dụng được. Hoặc những hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa
mà ở những nơi đó chưa có cơ sở hạ tầng, không có chợ, sức mua hạn chế… thì trước khi
được sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội phải được hỗ trợ từ các giải
pháp khác phù hợp.
Vì vậy, hộ thuộc diện đói nghèo không đồng nghĩa với việc nhất thiết phải được
cung cấp vốn tín dụng.
Việc phân loại đúng đối tượng đòi hỏi trách nhiệm cao của các cơ quan chức năng
để đạt được mục đích vốn đến đúng đối tượng. Mặt khác, không lấn sân sang các đối
tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
Về nguyên tắc hộ nghèo vay vốn không phải đảm bảo bằng tài sản nhưng đối với hộ
vay món lớn, dự án nhóm hộ gia đình, thời hạn cho vay dài, NHCSXH có thể yêu cầu hộ vay
vốn bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Về cho vay giải quyết việc làm nên sữa đổi cơ chế giao cho NHCSXH chịu trách
nhiệm thẩm định, cho vay bảo toàn vốn, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ thực hiện chức
năng ban hành cơ chế và giám sát hoạt động không tham gia trực tiếp thẩm định và quyết
định cho vay như hiện nay.
Đối với cho vay xuất khẩu lao động đề nghị Chính Phủ tăng mức cho vay đối với
người lao động thuộc vùng có điều kiện khó khăn lên mức 100% chi phí phục vụ cho
XKLĐ và có biện pháp mở rộng loại vay này tạo điều kiện cho hộ nghèo và các đối tượng chính
sách tăng thu nhập, xói đói giảm nghèo.
Đối với cho vay HSSV nên chuyển sang cho vay thông qua hộ gia đình và cải tiến
quy trình cho vay thích hợp, không nên gộp chung với hộ nghèo như hiện nay là chưa hợp
lý.
* Về lãi suất cho vay
Qua kinh nghiệm tại một số nước cho thấy, lãi suất cho vay hộ nghèo của họ
ngang bằng mức lãi suất thị trường và họ cho rằng khi thực hiện cho vay hộ nghèo với
mức lãi suất như vậy có nhiều tác dụng tích cực hơn như: đối với người nghèo sẽ có
tác dụng làm cho họ có ý thức tiết kiệm giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành, không chủ
quan ỷ lại, đối với ngân sách không phải tốn một khoản kinh phí hàng năm để cấp bù
cho những tổ chức tín dụng làm dịch vụ cho vay hộ nghèo; đối với tổ chức tín dụng
cho vay hộ nghèo có thể huy động được nguồn vốn trong xã hội, thực hiện đầy đủ
chức năng của một tổ chức tín dụng.
Riêng đối với Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, còn nhiều tổ chức, nhiều
thành phần trong xã hội chưa quen với cơ chế thị trường nhất là những hộ nghèo ở
vùng sâu, vùng xa, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, họ cần được sự hỗ trợ nhiều mặt trong
đó có hỗ trợ lãi suất vì vậy từ những kinh nghiệm của nhiều nước và từ thực tiễn kinh
tế - xã hội Việt Nam nên có những quy định về lãi suất phù hợp. Trong những năm
đầu chúng ta nên hỗ trợ hộ nghèo vay vốn với lãi suất thấp, sau đó nâng dần lãi suất
lên ngang bằng với mức lãi suất thị trường
Lãi suất cho vay vốn đối với hộ nghèo nên từng bước theo hướng lãi suất thị trường,
bởi vì:
Một mặt, việc áp dụng lãi suất ưu đãi không tránh khỏi hiện tượng người không
nghèo lại được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Mặt khác, người nghèo được nhận vốn vay ưu
đãi họ dễ hiểu lầm đó là nguồn trợ cấp và đôi khi họ dùng vốn đó để cho vay lại các đối
tượng khác hoặc gửi tiền tiết kiệm để kiếm chênh lệch.
Cũng chính từ chính sách ưu đãi tín dụng là người nghèo được bao cấp qua lãi suất
nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, họ chưa nhận thức rõ được đấy là sự trợ giúp của
Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Ngoài ra nó còn làm tăng nhu cầu
vay vốn đây là một nhược điểm của tín dụng ưu đãi.
Để được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi này, vấn đề người nghèo quan tâm
đó là được vay vốn một cách thuận lợi, được vay nhiều lần và kèm theo đó là được tiếp
nhận các dịch vụ chuyển giao kỹ thuật, tiếp thu cách thức làm ăn và chỉ dấn thị trường tiêu
thụ sản phẩm làm ra từ các tổ chức hỗ trợ khác nhau.
Quan điểm của tác giả cho rằng, lãi suất cho vay đối với hộ nghèo ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay không nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi quá ưu đãi nhưng cũng
không nên áp dụng lãi suất tính đủ mà nên thống nhất hài hoà giữa lãi suất cho vay người
nghèo và lãi suất cho vay thông thường của các Ngân hàng thương mại và có thể áp dụng
các hình thức giảm lãi suất như là đòn bẩy khuyến khích người vay trả nợ, trả lãi. Hoặc có
thể quy định mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thị trường một chút. Song về lâu dài, để
hoạt động của ngân hàng bền vững thì mức lãi suất cho vay cũng cần tính đủ các yếu tố
đầu vào.
* Về mức cho vay
Nhu cầu vốn cho vay đối với hộ nghèo rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào điều
kiện và khả năng canh tác của từng vùng và của từng địa phương. Đối với các hộ nghèo ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc…mà điều kiện cơ sở hạ tầng thấp và hầu như
chưa có, điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, đất đai canh tác ít, trình độ thâm canh thấp, chủ
yếu thực hiện việc chăm bón theo thời vụ hoặc theo từng công đoạn của cây trồng theo
kinh nghiệm cổ truyền. Họ ít chú trọng đến việc thâm canh, đầu tư chiều sâu. Do đó, vốn
đầu tư vào sản xuất của hộ nghèo còn ở mức thấp. Nhưng về lâu dài, khi năng lực sản xuất,
kỹ thuật thâm canh của hộ nghèo tăng lên thì ngân hàng cũng cần phải nâng mức cho vay
tối đa đối với một hộ nghèo tăng lên, khắc phục tình trạng cho vay có tính cân bằng, thời
gian cho vay không phù hợp với khả năng trả nợ của người vay như hiện nay.
Hiện nay mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo là 7 triệu đồng. Đối với những
hộ nghèo có điều kiện đầu tư vào những đối tượng như: chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, lấy
sữa, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, cải tạo
chuồng trại, đầu tư phát triển ngành nghề thì có thể được đầu tư đến 10 triệu đồng một hộ.
Về lâu dài đối với những đối tượng này có thể nâng mức cho vay tối đa lên 15 triệu đồng
một hộ nhưng kèm theo đó cũng cần có những điều kiện nhất định như phải có dự án cụ
thể, phải nằm trong vùng quy hoạch kinh tế trên địa bàn, phải có cấp có thẩm quyền phê
duyệt…
* Đơn giản hoá thủ tục và quy trình cho vay
Hộ nghèo và hộ chính sách phần lớn cư trú ở những vùng sâu, vùng xa do phương
tiện đi lại, thông tin liên lạc khó khăn tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa làm quen với
thủ tục giấy tờ hành chính do đó để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ chính sách dễ dàng tiếp
cận được nguồn vốn cho vay trước hết ngân hàng phải thực hiện nghiêm túc việc giao dịch
tại xã phường, để người dân thuận tiện đi lại.
- Về thủ tục cho vay cần đảm bảo tính nguyên tắc nhưng phải hết sức đơn giản để
phù hợp với trình độ dân trí của hộ nghèo. Hộ nghèo chỉ cần làm đơn xin vay do ngân
hàng in sẵn phát cho từng hộ vay, hộ vay chỉ cần điền những chi tiết cần thiết như họ tên,
địa chỉ, mục đích xin vay, số tiền xin vay và thời hạn vay vốn.
- Phê duyệt cho vay: việc phê duyệt cho vay cần đảm bảo nguyên tắc xác định đúng
đối tượng cho vay là hộ nghèo, xác định đúng mục đích xin vay, nhu cầu vay vốn phù hợp
với mục đích xin vay của hộ nghèo nhưng phải tránh gây phiền hà cho hộ nghèo.
- Việc cung ứng vốn cho hộ nghèo cần kịp thời và thuận tiện: đây là yêu cầu cơ bản
và cần thiết vì với bản chất của người nghèo là thật thà, chất phác song cũng rất tự trọng.
Khi thiếu vốn họ tha thiết được vay ngân hàng một cách nhanh chóng, đơn giản và thuận
tiện để phục vụ kịp thời nhu cầu của sản xuất. Họ rất e ngại và cảm thấy phiền hà khi phải
đến ngân hàng nhiều lần để làm các thủ tục vay vốn phức tạp và khó khăn. Trong thực tế,
hộ gia đình nghèo sẵn sàng chấp nhận vay tư nhân với lãi suất cao vì nhu cầu vốn của họ
được đáp ứng kịp thời, nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện còn hơn là phải chờ đợi để nhận
được vốn rẻ của ngân hàng khi cơ hội kinh doanh đã mất và thời vụ sản xuất đã qua.
Để đảm bảo cung ứng vốn kịp thời và thuận tiện cho hộ nghèo vay vốn NHCSXH
cần phải:
+ Chủ động phân bổ vốn kế hoạch cho các Chi nhánh ngay từ đầu năm.
+ Đơn giản hoá quy trình và thủ tục vay vốn, đảm bảo cho hộ nghèo vay vốn dễ
nhớ, dễ hiểu và dễ thực hiện.
+ Đội ngũ cán bộ ngân hàng phải có lòng nhiệt tình, tận tuỵ, sẵn sàng vượt khó
khăn để đến với hộ nghèo, đồng thời phải có kiến thức về sản xuất, về khuyến nông,
khuyến lâm, hướng dẫn cách thức làm ăn cho hộ nghèo và cách sử dụng vốn vay có hiệu
quả…
* Xây dựng mạng lưới Tổ tiết kiệm và vay vốn
Thực hiện cơ chế cho vay trực tiếp đến người vay thông qua tổ, nhóm là phương
thức cho vay phù hợp với điều kiện về mô hình tổ chức và số lượng biên chế cán bộ của
Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay. Chính vì vậy, việc xây dựng và củng cố mạng lưới
Tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động có chất lượng là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết
định đến việc mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn.
Tổ vay vốn phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện và bầu ra Ban quản lý tổ (từ 1
đến 3 người), Ban quản lý tổ, nhất là tổ trưởng có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho
Ngân hàng về việc bình xét và đề nghị cho vay, giám sát việc sử dụng tiền vay của các tổ
viên, vận động các tổ viên tham gia gởi tiền tiết kiệm, đôn đốc các thành viên trả nợ gốc,
lãi đúng thời hạn, cùng với ngân hàng xử lý những vấn đề phát sinh trong công tác tín
dụng.
Do vậy, để hình thành được mạng lưới, Ban quản lý tổ phải hoạt động có hiệu quả,
thật sự là cầu nối hữu hiệu giữa ngân hàng và người vay. Ngân hàng Chính sách sách xã
hội phải phối hợp với UBND, Ban xói đói giảm nghèo, hội đoàn thể xã, phường để làm tốt
việc thành lập tổ và bầu ban quản lý tổ. Mặt khác phải thực hiện tốt việc chi trả tiền hoa
hồng cho Ban quản lý tổ trên cơ sở khối lượng tín dụng quản lý và kết quả đạt được trong
thu nợ, thu lãi, nhằm tạo động lực và tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng với ban quản
lý tổ vay vốn.
3.2.2.3. Các giải pháp khác
Một là: Do tính chất ưu đãi về lãi suất cho vay, do đó việc bình xét các hộ được vay
vốn một cách dân chủ và công khai.
Như chúng ta đã biết một trong những trở ngại và băn khoăn của các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách cho vay hộ nghèo là làm thế nào để đầu tư vốn đúng đối
tượng, đúng địa chỉ hộ nghèo. Do vậy, cùng với việc giải ngân trực tiếp đến tay hộ nghèo,
giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay còn cần phải thực hiện một chế độ tín dụng công
khai và dân chủ trong cộng đồng dân cư và trong từng nhóm vay vốn.
Việc bình xét, giám sát của cộng đồng xã hội, của các cấp chính quyền và của cán
bộ tín dụng ngân hàng để lựa chọn hộ vay phải được xem như một nguyên tắc đối với kênh
tín dụng chính sách này nhằm mục đích vốn cho vay đúng đối tượng, hạn chế thấp nhất
những tiêu cực có thể xảy ra đối với nguồn vốn ưu đãi, thể hiện tính xã hội hoá về đầu tư
tín dụng hộ nghèo.
Hai là: Tăng cường công tác quản lý và kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của hộ
nghèo vay vốn.
Đầu tư tín dụng cho hộ gia đình nghèo là loại hình tín dụng có mức rủi ro lớn hơn
bất kỳ một chương trình tín dụng nào khác. vì những lý do như sau: - Hộ nghèo thường là
những người có trình độ văn hoá thấp, lại được vay vốn không phải thế chấp do vậy mà ý
thức trách nhiệm về mặt pháp lý của họ đối với món vay thấp, đó là một trong những
nguyên nhân đẫn tới họ sẵn sàng sử dụng vốn sai mục đích nếu không được kiểm soát chặt
chẽ.
- Phần lớn hộ nghèo thường thiếu kiến thức làm ăn, do vậy họ rất dễ bị thua lỗ trong
sản xuát kinh doanh nếu không được hướng dẫn và giúp đỡ cách thức làm ăn.
Ngoài ra do chính sách bao cấp về lãi suất nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước,
họ chưa nhận thức rõ được đây là sự trợ giúp của Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn
lên, các chương trình văn hoá, giáo dục, y tế… cần đi trước một bước mở đường cho
chương trình tín dụng của NHCSXH.
Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bằng nhiều hình thức như: kiểm tra tại
chỗ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo… nhằm phát hiện và có biện pháp
sử lý thích hợp với những sai sót đã xảy ra và phòng ngừa những sai phạm mới.
Việc kiểm tra phải được tiến hành cùng với việc tư vấn cho hộ vay vốn về cách thức
làm ăn, biết tiết kiệm và sử dụng vốn đúng mục đích. Việc kiểm tra phải được tiến hành
thường xuyên, rộng khắp từ các tổ viên được vay vốn, Tổ trưởng Tổ Tiết kiệm và vay vốn
đến các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay và bản thân cán bộ ngân hàng trong
hệ thống NHCSXH và các Ban, Ngành liên quan.
Ba là: Chú trọng và quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực của hệ thống
NHCSXH, do là đơn vị vừa mới được thành lập, cán bộ đa phần là mới tuyển dụng, tỷ lệ
(85%) nhìn chung được đào tạo cơ bản nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, nên rất hạn
chế trong thực thi nhiệm vụ. Từ thực tế này đặt ra cho NHCSXH phải có kế hoạch chi tiết
trong việc đào tạo cán bộ với nhiều phương pháp và hình thức khác nhau, phải tổ chức
đánh giá phân loại cán bộ để có hình thức đào tạo cho phù hợp như đào tạo dài hạn, ngắn
hạn, tấp huấn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức
pháp luật và kiến thức về quản lý nhà nước…
Bên cạnh đó còn phải thường xuyên thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, bố trí sắp
xếp hợp lý cán bộ. Tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa
phương cho phù hợp với nhu cầu hoạt động.
Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại, nâng cao nhận thức, nâng cao tay nghề
cho đội ngũ cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay, thành viên
Ban quản lý Tổ Tiết kiệm và vay vốn của NHCSXH. Việc đào tạo, tấp huấn phải được
phân loại theo từng đối tượng cụ thể cho phù hợp với trình độ và công việc đảm nhận với
phương châm cầm tay chỉ việc.
Kiến nghị
1. Đối với Nhà nước và Chính phủ
Đề nghị Chính phủ cấp đủ vốn điều lệ ban đầu cho NHCSXH là 5.000 tỷ đồng theo
Quyết định thành lập và cấp bổ sung hàng năm theo quy mô hoạt động nhằm tạo điều kiện
để NHCSXH có đủ nguồn vốn cho vay, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và những
phương tiện cần thiết khác phục vụ cho yêu cầu hoạt động của toàn hệ thống.
- Những hộ ở ngưỡng cửa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo
nếu như gia đình họ gặp phải thiên tai, hoạn nạn, có người ốm đau. Để XĐGN bền vững,
đề nghị Chính phủ có cơ chế thủ tục vay đối với đối tượng này thêm vài chu kỳ sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ sức vươn lê thoát
nghèo bền vững.
- Cần có một môi trường kinh tế kinh doanh thuận lợi: Nhà nước luôn có một chính
sách tạo điều kiện cho Ngành Nông nghiệp phát triển, có như vậy mới tạo cơ sở cho vốn
tín dụng bền vững. Chẳng hạn, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm thúc đẩy
việc tiêu thụ và chế biến sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp chính sách tiếp thị, hướng dẫn
sản xuất và tiêu dùng, chính sách bảo hộ xuất khẩu...Khu vực nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần được chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo điều
kiện phát triển cho người dân sinh sống ở những vùng này cả về trình độ dân trí, nhận thức
xã hội, trình độ sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển, cần
khuyến khích hỗ trợ, tạo cơ sở pháp lý cho các Công ty tài chính ra đời phát triển dịch vụ tới
mọi người dân, đặc biệt là bảo hiểm tín dụng.
Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ
sở pháp lý cho Ngân hàng Chính sách xã hội khai thác và tập trung các nguồn vốn ổn định,
không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp như: trích một phần nguồn tín dụng tài trợ thuộc nguồn
vốn ODA, nguồn vốn tiền gửi kết dư ngân sách hàng năm; các quỹ Bảo hiểm xã hội, Kho bạc
Nhà nước mở tài khoản tiền gửi tại NHCSXH nhất là tại các phòng Giao dịch NHCSXH cấp
huyện.
Tiếp tục thực hiện chủ trương: các tổ chức tín dụng nhà nước có trách nhiệm duy trì
số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động tại thời điểm 31 tháng 12
năm trước theo quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về
tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Mở rộng chủ trương này ở
tất cả các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài việc dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách
hàng năm của các địa phương, những địa phương không phải trợ cấp ngân sách từ trung
ương, các doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh có lãi, có thu nhập lớn, cần có kế
hoạch tăng nguồn vốn để cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác trên địa bàn,
NHCSXH nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay theo các chương trình chỉ định của chủ đầu tư
tại địa phương.
Có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt dộng của Ban đại diện Hội đồng
quản trị các cấp, củng cố mối liên kết phối hợp và lồng ghép giữa các tổ chức chính trị - xã
hội để hoạt động có hiệu lực thực sự.
Cơ chế tài chính đối với NHCSXH
Nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát huy cơ chế quản lý dân chủ
trong công tác quản lý tài chính, đề nghị xem xét điều chỉnh cơ chế tài chính theo hướng
gắn lợi ích của Ngân hàng với tách nhiệm thu lãi và giữ ổn định mức khoán cho cả thời kỳ
2006-2010, nhằm góp phần cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao tính tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của Ngân hàng. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện vận
chuyển:
Để tạo điều kiện cho NHCSXH có trụ sở làm việc ổn định, đặc biệt là chi nhánh các
tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng xa, vùng dặc biệt khó khăn; đồng thời, giải
ngân kịp thời vốn vay đến người vay một cách an toàn. nhanh chóng và hiệu quả, kính đề
nghị Nhà nước cho đầu tư:
- Cấp vốn để xây dung trụ sở cho những tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Những nơi khác tiếp tục thực hiện Chỉ thị 09/2004/CTTg của Thủ tướng Chính
phủ và văn bản của Bộ Tài chính, ưu tiên chuyển các trụ sở, các phương tiện làm việc dôi
ra do sắp xếp tổ chức lại có nguồn gốc ngân sách chuyển cho NHCSXH làm trụ sở, mua
sắm phương tiện ô tô để giải ngân cho hộ nghèo ở xã, phường.
Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho NHCSXH khai thác và tập
trung các nguồn vốn ổn định, không phải trả lãi hoặc trả lãi thấp để cho vay hộ nghèo.
Những hộ ở ngưỡng cữa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo nếu
như gia đình họ gặp phải thiên tai hoạn nạn, có người ốm đau… do đó để xoá đói giảm
nghèo bền vững, đề nghị Chính phủ cho cơ chế tiếp tục cho vay đối với hộ này thêm vài
chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ
sức vươn lên thoát nghèo bền vững.
2. Đối với các Bộ, Ngành
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính căn cứ vào phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ về XĐGN đến năm 2010, xác định rõ nhu cầu về vốn tín dụng và khả năng
tài chính của Nhà nước phục vụ mục tiêu này; đồng thời có giải pháp cụ thể huy động các
nguồn vốn có lãi suất thấp (vốn ODA, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, tiền gửi
của các quỹ tài chính trong và ngoài nước....) để tạo điều kiện cho NHCSXH ổn định, bền
vững.
- Đối với Ngân hàng Nhà nước: có chính sách hỗ trợ NHCSXH sớm hoàn thiện hệ
thống thanh toán hiện đại, cho phép NHCSXH thực hiện thêm một số dịch vụ ngân hàng,
nhằm giúp NHCSXH trong tương lai có thể cung cấp cho khách hàng vùng II, vùng III có
những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại.
- Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: cần xây dựng một chương trình
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… dành riêng cho hộ nghèo, có cán bộ chuyên trách
hướng dẫn cụ thể đối với người nghèo cách làm ăn, có những mô hình trình diễn thí điểm,
làm mẫu ở những vùng nghèo, xã nghèo để hộ nghèo học tập. Phối hợp chặt chẽ các
chương trình này với chương trình tín dụng hộ nghèo, có như vậy hộ nghèo vay vốn mới
có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, ổn định và cải thiện cuộc sống xoá đói giảm
nghèo.
3. Đối với Uỷ ban nhân dân các cấp
- Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của Chi nhánh NHCSXH trên địa bàn.
- Chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành, UBND các huyện, thị phối hợp với các tổ chức hội
đoàn thể tổ chức lồng ghép các chương trình, chuyển giao công nghệ, khuyến nông,
khuyên lâm, khuyến ngư, hướng dẫn thị trường với việc sử dụng vốn tín dụng, hướng dẫn
cách làm ăn để người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả.
- Tiếp tục dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách
hàng năm để tăng nguồn vốn tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
trên địa bàn.
- Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng
cường năng lực hoạt động cho các đơn vị NHCSXH trên địa bàn.
- Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát, uốn nắn kịp thời những việc làm lệch
lạc, sai chính sách, chế độ. đồng thời có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động
của Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động của
NHCSXH, quan điểm về tín dụng đối với hộ nghèo trong thời gian tới và từ mục tiêu hoạt
động của NHCSXH tỉnh Quảng Nam giai đoạn 5 năm (2006-2010), tác giả đã đưa ra những
giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của NHCSXH Quảng Nam. Đồng thời tác giả cũng đưa ra
một số kiến nghị đối với nhà nước và chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, UBND các cấp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của NHCSXH.
Kết luận
Là một tổ chức tín dụng đặc thù, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với nhiệm
vụ chủ yếu là chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng
chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời và được tổ chức hoạt động theo những
chuẩn mực của một tổ chức tín dụng có hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn và phát triển
đúng hướng để Ngân hàng thực sự trở thành một công cụ chính sách quan trọng, bảo đảm
tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, phân tích thực trạng
hoạt động của một ngân hàng, luận án đã đạt được mục tiêu nguyên cứu đề ra và có những
đóng góp sau:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của hệ thống Ngân hàng,
Ngân hàng Chính sách Xã hội và vai trò của nó trong việc thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo.
Phân tích những vấn đề cơ bản về tín dụng và vai trò của tín dụng trong Chương
trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo. Làm rõ những nguyên tắc, nội dung cơ bản
của cơ chế tín dụng đối với người nghèo. nghiên cứu và đề xuất cơ chế tín dụng thích hợp
đối với người nghèo.
Nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện tín dụng chính sách phục vụ mục tiêu xoá đói
giảm nghèo ở một số nước trên thế giới; rút ra những bài học kinh nghiệm có khả năng áp
dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Phần thực trạng thông qua số liệu phân tích các năm (từ năm 1997 đến năm 2005) đã
đưa ra được những nhận xét xác thực, phù hợp với thực tế hoạt động của NHCSXH, rút ra
những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại hạn chế và nguyên nhân,đề xuất những giải
pháp, kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động của chi nhánh. Kết quả nghiên cứu sẽ là tư liệu có
ích để NHCSXH xây dựng các cơ chế chính sách cho hoạt động của NHCSXH nói chung
và chi nhánh Quảng Nam theo hướng ổn định và bền vững.
Hoàn thành bản luận văn này tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức
của mình vào lĩnh vực nghiên cứu các giải pháp để đổi mới hoạt động của chi nhánh góp
phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. Tuy nhiên, đây là một vấn đề
còn rất phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều Bộ, Ngành, Đoàn thể... mà khả năng
về nhận thức, lý luận và thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy,
những nội dung thể hiện trong bài viết chắc chắn còn phải bổ sung nên tác giả rất mong
muốn nhận được nhiều sự đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các cơ quan, các đồng
nghiệp và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này để có thể tiếp tục tu chỉnh và hoàn
thiện.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và
hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu, các thầy cô giáo Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh và bạn bè đồng nghiệp đã giúp tác giả hoàn thành luận văn này.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Bộ môn kinh tế - chính trị đại học kinh tế quốc dân (1993), Lịch sử các học thuyết kinh
tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2005), Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo
giai đoạn (2006-2010), Hà Nội.
3. Chính phủ (2002), Nghị định 78/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về
tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Hà Nội.
4. Chính phủ (2002), Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội,
Hà Nội.
5. Chính Phủ (2004) Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg Thủ tướng Chính phủ
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. TS Đàm Hữu Đắc (2005), "Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam- Thực trạng và giải
pháp", Tạp chí Lao động và xã hội, số chuyên đề tháng 10/2005, tr.1-2.
10. Hoàng Xuân Đại (7/2006), "Tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng của nhà nước- Một
nguồn vốn quan trọng của NHCSXH", Thông tin NHCSXH, tr.15.
11. Đặng Văn Điền (5/2006), "Tăng lãi suất cho vay, những suy nghĩ của người nghèo",
Thông tin NHCSXH, tr.5, 10.
12. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Khoa học quản lý, Hà
Nội.
13. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình kinh tế học phát triển, Hà
Nội.
14. Hà Thị Hạnh (2003), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của
Ngân hàng Chính sách xã hội, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học kinh tế
quốc dân Hà Nội, Hà Nội.
15. TS Nguyễn Hải Hữu (10/2005), "Định hướng chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo giai đoạn 2006-2010", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.10,11,12.
16. Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng năm 2003,2004.
17. Nguyễn Thị Liễu(4/2005), "Công tác tổ chức cán bộ NHCSXH 3 năm thành lập",
Thông tin NHCSXH, tr.7, 8.
18. Nguyễn Thị Liễu (2006), Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của
NHCSXH Việt Nam, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng Hà Nội, Hà
Nội.
19. Các Mác (1960), Tư bản quyển 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. E.wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1994), Báo cáo kết quả khảo sát mô hình Grameen
Bank ở Bangladesh, Hà Nội.
22. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (1996), Báo cáo khảo sát
mô hình Ngân hàng Nhân dân Indonesia, Hà Nội.
23. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động (1996-
2000), Hà Nội.
24. Ngân hàng phục vụ người nghèo Quảng Nam (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt
động (1997-2001),Tam Kỳ.
25. Ngân hàng Chính sách xã hội (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động của Ngân
hàng Chính sách xã hội (2003-2005), Hà Nội.
26. Ngân hàng Chính sách xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động
(2003-2005),Tam Kỳ.
27. ThS Phạm Kim Nhuận (2005), "Bài học cho vay hộ nghèo từ uỷ thác qua các tổ chức chính
trị xã hội", Tạp chí Lao động và xã hội, (10), tr .15, 16.
28. Phan Cử Nhân (7/2006), "ứng dụng ngân hàng điện tử ở các tổ chức tài chính vi mô
trên thế giới", Thông tin NHCSXH, tr.29, 30.
29. Phan Cử Nhân (4/2005), "Braxin: Ngân hàng nhân dân hướng vào tầng lớp người
nghèo", Thông tin NHCSXH, tr.10, 12.
30. Trần Lan Phương (2006), "Một số kinh nghiệm học tập từ Tập đoàn Ra Bo-Hà Lan",
Thông tin NHCSXH, tr.11, 12.
31.Nguyễn Kim Phung (2006), "Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện kế hoạch
tín dụng năm 2006", Thông tin NHCSXH, tr.30.
32. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. TS Cao Viết Sinh (10/2005), "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo, thành công và thách thức", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.3, 5, 6.
34. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Quảng Nam (10/2005), Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010, Tam Kỳ.
35. Phạm Thanh (7/1994), "Chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp ở Thái lan và
Indonesia", Tạp chí kinh tế dự báo, (225).
36. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Hoàng Nghĩa Tứ (8/2005), "Ngân hàng chính sách xã hội là công cụ quan trọng, hữu
hiệu để góp sức XĐGN", Thông tin NHCSXH, tr.1-2.
38. Trần Hữu ý (2006), "Thử bàn về cơ chế cho vay đối với vùng nghèo của NHCSXH",
Thông tin NHCSXH, tr.1-2.
Mục lục
Trang
Mở Đầu 1
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản và vai trò của Ngân hàng
Chính sách xã hội 5
1.1. Ngân hàng Chính sách xã hội trong hệ thống Ngân hàng 5
1.2. Ngân hàng Chính sách xã hội với mục tiêu xoá đói giảm nghèo 16
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về việc phát huy tín dụng ngân hàng
trong việc xoá đói giảm nghèo 24
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách
xã hội tỉnh Quảng Nam 32
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Chính
sách Xã hội tỉnh Quảng Nam 32
2.2. Tình hình Nguồn vốn và Sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Chính
sách xã hội Quảng Nam 38
2.3. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân 48
Chương 3: Định hƯớng và Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 58
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính
sách xã hội 58
3.2. Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Quảng Nam 62
Kiến nghị 80
Kết luận 85
danh mục Tài liệu tham khảo 87
Danh mục các chữ viết tắt
- BĐD : Ban đại diện
- HĐQT : Hội đồng quản trị
- HSSV : Học sinh, sinh viên
- KH&ĐT : Kế hoạch và Đầu tư
- LĐTB&XH : Lao động Thương binh và xã hội
- NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
- NHNN : Ngân hàng Nhà nước
- NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
- NHNg : Ngân hàng phục vụ người nghèo
- NHTM : Ngân hàng thương mại
- UBND : Uỷ ban nhân dân
- XĐGN : Xoá đói giảm nghèo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam (2).pdf