Là một tổ chức tín dụng đặc thù, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với nhiệm 
vụ chủ yếu là chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng 
chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời và được tổ chức hoạt động theo những 
chuẩn mực của một tổ chức tín dụng có hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn và phát triển 
đúng hướng để Ngân hàng thực sự trở thành một công cụ chính sách quan trọng, bảo đảm 
tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 85 trang
85 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2968 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng, Nhà nước ta đối với 
người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo; nêu những gương điển hình, nhân rộng các mô hình làm 
giàu, sản xuất - kinh doanh giỏi, mô hình xói đói giảm nghèo tiêu biểu…nhằm nâng cao 
nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm cao về xói đói giảm nghèo trong toàn xã hội. Trước 
hết công tác xói đói giảm nghèo phải được đặt thành nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu 
trong chiến lượt phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, đưa vào Nghị quyết Hội 
đồng nhân dân các cấp hàng năm những chỉ tiêu cụ thể về xói đói giảm nghèo của 
từng địa phương để phấn đấu thực hiện. Đồng thời làm tốt công tác vận động, tuyên 
truyền để bản thân người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự thân vươn lên thoát nghèo, 
xói bỏ tư tưởng trông chờ vào bao cấp của Nhà nước, làm cho công cuộc xói đói giảm 
nghèo trở thành phong trào sâu rộng trong nhân dân, có sự gắn kết trách nhiệm trong 
gia đình, họ tộc, thôn bản, khối phố. Làm được như vậy thì công tác xói đói giảm 
nghèo mới đạt hiệu quả và mang tính bền vững, mới thật sự làm thay đổi bộ mặt nông 
thôn, thay đổi cuộc sống của người dân. 
3.2.1.2 Triển khai và thực hiện tốt các chính sách xã hội nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hộ 
nghèo, vùng nghèo phát triển 
- Chính sách hỗ trợ về y tế: 
Bằng nguồn vốn ngân sách và huy động từ các nguồn lực khác trong xã hội để mua 
và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho số người nghèo, thực hiện việc khám chữa bệnh miễn phí cho 
người nghèo dưới nhiều hình thức, đảm bảo người nghèo được chăm sóc sức khoẻ khi ốm 
đau, có chính sách cho hộ nghèo vay vốn ưu đãi để xây dựng công trình nước sạch, vệ sinh 
nông thôn. 
- Chính sách hỗ trợ về giáo dục: 
Tiếp tục thực hiện miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp trong học tập, hỗ trợ 
vở, viết, sách giáo khoa và xét trợ cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo học khá giỏi 
theo Quyết định 1121/QĐ-TTg và quyết định 70/1998/QDD-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ, vận động và khuyến kích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, giúp đỡ học sinh, sinh viên gia 
đình nghèo trong học tập cũng như trong tuyển chọn cán bộ… 
Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ, cải thiện nhà ở đối với hộ nghèo, hộ 
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trợ giúp đối tượng yếu thế có khả năng lao động được học 
nghề, tìm việc làm để đảm bảo cuộc sống, trợ cấp thường xuyên cho những đối tượng 
thuộc diện cứu trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. 
- Triển khai tốt các chương trình, dự án về định canh, định cư, phân bổ và quy hoạch 
hợp lý các vùng dân cư gắn liền với phát triển giao thông, trường học, trạm xá để ổn định 
cuộc sống, sinh hoạt và sản xuất, khai thác tiềm năng, thế mạnh vùng miền núi phía Tây 
của tỉnh, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng này. 
- Tổ chức triển khai thực hiện tốt kế hoạch hành động về dân số - gia đình và trẻ em, 
đảm bảo đạt các mục tiêu để ra về giảm tỷ lệ tăng dân số, giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. 
- Thực hiện chủ trương xói đói giảm nghèo trên cơ sở đẩy mạnh cơ cấu kinh tế, cơ 
cấu cây trồng, con vật nuôi, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng các loại hình kinh tế vườn đồi, vườn rừng, kinh tế trang 
trại có hiệu quả, tăng cường áp dụng các biện pháp khoa học kỷ thuật vào sản xuất, phát 
triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống ở nông thôn, 
góp phần thực hiện xói đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng tỷ lệ 
thời gian sử dụng lao động ở nông thôn và tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù 
hợp với cơ cấu kinh tế. 
- Quy hoạch và xây dựng cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề 
và dịch vụ việc làm, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ chiến lược phát 
triển kinh tế xã hội của tỉnh, đảm bảo đến năm 2010 có 35% lao động qua đào tạo, trong 
đó 29% qua đào tạo nghề. 
- Giải quyết vấn đề lao động dư thừa, tạo việc làm cho người lao động là một trong 
những nhu cầu bức bách của tỉnh hiện nay và đây cũng là giải pháp xói đói giảm nghèo. 
Do vậy, ngoài việc thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để phát triển kinh tế, giải 
quyết việc làm cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động về 
tài chính, cơ sở vật chất, thuế ưu đãi, giảm các khoản người lao động phải đóng góp... 
Thành lập công ty chuyên doanh xuất khẩu lao động để cung ứng lao động xuất khẩu, tăng 
cường đào tạo công nhân có tay nghề đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lao động. 
3.2.1.3. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn 
 Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, 
quyết định đến tiến trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong những năm qua 
tỉnh Quảng Nam đã coi trọng và chỉ đạo tích cực công tác quy hoạch và đầu tư phát triển 
xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư tập trung đúng hướng, theo thứ tự ưu tiên các mục tiêu, 
vùng quan trọng và bức xúc, nhất là khu vực nông thôn miền núi. Nhiều công trình xây 
dựng cơ bản hình thành góp phần phục vụ tốt cho phát triển kinh tế - xã hội, bộ mặt Quảng 
Nam nói chung và vùng nông thôn nói riêng đang từng bước khởi sắc, tạo nên diện mạo 
mới, góp phần tích cực xói đói giảm nghèo. Tuy nhiên việc đầu tư phát triển kết cấu hạ 
tầng ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp 
ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá. Do vậy trong những năm đến cần ưu tiên vốn để phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu ở 
nông thôn, trong đó chú trọng đầu tư cho các xã nghèo nằm ngoài chương trình 135 có tỷ 
lệ hộ nghèo từ 25% trở lên. 
3.2.1.4. Củng cố, xây dựng bộ máy tổ chức, cán bộ 
* Về tổ chức bộ máy: Để chương trình được triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu 
quả, cần phải thiết lập bộ máy tổ chức hoạt động điều hành chương trình từ tỉnh đến cơ sở. 
ở tỉnh, huyện, thị xã thành lập Ban chỉ đạo do một Phó chủ tịch UBND cùng cấp làm 
trưởng ban, bộ phận chuyên trách có thể từ 2 đến 3 cán bộ. 
ở xã, phường, thị trấn thành lập Ban xói đói giảm nghèo, tuỳ theo tình hình từng 
địa phương có thể bố trí một cán bộ làm chuyên trách hoặc 
kiêm nhiệm. 
Nhiệm vụ của Ban chỉ đạo là tổ chức, hướng dẫn các địa phương làm tốt công tác 
điều tra, xác định đúng thực trạng hộ đói nghèo của địa phương mình. Phối hợp với các cơ 
quan chuyên môn nghiên cứu huy động nguồn lực, đề ra các chính sách, giải pháp về xói 
đói giảm nghèo. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tạo nguồn, quản lý, sử dụng 
quỹ xói đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu xói đói giảm nghèo của địa phương, nhất 
là tổ chức lồng nghép công tác xói đói giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia 
và an sinh xã hội. 
* Về cán bộ: Đây là nhân tố đóng vai trò động lực quan trọng trong việc phát triển 
kinh tế - xã hội, xói đói giảm nghèo. Cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ có năng lực 
thực tiễn, trình độ chuyên môn làm công tác xói đói giảm nghèo. Đồng thời có kế 
hoạch bồi dưỡng, đào tạo về lý luận và kiến thức cơ bản về kinh tế - xã hội, xói đói 
giảm nghèo để nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành chương trình của đội ngũ cán bộ 
xã, phường, nhất là những cán bộ được phân công làm công tác xói đói giảm nghèo. 
Đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa cần phải có chính sách cụ thể và đặc thù. Có chính 
sách thoả đáng để nâng cao trách nhiệm và năng lực quản lý, điều hành, vận động nhân 
dân của trưởng thôn; xây dựng cơ chế phối hợp giữa trưởng thôn và già làng để làm tốt 
công tác quản lý và vận động nhân dân. Có chính sách tuyển dụng cán bộ trẻ, khoẻ, có 
trình độ chuyên môn, kỷ thuật, có đạo đức, tâm huyết lên công tác ở miền núi, vùng 
sâu, vùng xa để vận động và hướng dẫn nhân dân cách làm ăn, nhằm thay đổi lối sống, 
phương thức canh tác, bộ mặt nông thôn nơi đây, tiến tới giảm dần khoảng cách về thu 
nhập giữa miền núi và miền xuôi. 
3.2.2 Giải pháp thuộc về lĩnh vực hoạt động của ngân hàng 
3.2.2.1. Giải pháp tăng trưỏng nguồn vốn một cách vững chắc nhằm mở rộng việc 
cho vay đối với hộ gia đình nghèo 
Theo Nghị định 78 của Chính phủ, nguồn vốn họat động của NHCSXH bao gồm các 
nguồn sau: Vốn từ Ngân sách nhà nước, vốn huy động, vốn đi vay, vốn đóng góp tự 
nguyện, vốn nhận uỷ thác, các nguồn vốn khác. 
* Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước 
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước bao gồm vốn điều lệ, vốn của Chính phủ dành cho 
chương trình, vốn của các cấp ngân sách và nguồn vốn ODA được Chính phủ giao. 
Trong giai đoạn đầu thành lập, có chính sách ưu đãi lớn về lãi suất cho vay do đó nguồn 
vốn hoạt động của Ngân hàng chủ yếu từ ngân sách nhà nước. 
Muốn tăng trưởng nguồn vốn này đòi hỏi hằng năm nhà nước phải dành một khoản 
chi nhất định trong các khoản chi ngân sách để tạo lập quỹ cho vay; thực hiện phương 
châm Trung ương và Địa phương cùng làm, các cấp ngân sách hằng năm trên cơ sở tăng 
thu, tiết kiệm chi để dành một lượng vốn cho chương trình. Đối với các địa phương có khả 
năng về ngân sách có kế hoạch bổ sung thêm vốn uỷ thác cho NHCSXH cho vay theo các 
chương trình dự án chỉ định của địa phương. Ngoài ra Chính phủ cần dành một phần 
nguồn vốn tài trợ ODA của các tổ chức quốc tế (ODB, WB…) và của Chính phủ nước 
ngoài để dành riêng hoặc ưu tiên bổ sung vốn cho NHCSXH. 
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh nghèo nguồn thu ngân sách chưa đủ để chi trong 
khi tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình quân chung cả nước do đó cần tiếp tục nhận được 
nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, bên cạnh đó hằng năm ngân sách địa phương 
cần phải dành một tỷ lệ nhất định trong tổng nguồn thu ngân sách địa phương để thiết lập 
Quỹ cho vay hộ nghèo, giải quyết việc làm trên địa bàn. Trong điều kiện nguồn ngân sách 
thấp có thể sử dụng phương pháp cấp bù lãi suất cho NHCSXH để thực hiện mục tiêu 
chương trình giảm nghèo mà tỉnh nhà đề ra. 
* Nguồn vốn huy động 
Về tương lai đây là nguồn vốn huy động chủ yếu của NHCSXH. Đến 31/12/2005 nguồn 
vốn huy động theo lãi suất thị trường của toàn ngành là 7.988 tỷ trong tổng nguồn vốn trên 
16.300 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 49%. Do chưa có mạng lưới cơ sở vật chất, đặc biệt công tác thanh 
toán để để tổ chức hoạt động vốn như các Ngân hàng thương mại, việc huy động phải phụ 
thuộc vào kế hoạch cấp bù của ngân sách do đó khó có thể huy động vốn từ thị trường như các 
Ngân hàng thương mại. Để huy động nguồn vốn cần phải có các giải pháp sau: 
Bộ Tài chính cần nghiên cứu trình Chính phủ phát hành công trái vì người nghèo để tăng 
nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách. 
Hằng năm Ngân sách nhà nước cần bố trí chỉ tiêu cấp bù chênh lệch lãi suất cho 
NHCSXH theo nguyên tắc năm sau cao hơn năm trước để chủ động trong huy động vốn và 
cho vay. 
Chính phủ nên quy định bảo hiểm xã hội, kho bạc nhà nước duy trì một số dư tiền gửi 
tại NHCSXH để làm nguồn vốn vay, giảm cấp bù của ngân sách nhà nước. 
 Ngoài việc tập trung và tăng cường các nguồn vốn như phân tích ở trên còn phải 
quan tâm đến việc khơi tăng các nguồn vốn như: nguồn vốn huy động theo lãi suất thị 
trường nhưng theo một tỷ lệ nhất định hợp lý nhằm đảm bảo an toàn thanh toán cho toàn 
hệ thống, bao gồm huy động từ tiết kiệm dân cư, các loại tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia 
đình nghèo vay vốn ngân hàng dưới các hình thức tiết kiệm bắt buộc, tiết kiệm định kỳ, 
tiết kiệm tự nguyện. Chủ yếu thực hiện việc huy động qua kênh phát hành trái phiếu, kỳ 
phiếu và hoạt động từ nguồn vốn vay tiết kiệm Bưu điện.Trước mắt cần tập trung huy 
động vốn trong cộng đồng người nghèo, nếu bình quân mỗi tháng một người tiết kiệm từ 
20 đến 30 ngàn đồng thì với 90.000 hộ vay, chi nhánh 1 năm có thể huy động được 27 tỷ 
đồng, đồng thời tập cho người nghèo có thói quen để dành tiền tiết kiệm… 
 Bên cạnh đó còn có thể mở rộng hình thức huy động vốn thông qua việc khuyến 
khích mở tài khoản; hình thức này có thể thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân 
hoặc những người nghèo ở thị trấn, thị xã, thành phố có khả năng giao dịch thường xuyên 
với ngân hàng hoặc có thu nhập thường xuyên như thu nhập tiền lương… 
* Nguồn hình thành từ các tổ chức tín dụng khác 
- Tiếp tục duy trì chính sách tiền gửi 2% số dư nguồn vốn huy động tại thời điểm 31 
tháng 12 năm trước của các tổ chức tín dụng Nhà nước tại Ngân hàng Chính sách xã hội 
theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng đối với 
người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nghiên cứu để mở rộng chính sách này đối 
với tất cả các tổ chức tài chính, tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, coi đây là một 
nghĩa vụ tham gia thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo của 
Việt Nam. 
* Vốn đi vay 
 - Ngân hàng Nhà nước thực hiện cho Ngân hàng Chính sách xã hội được vay vốn 
dưới các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu và bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách xã hội 
được vay vốn của các tổ chức quốc tế và của nước ngoài khi cần thiết. 
 * Nguồn vốn nhận tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước 
 Ngoài nguồn vốn đóng góp bắt buộc của các tổ chức tín dụng Nhà nước, NHCSXH 
có thể huy động nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức kinh tế, tài chính tín dụng và các cá nhân 
kể cả trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn này được trích từ một phần vốn trong kinh 
doanh hoặc nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để tài trợ theo các chương trình 
nhân đạo, từ thiện hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. 
 Để khơi tăng được nguồn vốn này Ngân hàng Chính sách xã hội 
cần phải: 
 - Thực hiện tốt việc cho vay hộ nghèo từ các nguồn vốn tài trợ theo các chương 
trình, dự án của nước ngoài đang thực hiện như: dự án IFAD, RIDP Tuyên Quang; dự án 
Phát triển vùng nước ngập mặn; KFW cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ; dự án Phát triển 
ngành Lâm nghiệp… 
 - Phối hợp với các Bộ, ngành, đoàn thể hữu quan xây dựng các chương trình, dự án 
xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn có tính khả thi để thu hút nguồn tài 
trợ trong và ngoài nước. 
 - Cùng với các cơ quan, đoàn thể, tổ chức, hiệp hội trong nước kêu gọi và ký kết 
các hiệp định vay vốn từ nước ngoài; chủ động xây dựng các chương trình, dự án để vận 
động, thu hút nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài, thông qua việc đầu tư vốn vào các chương 
trình, dự án thử nghiệm, tài trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên trong hệ thống NHCSXH. 
- Tiếp tục mở rộng và đa dạng hoá mối quan hệ, hợp tác trong và ngoài nước để có 
thể tiếp cận và xúc tiến việc vận động, tranh thủ các nguồn tài trợ ưu đãi của nước ngoài. 
Ngoài ra, để phát huy tốt vai trò hiệu quả vốn cho vay đối với hộ nghèo trong 
công cuộc xoá đói giảm nghèo, cần phải cơ cấu hợp lý giữa vốn dành để xây dựng cơ 
sở hạ tầng (vốn do Ngân sách trung ương hoặc vốn do Ngân sách địa phương cấp 
không hoàn lại), với vốn vay để hộ nghèo phát triển sản xuất, hợp lý cho từng vùng, 
từng địa phương và như vậy tạo môi trường kinh tế phát triển theo xu hướng thị 
trường, giúp người nghèo tiêu thụ sản phẩm làm ra thuận lợi, phát huy hiệu quả đồng 
vốn. Nếu sử dụng nguồn vốn cho vay hộ nghèo đầu tư nhiều vào những vùng cơ sở hạ 
tầng chưa phát triển, môi trường kinh tế thị trường khó khăn thì hiệu quả đồng vốn bị 
hạn chế, nợ khó đòi nhiều, an toàn vốn sẽ kém hơn. Mặt khác cũng từ kinh nghiệm ở 
Trung Quốc để gắn trách nhiệm địa phương cơ sở cùng với trung ương về nguồn vốn 
xoá đói giảm nghèo nên quy định tỷ lệ phần trăm bắt buộc các địa phương phải tìm 
giải pháp khai thác nguồn vốn tại chỗ, tăng cường phát huy nội lực góp phần thực 
hiện có hiệu quả công cuộc xoá đói giảm nghèo. 
 Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ chế tạo lập nguồn vốn chính thức cho NHCSXH 
mà phụ thuộc vào nguồn cấp bù hàng năm của NSNN, với cơ chế như hiện nay nguồn vốn 
này không ổn định vì phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của ngân sách hàng năm. Vì vậy, 
cơ chế tạo vốn cho Ngân hàng cần tham khảo ở một số nước như đã nêu trên. 
3.2.2.2. Giải pháp về hoạt động cho vay 
Phạm vi cho vay của NHCSXH được quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 
04/0/2002 bao gồm: Hộ nghèo, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng 
vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị định 120/HDDBT, các đối tượng chính sách đi 
lao động có thời hạn ở nước ngoài, các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất - kinh doanh thuộc 
hải đảo, khu vực II, III miền núi và các xã thuộc chương trình 135, các đối tượng khác khi 
có quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 
Đối tượng cho vay của NHCSXH tương đối rộng, đại bộ phận hộ nghèo và các đối 
tượng chính sách đều cư trú ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi có môi trường 
sản xuất kinh doanh không thuận lợi, lại chịu sự tác động lớn của diều kiện tự nhiên khắc 
nghiệt. Chính vì vậy, để đồng vốn tín dụng đầu tư cho hộ nghèo và các đối tượng chính 
sách khác phát huy được hiệu quả cả về kinh tế và xã hội, cần phải được tổ chức lồng ghép 
với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội. Bởi lẽ việc hỗ trợ tài chính cho 
hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thông qua “con đường” tín dụng chỉ mới là 
điều kiện “cần”, ví như trao cho họ “chiếc cần câu”, còn việc “câu” ở đâu và bằng cách 
nào để “câu” được nhiều “cá”, đó là trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành, mà quan 
trọng là vai trò của công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao công 
nghệ, ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất - kinh doanh, hướng dẫn 
cách làm ăn cho người nghèo và các đối tượng chính sách. 
Cơ chế cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trước tiên nó phải 
tuân theo nguyên tắc của tín dụng, nhưng đồng thời nó phải phù hợp với đặc điểm của khách 
hàng là người nghèo và các đối tượng chính sách. 
Giải pháp về cơ chế cho vay cụ thể như sau: 
* Về phương thức cho vay 
Tiếp tục duy trì, củng cố phương thức cho vay uỷ thác từng phần qua các tổ chức hội, 
đoàn thể vì các tổ chức này đã có mạng lưới sẵn ở khắp các xã, phường, thôn, bản, vùng 
sâu, vùng xa, cánh tay đắc lực giúp NHCS XH thực hiện có kết quả nhiệm vụ của Chính 
Phủ giao. Với phương thức này Nhà nước không phải cấp kinh phí để mở rộng mạng lưới, 
tăng thêm cán bộ nên có thể tiết kiệm được chi phí cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, để 
nâng cao chất lượng hoạt động uỷ thác của các tổ chức chính trị - xã hội phải không ngừng 
nâng cao công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ đoàn thể thực hiện công tác này. Bên 
cạnh công tác đào tạo tập huấn cần xây dựng các mô hình thí điểm trình diễn để học tập 
phổ biến kinh nghiệm giữa các tổ chức hội, đoàn thể thực hiện việc ủy thác cho vay, giữa 
các địa phương trong toàn quốc. 
 * Về điều kiện cho vay 
 Để nguồn vốn vay có hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba nhà, NHCSXH 
(đầu tư vốn), Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm (hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi,trồng 
trọt) và các tổ chức hội đoàn thể (quản lý vốn vay, chuyển giao kỹ thuật…)giúp hộ nghèo 
nắm vững kỹ thuật ngành nghề mà họ bỏ vốn đầu tư. Từ đó vốn đầu tư có hiệu quả hơn, 
tăng thu nhập cho hộ nghèo, thời gian xoá đói giảm nghèo được rút ngắn hơn. 
Để dự án tín dụng cho người nghèo có hiệu quả, đảm bảo sự giám sát của xã hội, của 
cộng đồng đúng với mục tiêu của dự án thì việc điều tra, phân loại hộ nghèo tại các địa 
phương thông qua việc củng cố Ban xoá đói giảm nghèo của xã, Huyện là việc làm rất 
quan trọng và cần thiết. Điều tra phân loại rõ từng nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của 
từng hộ để có những giải pháp phù hợp, chẳng hạn những hộ đói nghèo không có sức lao 
động do già cả, tàn tật, neo đơn… phải dùng các biện pháp hỗ trợ khác chứ không thể dùng 
phương pháp tiếp cận bằng vốn tín dụng được. Hoặc những hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa 
mà ở những nơi đó chưa có cơ sở hạ tầng, không có chợ, sức mua hạn chế… thì trước khi 
được sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội phải được hỗ trợ từ các giải 
pháp khác phù hợp. 
 Vì vậy, hộ thuộc diện đói nghèo không đồng nghĩa với việc nhất thiết phải được 
cung cấp vốn tín dụng. 
 Việc phân loại đúng đối tượng đòi hỏi trách nhiệm cao của các cơ quan chức năng 
để đạt được mục đích vốn đến đúng đối tượng. Mặt khác, không lấn sân sang các đối 
tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. 
 Về nguyên tắc hộ nghèo vay vốn không phải đảm bảo bằng tài sản nhưng đối với hộ 
vay món lớn, dự án nhóm hộ gia đình, thời hạn cho vay dài, NHCSXH có thể yêu cầu hộ vay 
vốn bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. 
 Về cho vay giải quyết việc làm nên sữa đổi cơ chế giao cho NHCSXH chịu trách 
nhiệm thẩm định, cho vay bảo toàn vốn, các cơ quan quản lý nhà nước chỉ thực hiện chức 
năng ban hành cơ chế và giám sát hoạt động không tham gia trực tiếp thẩm định và quyết 
định cho vay như hiện nay. 
 Đối với cho vay xuất khẩu lao động đề nghị Chính Phủ tăng mức cho vay đối với 
người lao động thuộc vùng có điều kiện khó khăn lên mức 100% chi phí phục vụ cho 
XKLĐ và có biện pháp mở rộng loại vay này tạo điều kiện cho hộ nghèo và các đối tượng chính 
sách tăng thu nhập, xói đói giảm nghèo. 
 Đối với cho vay HSSV nên chuyển sang cho vay thông qua hộ gia đình và cải tiến 
quy trình cho vay thích hợp, không nên gộp chung với hộ nghèo như hiện nay là chưa hợp 
lý. 
* Về lãi suất cho vay 
Qua kinh nghiệm tại một số nước cho thấy, lãi suất cho vay hộ nghèo của họ 
ngang bằng mức lãi suất thị trường và họ cho rằng khi thực hiện cho vay hộ nghèo với 
mức lãi suất như vậy có nhiều tác dụng tích cực hơn như: đối với người nghèo sẽ có 
tác dụng làm cho họ có ý thức tiết kiệm giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành, không chủ 
quan ỷ lại, đối với ngân sách không phải tốn một khoản kinh phí hàng năm để cấp bù 
cho những tổ chức tín dụng làm dịch vụ cho vay hộ nghèo; đối với tổ chức tín dụng 
cho vay hộ nghèo có thể huy động được nguồn vốn trong xã hội, thực hiện đầy đủ 
chức năng của một tổ chức tín dụng. 
 Riêng đối với Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, còn nhiều tổ chức, nhiều 
thành phần trong xã hội chưa quen với cơ chế thị trường nhất là những hộ nghèo ở 
vùng sâu, vùng xa, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, họ cần được sự hỗ trợ nhiều mặt trong 
đó có hỗ trợ lãi suất vì vậy từ những kinh nghiệm của nhiều nước và từ thực tiễn kinh 
tế - xã hội Việt Nam nên có những quy định về lãi suất phù hợp. Trong những năm 
đầu chúng ta nên hỗ trợ hộ nghèo vay vốn với lãi suất thấp, sau đó nâng dần lãi suất 
lên ngang bằng với mức lãi suất thị trường 
 Lãi suất cho vay vốn đối với hộ nghèo nên từng bước theo hướng lãi suất thị trường, 
bởi vì: 
Một mặt, việc áp dụng lãi suất ưu đãi không tránh khỏi hiện tượng người không 
nghèo lại được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Mặt khác, người nghèo được nhận vốn vay ưu 
đãi họ dễ hiểu lầm đó là nguồn trợ cấp và đôi khi họ dùng vốn đó để cho vay lại các đối 
tượng khác hoặc gửi tiền tiết kiệm để kiếm chênh lệch. 
 Cũng chính từ chính sách ưu đãi tín dụng là người nghèo được bao cấp qua lãi suất 
nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, họ chưa nhận thức rõ được đấy là sự trợ giúp của 
Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Ngoài ra nó còn làm tăng nhu cầu 
vay vốn đây là một nhược điểm của tín dụng ưu đãi. 
 Để được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi này, vấn đề người nghèo quan tâm 
đó là được vay vốn một cách thuận lợi, được vay nhiều lần và kèm theo đó là được tiếp 
nhận các dịch vụ chuyển giao kỹ thuật, tiếp thu cách thức làm ăn và chỉ dấn thị trường tiêu 
thụ sản phẩm làm ra từ các tổ chức hỗ trợ khác nhau. 
 Quan điểm của tác giả cho rằng, lãi suất cho vay đối với hộ nghèo ở Việt Nam 
trong giai đoạn hiện nay không nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi quá ưu đãi nhưng cũng 
không nên áp dụng lãi suất tính đủ mà nên thống nhất hài hoà giữa lãi suất cho vay người 
nghèo và lãi suất cho vay thông thường của các Ngân hàng thương mại và có thể áp dụng 
các hình thức giảm lãi suất như là đòn bẩy khuyến khích người vay trả nợ, trả lãi. Hoặc có 
thể quy định mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thị trường một chút. Song về lâu dài, để 
hoạt động của ngân hàng bền vững thì mức lãi suất cho vay cũng cần tính đủ các yếu tố 
đầu vào. 
 * Về mức cho vay 
 Nhu cầu vốn cho vay đối với hộ nghèo rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào điều 
kiện và khả năng canh tác của từng vùng và của từng địa phương. Đối với các hộ nghèo ở 
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc…mà điều kiện cơ sở hạ tầng thấp và hầu như 
chưa có, điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, đất đai canh tác ít, trình độ thâm canh thấp, chủ 
yếu thực hiện việc chăm bón theo thời vụ hoặc theo từng công đoạn của cây trồng theo 
kinh nghiệm cổ truyền. Họ ít chú trọng đến việc thâm canh, đầu tư chiều sâu. Do đó, vốn 
đầu tư vào sản xuất của hộ nghèo còn ở mức thấp. Nhưng về lâu dài, khi năng lực sản xuất, 
kỹ thuật thâm canh của hộ nghèo tăng lên thì ngân hàng cũng cần phải nâng mức cho vay 
tối đa đối với một hộ nghèo tăng lên, khắc phục tình trạng cho vay có tính cân bằng, thời 
gian cho vay không phù hợp với khả năng trả nợ của người vay như hiện nay. 
 Hiện nay mức cho vay tối đa đối với một hộ nghèo là 7 triệu đồng. Đối với những 
hộ nghèo có điều kiện đầu tư vào những đối tượng như: chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, lấy 
sữa, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, cải tạo 
chuồng trại, đầu tư phát triển ngành nghề thì có thể được đầu tư đến 10 triệu đồng một hộ. 
Về lâu dài đối với những đối tượng này có thể nâng mức cho vay tối đa lên 15 triệu đồng 
một hộ nhưng kèm theo đó cũng cần có những điều kiện nhất định như phải có dự án cụ 
thể, phải nằm trong vùng quy hoạch kinh tế trên địa bàn, phải có cấp có thẩm quyền phê 
duyệt… 
 * Đơn giản hoá thủ tục và quy trình cho vay 
 Hộ nghèo và hộ chính sách phần lớn cư trú ở những vùng sâu, vùng xa do phương 
tiện đi lại, thông tin liên lạc khó khăn tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa làm quen với 
thủ tục giấy tờ hành chính do đó để tạo điều kiện cho hộ nghèo, hộ chính sách dễ dàng tiếp 
cận được nguồn vốn cho vay trước hết ngân hàng phải thực hiện nghiêm túc việc giao dịch 
tại xã phường, để người dân thuận tiện đi lại. 
 - Về thủ tục cho vay cần đảm bảo tính nguyên tắc nhưng phải hết sức đơn giản để 
phù hợp với trình độ dân trí của hộ nghèo. Hộ nghèo chỉ cần làm đơn xin vay do ngân 
hàng in sẵn phát cho từng hộ vay, hộ vay chỉ cần điền những chi tiết cần thiết như họ tên, 
địa chỉ, mục đích xin vay, số tiền xin vay và thời hạn vay vốn. 
 - Phê duyệt cho vay: việc phê duyệt cho vay cần đảm bảo nguyên tắc xác định đúng 
đối tượng cho vay là hộ nghèo, xác định đúng mục đích xin vay, nhu cầu vay vốn phù hợp 
với mục đích xin vay của hộ nghèo nhưng phải tránh gây phiền hà cho hộ nghèo. 
 - Việc cung ứng vốn cho hộ nghèo cần kịp thời và thuận tiện: đây là yêu cầu cơ bản 
và cần thiết vì với bản chất của người nghèo là thật thà, chất phác song cũng rất tự trọng. 
Khi thiếu vốn họ tha thiết được vay ngân hàng một cách nhanh chóng, đơn giản và thuận 
tiện để phục vụ kịp thời nhu cầu của sản xuất. Họ rất e ngại và cảm thấy phiền hà khi phải 
đến ngân hàng nhiều lần để làm các thủ tục vay vốn phức tạp và khó khăn. Trong thực tế, 
hộ gia đình nghèo sẵn sàng chấp nhận vay tư nhân với lãi suất cao vì nhu cầu vốn của họ 
được đáp ứng kịp thời, nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện còn hơn là phải chờ đợi để nhận 
được vốn rẻ của ngân hàng khi cơ hội kinh doanh đã mất và thời vụ sản xuất đã qua. 
 Để đảm bảo cung ứng vốn kịp thời và thuận tiện cho hộ nghèo vay vốn NHCSXH 
cần phải: 
 + Chủ động phân bổ vốn kế hoạch cho các Chi nhánh ngay từ đầu năm. 
 + Đơn giản hoá quy trình và thủ tục vay vốn, đảm bảo cho hộ nghèo vay vốn dễ 
nhớ, dễ hiểu và dễ thực hiện. 
 + Đội ngũ cán bộ ngân hàng phải có lòng nhiệt tình, tận tuỵ, sẵn sàng vượt khó 
khăn để đến với hộ nghèo, đồng thời phải có kiến thức về sản xuất, về khuyến nông, 
khuyến lâm, hướng dẫn cách thức làm ăn cho hộ nghèo và cách sử dụng vốn vay có hiệu 
quả… 
 * Xây dựng mạng lưới Tổ tiết kiệm và vay vốn 
 Thực hiện cơ chế cho vay trực tiếp đến người vay thông qua tổ, nhóm là phương 
thức cho vay phù hợp với điều kiện về mô hình tổ chức và số lượng biên chế cán bộ của 
Ngân hàng Chính sách xã hội hiện nay. Chính vì vậy, việc xây dựng và củng cố mạng lưới 
Tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động có chất lượng là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết 
định đến việc mở rộng hoạt động tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. 
Tổ vay vốn phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện và bầu ra Ban quản lý tổ (từ 1 
đến 3 người), Ban quản lý tổ, nhất là tổ trưởng có vai trò quan trọng trong việc tư vấn cho 
Ngân hàng về việc bình xét và đề nghị cho vay, giám sát việc sử dụng tiền vay của các tổ 
viên, vận động các tổ viên tham gia gởi tiền tiết kiệm, đôn đốc các thành viên trả nợ gốc, 
lãi đúng thời hạn, cùng với ngân hàng xử lý những vấn đề phát sinh trong công tác tín 
dụng. 
 Do vậy, để hình thành được mạng lưới, Ban quản lý tổ phải hoạt động có hiệu quả, 
thật sự là cầu nối hữu hiệu giữa ngân hàng và người vay. Ngân hàng Chính sách sách xã 
hội phải phối hợp với UBND, Ban xói đói giảm nghèo, hội đoàn thể xã, phường để làm tốt 
việc thành lập tổ và bầu ban quản lý tổ. Mặt khác phải thực hiện tốt việc chi trả tiền hoa 
hồng cho Ban quản lý tổ trên cơ sở khối lượng tín dụng quản lý và kết quả đạt được trong 
thu nợ, thu lãi, nhằm tạo động lực và tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng với ban quản 
lý tổ vay vốn. 
 3.2.2.3. Các giải pháp khác 
Một là: Do tính chất ưu đãi về lãi suất cho vay, do đó việc bình xét các hộ được vay 
vốn một cách dân chủ và công khai. 
 Như chúng ta đã biết một trong những trở ngại và băn khoăn của các nhà nghiên 
cứu và hoạch định chính sách cho vay hộ nghèo là làm thế nào để đầu tư vốn đúng đối 
tượng, đúng địa chỉ hộ nghèo. Do vậy, cùng với việc giải ngân trực tiếp đến tay hộ nghèo, 
giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay còn cần phải thực hiện một chế độ tín dụng công 
khai và dân chủ trong cộng đồng dân cư và trong từng nhóm vay vốn. 
 Việc bình xét, giám sát của cộng đồng xã hội, của các cấp chính quyền và của cán 
bộ tín dụng ngân hàng để lựa chọn hộ vay phải được xem như một nguyên tắc đối với kênh 
tín dụng chính sách này nhằm mục đích vốn cho vay đúng đối tượng, hạn chế thấp nhất 
những tiêu cực có thể xảy ra đối với nguồn vốn ưu đãi, thể hiện tính xã hội hoá về đầu tư 
tín dụng hộ nghèo. 
 Hai là: Tăng cường công tác quản lý và kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của hộ 
nghèo vay vốn. 
 Đầu tư tín dụng cho hộ gia đình nghèo là loại hình tín dụng có mức rủi ro lớn hơn 
bất kỳ một chương trình tín dụng nào khác. vì những lý do như sau: - Hộ nghèo thường là 
những người có trình độ văn hoá thấp, lại được vay vốn không phải thế chấp do vậy mà ý 
thức trách nhiệm về mặt pháp lý của họ đối với món vay thấp, đó là một trong những 
nguyên nhân đẫn tới họ sẵn sàng sử dụng vốn sai mục đích nếu không được kiểm soát chặt 
chẽ. 
 - Phần lớn hộ nghèo thường thiếu kiến thức làm ăn, do vậy họ rất dễ bị thua lỗ trong 
sản xuát kinh doanh nếu không được hướng dẫn và giúp đỡ cách thức làm ăn. 
 Ngoài ra do chính sách bao cấp về lãi suất nên gây ra tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước, 
họ chưa nhận thức rõ được đây là sự trợ giúp của Nhà nước để cho họ tự phấn đấu vươn 
lên, các chương trình văn hoá, giáo dục, y tế… cần đi trước một bước mở đường cho 
chương trình tín dụng của NHCSXH. 
 Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát bằng nhiều hình thức như: kiểm tra tại 
chỗ, kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra chéo… nhằm phát hiện và có biện pháp 
sử lý thích hợp với những sai sót đã xảy ra và phòng ngừa những sai phạm mới. 
 Việc kiểm tra phải được tiến hành cùng với việc tư vấn cho hộ vay vốn về cách thức 
làm ăn, biết tiết kiệm và sử dụng vốn đúng mục đích. Việc kiểm tra phải được tiến hành 
thường xuyên, rộng khắp từ các tổ viên được vay vốn, Tổ trưởng Tổ Tiết kiệm và vay vốn 
đến các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay và bản thân cán bộ ngân hàng trong 
hệ thống NHCSXH và các Ban, Ngành liên quan. 
 Ba là: Chú trọng và quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực của hệ thống 
NHCSXH, do là đơn vị vừa mới được thành lập, cán bộ đa phần là mới tuyển dụng, tỷ lệ 
(85%) nhìn chung được đào tạo cơ bản nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, nên rất hạn 
chế trong thực thi nhiệm vụ. Từ thực tế này đặt ra cho NHCSXH phải có kế hoạch chi tiết 
trong việc đào tạo cán bộ với nhiều phương pháp và hình thức khác nhau, phải tổ chức 
đánh giá phân loại cán bộ để có hình thức đào tạo cho phù hợp như đào tạo dài hạn, ngắn 
hạn, tấp huấn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề; bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức 
pháp luật và kiến thức về quản lý nhà nước… 
 Bên cạnh đó còn phải thường xuyên thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, bố trí sắp 
xếp hợp lý cán bộ. Tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa 
phương cho phù hợp với nhu cầu hoạt động. 
 Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại, nâng cao nhận thức, nâng cao tay nghề 
cho đội ngũ cán bộ thuộc các tổ chức chính trị - xã hội nhận uỷ thác cho vay, thành viên 
Ban quản lý Tổ Tiết kiệm và vay vốn của NHCSXH. Việc đào tạo, tấp huấn phải được 
phân loại theo từng đối tượng cụ thể cho phù hợp với trình độ và công việc đảm nhận với 
phương châm cầm tay chỉ việc. 
Kiến nghị 
1. Đối với Nhà nước và Chính phủ 
 Đề nghị Chính phủ cấp đủ vốn điều lệ ban đầu cho NHCSXH là 5.000 tỷ đồng theo 
Quyết định thành lập và cấp bổ sung hàng năm theo quy mô hoạt động nhằm tạo điều kiện 
để NHCSXH có đủ nguồn vốn cho vay, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và những 
phương tiện cần thiết khác phục vụ cho yêu cầu hoạt động của toàn hệ thống. 
 - Những hộ ở ngưỡng cửa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo 
nếu như gia đình họ gặp phải thiên tai, hoạn nạn, có người ốm đau. Để XĐGN bền vững, 
đề nghị Chính phủ có cơ chế thủ tục vay đối với đối tượng này thêm vài chu kỳ sản xuất 
kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ sức vươn lê thoát 
nghèo bền vững. 
 - Cần có một môi trường kinh tế kinh doanh thuận lợi: Nhà nước luôn có một chính 
sách tạo điều kiện cho Ngành Nông nghiệp phát triển, có như vậy mới tạo cơ sở cho vốn 
tín dụng bền vững. Chẳng hạn, tăng cường công tác khuyến nông, khuyến lâm thúc đẩy 
việc tiêu thụ và chế biến sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp chính sách tiếp thị, hướng dẫn 
sản xuất và tiêu dùng, chính sách bảo hộ xuất khẩu...Khu vực nông thôn, miền núi, vùng 
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần được chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo điều 
kiện phát triển cho người dân sinh sống ở những vùng này cả về trình độ dân trí, nhận thức 
xã hội, trình độ sản xuất, kinh doanh. 
 Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển, cần 
khuyến khích hỗ trợ, tạo cơ sở pháp lý cho các Công ty tài chính ra đời phát triển dịch vụ tới 
mọi người dân, đặc biệt là bảo hiểm tín dụng. 
 Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ 
sở pháp lý cho Ngân hàng Chính sách xã hội khai thác và tập trung các nguồn vốn ổn định, 
không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp như: trích một phần nguồn tín dụng tài trợ thuộc nguồn 
vốn ODA, nguồn vốn tiền gửi kết dư ngân sách hàng năm; các quỹ Bảo hiểm xã hội, Kho bạc 
Nhà nước mở tài khoản tiền gửi tại NHCSXH nhất là tại các phòng Giao dịch NHCSXH cấp 
huyện. 
 Tiếp tục thực hiện chủ trương: các tổ chức tín dụng nhà nước có trách nhiệm duy trì 
số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động tại thời điểm 31 tháng 12 
năm trước theo quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về 
tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Mở rộng chủ trương này ở 
tất cả các tổ chức tín dụng đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. 
 Ngoài việc dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách 
hàng năm của các địa phương, những địa phương không phải trợ cấp ngân sách từ trung 
ương, các doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh có lãi, có thu nhập lớn, cần có kế 
hoạch tăng nguồn vốn để cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác trên địa bàn, 
NHCSXH nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay theo các chương trình chỉ định của chủ đầu tư 
tại địa phương. 
 Có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt dộng của Ban đại diện Hội đồng 
quản trị các cấp, củng cố mối liên kết phối hợp và lồng ghép giữa các tổ chức chính trị - xã 
hội để hoạt động có hiệu lực thực sự. 
 Cơ chế tài chính đối với NHCSXH 
 Nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát huy cơ chế quản lý dân chủ 
trong công tác quản lý tài chính, đề nghị xem xét điều chỉnh cơ chế tài chính theo hướng 
gắn lợi ích của Ngân hàng với tách nhiệm thu lãi và giữ ổn định mức khoán cho cả thời kỳ 
2006-2010, nhằm góp phần cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao tính tự chủ và tự chịu 
trách nhiệm của Ngân hàng. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện vận 
chuyển: 
 Để tạo điều kiện cho NHCSXH có trụ sở làm việc ổn định, đặc biệt là chi nhánh các 
tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng xa, vùng dặc biệt khó khăn; đồng thời, giải 
ngân kịp thời vốn vay đến người vay một cách an toàn. nhanh chóng và hiệu quả, kính đề 
nghị Nhà nước cho đầu tư: 
- Cấp vốn để xây dung trụ sở cho những tỉnh, huyện mới chia tách ở vùng sâu, vùng 
xa, vùng đặc biệt khó khăn. 
 - Những nơi khác tiếp tục thực hiện Chỉ thị 09/2004/CTTg của Thủ tướng Chính 
phủ và văn bản của Bộ Tài chính, ưu tiên chuyển các trụ sở, các phương tiện làm việc dôi 
ra do sắp xếp tổ chức lại có nguồn gốc ngân sách chuyển cho NHCSXH làm trụ sở, mua 
sắm phương tiện ô tô để giải ngân cho hộ nghèo ở xã, phường. 
 Nhà nước có chính sách cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho NHCSXH khai thác và tập 
trung các nguồn vốn ổn định, không phải trả lãi hoặc trả lãi thấp để cho vay hộ nghèo. 
 Những hộ ở ngưỡng cữa nghèo và vừa mới thoát nghèo thường sẽ dễ tái nghèo nếu 
như gia đình họ gặp phải thiên tai hoạn nạn, có người ốm đau… do đó để xoá đói giảm 
nghèo bền vững, đề nghị Chính phủ cho cơ chế tiếp tục cho vay đối với hộ này thêm vài 
chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo lập khả năng tài chính, đủ 
sức vươn lên thoát nghèo bền vững. 
2. Đối với các Bộ, Ngành 
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng Bộ Tài chính căn cứ vào phương hướng, mục 
tiêu, nhiệm vụ về XĐGN đến năm 2010, xác định rõ nhu cầu về vốn tín dụng và khả năng 
tài chính của Nhà nước phục vụ mục tiêu này; đồng thời có giải pháp cụ thể huy động các 
nguồn vốn có lãi suất thấp (vốn ODA, vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế, tiền gửi 
của các quỹ tài chính trong và ngoài nước....) để tạo điều kiện cho NHCSXH ổn định, bền 
vững. 
 - Đối với Ngân hàng Nhà nước: có chính sách hỗ trợ NHCSXH sớm hoàn thiện hệ 
thống thanh toán hiện đại, cho phép NHCSXH thực hiện thêm một số dịch vụ ngân hàng, 
nhằm giúp NHCSXH trong tương lai có thể cung cấp cho khách hàng vùng II, vùng III có 
những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. 
 - Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: cần xây dựng một chương trình 
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư… dành riêng cho hộ nghèo, có cán bộ chuyên trách 
hướng dẫn cụ thể đối với người nghèo cách làm ăn, có những mô hình trình diễn thí điểm, 
làm mẫu ở những vùng nghèo, xã nghèo để hộ nghèo học tập. Phối hợp chặt chẽ các 
chương trình này với chương trình tín dụng hộ nghèo, có như vậy hộ nghèo vay vốn mới 
có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, ổn định và cải thiện cuộc sống xoá đói giảm 
nghèo. 
3. Đối với Uỷ ban nhân dân các cấp 
- Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động 
của Chi nhánh NHCSXH trên địa bàn. 
- Chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành, UBND các huyện, thị phối hợp với các tổ chức hội 
đoàn thể tổ chức lồng ghép các chương trình, chuyển giao công nghệ, khuyến nông, 
khuyên lâm, khuyến ngư, hướng dẫn thị trường với việc sử dụng vốn tín dụng, hướng dẫn 
cách làm ăn để người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả. 
- Tiếp tục dành một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch ngân sách 
hàng năm để tăng nguồn vốn tín dụng cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác 
trên địa bàn. 
- Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng 
cường năng lực hoạt động cho các đơn vị NHCSXH trên địa bàn. 
- Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát, uốn nắn kịp thời những việc làm lệch 
lạc, sai chính sách, chế độ. đồng thời có kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động 
của Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp. 
Kết luận chương 3 
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động của 
NHCSXH, quan điểm về tín dụng đối với hộ nghèo trong thời gian tới và từ mục tiêu hoạt 
động của NHCSXH tỉnh Quảng Nam giai đoạn 5 năm (2006-2010), tác giả đã đưa ra những 
giải pháp nhằm đổi mới hoạt động của NHCSXH Quảng Nam. Đồng thời tác giả cũng đưa ra 
một số kiến nghị đối với nhà nước và chính phủ, các bộ, ngành có liên quan, UBND các cấp 
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của NHCSXH. 
Kết luận 
 Là một tổ chức tín dụng đặc thù, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, với nhiệm 
vụ chủ yếu là chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước cho hộ nghèo và các đối tượng 
chính sách, Ngân hàng Chính sách xã hội ra đời và được tổ chức hoạt động theo những 
chuẩn mực của một tổ chức tín dụng có hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn và phát triển 
đúng hướng để Ngân hàng thực sự trở thành một công cụ chính sách quan trọng, bảo đảm 
tăng trưởng đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện 
đại hoá đất nước. 
 Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, phân tích thực trạng 
hoạt động của một ngân hàng, luận án đã đạt được mục tiêu nguyên cứu đề ra và có những 
đóng góp sau: 
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của hệ thống Ngân hàng, 
Ngân hàng Chính sách Xã hội và vai trò của nó trong việc thực hiện chương trình mục tiêu 
quốc gia giảm nghèo. 
 Phân tích những vấn đề cơ bản về tín dụng và vai trò của tín dụng trong Chương 
trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo. Làm rõ những nguyên tắc, nội dung cơ bản 
của cơ chế tín dụng đối với người nghèo. nghiên cứu và đề xuất cơ chế tín dụng thích hợp 
đối với người nghèo. 
Nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện tín dụng chính sách phục vụ mục tiêu xoá đói 
giảm nghèo ở một số nước trên thế giới; rút ra những bài học kinh nghiệm có khả năng áp 
dụng vào thực tiễn Việt Nam. 
Phần thực trạng thông qua số liệu phân tích các năm (từ năm 1997 đến năm 2005) đã 
đưa ra được những nhận xét xác thực, phù hợp với thực tế hoạt động của NHCSXH, rút ra 
những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại hạn chế và nguyên nhân,đề xuất những giải 
pháp, kiến nghị nhằm đổi mới hoạt động của chi nhánh. Kết quả nghiên cứu sẽ là tư liệu có 
ích để NHCSXH xây dựng các cơ chế chính sách cho hoạt động của NHCSXH nói chung 
và chi nhánh Quảng Nam theo hướng ổn định và bền vững. 
 Hoàn thành bản luận văn này tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ kiến thức 
của mình vào lĩnh vực nghiên cứu các giải pháp để đổi mới hoạt động của chi nhánh góp 
phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. Tuy nhiên, đây là một vấn đề 
còn rất phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều Bộ, Ngành, Đoàn thể... mà khả năng 
về nhận thức, lý luận và thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy, 
những nội dung thể hiện trong bài viết chắc chắn còn phải bổ sung nên tác giả rất mong 
muốn nhận được nhiều sự đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các cơ quan, các đồng 
nghiệp và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này để có thể tiếp tục tu chỉnh và hoàn 
thiện. 
 Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và 
hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Văn Sáu, các thầy cô giáo Học viện Chính trị Quốc 
gia Hồ Chí Minh và bạn bè đồng nghiệp đã giúp tác giả hoàn thành luận văn này. 
Danh mục Tài liệu tham khảo 
1. Bộ môn kinh tế - chính trị đại học kinh tế quốc dân (1993), Lịch sử các học thuyết kinh 
tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2005), Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo 
giai đoạn (2006-2010), Hà Nội. 
3. Chính phủ (2002), Nghị định 78/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về 
tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, Hà Nội. 
4. Chính phủ (2002), Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, 
Hà Nội. 
5. Chính Phủ (2004) Chỉ thị số 09/2004/CT-TTg Thủ tướng Chính phủ 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia. 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. TS Đàm Hữu Đắc (2005), "Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam- Thực trạng và giải 
pháp", Tạp chí Lao động và xã hội, số chuyên đề tháng 10/2005, tr.1-2. 
10. Hoàng Xuân Đại (7/2006), "Tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng của nhà nước- Một 
nguồn vốn quan trọng của NHCSXH", Thông tin NHCSXH, tr.15. 
11. Đặng Văn Điền (5/2006), "Tăng lãi suất cho vay, những suy nghĩ của người nghèo", 
Thông tin NHCSXH, tr.5, 10. 
12. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Khoa học quản lý, Hà 
Nội. 
13. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình kinh tế học phát triển, Hà 
Nội. 
 14. Hà Thị Hạnh (2003), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của 
Ngân hàng Chính sách xã hội, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học kinh tế 
quốc dân Hà Nội, Hà Nội. 
15. TS Nguyễn Hải Hữu (10/2005), "Định hướng chương trình mục tiêu quốc gia giảm 
nghèo giai đoạn 2006-2010", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.10,11,12. 
16. Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng năm 2003,2004. 
17. Nguyễn Thị Liễu(4/2005), "Công tác tổ chức cán bộ NHCSXH 3 năm thành lập", 
Thông tin NHCSXH, tr.7, 8. 
18. Nguyễn Thị Liễu (2006), Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với hộ nghèo của 
NHCSXH Việt Nam, Luận án thạc sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng Hà Nội, Hà 
Nội. 
19. Các Mác (1960), Tư bản quyển 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
20. E.wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, 
Hà Nội. 
21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1994), Báo cáo kết quả khảo sát mô hình Grameen 
Bank ở Bangladesh, Hà Nội. 
22. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (1996), Báo cáo khảo sát 
mô hình Ngân hàng Nhân dân Indonesia, Hà Nội. 
23. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động (1996-
2000), Hà Nội. 
24. Ngân hàng phục vụ người nghèo Quảng Nam (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt 
động (1997-2001),Tam Kỳ. 
25. Ngân hàng Chính sách xã hội (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động của Ngân 
hàng Chính sách xã hội (2003-2005), Hà Nội. 
26. Ngân hàng Chính sách xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động 
(2003-2005),Tam Kỳ. 
27. ThS Phạm Kim Nhuận (2005), "Bài học cho vay hộ nghèo từ uỷ thác qua các tổ chức chính 
trị xã hội", Tạp chí Lao động và xã hội, (10), tr .15, 16. 
28. Phan Cử Nhân (7/2006), "ứng dụng ngân hàng điện tử ở các tổ chức tài chính vi mô 
trên thế giới", Thông tin NHCSXH, tr.29, 30. 
29. Phan Cử Nhân (4/2005), "Braxin: Ngân hàng nhân dân hướng vào tầng lớp người 
nghèo", Thông tin NHCSXH, tr.10, 12. 
30. Trần Lan Phương (2006), "Một số kinh nghiệm học tập từ Tập đoàn Ra Bo-Hà Lan", 
Thông tin NHCSXH, tr.11, 12. 
31.Nguyễn Kim Phung (2006), "Mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện kế hoạch 
tín dụng năm 2006", Thông tin NHCSXH, tr.30. 
32. Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
33. TS Cao Viết Sinh (10/2005), "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm 
nghèo, thành công và thách thức", Tạp chí Lao động và xã hội, tr.3, 5, 6. 
34. Sở Lao động Thương binh và Xã hội Quảng Nam (10/2005), Chương trình mục tiêu 
quốc gia giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010, Tam Kỳ. 
35. Phạm Thanh (7/1994), "Chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp ở Thái lan và 
Indonesia", Tạp chí kinh tế dự báo, (225). 
36. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
37. Hoàng Nghĩa Tứ (8/2005), "Ngân hàng chính sách xã hội là công cụ quan trọng, hữu 
hiệu để góp sức XĐGN", Thông tin NHCSXH, tr.1-2. 
38. Trần Hữu ý (2006), "Thử bàn về cơ chế cho vay đối với vùng nghèo của NHCSXH", 
Thông tin NHCSXH, tr.1-2. 
Mục lục 
 Trang 
Mở Đầu 1 
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản và vai trò của Ngân hàng 
Chính sách xã hội 5 
1.1. Ngân hàng Chính sách xã hội trong hệ thống Ngân hàng 5 
1.2. Ngân hàng Chính sách xã hội với mục tiêu xoá đói giảm nghèo 16 
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về việc phát huy tín dụng ngân hàng 
trong việc xoá đói giảm nghèo 24 
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách 
xã hội tỉnh Quảng Nam 32 
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Chính 
sách Xã hội tỉnh Quảng Nam 32 
2.2. Tình hình Nguồn vốn và Sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Chính 
sách xã hội Quảng Nam 38 
2.3. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân 48 
Chương 3: Định hƯớng và Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh 
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam 58 
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính 
sách xã hội 58 
3.2. Giải pháp đổi mới hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã 
hội tỉnh Quảng Nam 62 
Kiến nghị 80 
Kết luận 85 
danh mục Tài liệu tham khảo 87 
Danh mục các chữ viết tắt 
 - BĐD : Ban đại diện 
 - HĐQT : Hội đồng quản trị 
 - HSSV : Học sinh, sinh viên 
 - KH&ĐT : Kế hoạch và Đầu tư 
 - LĐTB&XH : Lao động Thương binh và xã hội 
 - NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội 
 - NHNN : Ngân hàng Nhà nước 
 - NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 
 - NHNg : Ngân hàng phục vụ người nghèo 
 - NHTM : Ngân hàng thương mại 
 - UBND : Uỷ ban nhân dân 
 - XĐGN : Xoá đói giảm nghèo 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam (2).pdf LUẬN VĂN- Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Quảng Nam (2).pdf