Nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu thực tiễn là
nhiệm vụ mang ý nghĩa chiến lược của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hết sức quan trọng vừa cơ bản, lâu dài
vừa cấp bách trước mắt. Đây là vấn đề mang tính kinh tế xã hội sâu sắc,
vì nó liên quan đến con người. Trong bối cảnh đó đề án đã hệ thống các
vấn đề lý luận về nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động trên các
mặt.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5876 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g dân cư Việt Nam của Tổng cục Thống kê gần
đây cho thấy có 21, 45%lao động so với tổng sô lao động trong tuổi của
khu vực nông thôn tham gia làm công ăn lương(quan hệ thuê mướn),
trong đó số làm công ăn lương chuyên nghiệp là 4, 29%và 42, 81% 32,
75%. Lao động làm công ăn lương ở nước ta từ 3 tháng trở lên/năm nhìn
chung còn chiếm tỷ lệ nhỏ (17% trong tổng số lực lượng lao động của xã
13
hội, trong khi đó ở các nước có nền kinh tế phát triển tỷ lệ này thường
chiếm từ 60-80%).
Số liệu điều tra còn cho thấy giá công lao động đang có xu thế tăng
lên, đồng thời có sự khác biệt đáng kể về giá công lao động giữa các địa
phương.
2.1.1.1.4- Thực trạng việc làm.
Hiện nay, nước ta có lợi thế về lực lượng lao động có trình độ giáo
dục và kỷ luật cao. Lực lượng lao động của Việt Nam vào khoảng38
triệu người và tương đối trẻ. Cơ cấu lao động của nước ta tiêu biểu cho
nền kinh tế nông nghiệp với 69% lực lượng lao động làm việc trong khu
vực nông nghiệp, 12, 3% trong công nghiệp và xây dựng, còn lại 18, 6%
trong khu vực dịch vụ. Tuy nhiên, hầu hết lao động là không có nghề,
giá nhân công lại thấp. Hơn nữa, các cơ hội tạo việc làm còn bị hạn chế.
Ơ khu vực nông thôn, tình trạng thiếu đất đai và tài chính, sự hạn chế
trong tiếp cận thị trường, kỹ thuật nông nghiệp không hiệu qủa, sự thay
đổi theo thời vụ về yêu cầu lao động và thiếu các cơ hội có việc làm phi
nông nghiệp đã hạn chế cơ hội tăng trưởng kinh tế. Vấn đề tạo việc làm
trong khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại không
thoả đáng. Việc làm trong khu vực nhà nước, kể cả trong các doanh
nghiệp nhà nước đã giảm mạnh từ 14% năm 1988 xuống còn 9% năm
1998 do tinh giảm biên chế và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp
nhà nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu
hút chưa nhiều lao động(chỉ khoảng 280. 000 lao động). Điều đó tất yếu
làm tăng số thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn.
Kinh nghiệm mở rộng các cơ hội có việc làm trong những năm
1980 của 69 nước trên thế giới đã cho kết luận: tốc độ tăng của việc làm
liên quan chặt chẽ và tỷ lệ thuận với tốc độ tăng GDP theo đầu người và
sự giảm thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực(HDI). Tốc độ tăng GDP theo
đầu người hàng năm tăng lên 1% sẽ làm tốc độ tăng của việc làm lên 0,
18%. Và sự thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực giảm đi 1% sẽ làm tốc độ
tăng của việc làm lên 0, 09%. Kết quả này cho thấy việc mở rộng cơ hội
có việc làm phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế và vào việc tăng cường
năng lực cơ bản của con người.
14
Trong quá trình cải cách chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong những năm 1990-1997 tốc độ
tăng GDP bình quân của nước ta hơn 8%. Từ năm 1998, do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số nước trong khu vực
Đông Nam á, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và xuất khẩu giảm làm cho
GDP thực tế giảm sút (còn5, 8%) nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn tích
cực, tỷ lệ lạm phát vẫn được kiểm soát (dưới10%). Cải cách đã làm thay
đổi cơ cấu của nền kinh tế và cấu thành của lao động.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình phát triển trên tiến trình
công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước. Việc đô thị hoá nhanh đã thu
hút thêm nhiều việc làm. Nhưng ngay cả ở những chỗ mà cơ hội có việc
làm được mở rộng cũng không đủ thu hút hết số thất nghiệp tồn đọng,
đặc biệt là ở khu vực thành thị, do tốc độ tăng đân số của nước ta vẫn
còn cao(1, 8%). Tuy việc làm được mở rộng trong khu vực sản xuất công
nghiệp nhưng không đủ để thu hút hết lực lượng lao động đang tăng
nhanh với tốc độ trên 3%. Hơn thế, việc làm có hưởng lương thường
xuyên không tiến triển đã làm tăng số người tự làm việc hay làm các
công việc không thường xuyên. Nhiều công nhân phải chuẩn bị cho
mình các công việc kinh doanh riêng vì họ không thể tìm được việc làm
hưởng lương ổn định. Nhiều người chỉ làm việc không trọn ngày, trọn
giờ.
Việc làm còn tăng lên trong khu vực dịch vụ và đặc biệt trong khu
vực phi chính quy. Nhưng hầu hết các khu vực này năng suất không cao.
Ơ một cấp độ khác khu vực phi chính quy chiếm gần 60% tổng số
việc làm. Đó có thể là nguồn chủ yếu tạo việc làm nhưng đòi hỏi sức
cạnh tranh cao và phụ nữ làm hầu hết các công việc trong lĩnh vực này.
Những người làm việc trong khu vực phi chính quy thường sử dụng vốn
đầu tư thấp, kỹ năng nghề nghiệp và công nghệ hạn chế v. v....
Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đang đầu tư phát triển giáo dục
và đào tạo nhằm nâng cao trình độ giáo dục và năng lực làm việc của
người lao động. Trình độ giáo dục của nguồn nhân lực ở nước ta vào loại
cao so với một số nước trong khu vực nhưng chưa đủ đáp ứng các kỹ
15
năng nghề nghiệp và kiến thức cần thiết cho công nghiệp hoá, hiên đại
hoá đất nước. Viêc tạo nguồn nhân lực có trình độ cao là một trong
những vấn đề chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá hiện nay. Hệ
thống công nghiệp đang đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao và chuyên sâu. Khoa học và công nghệ đang tạo ra
những thay đổi liên tiếp, do đó xuất hiện nhiều nghề mới thay thế liên
tục các nghề cũ. Chính vì thế, công nghiệp hoá đòi hỏi hệ thống giáo dục
và đào tạo phải quan hệ theo chức năng với các nghề và chuyên môn có
tính cấp thiết đối với công nghệ hiện đại.
Hiện nay chất lượng giáo dục và đào tạo của nước ta còn thấp. Theo
kết quả Tổng điều tra dân số tháng 4/1999 số người có trình độ chuyên
môn kỹ thuật chỉ chiếm 7, 6% tổng dân số từ 13 tuổi trở lên, tăng 13, 4%
so với năm 1989, trong đó số ở thành thị chiếm 17, 5%, ở nông thôn 4,
2%. Tuy số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng hàng năm nhưng
tỷ lệ đó thể hiện chất lượng của đội ngũ lao động còn thấp. Việc đào tạo
chuyên môn kỹ thuật lại không gắn với thị trường lao động và với các
khu vực sản xuất. Điều đó dẫn đến sự phân bố không hợp lý lao động có
kỹ thuật giữa các ngành nghề và giữa các khu vực.
GDP theo đầu người của Việt Nam hiện nay vẫn còn rất
thấp(352USD) và chỉ số phát triển nhân lực nằm ở vị trí dưới trung bình
so với các nước(122 trong số 174 quốc gia) nhưng công cuộc cải cách
của nước ta đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc mở rộng cách lựa
chọn và cải thiện cuộc sống của người dân. Tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ
70% trong giữa những năm 1980 xuống khoảng 30%.
2.1.1.1.5- Trình độ chuyên môn, kỹ thuật.
Lao động chuyên môn kỹ thuật cần được xem xét ở cả hai mặt số
lượng và chất lượng.
Về số lượng: Đến 1/10/1999, toàn quốc có 5. 241. 700 lao động có
chuyên môn kỹ thuật(CMKT)gồm các trình độ từ sơ cấp đến sau đại
học, trong đó: trình độ lao động sơ cấp là 544. 600 người, chiếm 1,
45%;lao động có trình độ trung cấp là 1. 516. 400 người, chiếm 4. 05%;
lao động là công nhân kỹ thuật(CNKT) 1. 775. 900 người, chiếm4,
16
75%;lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 3, 1%(so với tổng lực
lượng lao động thường xuyên).
Lao động có CMKT có xu hướng tăng lên hàng năm, từ 1996-1999,
tăng từ 4, 4 lên 5, 2 triệu, bình quân hàng năm tăng 5, 9%, với mức tăng
tuyệt đối khoảng 276. 000 người. Số tăng thêm chủ yếu là lao động có
trình độ cao đẳng-đại học(CĐ-ĐH)(chiếm 60%)và lao động trình độ
CNKT(chiếm 24%).
Tuy về số tuyệt đối, nước ta đã có lực lượng LĐCMKT trên 5 triệu
người, nhưng so với tổng số lực lượng lao động thường xuyên, tỷ lệ
LĐCMKT còn rất thấp, năm 1999 mới đạt13, 87%. So với năm 1996, tỷ
lệ LĐCMKT là 12, 29%, cho thấy sau 4 năm tỷ lệ LĐCMKT chỉ tăng
thêm được 1, 56%, bình quân hàng năm tăng 5, 6%. Như vậy cho đến
nay, vẫn còn gần 86% lao động Việt Nam không có chình độ CMKT.
Chất lượng của LĐCMKT còn nhiều bất cập. Lao động không đáp
ứng yêu cầu công việc;Chưa được đào tạo đủ trình độ quy định, năng lực
thích ứng với việc làm trong nền kinh tế chuyển đổi còn yếu. Tỷ lệ
LĐCMKT có trình độ cao thấp, cơ cấu bậc đào tạo mất cân đối với nhu
cầu sử dụng.
Xét trong tổng số LĐCMKT cả nước, cơ cấu như sau: sơ cấp 10,
9%, CNKT không bằng 16, 8%, CNKT có bằng 17%, trung học chuyên
nghiệp (THCN) 30, 4%, cao đẳng đại học 24, 6%, và trên đại học 0, 3%.
Như vậy số LĐ có chuyên môn kỹ thuật trình độ sơ cấp và không bằng
cấp còn chiếm tới gần 30% trong tổng số LĐCMKT.
Tính gộp cả sơ cấp, CNKT không bằng và có bằng là một bậc để so
sánh với bậc THCN và bậc cao đẳng đại học(kể cả sau đại học), cơ cấu
bậc đào tạo CNKT/THCN/CĐ-ĐH là: 1, 5/1/1 nghĩa là ứng với một lao
động có trình độ đại học có 1 lao động trình độ THCN và 1, 5 lao động
trình độ sơ cấp và CNKT. So với năm 1996, cơ cấu này là: 1/2, 4/2 ta
thấy cơ cấu có su hướng giảm lao động trung cấp và CNKT. So với các
nước có mức GDP bình quân đầu người từ 200-300 USD có cơ cấu
ĐH/THCN/CNKT là 1/2/7 thì thấy cơ cấu lao động CMKT của ta hiện
nay là bất hợp lý, nặng về tăng đại học cao đẳng. Sự bất hợp lý này có
nguyên nhân bắt nguồn từ đào tạo. Từ 1990-1998, số học sinh đào tạo
17
mới hệ chính qui dài hạn bậc đại học tăng bình quân hàng năm 20%,
trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp chỉ tăng 2, 3%, số học
sinh học nghề tăng 2, 3%.
CHỈ TIÊU 1996 1997 1998 1999
Tổng số lao động 35866. 2 36296. 9 37407. 2 37783. 5
LLLĐ không có trình độ
CMKT
Số lượng 31452. 2 31837. 3 32431. 1 32542. 1
Tỷ lệ 87. 69 87. 71 86. 69
LLLĐ có CMKT 4414 4459. 6 4976. 1 5241. 7
Tỷ lệ 12. 31 12. 29 13. 31 13. 87
Trong đó chia theo trình độ
đã qua đào tạo
Công nhân 1571. 2 1590. 2 1775. 9 1780
Sơ cấp 636. 2 546. 4 544. 6 573
Trung cấp 1378. 3 1380. 1 1516. 4 1590
Cao đẳng, đại học, trên đại
học
828. 3 942. 9 1139. 2 1310
LĐCMKT không chỉ mất cân đối về cơ cấu, mà còn phân bổ bất
hợp lý. Gần 50% lao động có CMKT tập trung ở Đồng bằng sông Hồng
và Đông Nam Bộ, số này chủ yếu lại ở Thành phố Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh. Việc lao động có trình độ cao thường tập trung ở các thành
phố lớn, khu công nghiệp phát triển là hợp lý. Vấn đề là ở chỗ những
vùng đó tập trung quá nhiều, gây thất nghiệp, trong khi một số vùng kinh
tế đầy tiềm năng phát triển kinh tế như ĐBSCL(chiếm 20% tổng GDP
của cả nước), Tây Nguyên... lại thiếu lao động có trình độ CMKT, tỷ
trọng LĐCMKT thấp nhất trong cả nước.
Còn tỷ lệ đáng kể LĐCMKT thất nghiệp. Năm 1999, tỷ lệ thất
nghiệp của lao động có CMKT toàn quốc là 2, 46%, trong đó LĐ trình
độ CNKT thất nghiệp là 2, 57%, trung học chuyên nghiệp thất nghiệp 2,
46%, cao đẳng thất nghiệp 3, 82%, đại học thất nghiệp 4, 96%. Như vậy
LĐ có trình độ CĐ-ĐH có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn THCN và CNKT,
đặc biệt có những ngành như máy tính, tỷ lệ thất nghiệp trình độ cao
đẳng tới 46, 11%, đại học17, 21%. Tình trạng thất nghiệp của lao động
CMKT thành thị còn trầm trọng hơn. Tỷ lệ thất nghiệp chung của
LĐCMKT thành thị là 6, 74%, trong đó: dạy nghề là 4, 04%, THCN là
5, 43%, cao đẳng là 6, 54% và đại học là 3, 88%. So với năm 1998, tỷ lê
LĐCMKT thất nghiệp ở khu vực thành thị năm1999 đã tăng thêm 1, 9%.
18
LĐCMKT thất nghiệp với tỷ lệ cao trong khi Nhà nước, xã hội
hàng năm phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để mở rộng qui mô đào tạo,
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho CNH-HĐH là một nghịch lý không thể để
tồn tại lâu dài.
Với vai trò định hướng phát triển và cân đối nguồn lực Nhà nước
cần có giải pháp khắc phục tình trạng mất cân đối về bậc đào tạo, thông
qua cải tiến cơ chế, chính sách và phương pháp kế hoạch hoá.
2.1.1.1.6- Thực trạng lao động, việc làm 1991-2000.
* Tổng số người có việc làm: tăng từ 30, 9 triệu lên 40, 6 triệu, tức
32, 2%;giai đoạn 1991-2000 số việc làm tăng bình quân 86, 3 vạn/năm,
giai đoạn1996-2000 tăng bình quân 1, 2 triệu/năm.
* Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị: từ 10% năm 1991, giảm xuống 5,
88% năm 1996. Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, năm 2000 tỷ lệ
này là 6, 5%.
* Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn: từ 72, 1% năm
1996, tăng lên 74% năm 2000.
* Tỷ lệ lao động qua đào tạo: từ 10% năm 1996, tăng lên 20% năm
2000(trong đó, qua đào tạo nghề khoảng 13, 4% năm 2000).
* Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng lao động cho sản
xuất công nghiệp, dịch vụ.
* Kết quả sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước: lao động trong khu
vực Nhà nước giảm từ 14, 7%(năm 1991) xuống còn 9%(năm 2000).
* Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút tạo việc làm cho 33
vạn lao động.
2.1.1.1.7- Trình độ tổ chức cuộc sống:
Trình độ tổ chức cuộc sống thể hiện tổng hợp của nhiều tiêu thức
phản ánh chất lượng nguồn lao động như: trình độ văn hoá, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, các yếu tố về tâm lý tập quán... Mặt khác, nó còn
thể hiện năng lực vận dụng các yếu tố mang tính tiềm năng của trình độ
đó. Trên thực tế, có người học nhiều đạt trình độ bằng cấp cao trên nhiều
mặt, nhưng do không có khả năng vận dụng tốt các tri thức đã tiếp thu
19
được, nên trình độ tổ chức cuộc sống vẫn không đạt kết quả tương xứng,
tuy nhiên, số đó không nhiều.
+ Về tổ chức sản xuất: Ơ các thành phố lớn và các nghành thương
mại, dịch vụ, chất lượng nguồn lao động cao hơn nếu xét trên phương
diện tổ chức sản xuất. Điều này phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao
động về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và điều kiện
của ngành và vùng. Điều này cũng biểu hiện ở tiêu thức tổng hợp là mức
thu nhập, tỷ lệ đói nghèo của các vùng và các địa phương. Sự đói nghèo
được biểu hiện trên các mặt: thiếu lương thực, thiếu tiền chữa bệnh, nhà
ở dưới dạng tranh tre, trẻ em phải bỏ học... Những mức độ đó cũng khác
nhau theo từng địa phương.
+ Về tổ chức sinh hoạt: Do yếu tố thu nhập và trình độ của nguồn
lao động nên trình độ tổ chức sinh hoạt có sự chênh lệch giữa các ngành,
các địa phương. Ơ các vùng nông thôn, ngoại thành hay các ngành nông,
lâm nghiệp cuộc sống vật chất, tinh thần của người lao động có nhiều
khó khăn hơn các ngành và địa phương khác. Điều này biểu hiện ở
phương thức tổ chức sinh hoạt hàng ngày có sự khác nhau.
2.1.1.1.8- Trình độ ý thức pháp luật.
So với các tiêu thức khác phản ánh chất lượng nguồn lao động, đây
là tiêu thức khó lượng hoá nhất. Tuy nhiên đánh giá trình độ và ý thức
pháp luật của nguồn lao động có thể rút ra một số nhận xét:
Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ và ý thức pháp luật giữa các
loại lao động của nguồn lao động.
+ Về trình độ pháp luật: Những cán bộ làm chức năng quản lý và
giám sát pháp luật là chuyên môn chính, họ cần phải trau dồi, còn lại
trong tổng nguồn lao động, số cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế và
quản trị kinh doanh là nhóm người có trình độ pháp luật cao nhất.
Có thể khẳng định phần lớn nguồn lao động chưa được đào tạo cơ
bản về kiến thức pháp luật, mà chủ yếu được phổ biến kiến thức pháp
luật từng mặt như công nhân được học tập về luật lao động và hợp đồng
lao động, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các tổ chức quần
chúng như luật an toàn giao thông, luật bảo vệ trẻ em, luật bảo vệ rừng...
20
qua hệ thống truyền thanh, truyền hình trung ương và địa phương, qua
các hội phụ nữ đoàn thanh niên.... Nhìn chung, sự học tập còn hạn chế
do các phương tiện thông tin không đều giữa các vùng, nội dung truyền
tải các kiến thức pháp luật không hệ thống... nên trình độ pháp luật của
phần lớn người trong nguồn lao động có chất lượng thấp.
+ Về ý thức pháp luật: ý thức pháp luật phụ thuộc vào trình độ nhận
thức pháp luật. Có nhiều vụ vi phạm pháp luật do ý thức pháp luật kém
của một bộ phận người dân trong nguồn lao động từ những vi phạm về
kinh tế đến vi phạm về những quy định trong kỹ thuật sản xuất... Đặc
biệt gần đây, do tác động của cơ chế thị trường nhiều nhà sản xuất vừa
vô tình vừa cố ý, đã sử dụng các hoá chất trong sản xuất nông nghiệp
như: Thuốc trừ sâu, các hoá chất bảo quản thực phẩm... đã làm giảm
chất lượng và giảm độ an toàn thực phẩm, gây ảnh hưởng lớn đến sức
khoẻ của người tiêu dùng.
Đơn vị: %
TÊN NGÀNH NĂM 1990 NĂM 1997 ƯỚC TÍNH 2000
Công nghiệp 13. 9 12. 33 16. 7
Nông nghiệp 72. 3 68. 8 61. 3
Dịch vụ 13. 8 18. 57 22. 0
Biểu: Cơ cấu kinh tế và cơ cấu của lao động
1986 1988 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
1. Dân số 61.1
1
63.7
3
66.2
3
67.7
7
69.4
1
71.0
3
72.5
1
73.9
6
75.3
6
76.7
1
78.0
6
Thành thị 19.4
3
19.8
7
20.0
5
20.0
9
19.1
4
19.2
4
19.5
0
19.7
1
20.0
2
20.5
0
21.0
7
2. GDP 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Khu vực I 38.0
6
46.3 38.7
4
40.4
9
33.9
4
29.8
7
28.7 27.1
8
27.7
6
25.7
7
25.7
5
Khu vực II 28.8
8
23.9
6
22.6
7
23.7
9
27.2
6
28.9 29.6
5
28.7
5
29.7
3
32.0
6
32.5
9
Khu vực III 33.0
6
29.7
4
38.5
9
35.7
2
38.8 41.2
3
41.6
5
44.0
7
42.5
1
42.1
7
41.6
6
3. Lao động 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Khu vực I 67.8
7
70.6
9
71.5
8
71.9
2
72.2
8
72.3
9
71.6
8
69.7
4
69.2
2
68.7
8
Khu vực II 14.2
9
14.0
6
13.9
0
13.6
0
13.4
4
13.3
6
12.9
3
13.2
5
12.9
3
12.5
2
Khu vực III 17.8
4
15.2
5
14.5
2
14.2
8
14.2
8
14.2
5
15.3
9
17.0
2
17.8
5
18.7
0
Kinh tế nhà nước 14.7 14.0
1
11.7
0
10.1
2
9.35 9.05 8.70 8.83 8.77 8.90
Tăng giảm* -39.2 -257 -409 -161 -14.8 -32.1 124.
8
84.6 153.
7
21
* Dân số tính triệu người, tăng giảm lao động trong khu vực nhà
nước đơn vị tính nghìn người.
Nguồn: Niên giám thống kê.
22
Chương III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN LAO ĐỘNG
3- Những vấn đề đặt ra với việc nâng cao chất lượng của nguồn
lao động.
3.1- Kinh tế thị trường và yêu cầu mới đặt ra về chất lượng
nguồn lao động.
3.1.1- Một số vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, ở đó cơ chế kinh tế
như là một guồng máy kinh tế tự điều chỉnh toàn bộ quá trình sản xuất
hàng hoá, dịch vụ thông qua cạnh tranh, cung cầu, giá cả về số lượng
trên thị trường.
Đã có nhiều nghiên cứu về thị trường và cơ chế thị trường. Nguồn
gốc cơ bản là sự phân công lao động xã hội và một số nhân tố khác đã
tạo ra những tiền đề khách quan để kinh tế hàng hoá ra đời và phát triển.
Về mặt bản chất, khi nghiên cứu kinh tế thị trường người ta đã tìm
ra cơ chế tự điều chỉnh trong hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá và
cho rằng nếu xét trong nền sản xuất hàng hoá thì ở đó tồn tại những
phạm trù, quy luật tương ứng. Sự vận động của các phạm trù, quy luật đó
sẽ điều chỉnh các hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá một cách
khách quan. Và vì vậy, người ta thường nhấn mạnh tính chất “tự điều
chỉnh của cơ chế thị trường”.
Tuy nhiên, các quy luật của sản xuất hàng hoá như quy luật cung
cầu và giá cả thị trường, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh là các quy
luật kinh tế xã hội, hoạt động của chúng thông qua hoạt động của con
người. Con người nhận thức quy luật và vận dụng quy luật phục vụ lợi
ích cho mình. Nhận thức quy luật để hiểu rõ cơ chế hoạt động của nó,
tìm ra cơ chế vận dụng thích hợp. Vận dụng quy luật là từ cơ chế hoạt
động của chúng, tìm ra các điều kiện để quy luật xuất hiện theo xu
hướng có lợi cho con người. Từ đó, con người sẽ chủ động tạo ra các
điều kiện gắn với các xu hướng vận động có lợi đó.
23
Như vậy, nói tới cơ chế thị trường, một mặt hàm chứa yếu tố tự
thân, tự điều chỉnh. Thực chất là sự tự điều chỉnh của các chủ thể kinh tế
thông qua ứng xử của họ tới quá trình vận động của các quy luật kinh tế
thị trường. Mặt khác, nó còn hàm chứa yếu tố tác động của nhà nước.
Tất nhiên, về yêu cầu, đây là sự tác động theo một cơ chế vận dụng phù
hợp với yêu cầu các quy luật của cơ chế thị trường và theo những mục
đích định sẵn.
Nghiên cứu thị trường và cơ chế thị trường trên ba khía cạnh: Về tổ
chức thị trường, các quy luật kinh tế thị trường và tính kính thích xã hội
hoá sản xuất, có thể rút ra những ưu việt của cơ chế thị trường như sau:
Một là: Cơ chế thị trường tự nó đề cao nhu cầu xã hội, đề cao người
tiêu dùng, đề cao khách hàng với tư cách là “Thượng đế”của các chủ thể
sản suất kinh doanh. Sự đề cao này đã buộc người sản xuất phải hướng
tới người tiêu dùng trên các phương diện: Tạo ra các giá trị sử dụng hữu
ích, vì người tiêu dùng chỉ bỏ tiền ra khi việc mua hàng hoá đó có ích,
phục vụ các nhu cầu thường xuyên đa dạng và biến động với chất lượng
cao, giá thành hạ, với phương thức tương ứng thích hợp và thuận tiện.
Hai là: Cơ chế thị trường đề cao tự do kinh tế, thừa nhận lợi ích cá
nhân với tư cách là những động lực to lớn của sự phát triển kinh tế xã
hội. Chính sự đề cao tự do kinh tế cộng với sự thừa nhận lợi ích cá nhân,
về mặt tích cực đã tạo ra sự năng động, tính nhạy bén của từng ngành,
từng cơ sở kinh tế và từng người lao động, tính nhạy bén của từng
ngành, từng cơ sở kinh tế và từng người lao động. Đây vừa là kết quả,
vừa là điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy tính tích cực của nó, vì
trong cạnh tranh, bằng cải tiến thiết bị, nâng cao tay nghề công nhân, sự
năng động trong tìm kiếm sản xuất các giá trị sử dụng mới là con đường
cơ bản để từng doanh nghiệp, từng ngành đạt được lợi nhuận siêu ngạch,
Kết quả là doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao, người tiêu dùng nhận được
hàng hoá với chất lượng tốt, giá trị sử dụng ngày càng phong phú và đa
dạng, giá cả hàng hoá ngày càng hợp lý.
Ba là: Cơ chế thị trường có sự cạnh tranh quyết liệt, đồng thời các
chủ thể kinh tế phải dám chấp nhận rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Nó
tạo được cơ chế sàng lọc, loại bỏ những công nghệ lạc hậu, doanh nghiệp
24
thua lỗ, loại bỏ những người không có năng lực kinh doanh, đặt con
người vào đúng vị trí theo đúng khả năng của họ. Qua đó, nó đã thúc đẩy
thị trường, khoa học công nghệ và cả con người phát triển theo hướng
ngày càng tiến bộ và hiện đại.
Tóm lại: Mô hình kinh tế và vận hành nền kinh tế theo quy luật thị
trường đòi hỏi nguồn lao động phải có chất lượng tương ứng ngày càng
tăng.
Tuy nhiên với kinh tế thị trường, mặt tiêu cực và tiêu cực không ít.
Đó là thiếu hàng hoá công cộng, là phân hoá giàu nghèo quá mức, là dẫn
tới ô nhiễm môi trường, huỷ hoại môi sinh do chạy theo mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận, là lãng phí nguồn lực xã hội bởi khả năng dẫn tới độc
quyền. Và cuối cùng, là sự bất bình đẳng về chính trị, kinh tế, xã hội lam
cho khả năng vươn lên của mỗi người bị hạn chế đáng kể. Nghĩa là chất
lượng nguồn nhân lực cũng bị hạn chế.
3.1.2- Yêu cầu mới về chất lượng nguồn lao động.
Từ những vấn đề cơ bản trên về kinh tế thị trường cho thấy, kinh tế
thị trường một mặt đòi hỏi đội ngũ nhân lực thuộc các cơ quan quản lý vĩ
mô phải đủ năng lực nhận thức và nắm bắt được sự hoạt động của các
quy luật tự nhiên, kinh tế, xã hội trong nền kinh tế, xác lập được cơ chế
vận dụng phù hợp, từ đó chủ động sử dụng các phạm trù kinh tế, các đòn
bẩy kinh tế để điều tiết nền kinh tế theo những mục tiêu định sẵn. Để làm
tốt điều này, những người làm công tác quản lý vĩ mô phải có trình độ
văn hoá cao để có thể tiếp nhận những tri thức về quản lý kinh tế, đáp
ứng yêu cầu quản lý của cơ chế thị trường. Trong quản lý kinh tế việc sử
dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế trên cơ sở đáp ứng yêu cầu các quy
luật khách quan để điều tiết nền kinh tế là phương thức quản lý hữu hiệu.
Nhưng điều đó chỉ thực sự được thực hiện khi những người sử dụng nó
hiểu biết nó một cách đầy đủ và thông thạo. Đây là phương pháp quản lý
gián tiếp, người quản lý tác động đến đối tượng quản lý thông qua điều
tiết lợi ích của họ. Trong bối cảnh đối tượng quản lý thông qua điều tiết
lợi ích của họ. Trong bối cảnh đối tượng quản lý đã có những thay đổi
theo hướng năng động, chủ động hơn thì chất lượng đội ngũ cán bộ quản
lý cần phải nâng cao là yêu cầu cơ bản và cấp bách.
25
Mặt khác đối với người lao động, trong bối cảnh các doanh nghiệp
ngày càng đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, trang bị các máy móc
hiện đại... nếu không có sự nâng cao năng lực chuyên môn, không nâng
cao kỹ năng lao động sẽ bị đào thải khỏi dây truyền sản xuất đó.
Thực tế quá trình chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã chứng minh rõ điều này. Chính
đời sống kinh tế đã chỉ rõ những mặt trái của cơ chế kế hoạch hoá tập
trung và thức tỉnh các nhà quản lý để mở ra bước chuyển đổi cơ chế
quản lý thông qua chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người
lao động trong nông nghiệp.
+ Nhóm 1: Những người có kinh nghiệm và trình độ sản xuât kinh
doanh.
+ Nhóm 2: Những người ở mức độ trung bình về trình độ sản xuất
kinh doanh.
+ Nhóm 3: Những người trình độ thấp, không có trình độ kinh
doanh, họ phải chuyển quyền sử dụng đất vừa được giao, tự tước bỏ
quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, phải đi làm thuê
ngay chính trên ruộng đất của mình. Đây cũng là xu hướng vận động khá
phổ biến trong nông nghiệp, nhất là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
3.1.3- Chủ trương phương hướng chung về nâng cao chất lượng
nguồn lao động:
Đường lối kinh tế của đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp;ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây
dựng lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa;phát huy cao độ nội lực của cả dân tộc
gắn với tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;tăng trưởng kinh tế
đi liền với từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;kết hợp phát triển kinh tế-xã
hội với tăng cường quốc phòng, an ning.
26
-Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm
2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, tập trung xây dựng có chọn lọc một số
cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và cong nghệ cao sản xuất tư liệu sản
xuất để trang bị và tranh bị lại kỹ thuật công nghệ tiên tiến cho các
nghành kinh tế nông nghiệp, dịch vụ;đáp ứng nhu cầu quốc phòng, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc tế được củng cố và
nâng cao.
Năm 2010 GDP tăng gấp đôi so với năm 2000;chuyển dịch mạnh
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp
xuống còn khoảng 50%.
-Mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2001-2005 là: Tăng trưởng kinh tế
với nhịp độ cao và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt chất lượng
sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Xây dựng một bước quan
trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo
chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục-đào tạo, phát
triển khoa học và công nghệ. Giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc về
việc làm, cơ bản xoá đói, giảm mạnh số hộ nghèo, ngăn chặn và đẩy lùi
các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện hơn đời sống nhân dân. Tiếp tục
tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn phát
triển tiếp theo. Giư vững ổn định chính trị và an toàn xã hội
Phấn đấu đạt nhịp độ tăng GDP ít nhất 7%/năm.
3.1.4- Mục tiêu của chiến lược 10 năm và Kế hoạch 5 năm:
* GDP tăng bình quân hàng năm tối thiểu 7% trong 5 năm 2001-
2005, đến năm 2010 ít nhất gấp đôi năm 2000(bình quân hàng năm
trong 10 năm tăng 7, 2%). Phát triển được một bước quan trọng tiềm lực
kinh tế, cơ sở vật chất-kỹ thuật. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh
27
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế;bảo đảm được nhu cầu
thiết yếu cho tiêu dùng, một phần đáng kể cho sản xuất và đẩy mạnh
xuất khẩu. Ôn định kinh tế vĩ mô;cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh,
tăng được dự trữ ngoại tệ;kiểm soát được bội chi ngân sách, lạm phát, nợ
nước ngoài trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng.
Tích luỹ nội bộ nền kinh tế năm 2005 đạt 27%GDP, năm 2010 đạt trên
30%. Xuất khẩu trong 5 năm 2001-2005 tăng bình quân hàng năm 13-
15%, tính chung 10 năm tăng gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ lệ lao
động nông nghiệp từ 61, 3% hiện nay giảm xuống 56-57% năm 2005
và còn khoảng 50% năm 2010. Tỷ lệ dân cư đô thị năm 2005 khoảng 27-
28%, năm 2010 là 32-33%(hiện nay24%).
* Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người(HDI)của nước ta
trong so sánh quốc tế. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần
được nâng lên rõ rệt trong một xã hội an toàn, lành mạnh với môi trường
sinh thái được bảo vệ và cải thiện.
Tốc độ tăng dân số năm2005 giảm xuống còn1, 23%, năm 2010 còn
1,1-1,2%. Tuổi thọ trung bình năm 2005 tăng lên 70 tuổi năm 2010 đạt
71 tuổi. Đến năm 2005, không còn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chuẩn
hiện nay giảm xuống còn 5% và đến 2010 về cơ bản không còn loại hộ
này. Trong 5 năm 2001-2005, giải quyết việc làm cho 7-7, 5 triệu lao
động;đến năm2010, giải quyết cơ bản vấn đề việc làm ở cả thành thị và
nông thôn. Hoàn thành cải cách cơ bản chế độ tiền lương.
Trẻ em đến tuổi học tiểu học đều được đến trường;đến 2005, 80%
trẻ em trong độ tuổi được đi học trung học cơ sở;đến năm 2010 hoàn
thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước;tỷ lệ lao động được đào tạo
năm 2005 đạt 30%, năm 2010 khoảng 40%. Người có bệnh đều được
chữa trị;tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 35-36% hiện nay giảm xuống 20-
25% năm 2005, 15-20% năm 2010.
3.1.5- Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng.
Gía trị sản lượng nông nghiệp(kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp)tăng
khoảng 4%/năm trong 5 năm 2001-2005, khoảng 4, 5%/năm trong cả
thời kỳ 2001-2010. Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 37-38 triệu
tấn năm 2005, 40 triệu tấn năm 2010; mức xuất khẩu gạo hàng năm
28
khoảng 4 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 2005 khoảng
20-21%, năm 2010 khoảng 16-17%; tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu
nông nghiệp tăng lên 25% năm 2005, 30% năm 2010. Thuỷ sản đạt sản
lượng 2, 4 triệu tấn năm 2005, khoảng 3 triệu tấn năm 2010. Bảo vệ 10
triệu ha rừng tự nhiên, trong 5 năm trồng thêm 1, 3 triệu ha rừng, hoàn
thành trồng 5 triệu ha rừng vào năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu nông,
lâm, thuỷ sản năm 2005 đạt 7-7, 5 tỷ USD, trong đó thuỷ sản 2 tỷ USD,
năm 2010 đạt 8-9 tỷ USD, trong đó thuỷ sản 3 tỷ USD.
Đến năm 2005, công nghiệp và xây dựng chiếm 38-39% GDP và
thu hút khoảng 20% lao động xã hội đang làm việc;các tỷ lệ này được
nâng lên 40-41% và 23-24% vào năm 2010. Sản phẩm công nghiệp xuất
khẩu năm 2005 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2010
khoảng 75%.
Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ
tăng trưởng bình quân 7-8%/năm, đến 2005 chiếm 41-42% GDP,
khoảng 23-24% tổng số lao động;đến năm 2010 các tỷ lệ này được nâng
lên 42-43% và 26-27%.
Để có nguồn lao động đáp ứng yêu cầu thực tiễn, việc nâng cao chất
lượng nguồn lao động phải quán triệt các chủ trương phương hướng cơ
bản sau:
+ Thứ nhất: Cần đảm bảo sự phù hợp giữa yêu cầu phát triển sử
dụng nguồn lao động với trình độ, phương thức đào tạo:
Mục tiêu của nâng cao chất lượng nguồn lao động là có đội ngũ
những người lao động với chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của phát triển
kinh tế xã hội. Vì vậy, một yêu cầu mang tính nguyên tắc là phải đảm
bảo sự phù hợp giữa yều cầu sử dụng nguồn lao động với trình độ và
phương thức đào tạo khi nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Khi xác định các nhiệm vụ kinh tế xã hội, đặc biệt là qui hoạch phát
triển kinh tế xã hội, cần dựa vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
trong đó có nguồn lao động hiện tại.
29
Sự cần thiêt phải gắn giữa yêu cầu sử dụng sức lao động với trình
độ và phương thức đào tạo còn bắt nguồn từ thực trạng đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn lao động chưa có sự phù hợp.
Quán triệt nguyên tắc trên đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục triển khai
triến lược phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương làm
cơ sở cho xác định chiến lược đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao
động một cách cụ thể. Tiến hành tổng kết quá trình đào tạo theo yêu cầu
thực tiễn.... Tất cả những vấn đề cơ bản đó tạo cơ sở xây dựng chiến
lược đào tạo vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn vừa không ảnh hưởng đến
những hoạt động kinh tế xã hội người lao động đang đảm nhiệm.
+ Thứ hai: Thực hiện đa dạng hoá các hình thức nâng cao chất
lượng nguồn lao động.
Nguồn lao động của chúng ta rất đa dạng và phong phú. Sự phong
phú biểu hiện ở những điều kiện gắn với người lao động ở từng ngành,
từng địa phương, thậm chí trong mỗi ngành, mỗi địa phương cũng khác
nhau. Đặc biệt, yêu cầu nâng cao chất lượng của người lao động cũng
khác nhau. Ngoài ra, phần lớn người lao động cần nâng cao trình độ là
những người đang hoạt động trong các ngành kinh tế. Vì vậy, khi đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn lao động cần phải đa dạng hoá các hình thức
đào tạo sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng nhóm người
có điều kiện hoàn cảnh và nhu cầu đào tạo khác nhau. Nhờ đó sẽ khai
thác được các năng lực sẵn có của các cơ sở đào tạo và người lao động
có khả năng lựa chọn phương thức đào tạo phù hợp với điều kiện và
nguyện vọng của mình.
Thứ ba: lấy hiệu quả kinh tế xã hội là thước đo tiêu chuẩn đánh giá.
Hiệu quả kinh tế xã hội là thước đo, là tiêu chuẩn đánh gía của mọi hoạt
động kinh tế xã hội. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn lao động, về
thực chất, là đảm bảo sự phù hợp giữa yêu cầu sử dụng sức lao động của
nền kinh tế với trình độ và phương thức đào tạo;gắn đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn lao động với sử dụng đầy đủ và hợp lý sức lao
động;Thực hiện sự đa dạng hoá các hình thức nâng cao chất lượng nguồn
lao động... là những điều kiện để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao
trong nâng cao chất lượng nguồn lao động. Nâng cao hiệu quả kinh tế xã
30
hội trong việc đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động vừa là
yêu cầu, mục tiêu vừa là tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động nâng cao chất
lượng nguồn lao động.
3.1.6- Nội dung cơ bản nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Nâng cao chất lượng nguồn lao động có các nội dung cơ bản sau:
+ Nâng cao toàn diện chất lượng nguồn lao động, “đẩy mạnh công
tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực”, trong đó lấy trình độ văn hoá
là nền tảng, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, trình độ pháp luật theo
yêu cầu của cơ chế thi trường làm trọng tâm, sao cho người lao động giỏi
một nghề, am hiểu các kiến thức bổ trợ như: Luật pháp, ngoại ngữ, vi
tính, quan hệ giao tiếp xã hội, tính cộng đồng, ý thức dân tộc...
+ Nâng cao chất lượng nguồn lao động của tất cả các ngành, các
lĩnh vực, các vùng lãnh thổ, trong đó tập trung theo hai hướng chủ yếu:
- Thứ nhất: đội ngũ lao động chất lượng cao đối với lĩnh vực quản
lý và các ngành mũi nhọn.
- Thứ hai: Đảm bảo yêu cầu tối thiểu tiến tới nâng cao chất lượng
đối với lĩnh vực nông nghiệp và các địa phương ở xa các trung tâm.
+ Thực hiện đa dạng hoá các hình thức đào tạo với việc nâng cao
chất lượng nguồn lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp theo phương
thức “nhà nước và nhân dân cùng tham gia đào tạo”. Thực hiện sự kết
hợp đào tạo qua trường lớp đào tạo trong xuất quá trình lao động.
+ Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động theo đúng cơ cấu
ngành nghề nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ, cơ cấu
trình độ công nhân kỹ thuật, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, trên đại
học theo yêu cầu thực tế và quan hệ tỷ lệ hợp lý của từng ngành, từng
bậc đào tạo.
3.2- Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Để thực hiện phương hướng cơ bản nêu trên cần thực hiện các giải
pháp cơ bản sau:
3.2.1- Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động và
triển khai thành các đề án trong từng ngành, từng địa phương.
31
Đây là giải pháp mang tính tiền đề của hệ thống nâng cao chất
lượng nguồn lao động. Bởi vì, nâng cao chất lượng nguồn lao động chỉ
có thể mang lại hiệu quả kinh tế, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn khi
có được chiến lược hành động đúng. Từ đó, làm cơ sở xây dựng đề án
nâng cao chất lượng nguồn lao động theo từng mặt, rà soát lại đề án đào
tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động cụ thể hơn, nhằm có được một
chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động hiện có và nguồn lao
động trong tương lai.
Khi xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động cần
căn cứ vào chính sách của Đảng và Chính phủ: Thực trạng nguồn lao
động và các yếu tố về nguồn lực khác. Như vậy, chiến lược đó mới quán
triệt được các quan điểm đã nêu ở trên và có tính khả thi. Chúng ta cần
có sự tập trung trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý có kinh
nghiệm, cầm thực hiện một cách động bộ theo đúng trình tự, trong đó có
một số cơ sở cho xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao
động đã được tiến hành.
3.2.2- Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa
phương, các ngành về số lượng và chất lượng: nắm chắc yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn lao động, thực hiện phân tích đánh giá yêu cầu
hiện tại và yêu cầu cho tương lai, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào
tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ... Trước mắt cố gắng bố
trí sắp xếp sử dụng hết nguồn lao động đã được đào tạo đúng ngành,
đúng nghề, một mặt để khai thác các tiềm năng hiện có về mặt chất
lượng của nguồn lao động, mặt khác tạo động lực khuyến khích người
lao động tích cực tham gia vào chiến lược nâng cao chất lượng nguồn
lao động sau khi đã xây dựng.
3.2.3- Phát triển giáo dục và đào tạo.
Tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu
cầu về con người và nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước nhanh và
bền vững.
Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học, tiến hành phổ cập trung học cở trong cả nước, phổ cập trung học
phổ thông ở một số thành phố và vùng nông thôn đồng bằng. Đẩy mạnh
32
việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và cơ cấu hợp lý. Tạo điều
kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi học tập liên tục, suốt đời trong môi
trường giáo dục lành mạnh.
Điều chỉnh hợp lý cơ cấu cấp học, bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Coi trọng giáo dục mầm
non. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ
thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ
theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học,
sau đại học;tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm
quốc gia ngang tầm khu vực. Phát triển mạnh đào tạo từ xa. Nhà nước
giành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển và
khuyến khích, tạo thuận lợi cho việc đi học tập và nghiên cứu ở nước
ngoài. Coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, kỹ sư thực
hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo phục vụ phát triển nông
nghiệp và nông thôn, một số ngành mũi nhọn, nhất là công nghiệp phần
mềm và cho xuất khẩu lao động.
Khẩn trương xây dựng và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước
bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát
triển mới. Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết được khuyến
khích học chữ dân tộc. Đổi mới trương trình đào tạo đại học, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn với yêu
cầu của cuộc sống. Chú trọng trang bị và nâng cao kiến thức tin học,
ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên. Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ tinh
thần yêu nước và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái,
ý thức tôn trọng pháp luật, hun đúc tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập
nghiệp, không cam chịu nghèo hèn.
Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng
lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, ngoại khoá, làm chủ
kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đổi mới chế độ thi cử và tổ
chức thực hiện nghiêm.
Phát triển đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng và đạo đức sư
phạm. Đảm bảo về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ
giáo viên so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có chính sách
33
phù hợp để đảm bảo đủ giáo viên cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào
dân tộc.
Tăng cường và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất nhà
trường(lớp học, sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, máy tính nối mạng
Internet, thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại, thư viện, ký túc xá). Tăng
đầu tư từ ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá công tác giáo dục,
đào tạo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục
ở tất cả các bậc học. Ngân sách nhà nước tập trung hơn cho các bậc giáo
dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi;bảo đảm điều kiện học tập
cho con em gia đình nghèo. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước, đặc
biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, lập lại kỷ cương, đẩy lùi các hiện
tượng tiêu cực.
3.2.4- Dân số và việc làm.
Tiếp tục giảm tốc độ tăng dân số, sớm ổn định quy mô dân số ở
mức hợp lý(khoảng 83 triệu người vào năm 2005, 88 triệu người vào
năm 2010);giải quyết đồng bộ, từng bước và có trọng điểm chất lượng
dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư.
- Giải quyết việc làm là một hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách
kinh tế-xã hội. Đến năm 2005, khoảng 40 triệu lao động có việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống5-6%, nâng tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn lên 80%;đến năm 2010, giải quyết về cơ bản
việc làm cho người lao động. Giải pháp chủ yếu là tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi để mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị
trường lao động trong nước;đẩy mạnh xuất khẩu lao động. -Thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế.
3.2.5-Tiền lương và thu nhập.
- Các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước, được tự chủ
trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất, hiệu quả. Nhà
nước và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Sửa
đổi hợp lý thuế thu nhập cá nhân.
34
- Cải cách cơ bản hệ thống tiền lương đối với công chức nhà nước;
điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội;
hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích
người tài giỏi. Thay đổi cơ chế tài chính đối với khu vực sự nghiệp, tạo
điều kiện đổi mới chế độ tiền lương của khu vực này.
- Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an shinh xã
hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng
lớp nhân dân. Kết hợp sự trợ giúp của Nhà nước với việc phát triển các
quỹ từ thiện, quỹ xã hội, quỹ đền ơn đáp nghĩa nhằm giúp đỡ có hiệu quả
người được hưởng chính sách xã hội, nạn nhân chiến tranh, thiên tai, trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt và những người tàn tật, không nơi nương tựa.
Bảo đảm người có công với nước có mức sống bằng hoặc cao hơn mức
trung bình của dân cư cùng xã, phường.
3.2.6- Sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động.
Giữa nguồn lao động và nâng cao chất lượng nguồn lao động có
mối quan hệ với nhau, trong đó nâng cao chất lượng để có nguồn lao
động chất lượng cao phục vụ cho việc sử dụng chúng vào sản xuất và
ngược lại nguồn lao động có được sử dụng đầy đủ và hợp lý mới có điều
kiện vật chất để nâng cao chúng. Hơn nữa, sử dụng đầy đủ, hợp lý
nguồn lao động là động lực để người lao động tích cực tham gia vào quá
trình đào tạo, tự đào tạo và đào tạo lại.
Để sử dụng đầy đủ hợp lý nguồn lao động, cần xác định đúng chiến
lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng phát huy các nguồn lực, mở
rộng sản xuất để thu hút lao động, cần đánh giá thực trạng nguồn lao
động hiện có, để có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao chất lượng, bố tri sắp
xếp sử dụng lao động đã được đào tạo.
3.2.7- Hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến
khích người lao động nâng cao trình độ về mọi mặt.
Cơ chế và chính sách khuyến khích người lao động nâng cao trình
độ cần tập trung vào các vấn đề như: Rà soát, bổ sung và ban hành quy
định, chế độ với người học ở một số ngành nông nghiệp, lâm nghiệp,
giáo dục, y tế cho một số vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn.
35
Cần đưa ra một số chính sách khuyến, hỗ trợ nông dân tiếp thu khoa
học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, khôi phục các
ngành nghề thủ công truyền thống.
Có chính sách xác lập nghĩa vụ và khuyến khích người lao động
được đào tạo và làm việc ở nông thôn, vùng núi vùng sâu, vùng xa như:
Chính sách sau khi ra trường có thời gian làm việc ở nông thôn và vùng
núi mới được tuyển dụng về đồng bằng, tăng một bậc lương và có chế
độ trợ cấp cho người đến vùng núi, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn.
3.2.8- Chính sách tạo điều kiện kinh tế, pháp lý cho các cơ sở
đào tạo và dạy nghề:
- Chính sách hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo nâng cao chất lượng đào
tạo hỗ trợ vốn xây dựng trường lớp, thiết bị, đồ dùng dạy học, khuyến
khích đội ngũ giáo viên nâng cao trình độ....
- Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân
mở các lớp dạy nghề theo quy định chung. Đặc biệt chú trọng khuyến
khích mở cơ sở dạy nghề ở các công ty, doanh nghiệp để đào tạo cho lực
lượng lao động tại chỗ. Đây là hướng đào tạo rất thiết thực, vì nội dung
đào tạo theo yêu cầu thực tế sản xuất và người đào tạo làm việc trực tiếp
cho công ty, doanh nghiệp.
- Ban hành cơ chế và chính sách thu hút vốn cho đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn lao động như: Trích tỷ lệ thích hợp từ ngân sách của
tỉnh chi cho công tác đào tạo và dạy nghề. Thành lập các quỹ: Tín dụng
đào tạo, quỹ hỗ trợ đào tạo nghề miễn phí cho các đối tượng chính sách
xã hội. Quy định việc trích nộp quỹ đào tạo hàng năm đối với các doanh
nghiệp.
- Ban hành cơ chế, chính sách tổ chức cho công nhân thi tay nghề
theo quy định và duy trì phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi trong đội
ngũ công nhân, cán bộ.
Đồng thời “Cải cách hệ thống đào tạo theo hướng gắn với thị
trường lao động... Mở các hình thức đào tạo nghề, chú trọng đào tạo lao
động có chuyên môn kỹ thuật cao”.
- Mở rộng quan hệ hợp tác trong dạy nghề để tiếp nhận công nghệ
tiên tiến trong khu vực và hội nhập thế giới, thực hiện tốt việc quản lý
36
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đối với công tác đào tạo
và dạy nghề.
Đảng và chính phủ cần có những chính sách và sự hỗ trợ về kinh
phí để thực hiện tốt những giải pháp cơ bản trên.
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu thực tiễn là
nhiệm vụ mang ý nghĩa chiến lược của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hết sức quan trọng vừa cơ bản, lâu dài
vừa cấp bách trước mắt. Đây là vấn đề mang tính kinh tế xã hội sâu sắc,
vì nó liên quan đến con người. Trong bối cảnh đó đề án đã hệ thống các
vấn đề lý luận về nguồn lao động và chất lượng nguồn lao động trên các
mặt. Đề án đã phân tích các điều kiện tự nhiên về kinh tế, xã hội của tỉnh
có ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động. Đề án đã phân tích trực
trạng chất lượng nguồn lao động.
Đề án đã xây dựng được những quan điểm và phương hướng cơ bản
để nâng cao chất lượng nguồn lao động;đã đưa ra một hệ thống giải pháp
nhằm nâng cao chât lượng nguồn lao động trong những năm tới, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
37
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG I: YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
NGUỒN LAO ĐỘNG
1
1. Nguồn lao động 1
1.1. Các khái niệm 1
1.1.1 Khái niệm lao động, lực lượng lao động và nguồn lao
động
1
1.1.2. Vai trò của nguồn lao động 6
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động 6
1.1.3.1. Các nhân tố tự nhiên 7
1.1.3.2. Các nhân tố kinh tế 7
1.3.3. Các nhân tố xã hội 8
1.1.3.4. Nhân tố về giáo dục và đào tạo 9
Chương II: Thực trạn chất lượng nguồn lao động ở Việt Nam 10
2. Đặc điểm cơ bản của Việt Nam 10
2.1. Đặc điểm cơ bản của Việt Nam và ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn lao động
10
2.1.1. Đánh giá, dự báo các yếu tố nguồn lực 10
2.1.1.1. Về nguồn lực 10
2.1.1.1.1. Áp lực lớn về việc làm 11
2.1.1.1.2. Cơ cấu lao động bất hợp lý 11
2.1.1.1.3. Tỷ lệ lao động tham gia vào quan hệ thị trường thấp 12
2.1.1.1.4. Thực trạng việc làm 13
2.1.1.1.5. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật 15
2.1.1.1.6. Thực trạng lao động, việc làm 1991-2000 18
2.1.1.1.7. Trình độ tổ chức cuộc sống 18
38
2.1.1.1.8. Trình độ ý thức pháp luật 19
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng lao động 21
3. Những vấn đề đặt ra với việc nâng cao chất lượng nguồn
lao động
21
3.1. Kinh tế thị trường và yêu cầu đặt ra về chất lượng nguồn
lao động
21
3.1.1. Một số vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường 21
3.1.2. Yêu cầu mới về chất lượng nguồn lao động 23
3.1.3. Chủ trương phương hướng chung về nâng cao chất
lượng nguồn lao động
24
3.1.4. Mục tiêu của chiến lược 10 năm và kế hoạch 5 năm 25
2.1.5. Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng 26
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động 29
3.2.1. Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao
động và triển khai thành các đề án trong từng ngành, từng địa
phương
29
3.2.2. Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa
phương
30
3.2.3. Phát triển giáo dục và đào tạo 30
3.2.4. Dân số và việc làm 32
3.2.5. Tiền lương và thu nhập 32
3.2.6. Sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động 33
3.2.7. Hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến
khích người lao động nâng cao trình độ về mọi mặt
33
3.2.8. Chính sách tạo điều kiện kinh tế, pháp lý cho các cơ sở
đào tạo và dạy nghề
34
KẾT LUẬN 35
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN LAO ĐỘNG.pdf