Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa

Điểu chỉnh kịp thời không đồng bộ trong văn bản pháp quy: số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành các mặt nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng rất nhiều từ các nghị định của chính phủ tới các quyết định của ngân hàng Nhà nước, các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản đối đến thông tư Liên Bộ. Số lượng văn bản thì nhiều nhưng có nhiều vấn đề chưa được hiểu một cách tường tật thấp nhất, các ngành triển khai không đồng bộ thậm chí dẫm chân lên nhau trong qúa trình thực hiện các chỉ thị của Chính Phủ. Ví dụ việc thế chấp quyền sử dụng đất theo quy định vừa phải đăng ký tại sở địa chính vừa phải qua vòng chứng thực ở Phòng Công chứng.

pdf56 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3243 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã có những biện pháp, giải pháp và phương thức hợp lý để huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế, đảm bảo cho hoạt động của mình như mở rộng các quỹ tiết kiệm, phòng giao dịch trên địa bàn của mình cũng như trên địa bàn Thủ đô để có thể huy động được vốn, đồng thời đổi mới tác phong làm việc, thai độ phục vụ của các cán bộ thực hiện chính sách ưu đãi khách hàng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nền kinh tế mới. Các số liệu sau đây sẽ cho ta thấy được tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa qua các năm như sau: Biểu 2; Tình hình hoạt động vốn tại Ngân hàng Đơn vị : Tỷ đồng Hình thức huy động Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng huy động 1. Tiền gửi tiết kiệm - Không kỳ hạn. - Có kỳ hạn 2. Tiền gửi của tổ chức kinh tế 3. Kỳ phiếu 1.375 970 20 950 350 55 100% 70,5% 1,5% 69,1% 25,5% 4,0% 1.425 1.180 14 1.100 245 4,5 100% 8,28% 0,9% 77,2% 17,2% 0,3% 1.850 1.200 20 1.180 650 9 100% 64,9% 1,1% 63,8% 25,1% 0,5% Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh - Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa năm 1999, 2000 và 2001 Tính đến 31/12/2000 tổng vốn huy động đạt 1.425 tỷ đồng tăng so với năm 1999 số tuyệt đối là50 tỷ (tương ứng với tỷ lệ tăng 3,6%). Đến cuối năm 2001 tổng huy động vốn tăng lên đến 1.850 tỷ đồng tăng so với năm 2000 số tuyệt đối là 425 tỷ (tương đương với tỷ lệ tăng 29,8%). Trong đó, nguồn vốn huy động được lớn nhất là tiền gửi tiết kiệm năm 2000 đạt 1.180 tỷ đồng tăng 210 tỷ so với năm 1999,đạt tỷ trọng 82,8% tổng nguồn vốn huy động (năm1999 là 70,5%). Năm 2001 đạt 1.200 tỷ đồng tăng 20 tỷ so với năm 200.Tuy nhiên tổng tiền gửi tiết kiệm có giảm so với tổng nguồn huy động. Tiền gửi tiết kiệm huy động chủ yếu là loại có kỳ hạn tăng dần qua các năm: Năm 1999 huy động được 950 tỷ, chiếm tỷ trọng 69,1% Năm 2000 huy động được 1.100 tỷ, chiếm tỷ trọng 77,2% Năm 2001 huy động được 1.180 tỷ, chiếm tỷ trọng 63,8% Nguồn vốn huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng là trọng tâm huy động vốn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa,vì các doanh nghiệp gửi tiền vào Ngân hàng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu thanh toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng có thể không trả lãi hoặc trả lãi rất thấp cho khoản tiền gửi này. ý thức được điều này nên Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa hàng năm cố gắng tìm mọi biện pháp để thu hút nguồn tiền gửi của doanh nghiệp như đưa ra các chính sách lãi suất, lãi suất ưu đãi và kết quả là nguồn tiền gửi này của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước, cụ thể lầ : Năm 1999 đạt350 tỷ chiếm 25,5% trong tổng nguồn huy động. Năm 2000 có giảm xuống 145 tỷ nhưng vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể 17,2%. Năm 2001 tăng mạnh lên đến 650 tỷ, chiếm 35,1%. Đây là nguồn vốn Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa cần phải nỗlực hơn nữa để có thể thu hút các tổ chức kinh tế,việc đó sẽ làm giảm chi phí đầu vào đối với Ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong đầu ra. - Nguồn vốn huy động từ kỳ phiếu: Nguồn vốn này được đáp ứng chủ yếu khi cần có số lượng vốn lớn trong trường hợp cần thiết phải huy động được trong thời gian ngắn. Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ giao chỉ tiêu xuống các Ngân hàng thương mại cơ sở để áp dụng các hình thức huy động vốn nhanh nhất. Kỳ phiếu được các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa nói riêng chọn làm hình thức huy động số lượng vốn lớn trong thời gian ngắn. Năm 1999 huy động được 55 tỷ, chiếm tỷ trọng 42% Năm 2000 huy động được 4,5 tỷ, chiếm tỷ trọng 0,3% Năm 2001 huy động được 9 tỷ, chiếm tỷ trọng 0,5%. Nhìn chung công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa từng bước tăng trưởng năm sau cao hơn năm sau cao hơn năm trước, nguồn vốn Ngân hàng quyết định đến quy mô quyết định đến việc mở rộng hau thu hẹp tín dụng, nguồn vốn càng dồi dào thì tạo điều kiện đảm bảo khả năng thanh toán từ đó tạo uy tín cho Ngân hàng trên thị trường, đảm bảo khả năng cạnh tranh, nguồn vốn dồi dào tạo điều kiện thực thi chính sách tiền tệ, từ đó đảm bảo sử ổn định của tiền tệ, giữ vững giá trị của đồng tiền. 2. Thực trạng sử dụng vốn tín dụng: Khi chuyển sang kinh tế thị trường, cũng như các doanh nghiệp khác, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Nguyên nhân cơ bản chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp quốc doanh trong địa bàn quận - lực lượng khách hàng chủ yếu của chi nhánh gặp nhiều lúng túng. Do tình tài chính của nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.Sau khi thực hiện Quyết định số 388/CP của Chính phủ về sắp xếp lại doanh nghiệp để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đã và đang có nhiều biện pháp hữu hiệu như: Đổi mới công nghệ, máy móc và trang thiết bị.Vì vậy muốn đầu tư (bao gồm cả vốn lưu động và vốn cố định) tăng lên rất lớn cần phải vay vốn từ Ngân hàng đặc biệt là vốn tín dụng. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã áp dụng hàng loạt các hình thức tín dụng đa dạng và phong phú phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng như: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, đồng tài trợ cho vay hợp vốn đối với những dứan có quy mô lớn và thời gian hoàn vốn dài. Bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,vay vốn với bảo lãnh của bên thứ ba.Các chương trình vay vốn ưu đãi như: Hiệp định vay vốn từ Ngân hàng tái thiết Đức (KFW), Hiệp định vay vốn từ Công ty hỗ trợ đầu tư phát triển Cộng Hoà Liên Bang Đức (DEG), cho vay bằng nguồn vốn quỹ phát triển các doanh nghiệp vừ và nhỏ (SMEDF). Nhằm khai thác triệt để nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng, mọi thành phần kinh tế. Sử dụng vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng đối với Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa thường xuyên bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa luôn luôn năng động, đổi mới tập trung vốn đầu tư đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế trọng điểm làm ăn có lãi, phục vụ mục tiêu chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Không chỉ chủ trương đầu tư cho thành phần kinh tế quốc doanh, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa cũng quan tâm đầu tư cho đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, tuy việc đầu tư cho thành phần này có tỷ lệ rủi ro cao, ngoài ra Ngân hàng có thực hiện cho vay các đơn vị xuất nhập khẩu, bảo lãnh.Chúng ta có thể xem xét khái quát kết quả nghiệp vụ tín dụng ở Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa sau: Biểu 3: Tình hình cho vay vốn tại Ngân hàng Đơn vị : Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Sô tiền Tỷ trọng Sô tiền Tỷ trọng Sô tiền Tỷ trọng I/ Cho vay 1. Quốc doanh 2. Ngoài quốc doan II/ Thu nợ 1. Quốc doanh 2. Ngoài quốc doan III/ Dư nợ 1. Quốc doanh 2. Ngoài quốc doanh 1.8 5 0 1.400 450 1.565 1.055 510 810 660 150 100% 75,5% 24,3% 100% 67,4% 32,6% 100% 81,5% 18,5% 1.120 1010 110 1.230 1010 130 700 575 130 100% 90,2% 9,8% 100% 89,4% 10,5% 100% 82,1% 18,5% 1.410 1250 160 1.060 1.020 140 950 800 150 100% 88,6% 11,3% 100% 96,2% 13,2% 100% 84,2% 15,8% (Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa). Trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa có xu hướng đầu tư chú trọng trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.Vì thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của nó cao hơn thành phần kinh tế quốc doanh đang còn trong tình trạng “Lãi giả,lỗ thật”.Nhưng sau một vài năm mở cửa các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không đủ khả năng canh trong điều kiện nền kinh tế thị trường, về phía Ngân hàng thì việc h oạt động kém hiệu quả của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Do vậy trong 3 năm trở lại đây Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa chuyển sang phát triển đầu tư cho khối doanh nghiệp quốc doanh thông qua diễn biến tình hình cho vay và dư nợ của Ngân hàng nói trên chúng ta thấy: Năm 1999 tổng dư nợ đạt 810 tỷ đồng, trong đo dư nợ trong thành phần kinh tế quốc doanh là 660 tỷ đồng chiếm 81,5% tổng dư nợ, trong khi đó dư nợ ngoài quốc doanh là150 tỷ đồng chiếm 15,8% tổng dư nợ. Năm 2000 tổng dư nợ đạt 700 tỷ đồng đó dư nợ trong thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 575 tỷ đồng chiếm 82,1% tổng dư nợ, trong khi đó dư nợ ngoài quốc doanh là 150 tỷ đồng chiếm 18,5% tổng dư nợ. Năm 2001 dư nợ đối vơi thành phần kinh tế quốc doanh tăng mạnh lên đến 800 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 84,2 tổng dư nợ trong khi đó dư nợ ngoài quốc doanh là 150 tỷ đồng chiếm 15,8% tổng dư nợ. Qua phân tích ở trên ta thấy Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã thực hiện được chủ trương và mục tiêu đề ra là tập trung hơn nữa vào đầu tư với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tăng giảm qua các năm , như số liệu trên cho thấy năm 2000 dư nợ giảm hơn năm 1999 là 85 tỷ đồng. Năm 2001 tăn hơn năm 2000 là 22,5 tỷ đồng và nếu so với năm 1999 thì số dư nợ tăng lên 140 tỷ đồng. Việc cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy đa dạng và phong phú nhưng cũng đầy tính phức tạp, cho vay đối với những thành phần này đòi hỏi phải có tài sản thế chấp làm đảm bảo tiền vay, nhưng các giấy tờ pháp lý cuả tài sản thế chấp lại không đầy đủ hoặc khi cho vay mà doanh nghiệp gặp sự cố thì việc chuyển hoá tài sản gặp nhiều khó khăn do các thủ tục pháp lý. Mở rộng đầu tư cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế là một yêu cầu cần thiết, song một yêu cầu đặt ra cần quan tâm đúng mức đó là chất lượng và hiệu quả tín dụng.Chất lượng, hiệu quả đầu tư cho vay của Ngân hàng phải thực sự phục vục cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh phát triển tăng thêm sản phẩm cho xã hội, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động Đơn vị, tổ chức kinh tế vay vốn Ngân hàng làm ăn có lãi,đủ đảm bảo trang trải chi phí,tiền lương Trả được nợ Ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn và làm đầy đủ trách nhiệm nghĩa vụ đối với đất nước. Tuy ngân hàng công thương khu vực Đống Đa đã đạt được những thành công theo chủ trương đề ra trong công tác huy động vốn và sử dụng vốn, nhưng để đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng thì chúng ta phải xem xét bằng tỷ trọng nợ quá hạn thấp hay cao, thể hiện việc cho vay và thu hồi nợ về có phù hợp với thời hạn quy định hay không. Nói cách khác là phải đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động đầu tư cho vạy, quyết định đến sự tồn tài và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 3. Đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa: Chất lượng thể hiện chủ yếu qua các năm sau: Tỷ lệ tổng dư nợ so với tổng nguồn vốn huy động, tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ. Biểu4: Kết quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng nguồn vốn huy động Tổng dư nợ Tỷ trọng dư nợ 1999 1.375 810 58,9 2000 1.429 700 48,9 2001 1.859 950 51,1 (Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa) Phân tích từ đây ta thấy tỷ lệ này cao phản ánh được hiệu quả sử dụng vốn. Biểu 5: tình hình nợ quá hạn Năm Tổng dư nợ Dư nợ quá hạn Tỷ trọng dư nợ 1999 2000 2001 810 700 950 12 20 16 1,5 2,9 1,7 (Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa). Từ biểu số liệu trên ta thấy dư nợ quá hạn năm 1999 lại thấp hơn so với năm 2000. Song nếu xét trên tổng dư nợ thì tỷ lệ này cao hơn rất nhiều. Điều đó chứng tỏ rằng trong hai năm 1999 và 2000 tốc độ giảm nợ quá hạn của Ngân hàng còn chậm. Sang đến năm 2001 dư nợ quá hạn trong khoảng 16 tỷ đồng nhưng xét trên tỷ lệ tổng dư nợ thì con số này vẫn ở khoảng thấp 1,7 % dưới mức cho phép (dưới 5%). Biểu 6: Biểu diễn dư nợ quá hạn các năm. Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Nănm 2001 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng I. Tổng dư nợ 810 100% 700 100% 950 100% II. Dư nợ quá hạn 12 1,48% 20 2,86% 16 1,68% 1. Quốc doanh 2,5 0,31% 6 0,86% 4 0,42% 2. Ngoài quốc doanh 9,5 1,17% 14 2% 12 1,26% (Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa) Thông qua biểu diễn biến tình hình nợ quá hạn ta thấy: - Năm 1999 dư nợ quá hạn 12 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1,48 % tổng dư nợ. Năm 2000 dư nợ quá hạn tăng lên 20 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,86% tổng dư nợ. Năm 2001 dư nợ quá hạn tăng lên 20 tỷ đồng so với năm 2000 chiếm tỷ trọng 1,68% tổng dư nợ. Trong dư nợ quá hạn thì dư nợ đối với ngoại quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn, công quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ, điều này chứng tỏ đầu tư tín dụng Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa vài năm trở lại đây cho thành phần kinh tế quốc doanh là đúng đắn. Với tỷ lệ nợ quá hạn tương đối thấp của Ngân hàng Cong thương khu vực Đống Đa ta có thể thấy rằng chất lượng kinh doanh tín dụng của Ngân hàng là có khả quan, việc đầu tư cho vay về cơ bản là đúng chính sách, chế độ, thể lệ. Tuy nhiên nợ quá hạn vẫn còn tồn tại và cần phải tiếp tục bằng mọi biện pháp để giải quyết, giảm thiểu nợ quá hạn nhất là những khoản nợ quá hạn khó đòi trong tổng số dư nợ quá hạn. Nợ quá hạn không thể tránh khỏi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đặc biệt là trong kinh doanh tín dụng, song khi có nợ quá hạn xảy ra thì dù lớn hay nhỏ mỗi mức độ có tính chất khác nhau tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đến thu nhập và lợi nhuận của Ngân hàng. Vì vậy ta phải tìm nguyên nhân gây ra nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa để tìm ra các biện pháp khác nhau tác động ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh,đến thu nhập và lợi nhuận của Ngân hàng. Vì vậy ta phải tìm nguyên nhân gây ra nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực đống đa để tìm ra các biện pháp khắc phục. Biểu7: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân: Đơn vị: tỷ đồng Nguyên nhân nợ quá hạn Năm 1999 Năm 2000 Nănm 2001 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng dư nợ quá hạn 12,0 100% 20,0 100% 16,0 100% - Kinh doanh 9,7 80,8% 15,9 79,56% 11,4 71,3% Cơ chế 1,3 10,8% 2,1 10,5% 1,6 10,0% - Nguyên nhân khác 1,0 8,4% 2,0 10,0% 3,0 18,7% (Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp – Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa) Thông qua biểu đồ trên ta thấy rằng nguyên nhân gây tình trạng nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa là do hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Năm 1999 Nợ quá hạn do kinh doanh là 9,7 tỷ đồng chiếm 80,8% dư nợ quá hạn. Năm 200 nợ quá hạn do kinh doanh là 15,9 tỷ đồng chiếm 79,5% dư nợ quá hạn. Năm 2001 nợ quá hạn do kinh doanh là 11,4 tỷ đồng chiếm 71,3% dư nợ quá hạn. Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa qua các năm được thể hiện do những nguyên nhân sau: + Cơ chế qua các năm có xu hướng giảm thấp hơn về kinh doanh vì: Do chính sách của Đảng và Nhà nước không được đồng bộ cho nên các doanh nghiệp dự trữ hàng rất lớn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình dẫn đến tình trạng không trả được Ngân hàng. Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm mẫu mã phong phú, nhà kinh doanh phải biết nhạy bén trong thế cạnh tranh các mặt hàng và phải kịp thời nắm bắt có chế chính sách của Đảng và Nhà nước để có các biện pháp khắc phục ngay. Nếu không doanh nghiệp không xuất khẩu được hàng hoá bị ứ đọng và không thu hồi được vốn. Cho nên doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng mà không có khả năng trả nợ thì đó cũng là một nguyên nhân gây ra nợ quá hạn cho Ngân hàng. Vốn của Ngân hàng là đồng tiền “ quầy vòng” nhanh để đáp ứng cho thị trường một khối lượng tiền lớn. Nếu lượng tiền mà ngân hàng bỏ ra không thu hồi được vốn thì Ngân hàng gặp nhiều rủi ro khi cho vay. Ví dụ: doanh nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu gỗ Pơmu khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng bằng gỗ hay nguyên vật liệu bằng gỗ thị vào thời điểm đó Nhà nước ra chính sách cấm xuất khẩu mặt hàng này, do vậy dẫn đến tình trạng doanh nghiệp rất lao đao trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Không phải chỉ doanh nghiệp mất vốn mà cả Ngân hàng cũng mất vốn do cơ chế chính sách gây ra. + Nguyên nhân thứ hai là do kinh doanh làm ăn thua lỗ, không trả nợ, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc kinh doanh thu lỗ. Các doanh nghiệp khi kinh doanh đều có thể gặp các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan, khách quan đem lại, nhưng khi gặp các rủi ro do ấy doanh nghiệp không có khả năng thanh toán có Ngân hàng thì sẽ dẫn tới tình trạng không trả được nợ Ngân hàng đúng hạn. + Nguyên nhân thứ ba là do: Hàng ngoại nhập vào nhiều bằng các con đường trong đó cả hàng nhập khẩu trái phép, khiến hàng hoá của các doanh nghiệp tiêu thu chậm hoặc không tiêu thụ được do phải cạnh tranh vì thế mà không có doanh thu trả nợ cho Ngân hàng. 3.1. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. 3.1.1. Tồn tại Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau đã dẫn đến không ít những doanh nghiệp đã bộc lộ những yếu kém và lúng túng trong hoạt động kinh doanh, có những doanh nghiệp bị giải thể phá sản đã sinh ra tình trạng nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Điều này gây nên rủi ro trong kinh doanh tín dụng đố với Ngân hàng. Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa với số lượng khác hàng đông đảo thuộc mọi thành phần kinh tế và lĩnh vực kinh doanh khác nhau cũng không tách khỏi rủi ro về tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh tín dụng có những sự việc xẩy ra trong ngân hàng mà ngân hàng không thể lường trước được và ngoài mong muốn của ngân hàng đã làm thiệt hại và làm giảm thấp kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn nâng cao chất lượng tín dụng là vấn đề quan tâm số một của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Có thể nợ quá hạn là tồn tại có bản nhất, nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe dọa trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng cũng như tình hình gây ra như không trả nợ và lãi vay ngân hàng lạm phát sinh quá hạn, khó đòi, nợ có khả năng không thu hồi được làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra còn có nguyên nhân từ phía Ngân hàng như trong quá trình cho vay chưa kiểm tra, giám sát kỹ lưỡng tình hình hoạt động của các doanh nghiệp vay hoặc chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về thế chấp, bảo lãnh vốn vay dẫn đến bị doanh nghiệp lợi dụng cho chính sách lãi suất cho vay cao. Việc phát sinh nợ quá hạn, về bản chất là đến hạn trả nợ nhưng khách hàng chưa trả hoặc không trả được nợ. Sau đây chúng ta xem xét tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa trong vòng 3 năm trở lại đây: 3.1.2. Hạn chế: Trên địa bàn quận Đống Đa tập trung nhiều Ngân hàng hoặc các chi nhánh hàng khác cùng hoạt động. Do yếu tố cạnh tranh của nền kinh tế thị trường để tồn tại, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt, cụ thể việc cạnh tranh khách hàng, cạnh tranh bằng lãi xuất huy động và giảm lãi suất cho vay để thu hút nhiều khách hàng. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đang có xu hướng giảm lãi suất tiền ngọai tệ tạo nguồn vốn cho vay. Trên địa bàn quận Đống Đa khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các đơn vị có nhu cầu nhập khẩu từ nước ngoài thành phẩm chủ yếu tiêu thụ trong nước. Do vậy thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ giao dịch với chi nhánh còn nhiều hạn chế. 3.2. Nguyên nhân về tồn tại và hạn chế: Nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan: 3.2.1. Nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân được coi là quan trọng nhất là sự bất cấp về trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng. Hầu hết cán bộ hiện nay đều được đào tạo một cách cơ bản. Trước đây với nội dung đào tạo phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hành chính bao cấp, làm viêc theo kinh nghiệm. Chưa được tiếp xúc với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nên khi chuyển hoạt động ngân hàng theo cơ chế cũ thì gặp nhiều khó khăn lúng túng, khuyết điểm trong chỉ đạo điều hành và xử lý nghiệp vụ. Tuy nhiên trong những năm gần đây với việc phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng và công nghệ thông tin đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường. Vì vậy muốn đưa đội ngũ cán bộ Ngân hàng vươn lên, đáp ứng những đòi hỏi của. Công cuộc đổi mới nền kinh tế xã hội nói chung và đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì không còn cách nào khác là phải đào tạo lại một số ít cán bộ tín dụng chưa thích nghi với điều kiện mới. Trong hoạt động Ngân hàng cụ thể về công tác tín dụng gặp khó khăn là do cán bộ Ngân hàng chưa thực hiện tốt được công việc của mình và chưa đưa ra được những quyết định kịp thời chính xác. Muốn xác định được một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hay không thì cán bộ tín dụng phải có một vốn kiến thức hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn mà khách hàng của mình đang sản xuất kinh doanh. Một cán bộ tín dụng dù giỏi đến đây cũng không thể có hiểu biết sâu sắc mọi lĩnh vực kinh doanh của nền kinh tế. Sự gia tăng các khoản nợ khó đòi là một bài học sây sắc cho sự hiểu biết kém của cán bộ tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng. Công tác thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng chưa đầy đủ, cung cấp thông tin thiếu chính xác dẫn đến rủi ro không ngừa trước được. Bộ máy thanh tra kiểm soát việc hiệu quả chưa cao, chưa kịp thời phát hiện những sai sót trong quy trình nghiệp vụ và trong công tác đầu tư để có biện pháp xử lý kịp thời dẫn đến thất thoát vốn. 3.2.2. Nguyên nhân khách quan. Một là: Do môi trường kinh tế vn chưa lành mạnh, trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta đã có mặt tích cực đạt được như tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định, ngăn chặn lạm phát. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những mặt yếu kém như hiệu quả nền kinh tế còn thấp, sự phân phối giữa các ngành các cấp chưa đồng bộ. Dẫn đến nền kinh tế mất cân đối cung cầu, làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó cơ chế chính sách về xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ còn để hàng nhập lậu dẫn đến tình trạng các mặt hàng trong nước sản xuất ra chậm lưu thông. Hàng trong nước không cạnh tranh được là vì hàng nhập lậu quá rẻ, mẫu mã phong phú phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng mà hàng hoá Việt nam sản xuất giá thành cao do máy móc và công nghệ cũ nên việc cạnh tranh khó khăn, không tiêu thụ được hàng hoá dẫn đến ứ đọng và không trả được vốn và lãi cho ngân hàng. Hai là: Trình độ tổ chức hoạt động của các tổ chức kế toán tín dụng với ngân hàng còn nhiều yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp. Nếu thực hiện đúng quy định của Nhà nước là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vốn tự có không đảm bảo thì không đầu tư, như thế sẽ đẩy doanh nghiệp làm ăn thua lỗ mà ngân hàng vẫn cho vay, nếu thấy doanh nghiệp ấy vẫn có khả năng đứng vững được trong thị trường thì ngân hàng cho vay là đúng đắn. Nhưng ngược lại ngân hàng vẫn cho vay mà doanh nghiệp làm ăn càng thua lỗ thì Ngân hàng sẽ gặp khó khăn hơn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn sẽ cao. Ba là: Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến Ngân hàng hiện nay tuy đã được cải tiển nhiều nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý và thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ còn nhiều vướng mắc gây khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng vào cho nền kinh tế, cụ thể là: Về giấy tờ pháp lý của tài sản thế chấp: hiện nay bất động sản được đưa ra làm tài sản thế chấp vẫn chưa đáp ứng đù điều kiện cần thiết về giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu và cũng không biết được mỗi loại có mấy bản gốc để đưa v ào thế chấp. Việc này dẫn đến tình trạng một khách hàng có thể mang giấy tờ đi vay tại nhiều Ngân hàng với một tài sản thế chấp. Việc đăng ký thế chấp cầm cố: Chưa có quy định rõ ràng về phạm vi và trách nhiệm của các cơ quan quản lý trình tự thủ tục đăng ký thế chấp như thế nào. Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn bị ảnh hưởng bới các nguyên nhân khách quan như: Thiên tai, lũ lụt, hoả hoan thay đỏi cơ chế chính sách tệ nạn xã hội Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương khu vực đống đa I.định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, cạnh tranh là đọ sức, nói một cách khác, cạnh tranh là việc giữ vững thị phần của mình, mở rộng thị phần của mình sang thị trường tiềm năng và xâm lẫn thị trường của đối thủ cạnh tranh. Từ đó để tạo môi trường cơ sở giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới công nghệ phát huy năng lực cạnh tranh theo định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện mục tiêu phương hướng mà ngân hàng công thương khu vực đống đa là nguồn vốn huy động đến Quí I năm 2003 đạt 1. 950 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt 1.200 tỷ đồng. Trong đó khối quốc doanh đạt 82%. Dư nợ trung dài hạn đạt tỷ trọng 45% tỷ lệ nợ quá hạn đạt không quá 3.5% tăng tỷ trọng thu dịch vụ phí 1.5% so với năm 2002 lợi nhuận hạch toán đạt 22 tỷ đồng. Như vậy hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ của Ngân hàng công thương khu vực Đống đa những năm gần đây và đặc biệt là năm 2001-2002 luôn đạt hiệu quả cao. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn bám sát tiến độ thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn để đẩy mạnh huy động vốn và đầu tư tín dụng, nên đã góp phần thiết kế thực vào việc vào mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn để đẩy mạnh huy động vốn và đầu tư tín dụng, góp phần thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của thủ đô. Bước vào năm 2003, Ngân hàng Công thương khu vực Đống đa vẫn tiếp tục tìm các giải pháp đổi mới các hoạt động nhận tiền bằng VNĐ và ngoại tệ tại trụ sở chính 187 Tây sơn, hai phòng giao dịch tại Cát Linh và Kim Liên cùng 14 quỹ tiết kiệm đặt tại các phường và đường phố đông dân cư trong quận Đống đa. Dự kiến đưa nguồn vốn huy động tăng lên 1950 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay tăng 10% so với năm 2002. Thực hiện phương hướng kinh doanh trên, từ lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên phải hợp tác một lòng, đoàn kết nhất trí, mở rộng cho vay đối với mọi thành phần trên đại bàn, đầu tư vốn tín dụng với người tiêu dùng về chất lượng. Để mở thị trường đầu tư vốn tín dụng ngắn hạn, ngân hàng nâng cao tỷ trọng đầu tư chiều sâu tăng hơn năm 2002 trong tổng dư nợ cho vay nhằm mục đích để bạn hàng của ngân hàng mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng còn mở rộng dịch vụ cho vay đồng tài trợ cho vay đến các dự án có quy mô lớn. Ngân hàng cũng có phải cải tiến trả tiền lương của cán bộ công nhân viên các doanh nghiệp đăng ký với ngân hàng chuyển vào tài khoản cá nhân, mở thêm dịch vụ thu tiền tại các đơn vị cho các Công ty có nguồn thu tiền mặt lớn miễn phí, dịch vụ trả tiền tự động qua máy ATM đặt tại nơi thuận tiện phục vụ khách hàng nhanh chóng. II. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương khu vực đống đa 1. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế nợ quá hạn. Công việc đầu tiên để thực hiện ngăn ngừa rủi ro là Ngân hàng phải củng cố mạng lưới thu thập và xử lí thông tin khách hàng để nâng cao được chất lượng của công tác thẩm định dự án. Ngân hàng cần liên hệ thường xuyên với khách cũng như các cơ quan quản lí khách hàng (các Bộ, các Tổng công ty..) để có được những thông tin chính xác về thực trạng kinh doanh hiện tại của khách hàng, khả năng phát triển trong tương lai của họ lấy đó là một cơ sở quan trọng nhất để ra quyết định cấp tín dụng. Trong thẩm định dự án phải chú trọng đến năng lực pháp lí của người vay và đặc biệt là kế hoạch về khả năng sinh lời của dự án, kế hoạch trả nợ trên cơ sở gắn những yếu tố về chi phí thu nhập của dự án với các yếu tố tương đương trên thị trường và xu hướng biến động của chúng trong tương lai. Ngoài ra, với những khách hàng mới cũng cần có sự đảm bảo của cơ quan chủ quản( Tổng công ty, Bộ...) hay sử dụng tài sản cầm cố. Tuy nhiên, không quá coi trọng vào tài sản thế chấp. Tiếp đến Ngân hàng phải tiến hành phân định cán bộ tín dụng theo dõi tình hình sử dụng vốn trong suốt dự án chứ không chỉ chú trọng ở riêng giai đoạn đầu và cuối như hiện nay. Về quản lí thu nợ và xử lí nợ quá hạn: Ngân hàng và khách hàng phải xác định lịch trả nợ phù hợp với lịch thu được lợi nhuận từ hoạt động của khách, tránh gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần qui định chặt chẽ về việc yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi thu nợ. Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ thông qua các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính, báo các kết quả hoạt động kinh doanh; có dấu hiệu trốn tránh sự kiểm tra của Ngân hàng; số dư tiền mặt giảm; gia tăng bất thường về hàng tồn kho hoặc các khoản nợ thương mại, hoàn trả nợ và lãi chậm... để chủ động tìm biện pháp xử lí chứ không nên trông chờ vào doanh nghiệp. Cụ thể : - Cán bộ Ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho khách hàng trong tiêu thụ sản phẩm, thu nợ khách hàng của doanh nghiệp. - Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như: mở rộng cho vay tín chấp. Hay là, Ngân hàng có thể cho vay thêm hợp đồng tín dụng với khác trên cơ sở có người đứng ra bảo lãnh. - Đề nghị doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức như cổ phiếu, trái phiếu. - Đối với các khoản cho vay mà sau khi phát hiện và thực hiện các biện pháp hỗ trợ vẫn không có tác dụng dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi khi đó Ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp về khai thác và thanh lí. + Biện pháp khai thác: Ngân hàng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng, giảm qui mô hoàn trả trước mắt hoặc có thể dãn nợ cho các doanh nghiệp. Các hình thức này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập có khả năng trả nợ; có ý thức trả nợ, trong quá trình vay đã trả được một phần nợ gốc và lãi; doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố thế chấp dễ phát mại. + Biện pháp thanh lí tài sản thế chấp: Khi mà mọi sự cứu vãn tình thế trở nên không còn hiệu quả thì Ngân hàng cần phải sử dụng biện pháp thanh lí nợ. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức gán nợ hay khởi kiện tuỳ theo quan hệ với khách, ý thức mong muốn trả nợ và nguyên nhân không trả được nợ của khách. - Gán nợ: Ngân hàng sẽ áp dụng hình thức gán nợ với các khách hnàg không có khả năng trả nợ và họ uỷ quyền cho Ngân hàng toàn quyền quyết định đối với tài sản thế chấp. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản để cho thuê, làm trụ sở hay bán lại cho người khác. - Khởi kiện: Với những khách hàng có hành vi trốn tránh, lừa đảo thì Ngân hàng sẽ tiến hành khởi kiện ra pháp luật. Nếu các tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án thì Ngân hàng nên chuyển qua trung tâm đấu giá hoặc thu hồi sử dụng như với hình thức gán nợ. Còn nếu các tài sản có đủ hồ sơ pháp lí nhưng lại có thế chấp ở Ngân hàng khác thì tiến hành phát mại và phân chia theo quyết định của toà án. Đối với những khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì khả năng gánh chịu rủi ro của Ngân hàng là khó tránh khỏi. 2.Tăng cường công tác kiểm tra - kiểm soát Cần tăng cường công tác kiểm tra việc sử dụng vốn vay củakhách hàng, nếu việc kiểm tra được sát sao sẽ giúp cho người vay sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả cao hơn. Nếu thiếu kiểm tra đôn đốc thì khi phát hiện đã quá muộn, Kết quả làm nẩy sinh những khoản nợ khó đòi. ở Ngân hàng công thương khu vực đa mặc dù tỷ lệ nợ quả hạn tương đối thấp nhưng không vì thế mà sao nhãng công việc này. Tăng cường kiểm tra kiểm soát trước trong và sau khi cho vay là yêu cầu hết sức quan trọng nhằm mục đích bào vệ tốt cơ chế tín dụng ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh trái pháp luật, lợi dụng, lừa đảo... kiểm tra, kiểm soát còn chỉ ra những phạm vi đáng quan tâm trong hoạt động quản lý. Kiểm tra trước khi cho vay: là giai đoạn từ khi khách hàng xin vay đến khi Ngân hàng ký xong hợp đồng tín dụng. Các bộ tín dụng kiểm trả các điều khoản trong hợp đồng tín dụng có được thực hiện đúng hay không, tình hình chấp hành những vấn đề cơ bản của tín dụng ngân hàng như: sử dụng vốn có sai mục đích hay không? Vốn vay có giá trị vật tư hàng hoá đảm bảo hay không? Ngân hàng tiến hành thẩm định về khách hàng như: Ngân hàng tiến hành kiểm tra hồ sơ cho vay vốn có hợp lệ không kiểm tra chính xác những số liệu trong hồ sơ, tình hình tài chính của người vay vốn: vốn tự có, khả năng thanh toán vốn, mức sinh lời của dự án, kiểm tra khách hàng có phương án sản xuất kinh doanh xem có tính khả thi hay không. Kiểm tra sau khi cho vay: ngân hàng kiểm tra khả năng phát huy hiệu quả sử dụng vốn thông qua tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm, phân tích kết quả hoạt động tài chính của khách hàng. Đồng thời kiểm tra nợ Ngân hàng. Kiểm tra sau khi cho vay là trong suốt việc tra của ngân hàng khi ngân hàng phát tiền vay đến khi thu hết nợ. Ngân hàng kiểm tra tiến độ thực hiện sản xuất kinh doanh, tình hình kế hoạch trả nợ của khách hàng. Nếu khách hàng trả nợ chậm cho ngân hàng thì ngân hàng xem xét khách hàng vì lý do gì mà chưa trả nợ hay ngân hàng xem khách hàng có thể trả nợ được nữa hay không. Nếu như khách hàng sản xuất kinh doanh vẫn bình thường thì có nghĩa là khách hàng đó chây ỉ trả nợ thì ngân hàng xử lý. Nếu nguyên nhân tác động đến khách hàng là do khách quan hay tai nạn, mất khả năng hoạt động kinh doanh dẫn đến không trả nợ được thì ngân hàng sẽ tiến hành phân tích nguyên nhân xử lý theo quy định. Theo định kỳ thì ngân hàng phải phân tích tình hình sản xuất kinh doanh. Hay tình hình tài chính của doanh nghiệp theo cơ sở đó sự phân loại doanh nghiệp. Ta xét doanh nghiệp loại tốt, trung bình, loại yếu. Từ đó ngân hàng sẽ áp dụng theo thể lệ cho vay, có thể cho vay theo hạn mức hoặc cho vay theo từng lần tuỳ từng độ tín nhiệm của doanh nghiệp. Việc kiểm tra kiểm soát được tăng cường chắc chắn sẽ phát triển và xử lý kịp thời những vi phạm trong hợp đồng tín dụng, thực hiện tốt quy chế tín dụng vừa nâng cao trách nhiệm sử dụng vốn vay của Ngân hàng và giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả 3. Chiến lược con người, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực Đội ngũ cán bộ ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an toàn trong kinh doanh là hai nhiệm vụ quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với nhau.Về chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng Ngân hàng hiện nay đang đứng trước thực trạng nợ quá cao, nguy cơ mất vốn lớn có thể đưa đến mất an toàn cả hệ thống và là lĩnh vực chứa đựng rủi ro co hơn nhiều ngành kinh doanh khác thì yếu tố con người có thể coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Yếu tố chiến lược con người là quan trọng vì con người là sức mạnh kinh doanh của mọi ngân hàng, cũng như các ngành kinh tế khác họ cũng đem lại nhiều thành công trong công việc và của đất nước. Chính họ đã làm nên được nhiều điều kỳ diệu và làm đất nước thay đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đó là một bước nhẩy vọt rất lớn của con người. Vì thế trong hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác tín dụng nói riêng cần có những biện pháp để phát huy hiệu quả của nguồn nhân lực. Tuyển nhân viên mới cho ngân hàng: trong ngân hàng hiện nay các ngân hàng thường tuyển nhân vên mới vào làm việc vì sự tồn taị và phát triển được trong nền kinh tế thị trường hiện nay ngân hàng phải có một đội ngũ nhân viên thực sự có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, tính cách cần thiết phù hợp với công việc, ý thức tổ chức, tác phong làm việc phong cách ứng xử, khả năng bằng cấp, bên cạnh đó cũng đưa ra mức lương thích hợp và thông báo trước khi tuyển dụng, có thể ngân hàng có cơ hội chọn được những người có năng lực thực sự. Việc xác định nhu cầu tuyển dụng mới cần được xuất phát trên cơ sở định hướng phát triển ngân hàng. Đào tạo và đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng sẵn có. Đối với ngân hàng thì việc đào tạo lại cán bộ không phải lúc nào cũng có nhu cầu. Vì vậy nếu như ngân hàng muốn cử cán bộ đi học để nâng cao nghiệp vụ một điều cân nhắc tới là sự phát triển cán bộ là điều mà Ban lãnh đạo chi nhánh đặc biệt quan tâm. Ban lãnh đạo luôn tìm cách giúp đỡ các nhân viên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ bằng cách cử đi đào tạo tạo tại nhiều lớp tập huấn nghiêp vụ như tín dụng, kho quỹ. Tạo điều kiện về thời gian và tài chính cho cán bộ đi học bằng đại học cao học. Trong các khoá học nhiều cán bộ của chi nhánh đạt kết quả loại giỏi và xuất sắc. Do đó cán bộ Ngân hàng giữ vị trí quan trọng đối với hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể đào tạo tại chỗ hoặc cử đi đào tạo tại các cơ sở hoặc phối hợp cả hai. Một phương thức nào đó được thực hiện là do yêu cầu và chương trình đào tạo đối với một số công việc đòi hỏi nhiều kỹ năng và mang tính tác nghiệp thì cần tăng cường đào tạo tại chỗ còn đối với công việc quản lý về các công việc có ảnh hưỏng lớn đến hoạt động và kết quả kinh doanh chung thì cần có chương trình đào tạo dài hạn bởi các cơ sở đào tạo có chuyên môn. Trong điều kiện các ngân hàng luôn phải cạnh tranh với nhau đòi hỏi khả năng phả ứng thì linh hoạt luôn yêu cầu Ngân hàng phải có chương trình thay đổi các mục tiêu phương hướng, kế hoạch linh hoạt tương ứng, ngân hàng cũng có yêu cầu nhiều hơn về cán bộ quản lý và cán bộ có kỹ năng về tài chính, ngân hàng kinh tế. Việc thực hiện các chương trình đào tạo luôn đòi hỏi nguồn tài chính nhất định và cơ sở vật chất nhất định. Vì vậy khi thiết lập chương trình luôn phải tính tới khả năng tài chính để thực hiện chương trình. Nói tới đào tạo cần chú ý không chỉ cử người đi học mà một vấn đề quan trọng lằ việc theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập . Chính khâu nay sẽ giúp cho ngân hàngđánh giá được hiệu quả của chi phí đào tạo đã bỏ ra có cơ sở hơn để đánh giá đúng năng lực của cán bộ. Bên cạnh đó việc bố trí sử dụng nguồn nhân lực chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Một khi sử dụng đúng đắn, hợp lý, mỗi cán bộ sẽ phát huy hết năng lực của mình, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đối với bộ tín dụng: Ngoài yêu cầu về chuyên môn cần có thêm các tiêu chuẩn. Nắm vững mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế nói chung, chế độ tín dụng nói riêng. Có kiến thức khoa học tâm lý, biết sử dụng các phương tiện tin học, ngoại ngữ thông dụng. Ngoài ra ngân hàng còn có chính sách kỷ luật, khen thưởng nghiêm minh, kịp thời để khuyến khích cán bộ, công nhân viên không ngừng nâng cao chất lượng công việc. 4. Các giải pháp hỗ trợ Để thực hiện mục tiêu, hạn chế tối ta rủi ro trong kinh doanh tín dụng để cho hoạt động tín dụng của ngân hàng được an toàn và hiệu quả cao nhất. Ngoài ra những biện pháp vừa nêu trên mà bất cứ một ngân hàng cao cũng, đã và sẽ phải làm thì các ngân hàng thương mại cũng rất cẩn thận được sự hỗ trợ các cấp, các ngành, các lĩnh vực có liên quan. 4.1. Về phía nhà nước. Nhưng chúng ta đã biết, tính chất vốn tín dụng ngân hàng là nguồn vốn bổ sung, tham gia trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quy chế của ngân hàng quy định: cho vay một khách hàng không vượt quá vốn tự có của khách hàng. Nhưng đó là một vấn đề nan giải hiện nay, vốn tự có của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé so với nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, nếu chỉ căn cứ vào vốn tự có của doanh nghiệp thì vốn tín dụng ngân hàng cho vay theo mức độ vốn tự có sẽ đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nếu cho vay vượt số vốn tự có sẽ sai quy chế và mức độ rủi ro vốn đầu tư sẽ cao hơn vì không phải doanh nghiệp nào cũng hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. ở các doanh nghiệp Nhà nước vốn tự có thường do ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập doanh nghiệp và cấp với số lượng rất ít. Vay ngân hàng chính là biện pháp tình thế giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn trước mắt. Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro là điều không thể lường trước được, ngân hàng vì muốn bảo vệ đồng vốn của mình ngày càng đưa ra điều kiện khắt khe hơn cho vay, sở dĩ có tình trạng như vậy là do gần đây ngoài việc có sự biến động bất thường của thị trường ngoại tệ gây khó khăn trong kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cho ngân hàng, còn có sự đổ vỡ của một loại các doanh nghiệp Nhà nước lớn như: Tamexco, Dệt nam định.. các doanh nghiệp này sụp đổ là do sự yếu kém về năng lực quản lý trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức xuống cấp nghiêm trọng của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp sự buông lỏng quản lý của các cấp, các ngành có liên quan trong đó có các ngân hàng thương mại lớn. Để đảm bảo an toàn cho vốn đầu tư, ngăn chặn những rủi ro, các ngân hàng mong rằng chính phủ nên chấp nhận cho các ngân hàng thương mại được trích lập quỹ bù rủi ro trước khi nộp thuế để bù đắp các tổn thất trong kinh doanh hoặc cho phép các ngân hàng thương mại được đánh giá lại chất lượng tín dụng, có nghĩa là sự bù đắp lãi lỗ trong kinh doanh trong kinh doanh trước khi khi nộp các khoản thuế cho ngân sách, để được thực sự có vai trò tự chủ tài chính. 4.2. Về phía ngân hàng: Lãi suất có vai trò rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng, một công cụ quan trọng trong hệ thống chính sách lãi suất sẽ là đòn bẩy của Nhà nước. Sử dụng đúng chính sách lãi suất sẽ là đòn bẩy thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá, phát triển, ngược lại không sử dụng đúng chính sách lãi suất sẽ kìm hãm thậm chí gây rối loạn, khủng hoảng, đổ bể và tổn thất. Lãi suất tín dụng là một vấn đề hết sức phức tạp đối với ngân hàng Nhà nước lãi suất vừa là công cụ vừa là chính sách quản lý vĩ mô, đối với các ngân hàng thương mại thì nó là một công cụ hiệu nghiệm để thực hiện mục đích kinh doanh. Vấn đề thiếu thông tin trong kinh doanh tín dụng là rất nguy hiểm. Hiện nay các ngân hàng thương mại sử dụng thông tin chủ yếu do phòng thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng Nhà nước cung cấp. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin của phòng này rất hạn chế. Do đó trong tươnglai, CIC phải tập trung cho việc nâng cao chất lượng như bô sung quy chế chấn chính lại hoạt động từ khâu cập nhất số liệu để cung cấp thông tin, quy định các chế tài xử lý các trường hợp cung cấp thông tin chậm trễ và sai lệch dẫn đến rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước phải yêu cầu tất cả ngân hàng cho khách hàng khác địa bàn vay thì bắt buộc phải sử dụng thông tin CIC cung cấp. Có như vậy CIC mới trở thành chỗ dựa thực sự của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, ngân hàng công thương Việt Nam để ra phương hướng yêu cầu tất cả các chi nhánh ngân hàng cũng như chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Đống đa phải thường xuyên nhận xét, đánh giá về năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng vừa vay vốn tại ngân hàng công thương khu vực Đống Đa nhưng đồng thời lạ vay vốn tại một hay nhiều ngân hàng khác. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát đối với đơn vị này. Cần hạn chế cho vay các doanh nghiệp có trụ sở ngoài địa bàn hoạt động của chi nhánh cho vay để các doanh nghiệp đưa vốn kinh doanh đi nơi khác, thoát lý sự kiểm soát, quản lý của ngân hàng. Rõ ràng với chủ trương như vậy, ngân hàng công thương khu vực Đống đa sẽ phải thận trọng khi quyết định có đầu tư hay không? Vì vậy sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế bớt được rủi ro. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước thì một doanh nghiệp có thể vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhưng nếu có dự án kinh doanh tốt mà ngân hàng cảm thấy có thể cho vay được thì vẫn cho vay. Như vậy, vừa tăng được lợi nhuận cho ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp giải quyết được khó khăn, chỉ cần đẩy mạnh vai trò của người bộ tín dụng là có thể hạn chế bớt được rủi ro chứ không cần phải cho vay theo kiểu co cụm đó là chủ trương của ngân hàng công thương Việt Nam. III. Một số kiến nghị: 1. Đối với ngân hàng công thương Việt Nam: Ngân hàng công thương Việt Nam cần tạo một sự tự chủ hơn nữa cho các ngân hàng thương mại, có thể bỏ bớt một số chỉ tiêu kế hoạch hoặc mở rộng phạm vi quyết định cho các ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu kế hoạch hoặc mở rộng phạm vi quyết định cho các ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu vốn điều hoà nộp nên ngân hàng công thương Việt Nam mặc dù có mặt rất tốt giúp ngân hàng công thương san sẻ hỗ trợ vốn cho các ngân hàng khác nhưng cũng chính nó lại làm triệt tiêu động lực kinh doanh. Ngân hàng công thương khu vực Đống Đa mặc dù không cho vay được nhiêu nhưng vẫn có lãi vì một lượng vốn lớn điều chuyển nên Ngân hàng công thương Việt Nam vẫn được hưởng lãi. Như vậy rõ ràng là các ngân hàng không cần thiết phải tìm kiếm các khách hàng để cho vay và cũng không lo bị thua bỗ vì vốn thừa cứ đem lộp cấp trên chỉ tiêu vốn điều hoà trở thành sự bao cấp của công thương Việt Nam cho các ngân hàng chi nhánh và tất nhiên đá là bao cấp chỉ thường kém hiệu quả. Thiết nghĩ rằng chỉ tiêu này vẫn nên được duy trì ở mức độ nào đó nhưng cũng dần dần giảm bớt đi và không phải cứ vượt chỉ tiêu là được khuyến khích. Ngân hàng Công thương Việt Nam có một Công ty mua bán và khai thác tài sản hoạt động tại phía Bắc để giải quyết tài sẳn bắt nợ cho các chi nhánh nhanh chóng. Giải quyết được nợ từ những vụ cho vay có vấn đề nhằm khơi thông bảo vệ nguồn vốn. 2. Đối với ngân hàng Nhà nước: Một trong những nguyên nhân của những tồn tại hiện nay về chất lượng tín dụng là chưa có một môi trường pháp lý đầy đủ, chặt chẽ đảm bảo cho an toàn của động tín dụng. Do đó Nhà nước cần tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý để đảm bảo cho hoạt động tín dụng được an toàn và có chất lượng góp phần phát triển kinh tế. Để góp phần khắc phục tình trạng này cần phải bổ xung và sửa đổi một số điểm sau: - Ngân hàng nhà nước cần tạo lập chính sách tiền tệ tích cực năng động có hiệu quả luôn hướng đến mở rộng mọi nguồn vốn để đầu tư cho đất nước, kiểm soát được mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Thực hiện cơ chế lãi suất dùng lãi suất làm đòn bẩy thúc đẩy tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại huy động vốn cho đầu tư. - Để việc huy động vốn đạt hiệu quả cao cần loại bỏ sự cạnh tranh thiếu lành mạnh về lãi suất. Ngân hàng Nhà nước cần thống nhất với bộ tài chính để tiến tới thực hiện làm đại lý đấu thầu toàn bộ các loại trái phiếu dài hạn cho kho bạc Nhà nước. Điều này sẽ tránh được sự trênh lệch lãi suất kho bạc và lãi suất ngân hàng thương mại - Điểu chỉnh kịp thời không đồng bộ trong văn bản pháp quy: số lượng các văn bản hướng dẫn thi hành các mặt nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng rất nhiều từ các nghị định của chính phủ tới các quyết định của ngân hàng Nhà nước, các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản đối đến thông tư Liên Bộ. Số lượng văn bản thì nhiều nhưng có nhiều vấn đề chưa được hiểu một cách tường tật thấp nhất, các ngành triển khai không đồng bộ thậm chí dẫm chân lên nhau trong qúa trình thực hiện các chỉ thị của Chính Phủ. Ví dụ việc thế chấp quyền sử dụng đất theo quy định vừa phải đăng ký tại sở địa chính vừa phải qua vòng chứng thực ở Phòng Công chứng. Theo quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng, bên thế chấp phải giao chính về quyền sử dụng đất cho tổ chức tín dụng là cơ quan nhận thế chấp nắm giữ. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính pháp lý không cần thiết tạo điều kiện cho tài sản được mua bán, chuyển nhượng dễ dàng nhanh chóng. Tóm lại: trong điều kiện hiện nay, trên cơ sở các quan điểm định hướng về nâng cao chất lượng tín dụng, với những mục tiêu chiến lược và xác định có cơ sở và phù hợp với thực tiễn hoạt động ngân hàng. Với nỗ lực của bản thân và sự trợ giúp của ngân hàng Nhà nước cùng các ngành, các cấp có liên quan, hy vọng, giải pháp và kiến nghị sẽ giúp các ngân hàng Thương mại ngày càng một nâng cao chất lượng tín dụng và tín dụng sẽ trở thành một công cụ đắc lực của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách để đáp ứng nhu cầu vốn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong nghị quyết VIII trung ương đảng đã đề ra. Kết luận Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, Ngân hàng cần phải đảm bảo của mình cả về quy mô và chất lượng “ giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng” không chỉ là mong muốn của riêng Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa mà còn là của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và cũng là mong mỏi của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Với suy nghĩ đó tôi cũng đã chọn đề tài” Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng công thương khu vực Đống Đa” để phần nào đáp ứng mong muốn này. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, chuyên đề đã thực hiện được những nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng ngân hàng. Khẳng định vai trò quan trọng công tác tín dụng tại ngân hàng Thương mại trong việc được chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Phân tích thực trạng, hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa, từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại đã hạn chế hoạt động tín dụng này tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa. 3. Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển và nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa, bao gồm: - Giải pháp đối với ngân hàng - Giải pháp hỗ trợ - Giải pháp đối với khách hàng - Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam một số vấn đề liên quan đến việc nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Đây là một đề tài có nhiều vấn đề phức tạp nên những giải pháp và kiến nghị đề xuất trong chuyên đề này chỉ là một đóng góp nhỏ trong tổng thể các biện pháp nhằm phát triển công tác tíndụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa nói riêng và ngân hàng thương mại nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa.pdf
Luận văn liên quan