Việt Nam tuy có lợi thế tiềm năng đối với một số nông sản xuất khẩu có giá
trị cao. Nhưng để khai thác có hiệu quả đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp
kinh tế – kỹ thuật – tổ chức, đặc biệt là trong tình hình hiện nay có sự cạnh tranh
gay gắt của qúa trình tự do thương mại. Việc tìm ra một giải pháp cho xuất khẩu
nông sản không phải là một việc làm đơn giản mà cần có sự hỗ trợ của các chuyên
gia và tổ chức nghiên cứu chuyên sâu. Hy vọng rằng Việt Nam với lợi thế của
mình và định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong
những năm tới sẽ thúc đẩy các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, không những
phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, khối lượng và kim ngạch ngày càng tăng
mà còn tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới.
125 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2193 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoá thông qua hợp đồng.
Muốn tăng sức mua cho người nông dân thì vấn đề cốt lõi là tiêu thụ hàng
nông sản cho nông dân với giá cả hợp lý, nông dân làm ra sản phẩm phải có nơi
tiêu thụ và có lãi. Trong thời gian qua đã có nhiều cơ chế chính sách ban hành để
thực hiện mối liên kết giữa nông dân và nhà sản xuất nhưng vẫn chưa thực hiện
được, hoặc thực hiện còn hạn chế. Năm 2002 vừa qua Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 80 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá theo hợp
đồng , vơid nội dung chính như: “Các doanh nghiệp ký hợp đồng tiêu thụ nông sản
với người sản xuất sẽ được hưởng một số ưu đãi liên quan tới đất đai, đầu tư, tín
dụng. Theo đó vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở sản xuất chế biến
tiêu thụ hàng hoá được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần về đầu tư, xây dựng
cơ sở hạ tầng, hệ thống chợ bán buôn, kho tàng bảo quản, mạng lưới thị trường
tiêu thụ, các cơ sở kiểm định chất lượng nông sản”.
Nhưng câu hỏi đặt ra là “đâu là khâu chính trong chính sách tiêu thụ nông
sản hàng hoá theo hợp đồng trong Quyết định 80/2002/QĐ - CP ? ”. Người ta
nói tới giải pháp phải có hợp đồng kinh tế hai chiều một cách chặt chẽ khả thi giữa
người mua và người bán nông sản, tuy nhiên việc thiếu chế tài hợp lý, thiếu chính
sách hỗ trợ các doanh nghiệp và nông dân thực hiện hợp đồng được coi là trở ngại
lớn trong thơì gian qua. Mặt khác sự mâu thuẫn hiện nay giã sự không ổn định đầu
ra của doanh nghiệp và sự manh mún trong sản xuất của người nông dân cũng là
một trở ngại lớn.
Vấn đề chính hiện nay là làm thế nào để gắn kết doanh nghiệp với nông dân.
Chính sách khuyến khích hợp đồng hai chiều để mau hàng và tiêu thụ nông sản
cho nông dân không chỉ dừng lại là hỗ trợ vốn, đầu tư, lãi suất tín dụng cho doanh
nghiệp cũng như ứng vốn cho nông dân, đầu vào đầu ra mà còn phải quan tâm
đúng mức tới khâu lưu thông cho hàng nông sản. Kinh nghiệm những năm qua cho
thấy nếu cứ rót tiền của vào các doanh nghiệp lớn để thu mua nông sản thì kết quả
hạn chế. Trường hợp này chỉ áp dụng với hợp đồng tiêu thụ hoặc xuất khẩu lớn có
sự cam kết của Nhà nước, còn nói chung nên nghĩ dến việc khuyến khích đầu tư
hỗ trợ thoả đáng cho khâu lưu thông trong đó tạo điều kiện cho các hợp tác xã, các
chủ trang trại làm chủ thể ký hợp đồng hai chiều để tiêu thụ nông sản.
Vậy nên khuyến khích vào khâu nào là chính trong chính sách tiêu thụ theo
hợp đồng vào doanh nghiệp kinh doanh lớn, vào các hộ nông dân cá thể, vào khâu
sản xuất hay tiêu thụ nông sản hay là dàn đều tất cả. Theo các chuyên gia thì giải
pháp tốt nhất để thực hiện chính sách trên là:
Thứ nhất Như chúng ta đã biết hàng nông sản là hàng đặc thù, để cạnh tranh
thì phải liên kết tức là nên hình thành các hợp tác xã kiểu mới. Trong HTX này các
xã viên liên kết hỗ trợ nhau, từ khâu khuyến nông, sản xuất, marketing, chế biến
theo qui trình liên hoàn từ đầu vào cho tới đầu ra. Riêng khâu tiêu thụ trên cơ sở
nắm bắt nhu cầu của khách hàng thì HTX đặt hàng xã viên để sản xuất hàng hoá
theo đơn hàng, tổ chức thu mua chế biến. Muốn làm được thì HTX phải đủ mạnh
làm chỗ dựa cho nông dân để họ tin tưởng tham gia.
Thứ hai Khuyến khích các hình thức trang trại lớn đặc biệt là trong sản xuất
lúa, cây công nghiệp. Theo thống kê hiện nay có khoảng 130 ngàn hộ với diện tích
bình quân 1 hộ từ 5 – 6 ha tổng thu nhập hàng năm khoảng 50 triệu đồng. Nên
xem hoạt động của trang trại như một doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Với
tư cách pháp nhân như vậy trang trại đủ điều kiện để ký hợp đồng hai chiều trực
tiếp với các doanh nghiệp lớn.
Và cuối cùng là cần có sự hỗ trợ đầu tư thoả đáng của Nhà nước cho mối
quan hệ này vì để HTX và kinh tế trang trại tự thân vận động thì cũng gặp nhiều
khó khăn khi ký hợp đồng hai chiều. Nhà nước cũng nên xem đó là hình thức đầu
tư cho nông dân. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy các HTX, chủ trang
trại, các nông trang lớn là những đơn vị chủ yếu ký kết hợp đồng cung cấp nông
sản cho thị trường.
2. Cần tạo lập môi trường cho thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá. Cấu
trúc thị trường và môi trường pháp lý cho phương thức và cơ chế vận hành
của thị trường
ở nước ta do trình độ sản xuất hàng hoá của các vùng còn có sự chênh lệch
qua lớn, cộng với cơ sở hạ tầng yếu kém, nên cấu trúc thị trường còn nhiều bất cập
và chưa đồng bộ cả về mặt pháp lý. Sự điều tiết vĩ mô của Chính phủ trong bối
cảnh đó còn bộc lộ nhiều mặt tiêu cực làm cho thị trường và gía cả còn biến động
lớn tạo nên những “cơn sốt” về giá cả, sự khan hiếm và dư thừa nông sản giả tạo
(gạo, cà phê, chè, cao su...). Mặt khác chúng ta chưa khai thác và phát huy tốt thị
trường trong nước (thị trường nội địa) nhất là thị trường nông thôn sức mua thấp,
nhiều vùng còn hoang sơ, cạnh tranh hỗn loạn và còn yếu tố đầu cơ trục lợi. Trong
thời gian tới cần xây dựng đồng bộ các loại thị trường, tạo môi trường kinh doanh
tốt cho việc tiêu thụ nông sản, để làm được điều đó vấn đề trước mắt cũng như lâu
dài phải thực hiện các nội dung sau:
Một là Không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài
nước, tăng cường giao lưu nông sản trên tất cả các vùng đáp ứng nhu cầu sản xuất,
tiêu dùng. Từng bước tham gia vào phân công lao động hợp tác quốc tế, thực hiện
chính sách thương mại mở. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở
nước ngoài mạng lưới đại lý phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày
sản phẩm hàng hoá, áp dụng các hình thức mua bán thanh toán linh hoạt.
Hai là Đa dạng hoá các kênh và các cấp độ lưu thông, để hàng hoá lưu thông
thông suốt một cách nhanh nhất, chi phí thấp nhất từ sản xuất đến các địa chỉ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Chú trọng các kênh lưu thông vừa và nhỏ tương
ứng với qui mô cung cầu ở thị trường khu vực, đồng thời từng bước xây dựng các
kênh và các cấp độ lưu thông hàng hoá lớn, thúc đẩy và thống nhất thị trường nông
sản trong nước, tìm kiếm và đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu thế giới.
Ba là Đối với các vùng sản xuất tập trung nông sản xuất khẩu thì khuyến
khích hình thành các kênh tiêu thụ dài, sâu và rộng với cấp độ lưu thông tiêu thụ
hàng hoá lớn đủ sức cạnh tranh. Tức là thực hiện mô hình gắn kinh doanh với sản
xuất, cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu. Hình thành ngành hàng, nguồn hàng và
bạn hàng, đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới, mà được thể hiện trên vùng
nông thôn mới phát triển toàn diện. Hạn chế sự độc quyền xuất khẩu bằng việc mở
rộng các đầu mối xuất khẩu, khuyến khích mọi thành phần kinh tế có đủ khả năng
tham gia vào xuất khẩu. Nên tổ chức lại hệ thống thương mại tránh các biểu hiện
lũng loạn thị trường gây thiệt hại cho sản xuất và người nông dân. Giảm dần đầu
mói thương mại trung gian kinh doanh theo kiểu “chụp giật đầu cơ trục lợi” làm
rối loạn thị trường. Khuyến khích mở văn phòng đại diện và đại lý ở nước ngoài
gắn kết trách nhiệm lâu dài giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ, nâng cao vị thế
của ngành hàng xuất khẩu.
Bốn là Đối với những nông sản hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa,
ở các vùng sản xuất hàng hoá chưa phát triển chú trọng hình thức lưu thông cấp độ
vừa và nhỏ tương ứng với cung cầu của thị trường, chú trọng kênh tiêu thị trực tiếp
thông qua “chợ, các cụm kinh tế thương mại – dịch vụ – chế biến” trong nông thôn
và trong vùng, từng bước khuyến khích hình thành và phát triển các kênh tiêu thụ
nông sản dài, rộng và sâu trên qui mô lớn.
Và cuối cùng đối với vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến
nông sản, khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rông đại lý thu gom
nông sản nguyên liệu dưới hình thức hợp đồng với nông dân, tạo gắn kết thương
mại chế biến và sản xuất nông sản nguyên liệu, hỗ trợ vốn công nghệ kỹ thuật cho
hộ nông dân, định hướng sản xuất cho hộ nông dân, mở rộng đại lý tiêu thụ sản
phẩm, từng bước mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, góp phần đẩy mạnh tiêu thụ
nông sản tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
3. Cần có định hướng mở rộng thị trường xuất khẩu
Qua nghiên cứu lợi thế, đặc điểm và triển vọng thị trường nước ngoài, thời
gian tới đối với nông sản chủ lực cần hướng tới mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường cần chọn thị trường trọng điểm,
sản phẩm mũi nhọn (sản phẩm có tính chiến lược) cho từng khối, từng khu vực
(gây uy tín, tạo hình ảnh cho sản phẩm Việt Nam) và lấy đó làm điểm tựa để mở
rộng và lan toả vào các nước khác trong khu vực và trong khối.
Thứ nhất cần phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô,
khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “ ỷ lại Nhà nước và phó thác cho doanh
nghiệp”. Đàm phán thương mại song phương và đa phương, đấu tranh bảo vệ cho
hàng nông sản xuất khẩu khi gặp các rào cản thương mại, cần có sự can thiệp và
hỗ trợ của Nhà nước.
Thứ hai tăng cường công tác thông tin và các dịch vụ về thị trường từ tình
hình chung cho tới các cơ chế chính sách của Nhà nước về tiêu thụ nông sản. Dự
báo chiều hướng cung cầu nông sản hàng hoá trên thị trường thế giới, các thông tin
cập nhật về các hàng rào bảo hộ nông sản cũng như chính sách nhập khẩu bạn
hàng. Đặc biệt với các mặt hàng Việt Nam có thị phần lớn (gạo, cà phê, tiêu…) để
có các giải pháp ứng phó kịp thời, gao gồm cả việc kìm chế tốc độ bán ra, tham gia
voà các kế hoạch quốc tế, điều tiết nguồn cung trong các điều kiện cụ thể nhằm
tác động vào thị trường giá nông sản có lợi cho ta.
Thư ba xúc tiến thành lập tổ chức khuyến khích thương mại thuộc Chính
phủ, có nhiệm vụ khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư của nước ngoài
vào Việt Nam, trao đổi thông tin, trao đổi khoa học công nghệ. Các bộ có liên
quan như Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cần tạo điều
kiện thuận lợi để các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nông sản xúc tiến mở
văn phòng đại diện ở nước ngoài theo đúng Nghị định 40/CP ngày 19/5/1994
nhằm củng cố và phát triển thị trường các ngành hàng, bạn hàng, đồng thời hoàn
thiện những qui định và định chế yểm trợ xuất khẩu trong qúa trình hội nhập với
quốc tế.
Và cuối cùng ở tầm vi mô, các doanh nghiệp cần có tráchnhiệm dựa vào
khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước để tổ chức tiếp cận
và khai thác thông tin. Doanh nghiệp cần trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với
thị trường thế giới thông qua các hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm, đẩy mạnh
công tác marketing để kịp nắm bắt xu thế thị trường. Bản thân doanh nghiệp phải
tự tìm kiếm thị trường, bạn hàng cũng như tổ chức đầu tư sản xuất chế biến nông
sản theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước
hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá trong hoạt động xuất khẩu.
4. Hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế đối với các nông sản xuất khẩu
Do qui mô của thị trường quốc tế lớn hơn rất nhiều so với thị trường trong
nước, mặt khác thị trường nông sản quốc tế lại thường xuyên biến động phức tạp,
nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông sản xuất khẩu thường gặp
nhiều khó khăn trong nghiên cứu thị trường.
ở Việt Nam, các doanh nghiệp nắm bắt thông tin về thị trường quốc tế còn
rất kém, thông tin thiếu và độ chính xác không cao. Vì vậy nhiều khi doanh nghiệp
bị động, long tong trong điều hành xuất khẩu nông sản. Để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong kinh doanh nông sản xuất khẩu, Nhà nước nên thành lập các
trung tâm xúc tiến thương mại trong đó có trung tâm xúc tiến xuất khẩu nông sản
để trợ giups các nhà sản xuất và chế biến kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở
Việt Nam. Chức năng của trung tâm này là nắm bắt và cung cấp các thông tin về
thị trường nông sản thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, tổ chức xúc tiến xuất
khẩu và đưa hàng ra nước ngoài một cách thuận lợi và tiết kiệm chi phí. Việc tập
trung nghiên cứu thị trường nước ngoài về nông sản là hướng hoạt động của trung
tâm.
Trong thời gian tới cần thiết lập một ngân hàng dữ liệu về từng thị trường
nước ngoài để sẵn sàng cung cấp cho doanh nghiệp nếu họ cần đến. Các cơ quan
ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài cần có các nhóm công tác nghiên cứu thị
trường, có báo cáo chi tiết về thị trường. Chúng ta đặt nhiệm vụ này lên vị trí quan
trọng trong hoạt động ngoại giao.
5. Tổ chức và thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa thị
trường trong nước với thị trường nước ngoài.
Một mặt cần chú trọng mở rộng và phát triển thị trường trong nước, đặc biệt
với thị trường nông thôn – một thị trường lớn và đầy tiềm năng. Trước hết là cần
mở rộng các hình thức tín dụng thuận lợi cho nông dân như: tín dụng bằng cung
ứng vật tư, mở rộng các hình thức thông qua hợp đồng sản xuất, mua bán sản
phẩm (thị trường giao sau).
Mặt khác đối với thị trường nước ngoài thì chủ động tìm kiếm các thị trường
mới, củng cố và giữ vững các thị trường truyền thống, luôn gắn thị trường trong
nước với thị trường nước ngoài. Tạo điều kiện cho nông dân ký giữ hàng hoá và
vay tín dụng, để tạo thuận lợi cho nông dân cơ hội lựa chọn và thuận lợi về giá bán
nông sản sao cho có lợi. Cụ thể như các hình thức cho nông dân giữ thóc vào kho
của các tổng công ty lương thực địa phương và Trung ương trên địa bàn, hoặc
được thế chấp vay vốn để tạm trữ khi giá xuống thấp như đã làm công ty lương
thực miền Tây.
6. Tổ chức xây dựng các mô hình hiệp hội chuyên doanh
Thời gian qua giá nông sản liên tục xuống thấp, một phần là do lượng cung
đưa ra quá lớn dẫn tới sự sụt giảm giá mạnh trong nông sản xuất khẩu mà không
có tổ chức nào đứng ra điều chỉnh lượng cung hoặc tạm trữ để điều chỉnh giá. Sự
làm ăn nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết giữa các công ty xuất khẩu, cứ mặt hàng nào giá có
lợi là đổ xô vào xuất khẩu làm cho thị trường nhanh chóng bão hoà. Vấn đề cấp
bách hiện nay là cần có sự liên kết hay nói tới một tổ chức hiệp hội ngành hàng
trong xuất khẩu.
Một là cần củng cố hoàn thiện các hiệp hội hiện nay, kết hợp cải biến và đổi
mới một số tổng công ty và công ty hình thành mới những hiệp hội chuyên doanh
quốc gia tập hợp các đơn vị thành viên độc lập (hội viên) gồm cả doanh nghiệp
Nhà nước và doanh nghiệp không phải Nhà nước, cả nhà sản xuất và nhà xuất
khẩu nông sản.
Hai là đối với những ngành (nhóm hàng) có dung lượng trao đổi lớn trên thị
trường và có kim ngạch xuất khẩu cao chiếm thị phần lớn như: tiêu, điều, cà phê,
gạo… cần có sự liên kết sớm với mục đích là để các đơn vị thành viên hỗ trợ lẫn
nhau, cùng chia sẻ trách nhiệm và bảo vệ lợi ích chung và lợi ích chính đáng của
các thành viên. Cùng nhau chi phối thị trường xuất khẩu (do có thị phần lớn) như
chính sách giá, cũng như khi đối phó với hàng rào bảo hộ.
Cuối cùng cần nâng cao chất lượng hoạt động của hiệp hội bao gồm như:
định hướng sản xuất, công nghệ, thông tin, chính sách, qui ước tiếp cận thị trường,
qui cách tiêu chuẩn chất lượng và giá cả xuất khẩu. Cùng nhau xây dựng quĩ hỗ trợ
khi gặp rủi ro trong sản xuất và kinh doanh bằng nguồn tài chính của hiệp hội. Do
vậy trước mắt cần xây dựng cơ chế quản lý điều hành của hiệp hội nhằm phối hợp
hoạt động, xúc tiến thương mại và can thiệp có hiệu quả vào môi trường của từng
mặt hàng nông sản cụ thể trong từng hiệp hội.
III. Những giải pháp về chiến lược sản phẩm nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam
Hiện nay nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả xuất
khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm còn thấp, khối lượng không ổn định,
không đồng đều, phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn, giá còn cao… Để thúc
đẩy sản xuất, phát huy các lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo ra những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu về mọi mặt và đa dạng của khách hàng và thị trường. Vì
vậy giải pháp về sản phẩm là giải pháp có tính chiến lược vừa lâu dài vừa có tính
cấp bách hiện nay.
1. Thực hiện qui hoạch vùng sản xuất tập trung
Thời gian tới cần tiếp tục rà soát lại việc qui hoạch, xác định chính xác
những diện tích đang sử dụng không hiệu quả, nhanh chóng khắc phục tình trạng
quản lý và sử dụng đất đai ở các nông lâm trường quốc doanh, khuyến khích nông
dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để hình thành các thửa ruộng lớn, nhân rộng
các hình thức HTX kiểu mới và mô hình trang trại. Sự tập trung này sẽ tạo thuận
lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng và áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp, tập
trung đầu tư một cách đồng bộ cho các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung
nhằm tạo ra các vùng nguyên liệu lớn, ổn định cả về khối lượng và chất lượng gắn
chặt với các cơ sở chế biến và xuất khẩu.
Theo qui hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì ở Việt Nam
sẽ hình thành các vùng sản xuất nông sản chất lượng cao dành cho xuất khẩu. Dự
kiến vùng lúa gạo chất lượng cao khoảng 1 triệu ha ở đồng bằng sông Cửu Long
và 300.000 ha ở vùng đồng bằng sông Hồng, để hàng năm sản xuất ra được
khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu. Vùng cà phê thâm canh Tây Nguyên, Đông
Nam bộ va Trung Bộ khoảng 300 ngàn ha. Vùng cao su Đông Nam bộ, Tây
Nguyên và Trung bộ khoảng 700 ngàn ha. Vùng chè ở miền núi phía Bắc khoảng
100 ngàn ha. Vùng điều ở Duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ khoảng 300 ngàn
ha. Vùng sản xuất rau sạch ở đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên là những vùng
sản xuất nông sản chính chất lượng cao.
Trên cơ sở qui hoạch phát triển vùng sản xuất, cần tiến hành xây dựng các
chương trình dự án cụ thể đối với từng mặt hàng, ngành hàng để thu hút vốn đầu
tư. Cần xây dựng những chính sách đầu tư phát triển khuyến nông, khuyến lâm và
chuyển giao khoa học công nghệ, hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ chế
biến sau thu hoạch.
Chúng ta biết một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu và phân tán, kinh doanh tiểu
thương hoặc độc quyền theo cơ chế cũ thì không thể trở thành nước xuất khẩu lớn.
Vì vậy tổ chức sản xuất kinh doanh theo vùng nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu
lớn và hiệu quả kinh tế. Hiện tại khả năng và tiềm năng xuất khẩu nông sản trong
nước còn lớn, nhưng tổ chức sản xuất, tổ chức xuất khẩu lại lạc hậu, manh mún,
phân tán theo phương thức tiểu thương nhỏ. Để xuất khẩu phát triển với khối
lượng lớn, chiếm thị phần cao, chủ động thích ứng được thị trường thì phải tổ chức
lại sản xuất, chế biến và kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhằm tạo ra
khối lượng hàng hoá lớn, chất lượng cao mà đồng đều, giá thành hạ. Nhà nước cần
có những chính sách ưu tiên sát thực tế để khuyến khích mọi thành phần kinh tế
tham gia phát triển kinh tế vùng.
2. Tăng cường đầu tư, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nhằm nâng
cao chất lượng tạo khả năng cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu
Đổi mới quan điểm và nhận thức về vai trò và vị trí của mặt trận nông nghiệp
trong cơ cấu kinh tế, tập trung cao độ sức lực trí tuệ, cơ sở vật chất kỹ thuật để tạo
ra bước đột phá đủ mạnh trong nông nghiệp nước ta. Tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư
từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp đồng thời cần có cơ chế thu hút vốn mạnh
mẽ trong dân, vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, ưu tiên tối đa các dự án
viện trợ cho khu vực nông thôn là những hướng đi cơ bản nhất. Để làm tốt công
việc này cần phải tiến hành một số công việc sau:
Trước mắt cũng như lâu dài cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo
giống, tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, đáp
ứng cho chế biến và xuất khẩu, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng bạn hàng.
- Đối với lúa gạo, hiện nay chúng ta đã đưa vào sản xuất trên 100 loại giống
khác nhau, nhưng những giống lúa đặc sản thơm ngon dành riêng cho xuất khẩu
vào các thị trường cần loại gạo hạt dài trong, thị trường cần loại gạo to, dẻo… thì
lại chưa có nhiều hoặc bị phân tán manh mún. Việc lựa chọn và đưa vào sản xuất
cơ cấu giống mới thích hợp cho từng vùng sản xuất, cho từng vùng thị trường xuất
khẩu là cấp bách và cần phải làm ngay trong thời gian tới.
- Đối với cà phê, chất lượng nhân cà phê hiện nay không đồng đều về hình
dạng hạt, độ thơm ngon chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ còn nhiều… Do vậy
cần thực hiện một chương trình nghiên cứu, cải tạo hệ thống giống cũ bằng các
loại giống mới, trước tiên cần cải tạo các lô vườn cà phê già cỗi, năng suất thấp,
nhiều sâu bệnh, sắp tới cần đưa vào sản xuất các giống cà phê chè (arabica) thơm
ngon giá cao hơn gấp đôi cà phê vối (Robusta) để nâng cao chất lượng cà phê chế
biến, tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
- Đối với các loại cây khác như: điều, tiêu, cao su, chè, rau quả… cũng nằm
trong tình trạng tương tự, năng suất thấp, chất lượng kém, giá thành sản xuất cao,
các mặt hàng hàng chưa phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của từng bạn hàng. Đòi
hỏi phải có những biện pháp mạnh trong khâu giống, kỹ thuật nuôi trồng để cho
sản phẩm của nông dân làm ra gần với thị trường hơn.
Công tác đầu cần tiến hành đồng bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu thâm canh
“giống, chế biến, bảo quản và các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác” đặc biệtnâng
cao trình độ canh tác vfa kỹ thuật của các hộ sản xuất. Nâng cao độ đồng đều về
năng suất, chất lượng đối với các hộ trong các vùng sản xuất, cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan: kỹ thuật, quản lý và chỉ đạo sản xuất cùng các cơ quan
kinh doanh. Song trước mắt cần nâng cao chất lượng công tác khuyến nông, nâng
cao được độ đồng đều về năng suất chất lượng của các hộ nông dân là nội dung có
ý nghĩa kinh tế rất lớn hiện nay. Qua tài liệu nghiên cứu cho thấy giải quyết được
vấn đề nêu trên có thể nâng cao được hiệu quả kinh tế lên 20 – 25%, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu.
3. Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản
Để nâng cao sức cạnh tranh cần thiết phải tạo lập chương trình đầu tư hỗ trợ
đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung và đối với các mặt hàng nông sản
xuất khẩu nói riêng.
Hướng tích cực hiện nay là tập trung chủ yếu vào khâu thu hoạch bảo quản,
chế biến với những công nghệ tiên tiến hiện đại, đẩy mạnh công nghệ chế biến tinh
và chế biến sâu, đa dạng hoá sản phẩm chế biến. Trước hết cần rà soát lại tất cả
các nhà máy chế biến nông sản hiện có để tiến hành nâng cấp công nghệ mới hiện
đại, loại bỏ những nhà máy quá cũ kỹ, lạc hậu, trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm
mục tiêu. Đồng thời xây dựng một số nhà máy mới tại vùng nguyên liệu áp dụng
đồng bộ công nghệ tiên tiến và đa dạng hoá các sản phẩm chế biến.
Giải pháp thiết thực hiện nay là tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách
về công nghệ sau thu hoạch, nhất là công nghệ làm khô sản phẩm như: lúa, cà phê,
lạc, tiêu… ưu tiên nghiên cứu công nghệ bảo quản nông sản, nhất là rau quả tươi
để kéo dài thời gian sử dụng và tăng giá trị thương phẩm, chú ý khâu bao bì, đóng
gói, nhãn mác của hàng nông sản xuất khẩu. Trên cơ sở nắm bắt các nhu cầu của
thị trường, xây dựng các chương trình dự án cụ thể, cần hỗ trợ đổi mới công nghệ,
đáp ứng yêu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm, nhất là các thị trường mới
thuộc các nước phát triển với yêu cầu chất lượng và tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm
cao.
Cơ cấu sản xuất và đầu tư phải hướng vào những sản phẩm có lợi thế nổi bật,
có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới.
Mọi phương án sản phẩm phải đặt trong quan hệ so sánh về hiệu quả chất lượng và
giá cả với hàng hoá nước ngoài. Bất cứ một dự án đầu tư nào cũng phải chú ý tới
khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nhất là trong xu hướng hội nhập kinh tế hiện
nay.
4. áp dụng nghiêm ngặt chế độ đăng ký và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối
với hàng nông sản xuất khẩu
Xuất khẩu nông sản ở nước ta mới phát triển ít năm gần đây nên chúng ta
chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thu mua và tiêu thụ hàng nông sản xuất
khẩu. Người sản xuất cũng không được hướng dẫn một cách cụ thể về những qui
định mẫu mã, chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Từ đó dẫn đến việc xuất khẩu hàng
nông sản với chất lượng thấp, làm giảm sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trong
xuất khẩu.
Trước thực trạng đó, chúng ta phải có tiêu chuẩn chất lượng và hệ thống
kiểm tra chất lượng từ khâu sản xuất tới khâu thu hoạch, chế biến, bảo quản cho
từng mặt hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt chú ý khâu bảo quản và chế biến.
Trren cơ sở xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá xuất khẩu phù hợp với đòi
hỏi của từng thị trường về các loại nông sản, mọi nông sản hàng hoá trước khi xuất
khẩu phải được kiểm tra chất lượng chặt chẽ theo những chỉ tiêu qui định. Thông
qua biện pháp này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất kinh doanh quan tâm hơn
nữa đến công nghệ (đặc biệt là công nghệ sạch) trong từng khâu sản xuất – chế
biến – bảo quản và vận chuyển nhằm vừa nâng cao khả năng cạnh tranh, vừa tăng
uy tín Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng hàng nông sản theo tiêu
chuẩn của HACCP (Hazard analysis critical control point – phân tích nguy cơ và
kiểm soát các khâu trọng yếu) và ISO là một trong những giải pháp hàng đầu
nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá nông sản xuất khẩu, cũng như nghiên cứu kỹ
các bộ tiêu chuẩn riêng của các thị trường đặc thù.
Việc bảo đảm nâng cao chất lượng hàng hoá là trách nhiệm của doanh
nghiệp thương mại và nhà sản xuất. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thương mại phát triển bằng cơ chế chính sách và hành lang pháp lý để họ
hoạt động có hiêụ quả. Do vậy bản thân doanh nghiệp phải thực sự chủ động về
vấn đề quan trọng này.
IV. Hệ thống chính sách và các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước để đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu nông sản
Tiếp tục phát triển sản xuất các mặt hàng nông sản xuất khẩu, xây dựng nền
nông nghiệp hàng hoá ở nước ta đang là một yêu cầu hết sức bức xúc của tất cả
các địa phương, các ngành cũng như toàn xã hội. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào
để tăng khả năng sản xuất, nâng cao xử lý sản phẩm nhằm đáp ứng tốt nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Trong đó vai trò của Chính phủ là hết sức quan trọng nó
ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu nông
sản nói riêng. ở đây xin mạnh dạn đề xuất một số chính sách nhằm thúc đẩy sản
xuất và xuất khẩu nông sản trong thời gian tới.
1. Chính sách đất đai
Vấn đề lớn và có tác động trực tiếp trong sản xuất nông nghiệp chính là diện
tích đất nông nghiệp. Nhà nước tiến hành kiểm kê nắm vững toàn bộ quĩ đất đai
nông nghiệp trong cả nước gồm ruộng đất, đồi núi trọc, đất bãi ven biển, ven sông,
đồng cỏ, đất rừng... có kế hoạch bảo vệ cải tạo sử dụng quĩ đất đai nông nghiệp
hiện có và khai hoang đất mới trên mỗi vùng, mỗi địa phương cụ thể.
Trước hết Nhà nước phải xử lý tốt mối quan hệ giã quyền sở hữu và quyền
sử dụng đất. Không để nảy sinh hiện tượng kinh tế ngầm, thực chất là vấn đề mua
bán đất trong chính sách của Nhà nước. Tình trạng đó dẫn đến việc quản lý của
Nhà nước khó khăn, thất thoát về nguồn thu ngân sách, sử dụng đất sai mục đích,
nạn tham nhũng nảy sinh gây khó khăn cho qúa trình tích tụ, tập trung đất để phát
triển sản xuất hàng hoá.
Thứ hai tạo điều kiện cho những người được giao đất nhưng không trực tiếp
sản xuất, làm nghề khác có thu nhập cao hơn, để họ chuyển nhượng vè khuyến
khích, tạo điều kiện việc dồn lô đổi thửa khuyến khích hình thành các trang trại,
tiểu điền sản xuất nông sản xuất khẩu.
Thứ ba là nghiêm cấm việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai nông
nghiệp sang dùng vào mục đích khác trái với qui hoạch và kế hoạch được duyệt.
Và cuối cùng là nghiên cứu sự vận động có tính qui luật của các yếu tố đầu
vào của sản xuất có tính đặc biệt như đất đai, để sớm có hành lang pháp lý cho
hình thành thị trường về chuyển nhượng đất đai, tạo điều kiện mở rộng qui mô và
tích tụ sản xuất đất để nâng cao hơn nữa nguồn tài nguyên quí giá này.
2. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Nhà nước cần đặc biệt quan tâm về đầu tư đồng bộ tới qúa trình sản xuất –
chế biến – tiêu thụ và xuất khẩu, cụ thể như việc đầu tư vào các lĩnh vực sau:
- Đầu tư cho vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng nguyên liệu chất
lượng cao cho chế biến và xuất khẩu. Tổ chức xs cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao
thông nông thôn đảm bảo vận chuyển nhanh chóng nông sản tránh sự tồn đọng, dư
thừa nông sản trong các vùng, hệ thống thuỷ lợi cần được cải tạo và nâng cấp sẽ
khai thác được tối đa diện tích đất và cho hiệu quả kinh tế cao.
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, trong đó chú ý đầu tư
nghiên cứu cải tạo giống, ứng dụng các kỹ thuật canh tác tiến bộ gắn lion với
chính sách khuyến nông từ Trung ương đến cơ sở.
- Đầu tư cho nâng cấp hoặc đổi mới các trang thiết bị và công nghệ chế biến
nông sản đảm bảo chất lượng cao, giá thành hạ.
Và cuối cùng là đầu tư trực tiếp cho sản xuất, phải dành sự đầu tư thoả đáng
cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, tiêu thụ
sản phẩm như xây dựng các trung tâm thương mại, các kho ngoại quan ở nước
ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại. Tất cả nhằm xây dựng một chiến lược
thị trường vững chắc.
3. Các chính sách về tài chính và tín dụng
Trong sản xuất nông nghiệp yêu cầu vốn cho đầu tư sản xuất – chế biến - tiêu
thụ và xuất khẩu là rất lớn, để có đủ vốn cho đầu tư đồng bộ vào các khâu quan
trọng, chính sách tài chính nhằm thu hút được các nguồn vốn cho đầu tư.
- Nhà nước đảm bảo có kế hoạch đầu tư phát triển hạ tầng theo yêu cầu cần
thiết cho nông nghiệp. Đồng thời đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn kinh doanh
cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu dùng vốn vào việc thu mua, chế biến, vần
chuyển và kinh doanh nông sản, đặc biệt là vốn mua tạm trữ để nông dân đỡ bị
thiệt thòi về giá lúc thu hoạch và để chủ động bán khi có lợi về giá xuất khẩu.
- Nhà nước thông qua tổ chức Ngân hàng thực hiện cơ chế bảo lãnh tiền vay
chứng từ thương mại, tiền mua và bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế, đảm bảo
hợp đồng đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
- Thực hiện chính sách “có thời gian ân hạn” không trả lãi tín dụng đầu tư
trong thời gian công trình xây dựng chưa xong và chưa hoạt động đầy đủ nhưng
phải có chế tài hợp lý.
- Ưu tiên cung ứng ngoại tệ đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh
doanh xuất khẩu các mặt hàng nông sản, hỗ trợ về tín dụng trong việc thu mua tạm
trữ hàng nông sản xuất khẩu.
- điều chỉnh lãi xuất tiền vay, thời gian phù hợp cho từng loại cây trồng, vật
nuôi theo chế độ vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, đảm bảo đúng chu kỳ sản
xuất cho từng cây, từng con sát thực tế.
Có thể nói trong thời gian qua Chính phủ đã và đang có những ưu tiên và hỗ
trợ rất lớn về tài chính cho xuất khẩu nông sản. Như cho các doanh nghiệp mua
tạm trữ nông sản khi giá xuống thấp, cũng như cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu
nông sản. Cụ thể như trong nghị quyết 09/2000/ NQ – CP, hay quyết định
80/2002/QĐ - CP cũng đề cập tới hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông
sản. Liên tiếp trong mấy năm vừa qua có hàng loạt các quyết định về tín dụng như:
quyết định số 02/2001/QĐ - TTg về tín dụng đầu tư ưu đãi cho nông nghiệp, thành
lập quĩ hỗ trợ xuất khẩu theo qui định lại quyết định số 133/2001/QĐ - TTg. Hay
mới đây nhất là quyết định 0271/2003/QĐ - TM của Bộ Thương mại về dành
khoản hỗ trợ tín dụng xuất khẩu 18 mặt hàng chủ yếu có sức cạnh tranh nhằm tăng
cường độ hỗ trợ đầu vào và giamr chi phí sản xuất trong đó có các mặt hàng nông
sản xuất khẩu.
4. Các chính sách về xuất khẩu
Tuy chính sách xuất khẩu đã có nhiều tiến bộ, tạo điều kiện thông thoáng về
môi trường thương mại thuận lợi với xu hướng chung, khuyến khích xuất khẩu
nông sản, nhưng cũng vẫn còn không ít khó khăn cần tháo gỡ, trong thời gian tới
cần đẩy mạnh những công việc sau:
Thứ nhất là tiến hành bãi bỏ các giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với
những mặt hàng nông sản không nằm trong danh mục các mặt hàng Nhà nước
quản lý xuất khẩu.
Thứ hai các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sau khi đăng ký kinh
doanh được tự do giao dịch và quan hệ trực tiếp với thị trường xuất khẩu.
Thứ ba khuyến khích các doanh nghiệp hình thành các hiệp hội, hợp tác để
thống nhất về qui cách, chất lượng hàng hoá, ký kết hợp đồng dài hạn, bảo đảm
thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện tượng ép cấp, ép giá trong buôn bán.
Cuối cùng tăng cường hoạt động hỗ trợ xuất khẩu như: cung cấp miễn phí
các thông tin về thị trường và các văn bản có liên quan đến hoạt động xuất nhập
khẩu cho các doanh nghiệp. Còn các thông tin chuyên sâu, thông tin chiến lược,
thông tin theo yêu cầu cụ thể thì doanh nghiệp tự mua qua hỗ trợ của Nhà nước.
Trong thời gian qua đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn về chính sách xuất
khẩu. Cụ thể như trong quyết định 46/2001/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ
về quản lý xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2005 nêu rõ “ Bác bỏ cơ chế giao hạn
ngạch xuất khẩu gạo, tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được
xuất khẩu gạo nếu có đăng ký kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản”.
Đó là những nỗ lực của Chính phủ tạo sự thông thoáng trong xuất khẩu nông sản.
5. Biện pháp về chính sách thuế xuất nhập khẩu
Chính sách thuế là công cụ định hướng và hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế
được xác định là có lợi thế cạnh tranh trong thương mại khu vực và quốc tế, cần
được sửa đổi, bổ sung thêm những qui định về giá tính thuế kê khai, nộp thuế và
thời hạn nộp thuế một cách rõ ràng chặt chẽ không gây cản trở hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, thời gian tới cần:
- điều chỉnh thời gian thu thuế và giao nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp hợp
lý hơn, để nông dân có thời gian lựa chọn thời điểm bán hàng có lợi nhất.
- điều chỉnh tỷ lệ thuế để lại cho địa phương, theo hướng tăng dần, để đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng cho nông thôn.
- Có ưu đãi hoặc miễn giảm thuế nông nghiệp trong một thời gian ngắn cần
thiết đối với những sản phẩm cần phát triển và mở rộng qui mô.
- Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu
tại vùng sâu vùng xa, vùng khoa khăn.
- Để hỗ trợ cho đổi mới công nghệ, nên giảm thuế nhập khẩu đối với những
trang thiết bị máy móc và công nghệ sản xuất, chế biến nông sản.
- Thành lập các quỹ bảo hiểm cho cây trồng, hình thành quỹ bảo hiểm từng
ngành sản phẩm. Trước mắt cần thành lập các quỹ bảo hiểm nông sản chính hư:
gạo. cà phê, cao su... quỹ này dùng để can thiệp thị trường khi giá thị trường đột
biến xuống dưới giá sàn định hướng và giúp đỡ sản xuất trong những trường hợp
đặc biệt khó khăn do thiên tai.
- Chính phủ tiếp tục triển khai áp dụng giá tối thiểu cho các mặt hàng nông
sản chủ yếu sao cho không xuống dưới giá thành sản xuất gây thua thiệt cho nông
dân.
6. áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp
Trong thời gian vừa qua Chính phủ thực hiện cải cách cơ chế điều hành tỷ
giá đã điều chỉnh linh hoạt hơn, phần nào đã khép dần khoảng cách giữa tỷ giá qui
định ngân hàng Trung ương với thị trường tự do. Song cần linh hoạt áp dụng biên
giao động tỷ giá, mà cần sát với thị trường, để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu và đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và phát triển.
- Cần tạo sự thông thoáng trong trao đổi ngoại tệ thanh toán ngoại hối trong
xuất khẩu hàng hoá.
- Nhà nước cần áp dụng tỷ giá hối đoái thích hợp với từng đối tượng xuất
nhập khẩu và khu vực thị trường (để khuyến khích đối với mặt hàng khuyến khích
xuất nhập khẩu và hạn chế đối với các mặt hàng hạn chế nhập khẩu) gắn lion với
các chế độ này là việc xây dựng cơ chế và các chế tài bảo đảm thực hiện chế độ tỷ
giá thích hợp, để tránh tình trạng sử dụng các chế độ tỷ giá không đúng mục tiêu
đề ra.
7. Chính sách đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì khoa học
công nghệ đã đóng góp tới 30 – 35% tăng trưởng sản lượng nông nghiệp trong thời
gian qua, nó đang là động lực trực tiếp của qúa trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian tới chính sách khoa học công nghệ
trong nông nghiệp cần tạo ra bước chuyển biến mới, để đáp ứng yêu cầu của chiến
lược nâng cao cạnh tranh của nông sản.
Một là cần tập trung đầu tư cho nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng,
thực hiện các chương trình nghiên cứu giống (lai tạo, chọn lọc, nhập nội) quốc gia,
tạo một bước có tính “đột phá” về năng suất, chất lượng, phát triển công nghệ sau
thu hoạch, nghiên cứu kinh tế và thị trường.
Hai là có cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất theo các lĩnh vực ưu tiên.
Ba là tăng cường công tác khuyến nông, đẩy mạnh và đưa nhanh, đưa trực
tiếp đến người sản xuất (hộ nông dân).
Bốn là kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống nghiên cứu khoa học, để huy động
và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật. Tăng cường cơ
sở vật chất cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
Đổi mới công tác quản lý khoa học, tiến tới thực hiện đấu thầu trong hoạt
động nghiên cứu khoa học. Phải tạo ra sự gắn kết giữa Viện nghiên cứu, trung tâm
khuyến nông với người nông dân để đưa nhanh tiến bộ khoa học vào cuộc sống.
8. Chính sách đào tạo cán bộ
Ngày nay nhân tố con người (chất xám) có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh
nền kinh tế trí thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng tới tư duy quản lý, tư
duy kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh.
Cần có chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ, doanh nhân, thương nhân có năng
lực và đội ngũ công nhân lành nghề tham gia công tác xuất khẩu.
Tổ chức và thực hiện dào tạo trên cơ sở dựa vào yêu cầu phát triển và đưa
vào nguồn thu hàng năm của quỹ.
Tăng cường công tác qui hoạch và khinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ khoa
học trong và ngoài nước. Cử các cán bộ đi học tập nghiên cứu kinh nghiệm thành
công ở nước ngoài để vận dụng vào Việt Nam.
Tóm lại: Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về sản xuất một số nông sản
xuất khẩu có giá trị, trên qui mô lớn và có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế
giới nhờ có những lợi thế so sánh vốn có. Song để khai thác có hiệu quả đòi hỏi
phải áp dụng đồng bộ các giải pháp kinh tế, tổ chức kỹ thuật đặc biệt trong điều
kiện có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt đang đặt ra cho sản xuất
nông sản những vấn đề có tính thách thức lớn. Do vậy một mặt đòi hỏi sự nỗ lực
của các cơ sở sản xuất, mặt khác đòi hỏi phải có sự quan tâm đồng bộ về nhiều
mặt của Nhà nước để tạo dựng cho ngành xuất khẩu nông sản có vị thế và sức
cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.
V. Các giải pháp cụ thể khác và một số kiến nghị với Nhà nước
Ngoài những giải pháp mang tính chiến lược và đồng bộ nêu trên ở đây, em
xin đưa ra một số giải pháp cụ thể cần thực hiện ngay trong thời gian tới.
1. Thay đổi nhận thức của người nông dân trong sản xuất nông sản
Phải làm cho nông dân hiểu là hoàn toàn có thể làm giàu từ nông nghiệp nếu
biết tổ chức sản xuất hợp lý. Tiến tới một nền nông nghiệp hàng hoá, coi mỗi hộ
gia đình là một tổ chức sản xuất nhỏ phải chú ý tới thị trường, bán cái thị trường
cần chứ không phải cái ta có (tức là thay đổi mặt hàng cho phù hợp với yêu cầu
của thị trường).
2. Tổ chức các hợp tác xã kiểu mới và mô hình trang trại
Tức là nên bước lên sản xuất lớn, tập trung để áp dụng các tiến bộ khoa học,
đưa công nghệ, máy móc xuống đồng ruộng. Để làm được việc đó thì phải thực
hiện dồn thửa, có diện tích canh tác mang tính công nghiệp, không nên chia ruộng
đất theo hướng bình quân chủ nghĩa gần một tý, xa một tý, chia nhỏ lẻ diện tích.
Khuyến khích hình thành các trang trại chuyên canh làm hàng nông sản theo đặt
hàng từ phía nhà xuất khẩu căn cứ vào nhu cầu trên thị trường.
3. Cần có sự liên kết giữa các Viện nghiên cứu các Trường đại học và nông
dân
Cần tận dụng tối đa chất xám trong toàn xã hội cho công cuộc công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Các hộ nông dân có thể trực tiếp đặt
hàng cho các Viện nghiên cứu các giống mới cũng như qui trình kỹ thuật để sản
xuất nông sản có hiệu quả. Các Viện nghiên cứu phối hợp với các Trường đại học
chuyên ngành tổ chức nghiên cứu các đề tài về sản xuất chế biến nông sản cũng
như công tác nghiên cứu dự báo thị trường.
4. Thành lập sở giao dịch thương mại hàng hoá ở Việt Nam
Trong bối cảnh các quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, có nơi có lúc còn bị
hỗn loạn trong mua bán hàng hoá. Tình trạng khan hiếm nguồn hàng hay dư thừa
sản phẩm không tiêu thụ được mà không có dự báo cụ thể.
Sở giao dịch thương mại hàng hoá là một tổ chức thực hiện chức năng đấu
thầu, đấu giá hàng hoá và tư vấn cho Nhà nước biết, quản lý hoạt động mua bán
hàng hoá trên thị trường và giúp các doanh nhân kinh doanh thương mại có hiệu
quả. Hiện nay hình thức này được áp dụng phổ biến ở trên thế giới như cà phê ở
London, ngũ cốc ở Mỹ, cao su ở Singapo... ở Việt Nam mấy năm gần đây có sàn
giao dịch điều, tiêu và sắp tới là một số mặt hàng khác. Gắn sàn giao dịch trong
nước với bên ngoài là một ưu điểm của sàn giao dịch.
5. Tổ chức xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu
Có thể dễ nhận thấy rằng chưa bao giờ vấn đề thương hiệu hàng hoá lại được
nhắc nhiều như hiện nay ở Việt Nam. Thời gian qua nông sản xuất khẩu của ta
không cạnh tranh được là do chưa xây dựng được thương hiệu cho riêng mình. Do
không có thương hiệu hàng hoá của ta bị ép cấp ép giá, hoặc phải mượn nhãn hiệu
khác để xuất khẩu gây nhiều thiệt thòi. Thời gian qua hàng loạt thương hiệu nổi
tiếng của nước ta bị đanh cắp như nước mắm Phú Quốc bị Thái Lan ăn cắp hay
như cà phê Trung nguyên phải bỏ ra hàng chục nàg đô la để lấy lại thương hiệu
cho mình ở Mỹ... đây là bài học lớn cho người làm công tác xuất khẩu ở Việt
Nam.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam là tối cần
thiết nhất là trong khi ta đang có nhiều mặt hàng nông sản dẫn đầu thị trường
chiếm thị phần lớn của thế giới. Để có được một thương hiệu mạnh, cần xây dựng
một chiến lược về nhãn hiệu một cách rõ ràng và có bài bản. Từ tên gọi, logo, bao
bì bắt mắt tiện dụng cho tới chiến lược marketing phù hợp để tạo dựng hình ảnh
cho sản phẩm của mình.
Tiến hành khuyếch trương nhãn hiệu bằng các hình thức quảng cáo đa dạng
và thích hợp. Mạnh dạn chi cho quảng cáo để làm cho thương hiệu ngày càng phổ
biến rộng rãi hơn.
Cần quan tâm đăng ký bảo hộ sớm nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài mà
doanh nghiệp dự kiến thâm nhập. Khi gặp tình trạng thương hiệu bị làm giả, làm
nhái, bên cạnh các hành động pháp lý, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp
củng cố bản sắc thương hiệu và tạo ra điểm khác biệt. Đăng ký nhãn hiệu sẽ giúp
cho công ty sở hữu tránh được sự giả mạo hay sự mô phỏng bất hợp pháp của các
công ty là đối thủ cạnh tranh. Nó còn có thể thể hiện tính độc đáo, độc quyền sở
hữu trên khía cạnh pháp lý.
Một nhãn hiệu không thể có tên tuổi sau một thời gian quá ngắn mà cần phải
có sự quan tâm xây dựng thường xuyên. Để người tiêu dùng chủ động tìm đến
hàng hóa cần phải có niềm tin. Để giữ được khách hàng lâu dài phải thuyết phục
và tạo ra sự khác biệt nổi trội đối với hàng hóa.
Đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu thì việc tạo dựng được thương hiệu sẽ
rất có lợi trong xuất khẩu các bạn hàng sẽ tự tìm đến do uy tín của sản phẩm, trong
thời gian qua có Bưởi năm roi đã làm được việc này và đang xuất khẩu có hiệu
quả, hay như cà phê Trung Nguyên cung đã tạo được uy tin trên thị trường quốc tế.
Hy vọng rằng trong thời gian tới với các nỗ lực của mình Việt Nam sẽ có nhiều
thương hiệu nông sản nổi tiếng trên thị trường thế giới.
6. Một số kiến nghị với Nhà nước
Hiện nay nhóm hàng nông – lâm – thuỷ sản đang chiếm gần 25% kim ngạch
xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, điều, rau quả,
thuỷ sản còn lại tất cả đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm. Nhưng mấy
năm gần đây do bão hào về cung cầu thị trường trên thế giới, do chất lượng xuất
khẩu nông sản còn nhiều hạn chế nên giá cả mặt hàng này còn rất bấp bênh, do đó
đề nghị Nhà nước sớm đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn
chế kể trên.
Một là Nhà nước cần giữ vững sự ổn định về kinh tế chính trị. Duy trì ổn
định các chính sách kinh tế , tránh gây biến động về môi trường kinh doanh , tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Liên tiếp
trong 3 năm vừa qua Việt Nam được bình chọn có môi trường ổn định nhất khu
vực.
Hai là hoàn chỉnh hệ thống luật pháp một cách đồng bộ, nhất là những bộ
luật về kinh tế từ đó tạo môi trường pháp lý đồng bộ để các doanh nghiệp làm căn
cứ xây dựng các kế hoạch sản xuất.
Ba là Nhà nước cần đẩy mạnh đàm phán thương mại song phương và đa
phương để mở rộng thị trường mới, nâng dần các hợp đồng xuất khẩu nông sản
cấp Chính phủ.
Bốn là cần có sự tham gia của Nhà nước trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại, đấu tranh bảo vệ quyền lợi quốc gia. Như các vụ kiện cá basa, tôm,
bật lửa xuất khẩu trong năm vừa qua càng khẳng định vai trò của Nhà nước.
Năm là xây dựng và ngày càng hoàn thiện luật thương mại cũng như đơn
giản hoá các thủ tục hải quan trong hoạt động xuất khẩu.
Sáu là Nhà nước nên chủ động hội nhập quốc tế khu vực và thế giới nhằm
tranh thủ thị trường rộng lớn và vốn khoa học công nghệ.
Bảy là thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu hay bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu. Quỹ
này được lấy từ phần thuế xuất khẩu, các khoản thu và đóng góp khác đối với từng
loại nông sản.
Tám là Chính phủ thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại và chỉ đạo hệ
thống đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài tìm kiếm thăm dò thị trường và
cung cấp thông tin nhanh nhạy, kịp thời về thương nhân và nhu cầu thị trường sở
tại, đáp ứng tốt hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp.
Chín là Trong hoạt động ngoại giao luôn đặt lợi ích kinh tế lên hàng đầu, các
cuộc gặp gỡ nên có đoàn tuỳ tùng là các doanh nghiệp đi cùng để tìm kiếm và ký
kết các hợp đồng trong hoạt động ngoại giao.
Và cuối cùng để cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản
nói riêng đạt kết quả cao cần có sự quan tâm phối hợp giữa các bộ ngành, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thương mại, Bộ KHĐT, Bộ Tài chính...
cho tới Bộ Ngoại giao cùng nỗ lực để đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới bắt đầu từ xuất khẩu nông sản chủ lực.
Kết luận
Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, những cố gắng
của Việt Nam trong con đường hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới nhằm thực
hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thực tế đã
chứng minh không một nền kinh tế nào có thể tồn tại và phát triển khi tách mình ra
khỏi hệ thống thương mại toàn cầu.
Trong khuôn khổ đề tài, dựa trên các nguồn thông tin và số liệu khác nhau đề
tài nghiên cứu “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông
sản chủ lực của Việt Nam” đã tiến hành phân tích, luận giải các vấn đề thuộc nội
dung nghiên cứu, nhằm đưa ra các kết luận, nhận định cần thiết góp phần vào thúc
đẩy xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới.
Việt Nam tuy có lợi thế tiềm năng đối với một số nông sản xuất khẩu có giá
trị cao. Nhưng để khai thác có hiệu quả đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ các giải pháp
kinh tế – kỹ thuật – tổ chức, đặc biệt là trong tình hình hiện nay có sự cạnh tranh
gay gắt của qúa trình tự do thương mại. Việc tìm ra một giải pháp cho xuất khẩu
nông sản không phải là một việc làm đơn giản mà cần có sự hỗ trợ của các chuyên
gia và tổ chức nghiên cứu chuyên sâu. Hy vọng rằng Việt Nam với lợi thế của
mình và định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong
những năm tới sẽ thúc đẩy các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, không những
phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, khối lượng và kim ngạch ngày càng tăng
mà còn tạo nên sức lan toả mạnh mẽ của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đảng IX – NXB Chính trị quốc – 2001
2. Nghị quyết 09/2000/NQ – CP, Nghị quyết 05/2001/NQ – CP, Quyết định
46/2000/2001/QĐ - TTg, Quyết định 80/2002/QĐ - CP
3. Giáo trình kinh tế thương mại, PGS.TS Đặng Đình Đào - PGS.TS Hoàng
Đức Thân, NXB thống kê 2001
4. Cơ sở pháp lý trong kinh doanh thương mại – dịch vụ, PGS.TS Đặng
Đình Đào, NXB thống kê -2001
5. Giáo trình QTKDTM, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc – TS. Nguyễn Xuân
Quang, NXB thống kê 2000
6. Giáo trình marketing thương mại, TS. Nguyễn Xuân Quang, NXB thống
kê - 1999
7. Giáo trình QTKDTMQT, PGS. TS Trần Chí Thành, NXB thống kê - 2000
8. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương , Vũ Hữu Tửu, NXB giáo dục
1998
9. Niên giám thống kê 2001, NXB thống kê Hà Nội - 2002
10. Kỷ yếu khoa học Viện kinh tế nông nghiệp 1996 –2002, NXB nông
nghiệp 2002
11. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh - Phát huy lợi thế, nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. NXB
Nông nghiệp 1999.
12. Nguyễn Trung Văn - Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỷ mới hướng
xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
13. Nguyễn Sinh Cúc - Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ 1990 -
2000 và hướng giải pháp cho 2001 - 2010.
14. Dự báo thị trường một số hàng hoá xuất khẩu chủ yếu Việt Nam thời kỳ
đến năm 2010, Chuyên đề số III.2 Bộ thương mại – Hà Nội 3/2001
15. Kinh tế 2002 - 2003 Việt Nam và thế giới – Thời báo kinh tế Việt Nam
16. Thời Báo Kinh tế Việt Nam các số năm 2002, 2003
17. Tạp chí Ngoại thương các số 2002, 2003
18.Tạp chí thương mại các số năm 2002, 2003
19. Tạp chí nông nghiệp 2002, 2003
20. Tạp chí Kinh tế và dự báo 2002, 2003
23. Tạp chí Con số và sự kiện, Tạp chí Kinh tế và dự báo các số năm 2001
24. Thời báo kinh tế Sài Gòn
25 . Trang Web Thời báo kinh tế: www.vneconomy.com.vn
26. Trang Web của Bộ thương mại: www.mot.gov.vn
27. Trang Web của Bộ NN & PTNT: www.mard.gov.vn
28. Trang Web của Hải quan: www.custome.gov.vn
Ngoài ra còn nhiều tài liệu tham khảo có liên quan khác như Chuyên đề tốt
nghiệp, sách báo và tạp chí chuyên ngành khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100787_8536.pdf