Luận văn Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang

Khôi phục và phát triển LNTT nông thôn là một tất yếu khách quan trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển LNTT nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Với An Giang, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn thì phát triển LNTT có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc có từ lâu đời của vùng đất An Giang.

pdf99 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4246 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
… do đó cần phải phát triển mẫu mã mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức mua của khách du lịch. Việc quan trọng hàng đầu là phải có chiến lược phát triển sản xuất phục vụ cho khách du lịch. Những sản phẩm sản xuất bán ra cho khách du lịch phải có nét đặc thù, tính độc đáo và đặc sắc mang yếu tố truyền thống Việt Nam từ đó họ sẽ có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm của LNTT tạo tiền đề cho thị trường xuất khẩu phát triển. Ba là, thị trường xuất khẩu Tiềm năng xuất khẩu trong LNTT của tỉnh còn rất lớn và khả quan, song khối lượng xuất khẩu hiện nay còn nhỏ bé; về lâu dài, xuất khẩu vẫn là thị trường quan trọng. Vấn đề đặt ra hiện nay là: phải có kế hoạch đầu tư vào việc nghiên cứu phát triển sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Khác với tính chất của sản phẩm bán cho khách du lịch là mang đặc tính của truyền thống Việt Nam; sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài cần được khai thác kỹ lưỡng năng lực truyền thống để tạo ra những sản phẩm mới và có mẫu mã phù hợp với thị hiếu và tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thích hợp đối với những nhà sản xuất các mặt hàng truyền thống để họ có cơ hội duy trì phát triển mặt hàng thông qua việc mở rộng sản xuất, bồi dưỡng tay nghề cho sự nghiệp kế tục và cải tiến sản phẩm. Đối với các cơ sở sản xuất trong LNTT coi trọng thị trường tiêu thụ nước ngoài thông qua các cơ quan ngoại thương, ngoại giao để nắm vững thị hiếu tiêu dùng của từng khu vực, từng nước đối với từng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta và tiến hành công tác dự báo, dự đoán thị trường nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý; thường xuyên nghiên cứu sự biến động nhu cầu và thị hiếu khách hàng ở các nước khác nhau mà cải tiến sản phẩm cho phù hợp. Chú ý hơn nữa việc phát triển quan hệ với các loại khách hàng ở những thị trường khác nhau để tạo khả năng mở rộng thị trường. Tiến hành tìm chọn những bạn hàng nước ngoài để liên doanh, liên kết trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Trên cơ sở đó thu hút công nghệ, kinh nghiệm quản lý nước ngoài để xây dựng sản phẩm của Việt Nam trong cách nhìn của người nước ngoài. Bốn là, thị trường chuyển giao công nghệ Phát triển cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô, sử dụng triệt để những thành tựu công nghệ trong nước, công nghệ truyền thống, đồng thời khai thác kịp thời công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kết hợp hài hoà giữa kích thích nhập khẩu công nghệ với khuyến khích sáng tạo sản xuất, chuyển giao công nghệ trong nước; phát triển hoạt động tư vấn dịch vụ cho nghiên cứu, ứng dụng KHCN năng cao năng lực công nghệ tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Có chính sách đánh thuế thấp hoặc miễn giảm thuế đối với những máy móc thiết bị có hàm lượng KHCN cao và những máy móc thiết bị nhỏ lẻ sử dụng trong các LNTT. Do vậy, đi đôi với việc sử dụng đôi bàn tay khéo léo của người thợ cần hiện đại hoá công nghệ truyền thống bằng cách dùng máy cơ khí trong các khâu tạo phôi sơ chế và xử lý nguyên vật liệu … - Chính sách tài chính tín dụng Giải pháp tạo vốn và khuyến khích đầu tư cần được ưu tiên theo hướng: - Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu quả cho SX kinh doanh ở các LNTT. Để thực hiện tốt vấn đề này cần có trung tâm hỗ trợ tài chính và bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ này vô cùng to lớn trong việc tạo và nâng cao quy mô SX được mở rộng và thu hút vốn đầu tư ngày càng nhiều. - Đa dạng hoá hình thức cho vay vốn đối với LNTT, thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở SX kinh doanh sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả. - Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Mở rộng hình thức cho vay tín chấp, cho vay có bảo lãnh đối với hộ nông dân quá nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện SX kinh doanh. Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn vốn. - Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong nông thôn. Đó là tín dụng cộng đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển SX trong LNTT. Các tổ chức tín dụng nông thôn cần đổi mới thủ tục cho vay vốn, mở rộng quy mô và phạm vi cho vay sao cho phù hợp với quy mô SX của họ. Đồng thời, có chính sách, biện pháp bảo hiểm vốn, tài sản cho quỹ tín dụng. - Trong các LNTT hiện nay đang xuất hiện một số chủ SX kinh doanh do làm ăn hiệu quả đã trở thành những người có vốn lớn, nắm quyền chi phối toàn bộ quá trình SX kinh doanh của làng. Số còn lại do nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố thiếu vốn đang trở thành người làm thuê hoặc con nợ của các ông chủ. Để tránh tình trạng bóc lột quá mức đối với thợ thủ công, những người nghèo, Nhà nước cần có các hình thức, biện pháp xử lý nghiêm đối với hiện tượng cho vay nặng lãi, hình thức lừa đảo, chiếm dụng vốn của nhau nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh trong LNTT. - Chính sách đầu tư, trước tiên cần ưu tiên vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước để hỗ trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho LNTT. Sự ưu tiên này cần tập trung vào các cơ sở SX sử dụng nhiều lao động, SX những mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Đối với những mặt hàng mới SX lần đầu, Nhà nước tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai, kho bãi để khuyến khích họ đổi mới mẫu mã. - Chính sách thuế Để khuyến khích và tạo điều kiện cho LNTT phát triển, chính sách thuế phải trở thành đòn bẩy kích thích SX và là công cụ điều tiết có hiệu quả của Nhà nước. Đánh thuế đúng sẽ làm cho người lao động trong LNTT tích cực phát triển SX kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao nguồn thu nhập cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước cần bổ sung hoàn chỉnh một số vấn đề chính sách thuế theo hướng sau: - Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hộ gia đình SX kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới đưa vào SX. Nhưng việc thực hiện chính sách này cần có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đúng mức, tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra. - Để khuyến khích sự đổi mới công nghệ trong LNTT, cần có chính sách miễn giảm thuế từ 2 - 3 năm đối với cơ sở SX thực hiện áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ phát triển SX, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động. - Trước mắt ưu tiên miễn giảm thuế đối với những LNTT SX hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc các cơ sở SX có vệ tinh ở nông thôn. Trong đó, cần đặc biệt ưu tiên các cơ sở của thương binh, người tàn tật, gia đình chính sách … - Miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề gắn với việc giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, các trung tâm dạy nghề truyền thống và các cơ sở dạy nghề tư nhân. Các cơ sở này rất cần được miễn giảm thuế để vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế. Đồng thời, xoá bỏ các khoản chi phí và những khoản thu ngoài quy định của pháp luật. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những hiện tượng trốn thuế, lậu thuế. - Nhà nước cần xem xét thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các hộ, các doanh nghiệp trong LNTT vì các đơn vị này không có được hoá đơn hợp lệ do mua nguyên liệu thu gom, mua lẻ, chi phí vận tải thuê ngoài và một số vật liệu phụ khác … nếu không có hoá đơn chứng từ hợp lệ thì bị xử lý theo quy định. Đồng thời, có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ, vì điều kiện SX còn lạc hậu, công nghệ chắp vá nên lãi suất rất thấp. - Chính sách đào tạo nguồn nhân lực Để nâng cao trình độ quản lý và tăng nhanh số lượng, trình độ tay nghề cho người lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng SX ở LNTT cần phải có giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ theo các hướng sau: - Nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong LNTT. Đây là điều kiện cơ bản để đào tạo đội ngũ lao động có tay nghề có trình độ ở LNTT. Bởi vì, trong thời gian qua, nhiều LNTT do tiếp xúc với nghề sớm các em học sinh ngoài giờ học đã tham gia phụ việc và kiếm được tiền, do cái lợi trước mắt mà các bậc cha mẹ sẵn sàng cho con em mình bỏ học để làm nghề. Mặc dù, số lao động trẻ có thể rất giỏi về kỹ thuật tay nghề nhưng lại hạn chế về trí thức, sẽ là trở ngại lớn cho quá trình CNH, HĐH nông thôn. - Cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển của LNTT. Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề, cần có cơ sở dành riêng đào tạo cho LNTT. Thông qua các cơ sở này, Nhà nước có sự tài trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung chương trình. Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền nghề trực tiếp với đào tạo cơ bản. Đối với những ngành nghề đan lát, mộc dân dụng, dệt, đóng xuồng ghe … có thể áp dụng truyền nghề trực tiếp, còn những nghề như thợ thêu, thợ kim hoàn, SX móc câu, rập chuột, gạch ngói … nhất thiết phải có quy trình đào tạo công phu. Có kế hoạch cụ thể cùng với chính quyền địa phương và ngành giáo dục các cấp đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở LNTT. Đối với con em thuộc diện gia đình chính sách, nên có hình thức dạy nghề miễn phí và trợ cấp một phần kinh phí để các em yên tâm học tập. - Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hoá hình thức dạy nghề. Các đơn vị tổ chức SX kinh doanh cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện có, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch bố trí cho đi đào tạo với nhiều hình thức: dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ … đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử dụng; phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm. Những mặt hàng mới, mặt hàng xuất khẩu, Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để đào tạo nghề. Khẩn trương xúc tiến thành lập các trường dạy nghề truyền thống ở bậc cao đẳng để tạo ra những nhà doanh nghiệp ở nông thôn biết quản lý kinh tế và những chuyên gia kỹ thuật giỏi. Đồng thời, thành lập các viện nghiên cứu giúp LNTT về dịch vụ, tư vấn, về quản lý kinh doanh, về xuất nhập khẩu và pháp luật. - Kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ trong LNTT. Nội dung và hình thức đào tạo cần tập trung vào những vấn đề mới như cung cấp thông tin, những kiến thức cập nhật, phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là kiến thức kinh tế thị trường. Việc đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế cho các chủ doanh nghiệp không thể thực hiện theo kiểu máy móc giản đơn mà xuất phát từ nhu cầu của thị trường, có nghĩa là thị trường cần gì thì đào tạo nấy. Nội dung đào tạo bồi dưỡng cần đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến hệ thống luật pháp có liên quan đến tổ chức SX kinh doanh của LNTT. Bởi vì, nhiều nhà doanh nghiệp, chủ cơ sở SX trong LNTT trình độ hiểu biết luật pháp còn hạn chế, nhất là Luật kinh tế và Luật lao động … - Vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và tay nghề cho người lao động không phải chỉ do Nhà nước làm mà phải trên cơ sở cơ chế chính sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các thành phần kinh tế cùng tham gia. Trước mắt, các LNTT cần chủ động đào tạo tay nghề cho người lao động. Để khuyến khích loại hình đào tạo này phải có chính sách không thu thuế trực tiếp đối với họ. Động viên các nghệ nhân dạy nghề và truyền bí quyết nghề nghiệp cho thế hệ sau. Đặc biệt là những nghề thủ công tinh xảo mà họ tích luỹ được. Trong quá khứ cũng như hiện tại LNTT luôn là bộ phận cơ bản hình thành lịch sử văn hoá, văn minh Việt Nam. Những di sản văn hoá của dân tộc đều là sản phẩm của nghề thủ công trong lịch sử. Các công trình kiến trúc nguy nga, đồ sộ như đình đền, lâu đài, lăng tẩm … cho đến những công cụ SX đều là sản phẩm thủ công do các thế hệ nghệ nhân và thợ thủ công làm ra. Ngay cả trong điều kiện phát triển của công nghệ hiện đại, sản phẩm thủ công truyền thống vẫn cần thiết cho con người. Bởi vì, do tính độc đáo và tinh xảo với “bàn tay vàng” của người thợ thủ công vẫn được coi trọng, được bảo tồn và phát triển. Thế nhưng trong mấy chục năm qua, có lúc các nghệ nhân đã bị lãng quên, nhiều người đã phải bỏ nghề đi làm việc khác. Nhận rõ vai trò của nghệ nhân đối với LNTT, cần phải tiến hành một số việc cần thiết như sau: - Nhà nước cần có chủ trương chỉ đạo các địa phương tiến hành điều tra nắm lại toàn bộ số nghệ nhân của LNTT (kể cả số còn sống và đã mất). Từ đó làm rõ những ông tổ nghề của ngành nghề truyền thống để tìm đến con cháu và dòng họ ông tổ nghề đã được truyền lại bí quyết nghề mà có chính sách cụ thể nhằm khôi phục, phát triển những nghề đã thất truyền. - Để bảo tồn và phát triển LNTT một mặt phải phát động phong trào khôi phục nghề truyền thống ở các địa phương, mặt khác phải xem xét, suy tôn những danh hiệu nghề nghiệp cho nghệ nhân và dòng họ, coi đây là niềm vinh dự, tự hào về nghề nghiệp của gia đình, dòng họ. - Mỗi huyện nên thành lập “câu lạc bộ, hiệp hội nghề truyền thống” để thu hút các nghệ nhân tham gia. Từ đây, các nghệ nhân có điều kiện tiếp xúc, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời cũng là nơi truyền nghề cho thế hệ sau. - Thông qua các hội nghề nghiệp hoặc câu lạc bộ nghề truyền thống mà có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân. Đối với những nghệ nhân già yếu, không còn sức lao động, nên có một số tiền nhất định để chu cấp cho các cụ, động viên họ truyền lại bí quyết nghề cho con cháu. Những nghệ nhân tuy sức khoẻ còn tốt nhưng việc hành nghề gặp khó khăn; Nhà nước có khoản trợ cấp hỗ trợ họ từng bước phát triển nghề bằng cách cải tiến mẫu mã phục hồi quy trình, tìm kiếm bí quyết, tổ chức làm thử sản phẩm … sau đó có điều kiện mở rộng quy mô SX, giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua triển lãm, qua tổ chức hội chợ triển lãm ở nước ngoài. - Khẩn trương nghiên cứu và đưa ra tiêu chuẩn để phong tặng danh hiệu cho các nghệ nhân, làm cho họ say mê với nghề nghiệp và đem hết nhiệt tình truyền nghề cho lớp trẻ. Hàng năm hoặc 5 năm một lần tổ chức xét và công nhận danh hiệu cao quý để trao tặng cho người thợ giỏi, những nghệ nhân tài hoa có nhiều công sức đóng góp cho LNTT và cả những nhà kinh doanh, chủ cơ sở xuất sắc. Những người được phong tặng, Nhà nước nên có khoản trợ cấp hàng tháng để động viên họ. Đối với những nghệ nhân có nhiều phát minh, sáng kiến và có công trong việc đào tạo nghề, truyền nghề, Nhà nước nên tổ chức cho họ được đi tham quan học tập kinh nghiệm ở nước ngoài khuyến khích họ đưa những tri thức mới, nét văn hoá hiện đại kết hợp với nét độc đáo, tinh xảo cổ truyền của dân tộc, để sản phẩm làm ra vừa mang yếu tố truyền thống, vừa mang yếu tố hiện đại. 3.2.1.4. Tạo lập và gắn kết các ngành du lịch, văn hoá với làng nghề truyền thống Mở rộng các chương trình giới thiệu và quảng bá các LNTT đến tận tay các du khách trong và ngoài nước: cung cấp thông tin về lịch sử làng nghề, sản phẩm, điều kiện tự nhiên và xã hội, các lễ hội của làng và địa phương có LNTT, tạo điều kiện cho du khách tự tay làm ra các sản phẩm theo ý thích của mình, tổ chức các hội chợ triển lãm, trưng bày và giới thiệu sản phẩm … có thể khai thác thị trường tiêu thụ mới. Chuyển hướng SX sang lĩnh vực quà lưu niệm có thể mang lợi nhuận nhanh và cao gấp nhiều lần, đồng thời thể hiện sự sáng tạo và năng động của người thợ LNTT trước hoàn cảnh đổi mới. Tuy nhiên, các LNTT cũng cần chú ý không để các dịch vụ quá lạm dụng mà thu lợi nhuận một cách thái quá, gây ấn tượng không tốt đến du khách. Sự phối hợp chặt chẽ giữa LNTT với các công ty du lịch đảm bảo lợi ích cho hai bên trong hiện tại và tương lai. Vì vậy, LNTT cần nâng cao trình độ của người thợ, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và ứng xử trong giao tiếp, từ đó khẳng định vai trò và vị thế của LNTT để không chỉ thu hút du khách hiện tại mà còn để họ giới thiệu và quảng bá hình ảnh về sản phẩm, con người của LNTT cho du khách trong tương lai. 3.2.1.5. Tiếp tục hoàn thiện nội dung và tổ chức thực hiện của cơ quan quản lý nhà nước đốí với làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Cùng với quá trình đổi mới và phát triển các LNTT đã có những biến đổi sâu sắc, có LNTT đã bị mai một, có làng nghề mới xuất hiện, vì vậy cần thiết phải có quy hoạch các LNTT trong vùng để trên cơ sở đó xây dựng phương án khôi phục và phát triển các LNTT. Quy hoạch và kế hoạch khôi phục, phát triển LNTT ở nông thôn trong tỉnh phải gắn với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của cả tỉnh, từng địa phương và phải lấy thị trường làm căn cứ. Về công tác quy hoạch, trước tiên cần phải điều tra khảo sát toàn bộ LNTT hiện có ở nông thôn và làng nghề mới theo tiêu chí rõ ràng. Điều tra khảo sát để nắm vững số lượng, chất lượng, chủng loại các ngành nghề, LNTT cho từng địa phương trong tỉnh. Những LNTT nào có điều kiện thuận lợi cần khuyến khích phát triển thì phải có biện pháp chỉ đạo, hỗ trợ có hiệu quả; nếu LNTT nào gặp khó khăn phải tập trung chỉ đạo, tháo gỡ tạo điều kiện cho phát triển; nếu LNTT nào nếu xét thấy khó tồn tại thì tạo điều kiện cho chuyển nghề mới; những LNTT nào đã bị mai một thì có biện pháp khôi phục. Những LNTT nào có thể phát triển quy mô lớn thì phải có biện pháp phát triển mở rộng; những LNTT có thể phát triển ở những địa phương có lợi thế để tăng sức cạnh tranh thì phải có kế hoạch đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất tính tự phát trong việc phát triển LNTT trên địa bàn. - Quy hoạch phát triển các LNTT theo hướng hình thành cụm trung tâm TTCN, cụm công nghiệp LNTT và dịch vụ của mỗi làng xã, tách khu vực sản xuất ra khỏi khu vực nhà ở, đảm bảo kết cấu hạ tầng, nhà xưởng cho SX kinh doanh và bảo vệ môi trường. Hình thành cụm trung tâm TTCN, cụm công nghiệp LNTT và dịch vụ hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho LNTT phát triển bởi ưu thế của cụm trung tâm TTCN, cụm công nghiệp LNTT là phát huy được hiệu quả SX kinh doanh khai thác triệt để lợi thế tiềm năng về tài nguyên, lao động của địa phương; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hội nghề nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. - Mỗi huyện trong từng địa phương của tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể có thể quy hoạch một số cụm công nghiệp LNTT để ổn định mặt bằng sản xuất. Những cụm công nghiệp LNTT này làm nòng cốt cho địa phương trong việc thu hút lao động, giải quyết vấn đề môi trường trong quá trình SX kinh doanh. - Quy hoạch phát triển LNTT theo mô hình làng nghề gắn với du lịch. Trong các LNTT có khu vực SX, có nơi trưng bày giới thiệu sản phẩm và du khách đến sẽ không chỉ tham quan mà còn được chứng kiến cách thức làm ra sản phẩm từ các nghệ nhân, thợ cả trong LNTT; từ đó thu hút được khách tham quan du lịch trong và ngoài nước, tiêu thụ được sản phẩm, thu hút được vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. - Quy hoạch và kế hoạch phát triển các LNTT cần phải gắn với quy hoạch kết cấu hạ tầng nông thôn như: hệ thống giao thông, điện, nước, trường, trạm, thông tin liên lạc … trong quy hoạch cần chú ý cả vấn đề nâng cao trình độ văn hoá và sức khoẻ cho người lao động trong các LNTT. - Việc đảm bảo nguyên liệu cho các LNTT có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của LNTT trên địa bàn tỉnh; vì thế đi đôi với việc quy hoạch phát triển LNTT cần phải quy hoạch vùng nguyên liệu. Nguyên liệu cho LNTT có nhiều loại khác nhau, có loại phải qua trồng trọt, chăn nuôi song lại có những loại sử dụng chủ yếu qua khai thác từ tài nguyên thiên nhiên như rừng, quặng mỏ … loại nguyên liệu này hiện nay đang khai thác một cách bừa bãi, thiếu kế hoạch. Để đảm bảo nguồn nguyên liệu SX ổn định lâu dài cho các LNTT cần phải có quy hoạch, kế hoạch khai thác hợp lý và bảo vệ chu đáo. Mặt khác, phải tập trung xây dựng các cơ sở chuyên khai thác, chế biến và cung cấp vật tư, nguyên liệu cho các LNTT. - Quy hoạch khôi phục và phát triển LNTT là biện pháp hết sức quan trọng và cần thiết để sắp xếp, bố trí LNTT cho từng địa phương của tỉnh, bố trí khu vực dân cư, nhà cửa, mặt bằng SX, nguyên liệu, kết cấu hạ tầng, đảm bảo cho các LNTT phát triển một cách bền vững, đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá thuận lợi và bảo vệ môi trường trong các LNTT. Vì vậy, chính quyền địa phương của từng nơi cần phải nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch tổ chức khu dân cư, khu SX kinh doanh vừa hiện đại vừa văn minh đảm bảo cuộc sống dân cư không bị ô nhiễm. 3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các làng nghề 3.2.2.1. Đổi mới nhận thức của người dân Nhận thức của người dân có vai trò quan trọng trong việc xây dựng LNTT, cụm công nghiệp LNTT theo hướng phát triển bền vững. Để làm thay đổi nhận thức người dân trong các LNTT, cụm công nghiệp LNTT phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế thị trường làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm tác động mạnh đến nhận thức của người dân LNTT. Từ thực tế phát triển kinh tế của địa phương người dân LNTT nhận thức được rằng: nhờ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà số hộ SX TTCN tăng, sản phẩm trong LNTT ngày nhiều lên. Để SX của gia đình thu được lợi nhuận nhiều hơn thì phải: - Mở rộng quy mô SX, tức là mở rộng thêm nhà xưởng, sử dụng thêm nhiều lao động. - Phải cạnh tranh trong SX, muốn cạnh tranh buộc phải đổi mới mẫu mã, sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, sản phẩm phải đẹp hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn, … - Phải đầu tư thêm máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại để giảm bớt lao động thủ công nhằm giảm chi phí, tăng năng suất lao động lên đáp ứng yêu cầu tiêu dùng ngày một tăng về cả số lượng và chất lượng. Mặt khác, các tổ chức chính trị, xã hội, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội người cao tuổi, … tổng kết, đánh giá thực tế hoạt động SX kinh doanh của các LNTT về các vần đề như: tăng trưởng kinh tế, mở mang ngành nghề, ô nhiễm môi trường, tình hình sức khoẻ, bệnh tật của người dân LNTT … qua đó nhằm tác động thay đổi nhận thức cho người dân. Xây dựng quy ước hoạt động LNTT về các vấn đề mở rộng SX, chỗ mua bán nguyên vật liệu, chỗ tiêu thụ sản phẩm hoặc chỗ giới thiệu việc làm cho lao động … đảm bảo vệ sinh môi trường cảnh quan xanh, sạch, đẹp và giữ được phong tục tập quán của LNTT. Bằng những quy ước, lệ làng và dư luận xã hội để điều chỉnh hành vi sai trái đi ngược lợi ích của LNTT như gây ô nhiễm môi trường, lấn chiếm đường làng ngõ xóm … - LNTT tự tổ chức dồn điền, đổi thửa theo chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp nhằm mở rộng diện tích nhà xưởng, mở rộng quy mô SX. Điều đó, sẽ tác động thay đổi lối làm ăn nhỏ lẽ, manh mún chuyển lên làm ăn lớn, quy mô lớn, liên doanh liên kết giữa các gia đình trong LNTT với nhau … 3.2.2.2. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, LNTT trên địa bàn tỉnh An Giang đang xuất hiện các hình thức tổ chức SX kinh doanh mới; do vậy, cần tạo điều kiện cho LNTT phát triển một cách đa dạng phong phú các hình thức tổ chức SX kinh doanh đó là: - Thứ nhất, hộ gia đình Hộ gia đình là hình thức tổ chức SX kinh doanh chính và có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay. Với hình thức này, các thành viên trong gia đình đều được huy động vào những công việc của quá trình SX kinh doanh. SX hộ gia đình phát triển mạnh mẽ và chủ yếu ở các LNTT có quy mô nhỏ, quá trình SX không có yêu cầu cao về phân công lao động và hợp tác lao động. Quá trình SX kinh doanh của hộ gia đình do người chủ gia đình, thường là thợ giỏi nắm toàn bộ quyền điều hành SX. Con cháu trong nhà tuỳ theo trình độ có thể đảm nhiệm một phần công việc hay chỉ phụ việc. Tổ chức SX kinh doanh trong các hộ gia đình đã tận dụng được lao động và phù hợp với trình độ quản lý của người thợ thủ công hiện nay. Bởi vì, nhiều loại hình sản phẩm chỉ do một hoặc vài người thực hiện từ đầu cho đến khi hoàn thành như: tranh thêu, dệt lụa, dệt chiếu, đan đát, bó chổi bông sậy, se nhang. Do quan hệ hợp tác không nhiều, nên việc truyền nghề trong gia đình, cho người thân bằng phương pháp trực tiếp ngay trong gia đình, dòng họ … nên đa số phát huy được năng lực tài nghệ của thợ thủ công. Sản phẩm của họ làm ra dễ thấy kết quả hàng ngày. Hơn nữa, SX theo hộ gia đình còn có cái lợi là không cần mặt bằng SX chung, chủ yếu tận dụng nhà ở để SX kinh doanh. - Hình thức SX kinh doanh này, có ưu thế nhất định về tính tự chủ trong SX kinh doanh, trong sử dụng lao động và thời gian lao động. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường và sự tiến bộ của KHCN, hộ gia đình ngày càng bộc lộ những khiếm khuyết với yêu cầu SX kinh doanh ngày càng cao. Mỗi hộ gia đình, không đủ tầm nhìn chiến lược để định hướng phát triển nghề nghiệp. Việc truyền nghề trong gia đình bị giới hạn bởi thiếu kiến thức văn hoá, kỹ thuật và xã hội để tiếp thu KHKT tiên tiến; trình độ hiểu biết về thị trường, marketing còn hạn hẹp, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh ngay trong các LNTT. Vì vậy, các cơ quan chức năng của trung ương cũng như tỉnh, huyện cần tăng cường chỉ đạo giúp đỡ và hướng dẫn hộ gia đình trong LNTT SX kinh doanh một cách hợp lý, có hiệu quả về kinh tế, xã hội. Tạo điều kiện cho các hộ SX kinh doanh thuận lợi, thu các khoản đóng góp hợp lý. Động viên giúp đỡ hộ gia đình nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện kinh doanh theo đúng luật pháp hiện hành, tránh tình trạng trốn thuế, lậu thuế. Có chính sách phù hợp, giúp đỡ những hộ nghèo về vốn, kỹ thuật để họ SX kinh doanh đạt kết quả và giúp họ tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. - Thứ hai, tổ hợp tác Tổ hợp tác là hình thức liên kết tự nguyện của những hộ trong LNTT để thực hiện một số khâu, một số công đoạn của quá trình SX kinh doanh. Hình thức liên kết được thực hiện thông qua việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm hoặc SX ra sản phẩm chung. Sự liên kết này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các hộ gia đình ứng xử, giải quyết nhanh nhạy trong nền kinh tế thị trường hợp lý hơn và bảo đảm hiệu quả của quá trình SX sản phẩm. Trong quá trình SX kinh doanh ở LNTT mặc dù có sự liên kết hợp tác, nhưng SX hộ gia đình vẫn là chính, gia đình vẫn đảm nhận toàn bộ công việc kể cả SX và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, trong các LNTT hình thức tổ hợp tác đang phát triển rộng rãi, bởi vì nó bổ sung cho nhau về vốn, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý … các hộ SX trong LNTT đã liên kết với nhau, giúp đỡ nhau tạo việc làm, tiêu thụ sản phẩm, dự đoán xu hướng của thị trường, tạo thành các chân rết cho những hộ lớn. Sự hoạt động này đã và đang có hiệu quả nhất định ở LNTT của tỉnh. Định hướng đối với tổ hợp tác trong thời gian tới là khuyến khích mở rộng quy mô liên kết, góp vốn, góp sức để tổ chức hoạt động kinh doanh. Nhà nước có chính sách ưu tiên cho các tổ hợp tác về vốn, về hướng nghiệp. Trên cơ sở nên cao tính tự chủ của kinh tế hộ, xây dựng các tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng trong LNTT, nơi nào có điều kiện thì thành lập HTX vững chắc đạt hiệu quả cao. Các tổ hợp tác này phải dựa vào những yếu tố cơ bản để phát triển thành HTX như: tự nguyện lập tổ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi, có góp vốn và góp sức (nhưng ở quy mô nhỏ), có tổ chức bộ máy quản lý ổn định. - Thứ ba, hợp tác xã HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện cùng góp sức, góp vốn lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động SX kinh doanh, dịch vụ, du lịch và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. HTX trong LNTT xét về lâu dài là loại hình SX kinh doanh chủ yếu; bởi lẽ HTX là một phương thức để kích thích SX và sử dụng vốn có hiệu quả, tạo điều kiện cho mọi người được làm giàu chính đáng và thu hút rộng rãi người lao động tham gia. Trước đây các HTX TTCN trong LNTT thường được ưu đãi về nhiều mặt như: được ký hợp đồng gia công cho các đơn vị kinh tế quốc doanh, được cấp đất, mua sắm máy móc và trang thiết bị, được vay vốn tín dụng ngân hàng … nhưng từ khi chuyển đổi cơ chế, sang chế độ hạch toán kinh doanh HTX kiểu cũ trong LNTT đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn do cơ cấu chất lượng sản phẩm của HTX trong thời gian qua không theo kịp với nhu cầu thị hiếu, mẫu mã thị trường và không có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thêm vào đó là sự lạc hậu về kỹ thuật và trình độ quản lý chưa được đào tạo của cán bộ mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính. Khi chuyển sang cơ chế mới Nhà nước lại chưa quan tâm đúng mức đến làng nghề, dẫn đến có lúc thả nổi cho bộ phận kinh tế này trôi dạt trước cơn lốc của kinh tế thị trường. Một khi đã thừa nhận kinh tế hộ là yếu tố cấu thành kinh tế HTX thì việc lựa chọn hình thức nào là do trình độ phát triển, nhu cầu của kinh tế hộ quy định. Một khi kinh tế hộ đã trở thành kinh tế tự chủ và đồng thời cũng xuất hiện những yêu cầu hợp tác giữa các hộ với nhau để thực hiện có hiệu quả hơn những công đoạn của quá trình SX kinh doanh. Vì vậy trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của kinh tế hộ, xây dựng các tổ chức kinh tế HTX đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến HTX tuân thủ theo nguyên tắc: tự nguyện gia nhập và rút ra khỏi HTX, quản lý dân chủ và bình đẳng, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi, chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển của HTX, hợp tác và phát triển cộng đồng. HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần của xã viên và tuỳ theo loại hình hợp tác mà có sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, xã viên được phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần. Ở các LNTT hiện nay có nhiều mô hình tổ chức HTX tuỳ theo trình độ ngành nghề thủ công của địa phương như HTX nông nghiệp, TTCN. Song HTX TTCN là chủ yếu, bởi vì khả năng vốn của người lao động ngày càng có nhiều người tham gia vào HTX, nơi họ có thể phát huy tài năng tốt hơn so với làm ăn cá thể. HTX tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, trước hết cần tập trung được năng lực và ưu thế sẵn có để SX sản phẩm đạt chất lượng cao. Đồng thời, đứng ra làm gia công và nhận những hợp đồng lớn đem lại thu nhập cho các gia đình trong làng nghề. HTX có thể sử dụng nguồn vốn góp, hoặc vốn vay mà đưa KHKT vào SX. Nhưng vấn đề quan trọng hàng đầu của việc đưa tiến bộ KHKT vào làng nghề là phải xác định được công nghệ thích hợp, nó phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện, quy mô sản phẩm, trình độ tiếp nhận của cán bộ hay xã viên không. Để nâng cao chất lượng cho người thợ, HTX có trách nhiệm đứng ra tổ chức đào tạo thợ một cách cơ bản và hệ thống, mà điều này hộ gia đình không làm được. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường việc tổ chức sắp xếp lại các HTX trong LNTT là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa chiến lược. Do vậy phải có biện pháp chuyển đổi phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế mới. Sự chuyển đổi phương thức hoạt động của HTX là vấn đề phức tạp đòi hỏi có sự chỉ đạo sâu sát của cấp uỷ chính quyền địa phương nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển HTX. Từng bước hướng HTX trong làng nghề đi vào hoạt động theo đúng luật HTX. Trong quản lý điều hành phát huy hết vai trò của hộ xã viên và có trách nhiệm bảo đảm khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra là chính, còn khâu SX nên giao cho hộ gia đình đảm nhiệm, họ làm tại nhà với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ. - Thứ tư, doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là hình thức được tồn tại từ lâu, nhưng nó thực sự đi vào hoạt động kể từ khi có Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời vào 12/1990. Tuy mới bắt đầu phát triển, nhưng tốc độ nhanh và có sự cuốn hút của nhiều nhà kinh doanh. Bởi vì, giám đốc doanh nghiệp tư nhân là người có quyền tự do và chủ động trong mọi hoạt động. Đặc biệt, Luật doanh nghiệp được thông qua 6/1999 quy định cho các loại hình doanh nghiệp chung, trừ doanh nghiệp Nhà nước, thì mặt bằng pháp lý giữa các doanh nghiệp với nhau khá bình đẳng, điều này đã tạo đà cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động ổn định trong nền kinh tế thị trường. Ở An Giang, việc thành lập doanh nghiệp tư nhân thường do những người có tiềm lực kinh tế nổi trội trong làng, có đầu óc tổ chức và tham vọng kinh doanh. Công tác quản lý điều hành doanh nghiệp rất linh hoạt, ứng xử nhanh chóng những tác động của thị trường để thay đổi ngành nghề kinh doanh, cũng như áp dụng công nghệ mới vào SX. Quan hệ giữa chủ và thợ là mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau, vì thế người lao động được phân phối sát với giá trị sức lao động của mình. Một số doanh nghiệp tư nhân đã tạo ra khả năng phát triển SX với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút hàng trăm lao động có việc làm. Tuy nhiên, trong quá trình SX kinh doanh, loại hình doanh nghiệp này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc huy động vốn để mở rộng SX, bởi lẽ chế độ trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân là trách nhiệm vô hạn. Để loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển cùng với quá trình CNH, HĐH Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý ổn định, khuyến khích và động viên các chủ doanh nghiệp yên tâm bỏ vốn vào phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Đồng thời, cho phép họ được tham gia xuất khẩu hàng hoá trực tiếp với nước ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp tư nhân trong LNTT phải chủ động đổi mới trang thiết bị, công nghệ để mở rộng quy mô SX. Trước mắt, cần giải quyết tốt khó khăn về đầu ra cho sản phẩm, nhất là sản phẩm từ nông nghiệp. - Thứ năm, công ty TNHH Hình thức công ty TNHH là công ty có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, trong đó các thành viên cùng góp vốn để thực hiện kinh doanh, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ, chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Cơ sở pháp lý của loại hình tổ chức này là Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp. Công ty TNHH phát triển ở những làng nghề có trình độ tập trung hoá cao, có quan hệ rộng rãi với thị trường và có khả năng về đổi mới công nghệ. Sự phát triển của công ty TNHH trong nền kinh tế thị trường là một động lực để thúc đẩy các nhà kinh doanh huy động một lượng vốn lớn vào sản xuất, đồng thời tạo điều kiện cho những người có vốn nhỏ dễ dàng góp vốn đầu tư cũng như chuyển nhượng vốn góp của mình. Định hướng đối với loại hình công ty này trong làng nghề là chính quyền địa phương các cấp nên hướng dẫn họ tổ chức lại SX, để thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô SX, đưa tiến bộ KHKT vào SX nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, khắc phục tình trạng manh mún, chất lượng không đều và tạo khả năng chiếm lĩnh thị trường … - Thứ sáu, công ty cổ phần Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động SX kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Công ty cổ phần ra đời có chậm hơn so với các loại hình tổ chức khác, nhưng trong tương lai, loại hình này có vị trí đáng kể ở các LNTT. Bởi vì, nó có khả năng huy động vốn lớn, thu hút đầu tư và kỹ năng quản lý bên ngoài rất lớn. Trên phương diện tập trung vốn, loại hình công ty cổ phần có ưu việt hơn hẳn doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH. Nhưng hiện nay nó ít được áp dụng bởi trình độ quản lý của các doanh nghiệp còn hạn hẹp, không muốn chia sẻ quyền lực trong quản lý. Vì vậy, thời gian tới Nhà nước cần tạo điều kiện cho công ty cổ phần trong LNTT hoạt động có hiệu quả, đúng với ý nghĩa của nó. 3.2.2.3. Liên kết trong việc cung ứng và tiêu thụ sản phẩm Một trong những yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của các LNTT là vấn đề thị trường. Thực tế thời gian qua cho thấy LNTT nào giải quyết tốt vấn đề đầu ra cho sản phẩm thì LNTT đó tồn tại và phát triển mạnh. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các LNTT hiện nay tuy đã có bước phát triển nhưng vẫn còn nhỏ hẹp, phân tán, thị trường địa phương tại chỗ. Về mặt lý thuyết thị trường này có quy mô rất lớn, song trên thực tế do sức mua của các tầng lớp dân cư nông thôn còn thấp nên cần phải mở rộng thị trường ở các vùng, địa phương khác và đặc biệt là thị trường nước ngoài. Để mở rộng thị trường, trước hết về phía bản thân các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất trong các LNTT phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Muốn vậy các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình trong các LNTT nông thôn trên địa bàn tỉnh cần chú ý đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra thương hiệu sản phẩm có uy tín và đăng ký bản quyền thương hiệu, cải tiến mẫu mã cho hợp thị hiếu, tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng về chất lượng, giá cả, phương thức phục vụ và phải lấy chữ tín làm đầu. Không những thế các cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất kinh doanh ở các LNTT nông thôn cần đẩy mạnh liên doanh, liên kết và tiêu thụ sản phẩm với các cơ sở sản xuất ở các vùng kinh tế khác để có điều kiện tiếp cận, mở rộng thị trường. 3.2.3. Nhóm giải pháp về các hiệp hội làng nghề 3.2.3.1. Hình thành và phát triển các hiệp hội về các sản phẩm của làng nghề Để giữ được truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của làng nghề, ngoài việc thôn, xóm đưa ra những quy ước, quy định còn phải thành lập câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề. Các câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề trên nguyên tắc tự nguyện nhưng có sự tác động bởi lệ làng, phong tục tập quán và quy ước nhằm tạo điều kiện để các hộ gia đình liên kết với nhau, trao đổi thông tin với nhau về KHCN, thị trường nguyên liệu, sức lao động, tiền vốn và thị trường tiêu thụ. Sinh hoạt câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề có tác động mạnh đến sự thay đổi nhận thức và hành động của người dân làng nghề. Bằng những quy ước, lệ làng mà thôn, xóm, làng nghề có khả năng huy động sức người sức của vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương như hệ thống giao thông, điện nước, trường, trạm y tế và những công trình văn hoá của làng. Hơn thế nữa thông qua sinh hoạt câu lạc bộ, hiệp hội làng nghề mà quy ước, lệ làng được củng cố, hoàn thiện có sức mạnh điều tiết các cá nhân, hộ gia đình gia nhập các khu, cụm công nghiệp, LNTT của địa phương hoặc thực hiện giải phóng mặt bằng nhanh chóng đúng tiến độ. Bằng quy ước, lệ làng mà LNTT sẽ loại trừ hành vi làm hàng giả ảnh hưởng đến uy tín, truyền thống làng nghề đã có bao đời nay. Do đặc điểm của LNTT có từ lâu, nên đường làng ngõ xóm chật hẹp, cả làng làm nghề, hộ gia đình có đất đai chật hẹp gặp khó khăn trong SX, hộ có diện tích rộng, mặt đường thì thuận lợi trong SX, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm … nên xuất hiện nhu cầu di chuyển từ nơi khó khăn sang nơi thuận lợi để SX kinh doanh. Đồng thời, tự phát hình thành khu vực cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm có vị trí thuận lợi; từ đó hình thành các thị trường vốn, lao động, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm. Đây là điều kiện thuận lợi để LNTT tổ chức thành cụm công nghiệp LNTT tách khỏi khu dân cư, có điều kiện mở rộng SX, mở rộng thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm. 3.2.3.2. Tổ chức hỗ trợ, tư vấn kinh nghiệm về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Hình thành và phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ giúp đỡ LNTT trong quá trình SX kinh doanh. Sự giúp đỡ của các tổ chức này nên tập trung vào những lĩnh vực như xuất khẩu sản phẩm, chuyển giao công nghệ, đào tạo và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, tạo điều kiện khuyến khích thành lập câu lạc bộ, hiệp hội LNTT vì thông qua câu lạc bộ, hiệp hội LNTT mà các cơ sở SX kinh doanh, cá nhân người thợ được cung cấp thông tin về kinh tế, KHCN cũng như giá cả thị trường để trên cơ sở đó mà hoạch định việc SX kinh doanh của mình sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao. Định kỳ tổ chức hội chợ LNTT nhằm giới thiệu sản phẩm LNTT. Qua hội chợ LNTT giúp các gia đình, doanh nghiệp các địa phương giao lưu, học hỏi, giới thiệu sản phẩm LNTT với nhau. Điều đó chính là giới thiệu nét văn hoá dân tộc của địa phương, LNTT với khách hàng để quảng bá thương hiệu, sản phẩm của LNTT. Nơi tổ chức hội chợ trưng bày sản phẩm LNTT cũng chính là nơi tổ chức du lịch làng nghề rất thuận lợi và hiệu quả. KẾT LUẬN Làng nghề truyền thống nông thôn ở An Giang có những đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song trên thực tế LNTT nông thôn ở nước ta nói chung và An Giang nói riêng đang đứng trước những khó khăn, thách thức rất lớn trong quá trình khôi phục và phát triển. Từ những kết quả khảo sát và nghiên cứu về các LNTT của tỉnh cho phép chúng tôi rút ra kết luận chủ yếu như sau: 1. Khôi phục và phát triển LNTT nông thôn là một tất yếu khách quan trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự phát triển LNTT nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Với An Giang, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn thì phát triển LNTT có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc có từ lâu đời của vùng đất An Giang. 2. Trên cơ sở đánh giá, phân tích một cách toàn diện thực trạng khôi phục và phát triển LNTT nông thôn ở An Giang cho thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được tương đối khả quan về giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo, cải thiện cơ cấu kinh tế nông thôn, … thì cũng còn tồn tại nhiều khó khăn cần phải khắc phục. Luận văn đã nêu và phân tích những tồn tại khó khăn về vốn, về lao động, về kỹ thuật công nghệ, về môi trường, về công tác quản lý của Nhà nước đối với các LNTT. 3. Luận văn đưa ra những quan điểm cần quán triệt trong quá trình khôi phục và phát triển LNTT nông thôn ở An Giang. Trên cơ sở những quan điểm đó, luận văn đưa ra phương hướng khôi phục và phát triển LNTT ở nông thôn An Giang trong thời gian tới phù hợp với những nguồn lực của tỉnh. Để thực hiện phương hướng đó, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu là hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch khôi phục và phát triển LNTT; mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các LNTT; đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động; đổi mới nhận thức của người dân phát triển đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trong các LNTT; đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các LNTT; xây dựng và phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng đồng bộ ở nông thôn; đổi mới các chính sách kinh tế và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các LNTT phát triển theo hướng bền vững. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục Thống kê An Giang (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, An Giang. 2. Cục Thống kê An Giang (2007), Niên giám thống kê 2006, Nxb Thống kê, An Giang. 3. Nguyễn Văn Đại - Trần Văn Luận (1998), Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển LNTT, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Nguyễn Điền (1997), CNH nông nghiệp, nông thôn các nước Châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đỗ Đức Định (1997), "Cách mạng xanh, Cách mạng trắng, CNH nông thôn và phát triển nông thôn ở Ấn Độ", Tạp chí Thông tin lý luận, (2). 9. Mạc Đồng (1995), Làng xã ở Châu Á và ở Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Đỗ Thái Đồng (2001), Phát triển nông thôn, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Vũ Thị Hà (2002), Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 12. Trần Văn Hiến (2006), Tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 13. Mai Thế Hởn (1997), "Để nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng CNH, HĐH", Tạp chí Thương mại, (2). 14. Mai Thế Hởn (1998), "Thủ công nghiệp đồng bằng sông Hồng trong quá trình CNH, HĐH", Tạp chí Thương mại, (11). 15. Mai Thế Hởn (1998), "Phát triển LNTT trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7). 16. Mai Thế Hởn (1999), "Phát triển LNTT ở Bắc Ninh", Tạp chí Hoạt động khoa học, (1). 17. Mai Thế Hởn (1999), "Các giải pháp chủ yếu phát triển thị trường cho LNTT ở các tỉnh ven Hà Nội", Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, (2). 18. Mai Thế Hởn (1999), "Vấn đề môi trường trong các LNTT ở vùng ven đô Hà Nội", Tạp chí Khoa học công nghệ môi trường, (5). 19. Mai Thế Hởn (1999), "Tình hình phát triển làng nghề ở một số nước Châu Á và kinh nghiệm cần quan tâm đối với Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (6). 20. Mai Thế Hởn (2000), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá ở vùng ven thủ đô Hà Nội, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 21. Hội thảo Quốc tế bảo tồn và phát triển LNTT (1996), Hà Nội. 22. Nguyễn Ngọc Khanh (1998), "Ngành nghề nông thôn là động lực xoá đói giảm nghèo", Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, (4). 23. TS. Nguyễn Xuân Khoát (1998), "Phát triển ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn Việt Nam hiện nay", Tạp chí Công nghiệp, (4). 24. Nguyễn Hữu Loan (2007), Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 25. Trần Văn Luận (1992), "Thực trạng và giải pháp nhằm khôi phục và phát triển một số nghề truyền thống", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (5). 26. Nguyễn Hữu Lực (1996), Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở đô thị Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 27. Phan Sỹ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (2). 28. Nguyễn Huy Oánh (1998), "Phát triển LNTT với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (245). 29. Dương Bá Phượng (1998), "Một số ý kiến về làng nghề ở Hải Hưng", Tạp chí Thông tin lý luận, (9). 30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp tác xã, Hà Nội. 31. Chu Hữu Quý, Bùi Ngọc Thanh (1991-1995), Các chính sách xã hội nông thôn, Đề tài KX.08.04. 32. Sở Kế hoạch Đầu tư (2004), Báo cáo quy hoạch phát triển nghề và làng nghề Thành phố Hà Nội đến 2010, Hà Nội. 33. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. 34. Thủ tướng Chính phủ (2004), Nghị định số 134/2004/NĐ-TTg ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. 35. Thủ tướng Chính phủ (2006), Nghị định số 66/2006/NĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn. 36. Nguyễn Trọng Tuấn (2006), Nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 37. Nguyễn Ty (1991), Một số vấn đề cơ bản về sự phát triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Hà Bắc, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 38. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2005), Quyết định số 3195/2005/QĐ-UBND ngày 29 tháng 11 năm 2005 Về việc ban hành Quy định tiêu chí làng nghề tiểu thủ công nghiệp. 39. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Quyết định số 2352/QĐ-UBND ngày 28 tháng 11 năm 2006 Về việc ban hành Chương trình Xây dựng khu công nghiệp, cụm sản xuất tiểu thủ công nghiệp tỉnh An Giang giai đoạn 2006-2010. 40. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 37/2007/QĐ-UBND ngày 07 tháng 8 năm 2007 Về việc ban hành Quy chế quản lý Khu - cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp huyện, thị, thành phố -tỉnh An Giang. 41. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 2925/QĐ-UBND ngày 29 tháng 10 năm 2007 Về việc ban hành Kế hoạch phát triển công nghiệp-TTCN tỉnh An Giang giai đoạn 2007 - 2010. 42. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Chương trình số 03/CTr-UBND ngày 17 tháng 12 năm 2007 Bảo tồn và phát triển làng nghề TTCN tỉnh An Giang giai đoạn 2008 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 43. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2007), Quyết định số 81/2007/QĐ-UBND ngày 21 tháng 12 năm 2007 Về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh An Giang. 44. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Quyết định số 584/QĐ-UBND ngày 07 tháng 4 năm 2008 Về việc hỗ trợ ứng dụng, đổi mới công nghệ; hỗ trợ tập huấn, chuyển giao kỹ thuật và sản xuất thử nghiệm trên địa bàn tỉnh An Giang từ nay đến năm 2010. 45. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Báo cáo số 65/BC-UBND ngày 06 tháng 6 năm 2008 Phát triển doanh nghiệp công nghiệp nông thôn giai đoạn 2008 - 2010. 46. Viện Sử học (1990), Nông dân và Nông thôn Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 47. Võ Văn Việt (2008), Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển làng nghề ở tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 48. Đặng Ngọc Vinh (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Bùi Văn Vượng (1996), Phát triển môi trường thể chế cho làng nghề ở nông thôn Việt Nam, Hội thảo khoa học về môi trường thể chế cho các hoạt động dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn đồng bằng sông Hồng, Hà Nội. 50. Trần Minh Yến (2003), Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang.pdf
Luận văn liên quan