Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công
chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có
tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân
hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế
Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.
61 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2336 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường nguồn cung lao động Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào, trong khi đó, đứa trẻ ở
nước khác lại đần độn, gày còm, xanh xao.
Giải quyết vấn đề nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao chính là giải quyết
mối quan hệ giữa chất và lượng. Chất là tính quy định, đòi hỏi cao của nguồn nhân lực.
Chất của nguồn nhân lực gắn với các yếu tố xã hội, chính sách xã hội, liên quan mật thiết
đến môi trường xã hội. Thí dụ, một công chức có thể làm việc mỗi ngày 8 giờ với chất
lượng công việc cao, nhưng vì giao thông tắc nghẽn, đi lại rất khó khăn, cho nên anh ta
chỉ có thể đến công sở làm việc mỗi ngày khoảng 6 giờ, 2 giờ còn lại là do giao thông tắc
nghẽn. Lượng của nguồn nhân lực chỉ có thể phát triển sau khi nó đã có các yếu tố xã hội
chi phối. Nó chỉ có thể biến đổi thành chất sau khi đã đạt được những yếu tố nhất định
như môi trường sống, điều kiện sống.
40
Qua nghiên cứu, những giải pháp phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam (trong
đó, có nguồn nhân lực chất lượng cao) trong những năm tới là: Phải xác định rõ nguồn
nhân lực là tài nguyên quý giá nhất của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước. Một đất nước rất ít tài nguyên thiên nhiên như Việt Nam, cần phải lấy nguồn
nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực hoặc là tài nguyên
con người, nâng cao chất lượng con người và chất lượng sống của người Việt Nam, xây
dựng chiến lược nguồn nhân lực đến năm 2030 trên cơ sở những kết quả nghiên cứu của
các đề tài, đề án khoa học về nguồn nhân lực, có biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn
đề vừa cấp bách vừa lâu dài của nguồn nhân lực, trong đó, có vấn đề khai thác, đào tạo,
sử dụng nguồn nhân lực trong nông dân, công nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ, nhân
lực trong các ngành, nghề, có chính sách sử dụng nguồn nhân lực cho đúng. Có chính
sách đúng đắn đối với việc sử dụng nhân lực trí thức và trọng dụng nhân tài. Cải thiện
mạnh mẽ chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo, là những vấn đề quan trọng nhằm tạo ra nhân lực chất lượng cao
hiện nay. Không ngừng nâng cao trình độ học vấn của nhân dân lên. Hiện nay, trình độ
học vấn của nhân dân cả nước, bình quân mới chỉ lớp 6 /đầu người. 8) Cải thiện và tăng
cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi
người thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và trên
thế giới. Cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt Nam và cần
đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực Việt Nam.
Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần phải tập trung
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là mục tiêu mà chúng ta đang vươn tới, nếu
có thể hoàn thành tốt những công việc đó trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ có
nguồn nhân lực chất lượng cao, dồi dào, lành mạnh.
** Những định hướng cho phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2010-
2020
Kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng nhanh với mức trung bình 7,5%/năm. Việt Nam
đã thực sự chuyển đổi từ một nước nông nghiệp nghèo và lạc hậu, đóng cửa với thế giới,
sản xuất công nghiệp chủ yếu là của các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã sang một
41
nước tham gia vào hội nhập toàn cầu và đón nhận những nguồn đầu tư FDI và đầu tư tư
nhân.
Từ thực tế này,chúng ta có thể thấy định hướng phát triển kinh tế, xã hội của Việt
Nam không thể giống với bất kỳ nước ASEAN nào, thậm chí ngay cả khi các bài học
quốc tế là hữu ích. Việt Nam cần phải tìm ra một hướng đi phù hợp nhất với hoàn cảnh
của mình. Trước tiên, sự hội nhập của Việt Nam cần được thực hiện nhanh hơn và cần
phải tiến hành ở ngay giai đoạn phát triển đầu tiên. Sự năng động trong lĩnh vực công
nghiệp của Việt Nam hiện nay chủ yếu là do đầu tư tư nhân và tiêu dùng tư nhân. Các
nhà đầu tư nước ngoài đang bị thu hút bởi các lợi thế mà Việt Nam có được như vị trí tốt,
lao động tốt. Ngoài ra, các chính sách và thể chế của Việt Nam còn yếu kém không chỉ
theo tiêu chí của các nước phát triển Đông Á mà thậm chí cả tiêu chuẩn chung của nước
đang phát triển. Những đặc điểm này cần được phản ánh đầy đủ trong quá trình hoạch
định chính sách của Việt Nam nhằm phá vỡ được trần thuỷ tinh, đuổi kịp một cách ổn
định các nước có mức thu nhập cao, đối mặt với thách thức từ Trung Quốc, và đạt được
mục tiêu quốc gia về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước năm 2020.
Trong cơ cấu kinh tế xã hội hiện nay, sự thiếu vắng hay kém phát triển của ngành
công nghiệp hỗ trợ là một đặc điểm nổi bật. Nguyên nhân chính là do từ trước đến nay
lực lượng chủ đạo trong lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam – các doanh nghiệp nhà
nước - chủ yếu hoạt động theo nguyên tắc khép kín, ít cần các doanh nghiệp phụ trợ; Khu
vực tư nhân trong nước non yếu và chậm phát triển, không được khuyến khích, không có
điều kiện và thiếu khả năng tự định hướng để phát triển ngành phụ trợ…
Để Việt Nam có vị thế nhất định trong khu vực, GDP của nước ta phải đạt mức
trung bình của 4 nước có GDP cao nhất hiện nay trong ASEAN, là Malaysia, Thái Lan,
Philippines và Indonesia (vào khoảng 200 tỷ USD) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
đầu người hàng năm phải ở mức hai con số. Bởi nếu tiếp tục nhịp độ tăng trưởng như
hiện nay (10 năm tăng gấp đôi), thì đến năm 2020, Việt Nam vẫn sẽ thua xa mức thu
nhập bình quân đầu người/năm tại khu vực ASEAN.
Hiện nay, hàng loạt các rào cản đối với chiến lược công nghiệp hoá Việt Nam
như: hệ thống thể chế thị trường không đồng bộ, thị trường bất động sản kém phát triển,
42
khả năng tiếp cận các nguồn vốn thấp, tình trạng độc quyền của một số doanh nghiệp
Nhà nước làm méo mó môi trường kinh doanh và làm tổn thất cho nền kinh tế; cải cách
hành chính và năng lực quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, vì vậy việc giải quyểt những
bật cập này trong những năm sắp tới là điều phải được làm đối với Việt Nam để có thể
hoàn thành tốt các mục tiêu quốc gia đã đặt ra.
Đối với Việt Nam hiện nay, khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu,
khoảng cách xa giữa năng lực của toàn bộ cơ cấu ngành, đặc biệt là năng lực công
nghiệp, với mức độ sâu rộng và quyết liệt của cạnh tranh toàn cầu bộc lộ ngày càng rõ.
Áp lực cạnh tranh của Việt Nam là rất khốc liệt do phải nhanh chóng tự do hoá thương
mại, phải cạnh tranh sòng phẳng với các nước đi trước phát triển hơn khi chưa được
chuẩn bị các điều kiện cần thiết. Trong bối cảnh ấy, chiến lược phát triển kinh tế của Việt
nam phải được xây dựng nhằm mục tiêu sống còn là tạo lập, củng cố năng lực cạnh tranh
quốc tế.
** Các giải pháp tăng cường cho nguồn cung lao động ở Việt Nam
giai đoạn 2010-2020
1. Nâng cao chất lượng của người lao động trong tương lai cả về tay nghề và sức
khỏe.
Trong những năm qua, mặc dù có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến việc xây
dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, song cho đến nay, so với yêu
cầu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam còn ít về số lượng và chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
và trong so sánh quốc tế. Vì vậy, việc phải nhanh chóng xây dựng và phát triển đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao có đủ năng lực giải quyết các vấn đề phát triển của đất
nước trong bối cảnh cần phải đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế
càng trở nên cấp bách. Nguồn nhân lực chất lượng cao được hình thành và phát triển
thông qua quá trình đào tạo, tích luỹ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và thực tế sử dụng,
đãi ngộ, trọng dụng. Đó là một quá trình liên tục cần được theo dõi chặt chẽ và ở mỗi giai
đoạn có những giải pháp thích hợp. Nếu chỉ chú trọng đến khâu đào tạo, mà không có
giải pháp hữu hiệu để sử dụng, phát huy tài năng thì những kết quả tạo được trong quá
43
trình đào tạo sẽ mai một và ngược lại, nếu không quan tâm đến đào tạo thì không thể chủ
động xây dựng và phát triển được đội ngũ nguồn lao động trong tương lai.
Phương hướng chung xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của
Việt Nam là có được đội ngũ nhân lực thể lực tốt, tầm vóc cường tráng, phát triển toàn
diện về trí tuệ, ý chí, năng lực tư duy sáng tạo và đạo đức tốt; có năng lực tự học, tự đào
tạo, có bản lĩnh, tự tin, năng động, chủ động, sáng tạo; có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng thích ứng và đối phó nhanh chóng với môi trường sống và làm việc
không ngừng biến đổi; thích ứng với trình độ phát triển Việt Nam năm 2020 là nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Cùng với phương hướng chung trên đây, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao của nước ta trong những năm tới cần tập trung vào những nhóm nguồn
nhân lực chủ yếu và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Để xây dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao,đáp ứng được những
điều kiện cần thiết cần tập trung thực hiện các nhóm giải pháp sau đây:
Một là ,với vấn đề trình độ chuyên môn đổi mới tổ chức đào tạo nguồn nhân lực theo
hướng tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn sử dụng
và ưu tiên tập trung bồi dưỡng nhân tài.
Cải cách căn bản và sâu sắc hệ thống giáo dục quốc gia hiện hành. Xây dựng hệ thống
giáo dục quốc gia mới tiên tiến, hiện đại (về tổ chức, cơ sở vật chất-kỹ thuật, đội ngũ giáo
viên, nội dung chương trình và phương pháp dạy, học) phù hợp với các tiêu chí, chuẩn
mực quốc tế đảm bảo sự liên thông giữa giáo dục và đào tạo, giữa các cấp bậc đào tạo từ
dạy nghề đến sau đại học, giữa các nhóm ngành nghề đào tạo và liên thông hệ thống giáo
dục quốc gia của Việt Nam với quốc tế .Xây dựng được hệ thống các cơ sở đào tạo nhân
lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông
giữa các cấp và các ngành đào tạo trong nước và quốc tế. Nhanh chóng hình thành và
phát triển xã hội học tập để đảm bảo tất cả người dân có cơ hội học tập suốt đời. Tập
trung xây dựng và phát triển các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao đạt trình độ (trước hết
là các ngành nghề trọng điểm mũi nhọn đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước và nhu cầu xuất khẩu lao động).
Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, đặc biệt là
hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quản lý hành
44
chính, ngoại giao và kinh tế đối ngoại, quản trị kinh doanh, giáo dục-đào tạo, hoạt động
khoa học-công nghệ, tư vấn hoạch định chính sách, pháp lý, y học, sinh học, công nghệ
thông tin, điện tử, quốc phòng.
Đào tạo, xây dựng và phát triển các nhóm nhân lực cốt yếu trong các ngành nghề trọng
điểm: công nghệ thông tin, cơ khí-tự động hoá, vật liệu mới, công nghệ biển, công nghệ
sinh học, y học, năng lượng, công nghệ môi trường...
Hai là, tăng cường thể lực và nâng cao tầm vóc con người Việt Nam
Mục tiêu cơ bản là cải thiện một cách bền vững tầm vóc của người Việt Nam, thể hiện
bằng việc tăng chiều cao trung bình của thanh niên trong thời kỳ trung hạn lên ngang
bằng với thanh niên các nước trong khu vực Đông á (cụ thể là người Trung Quốc) và
trong thời kỳ dài hạn lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của Tổ chức y tế thế giới. Đồng
thời, cải thiện thể trạng người Việt Nam để đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa chiều cao
đứng và trọng lượng cơ thể, tăng cường thể lực, đặc biệt là sự phát triển hài hoà về các tố
chất thể lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo...) đảm bảo thực
hiện lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Những giải pháp cở bản mang tính chiến lược và có vai tro quyết định là :
Tăng khẩu phần ăn để tăng cường lượng calo tiếp thụ và cải thiện cơ cấu dinh dưỡng một
cách hợp lý và luôn luôn phải đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm;
Nâng cao chất lượng, kết quả hoạt động của Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng
trẻ em. Thực hiện Chương trình tổng hợp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao thể lực cho phụ
nữ , đặc biệt là những người trong độ tuổi lao động.
Mở rộng các hoạt động tư vấn về sức khoẻ sinh sản, về hạn chế sinh đẻ đối với những
trường hợp đặc biệt liên quan đến sức khoẻ và bệnh tật của những người làm cha, làm
mẹ. Thực hiện chương trình sàng lọc trẻ trước sinh và sơ sinh để phòng, chống bệnh tật
và nâng cao được thể lực cho trẻ em trong tương lai;
Coi trọng và đổi mới việc tổ chức giáo dục thể chất trong nhà trường và đẩy mạnh phong
trào toàn dân tập thể dục, rèn luyện thân thể trong xã hội;
Phát triển y tế dự phòng. Xây dựng được hệ thống y tế dự phòng rộng khắp và hiệu quả.
Đẩy mạnh các hoạt động vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch và đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm cho người dân;
45
Nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh cho người dân. Đảm bảo tất cả mọi
người dân được khám chữa bệnh công bằng và hiệu quả.
Ba là, nâng cao ý thức, kỷ luật và tác phong công nghiệp của người lao động.
Để có thể thực hiện được mục tiêu này thì việc cần thiết phải làm và đạt được đó là nâng
cao tính hiệu quả của các chính sách dành cho người lao động. Cần phải tạo cho người
lao động một môi trường làm việc thích hợp với đầy đủ trang thiết bị máy móc và bảo
đảm an toàn lao động, tránh tình trạng làm việc quá đông trong một khu vực gây nên hiện
tượng ỷ lại làm giảm năng suất lao động. Cần có những chính sách cả về khen thưởng
cũng như kỷ luật đối với người lao động để có thể kích thích họ làm việc có hiệu quả và
tránh được những hành vi thiếu kỷ luật hay thói quen làm việc thiếu nhiệt tình trách
nhiêm.
Các cơ quan, doanh nghiệp quản lý người lao động cần phải tăng cường khâu giám sát
quản lý, tuy nhiên cũng cần có những khoảng thời gian thích hợp để người lao động có
thể nghỉ ngơi, thư giãn sau và trong khi làm việc.
Nhà nước cũng nên có những chính sách phù hợp về tiền lương dành cho người lao động,
lực lượng lao động là lực lượng chính để đưa đất nước tới những mục tiêu đề ra, do đó
phải có những khoản thù lao xứng đáng với công sức họ bỏ ra, tăng tiền lương ở mức hợp
lý để tránh tình trạng tiền lương thực tế thì tăng song mọi nhu cầu thì vẫn thiếu, đặc biệt
trong những trường hợp làm pháp xảy ra.
Ngoài ra cũng cần tổ chức những buổi hội thảo dành cho người lao động về vấn đề lao
động và ý thức trách nhiệm, tác phong công nghiệp để họ có thể thấy được vai trò của
mình đối nền công nghiệp và với quốc gia, để họ thấy được những khuyết điểm, thiếu sót
còn tồn tại để họ tự hoàn thiện mình.
2. Xây dựng các chương trình đào tạo nguồn lao động một cách hợp lý, hiệu quả
Phát triển kinh tế nhanh và bền vững đặt nền tảng trên chủ trương, chính sách phù
hợp với các bước phát triển của nền kinh tế, xây dựng kế hoạch và thực hiện các mục tiêu
đúng với kế hoạch đã được đề ra. Việc đào tạo thích ứng nguồn nhân lực là một yếu tố
quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vì nó tạo ra con người có đủ trình độ, khả
năng phù hợp với một công việc nhất định được xã hội phân công, giao phó. Các cơ sở
giáo dục, đào tạo là nơi thực hiện nhiệm vụ cung ứng cho xã hội những con người có đủ
phẩm chất, trình độ nghề nghiệp đáp ứng được yêu cầu của công việc cụ thể, trong đó các
46
trường đại học, cao đẳng nắm vai trò đào tạo con người ở trình độ cao có thể hoàn thành
một công việc theo yêu cầu, đồng thời nghiên cứu đề ra phương án tối ưu để thực hiện
công việc hiệu quả hơn.
Đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo dù ở cấp độ nào cơ sở giáo dục, đào tạo cũng
giữ một vai trò quan trọng vì nó cung ứng cho xã hội nguồn nhân lực phục vụ cho phát
triển kinh tế, mà sự phát triển kinh tế xảy ra ở mọi bộ phận, mọi khâu của nền kinh tế đó
từ mức độ thấp đến cao. Như vậy vấn đề đặt ra là một nhà trường trong một thời gian,
một giai đoạn cụ thể phải đào tạo những ngành nghề gì? Trình độ nào? Số lượng bao
nhiêu là phù hợp? Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng là đào tạo những chuyên
ngành hẹp nào để đáp ứng đúng với nhu cầu của từng doanh nghiệp cụ thể, chuyên môn
sâu nào để đi vào nền kinh tế hiện tại một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Để xác
định nhiệm vụ đào tạo cơ sở giáo dục, đào tạo tìm hiểu rõ nhu cầu của địa phương, của
vùng và rộng hơn là của cả nước, thậm chí của khu vực- vì rằng học sinh, sinh viên tốt
nghiệp có thể tìm việc làm ở bất cứ nơi nào có nhu cầu chứ không phải chỉ ở địa phương
nơi được đào tạo và cũng vì khi hội nhập kinh tế thế giới thì việc làm có thể đến với
người lao động bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu- khu vực nhà nước, liên doanh, tư
nhân,…Như vậy đào tạo phải đáp ứng đúng với nhu cầu của xã hội, đáp ứng đúng với
yêu cầu cụ thể của nguồn nhân lực, nghĩa là liên quan đến số lượng và chất lượng.
-Tìm hiểu nhu cầu nhân lực:
Để chuẩn bị cho việc tuyển sinh trước tiên và tối cần thiết các cơ sở giáo dục, đào
tạo phải biết rõ nhu cầu trước mắt và trong tương lai về nguồn nhân lực, đặc biệt là ngành
nghề nào có thể phát triển lâu dài ở địa phương, trong cả nước. Như vậy công tác điều tra,
nghiên cứu nhu cầu về ngành nghề, trình độ, số lượng nguồn nhân lực là điều không thể
bỏ qua. Việc sử dụng kết quả điều tra, thống kê của các cơ quan chức năng của tỉnh tạo
điều kiện cho nhà trường có cái nhìn đúng và xa về nhiệm vụ hiện tại và tương lai.
Những năm qua trường Đại học Tiền Giang đã nhiều lần liên hệ mời các doanh nghiệp
đến giao lưu với học sinh, sinh viên. Tuy nhiên với thời gian ngắn ngũi, thường là trong
một buổi các doanh nghiệp chỉ làm được việc giới thiệu sơ nét về tổ chức, hoạt động và
rất ít khi về nhu cầu nhân sự của doanh nghiệp, nhất là yêu cầu cụ thể về nghề nghiệp đối
với ứng viên dự tuyển. Muốn hiểu rõ yêu cầu tuyển dụng, để tìm việc làm học sinh, sinh
viên phải theo dõi các thông báo tuyển dụng, hoặc phải đến liên hệ trực tiếp, hoặc nhờ
47
giới thiệu. Nói chung người sử dụng lao động chưa phổ biến trước kế hoạch tuyển dụng
lâu dài và người học chưa biết trước sau này khi tốt nghiệp mình sẽ vào làm việc ở đâu và
cụ thể sẽ làm gì.Thực tế cơ hội tuyển dụng từ các buổi giao lưu còn rất khiêm tốn.
- Đảm bảo chất lượng đào tạo:
Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả gắn liền hoạt động nhà trường với
hoạt động cơ quan, doanh nghiệp theo hướng liên kết đào tạo sẽ đạt kết quả cao nhất.Học
sinh, sinh viên ra trường tùy theo ngành nghề được đào tạo có thể tìm được việc làm
nhanh và phù hợp với yêu cầu sử dụng hoặc ngược lại. Trong một số các ngành được đào
tạo hiện nay, ngành sư phạm và sau đó là ngành kinh tế dễ được chấp nhận tuyển dụng và
không phải qua đào tạo lại, trong khi các ngành thuộc lãnh vực kỹ thuật, công nghệ lại có
yêu cầu về tuyển dụng nghiêm ngặt hơn vì nó đòi hỏi những con người thực hiện được
một công đoạn nào đó hoặc cã một quy trình sản xuất.Ở một vài ngành đào tạo sinh viên
có cơ hội đến các công ty , xí nghiệp để tham quan, thực tập nghề nghiệp. Điều này làm
cho sinh viên hiểu biết được phần nào về công việc mình có thể sẽ làm trong tương lai, có
ý tưởng để chọn nơi làm việc phù hợp với ngành học và nguyện vọng cá nhân. Các giảng
viên cũng có cơ hội tiếp xúc với các cán bộ kỹ thuật, lãnh đạo công ty để nắm bắt yêu cầu
về chuyên môn, nhu cầu về nhân sự từ đó chỉnh sửa chương trình đào tạo cho phù hợp
với thực tế.Tuy nhiên trong những năm qua nhà trường chưa thực hiện gắn kết chặt chẽ
với các doanh nghiệp để cùng thiết kế chương trình đào tạo, ít nhất là về vấn đề thực
hành. Bộ môn là nơi đầu tiên thiết kế chương trình dựa vào chương trình khung của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, tham khảo chương trình đào tạo của các trường khác. Tổ xây dựng
chương trình xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với quy định của Bộ và tình hình của địa
phương, không qua góp ý của doanh nghiệp hay điều tra các yêu cầu có liên quan đến
chuyên môn của doanh nghiệp. Do không nắm được yêu cầu cụ thể nên chương trình đào
tạo mang tính dàn trãi, đãm bảo sinh viên khi ra trường có thể xin được việc làm ở bất cứ
công ty nào thuộc lãnh vực được đào tạo, nhưng ngược lại không đáp ứng được đầy đủ
yêu cầu chuyên môn hẹp do công ty bố trí. Do đó người tuyển dụng vào phụ trách công
việc chuyên môn phải mất một thời gian để làm quen với công việc hoặc phải qua đào tạo
lại.
Việc đào tạo nguồn nhân lực nhất thiết phải nhắm vào nhu cầu về nhân lực. Người
học sau khi tốt nghiệp phải được sử dụng đúng chổ và ngược lại người sử dụng phải được
48
đáp ứng theo yêu cầu sử dụng. Mục tiêu đào tạo phải được xác định đúng, chương trình
đào tạo phải được thiết kế phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực, do đó cần có sự góp ý
rộng rãi.Thời gian qua chỉ tiêu tuyển sinh của từng ngành chưa thực sự dựa trên các kết
quả thăm dò nhu cầu của xã hội, việc xây dựng chương trình chưa đạt đến mức phù hợp
với thực tiễn xã hội. Tuyển sinh ngành nào có tính thuận lợi cho công tác đào tạo, ít tốn
kém, dễ thực hiện hoặc đáp ứng theo nguyện vọng của người học chứ không phải theo
nhu cầu nhân lực của xã hội, theo mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài. Do không có sự phù
hợp giữa đào tạo với nhu cầu nên việc bố trí việc làm có khó khăn và phần nào người lao
động phải chịu làm việc trái với ngành nghề.
Đào tạo nguồn nhân lực đến năm 2020 là kế hoạch đào tạo mang tính chất lâu dài,
do đó công tác làm kế hoạch là phức tạp, đòi hỏi sự chi ly và sự chính xác. Ở địa
phương, cơ quan chức năng dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của
địa phương để xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực cho địa phương, cho vùng. Để có thể
xây dựng được kế hoạch tương đối hoàn chỉnh cần có sự góp ý chỉnh sửa từ phía các cơ
quan có liên quan, các cơ sở giáo dục, đào tạo. Dựa trên kế hoạch của địa phương và kết
quả điều tra về nhu cầu nhân sự của các doanh nghiệp các cơ sở đào tạo lập kế hoạch cho
từng giai đoạn và từng năm. Kế hoạch này thể hiện sự thống nhất giữa cơ quan chức năng
nhà nước và các doanh nghiệp từ ngắn cho đến dài hạn, có ảnh hưởng tác động qua lại
giữa kế hoạch tổng thể của nhà nước và kế hoạch của doanh nghiệp. Nhà nước đưa ra
phương hướng phát triển chung để doanh nghiệp có phương hướng phát triển phù hợp, và
ngược lại từ kế hoạch phát triển của doanh nghiệp nhà nước hoàn chỉnh kế hoạch phù
hợp với tình hình thực tiễn. Trường học là nơi nắm bắt kế hoạch phát triển của nhà nước
và của cả doanh nghiệp để đề ra mục tiêu, kế hoạch , phương thức đào tạo hợp lý. Khi nói
đến nguồn nhân lực là nói đến nguồn nhân lực lãnh đạo và nguồn nhân lực làm chuyên
môn, do đó kế hoạch đào tạo phải đáp ứng đầy đủ cả hai nguồn nhân lực này. Kế hoạch
đào tạo phải được xây dựng dựa trên cơ sở vật chất, phương tiện, điều kiện kỹ thuật hiện
có và khả năng sẽ có trong tương lai, nghĩa là kế hoạch đào tạo nhân lực đi đôi với kế
hoạch phát triển về cơ sở vật chất, kế hoạch bồi dưỡng nguồn nhân lực nội tại của nhà
trường. Trong đào tạo chú ý đến cả hai mặt số lượng và chất lượng, với chất lượng là
quan trọng hàng đầu. Sản phẩm đào tạo có chất lượng được sử dụng đúng với yêu cầu
của nhà tuyển dụng, không mất chi phí đào tạo lại, tạo uy tín cho thương hiệu của nhà
49
trường. Để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện tại, nhà trường áp dụng
hình thức đào tạo theo hướng liên thông vừa có tính giai đoạn vừa có tính lâu dài; nhà
trường chủ động tìm cơ hội liên kết với các doanh nghiệp để hoàn thiện chương trình đào
tạo, tìm các nguồn đào tạo theo đơn đặt hàng, thực hiện nhiệm vụ một cách năng động,
uyển chuyển và hiệu quả cao.
Nói chung, muốn thực hiện phát triển kinh tế nhất thiết phải có những điều kiện
cần thiết phục vụ cho phát triển, trong đó có nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu. Việc
lên kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực phải được đồng xây dựng bởi cơ quan chức năng
nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp, trong đó cơ quan chức năng nắm vai trò chủ đạo
xây dựng kế hoạch lâu dài, nhà trường đóng góp bằng kế hoạch ngắn hạn và cụ thể,
doanh nghiệp đóng góp qua góp ý, thỏa thuận hoặc cam kết sử dụng nhân lực trong tương
lai.
3. Xây dựng các đường lối hợp lý cho việc sử dụng nguồn nhân lực ở nông thôn.
a, Xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lý
Xây dụng một cơ cấu kinh tế hợp lý chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với việc
phát triển kinh tế cả nước mà còn có ý nghĩa đối với việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn
lao động xã hội, trong đó có lao động nông thôn. Trong điều kiện nước ta lao động nông
thôn còn chiếm tỷ trọng lớn, thì việc sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động nông thôn
càng phải được thực hiện trong mối quan hệ hữu cơ với việc phát triển các ngành kinh tế
quốc dân khác để hình thành cơ cấu phân công lao động mới nhằm thực hiện cơ cấu kinh
tế hợp lý. Mở rộng và phát triển các ngành kinh tế quốc dân: Công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, giao thông , thương mại và dịch vụ… là để mở rộng địa bàn sản xuất, thu
hút mọi người có khả năng lao động trong nông thôn.
Việc phân phối sức lao động giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế quốc dân khác phải
đảm bảo cho nông nghiệp cả về số lượng và chất lượng một cơ cấu lao động hợp lý đủ
cho nông nghiệp phát triển theo đúng định hướng chủ nghĩa xã hội. Việc rút bớt lao động
trong nông nghiệp chuyển sang các ngành kinh tế khác là tùy thuộc và nâng cao năng
suất lao động nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế của đất nước phải gắn liền với việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Trong khi đó ở nhiều địa phương hiện nay cơ cấu sản xuất nông nghiệp vẫn còn mang
năng tính tự cung tự cấp, trong đó trồng trọt vẫn là chủ yếu, chăn nuôi chỉ chiếm tỷ trọng
50
nhỏ ( ở các địa phương này tỷ trọng trong chăn nuôi thường không quá 20% giá trị sản
xuất nông nghiệp).Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng trên sẽ tạo điều kiện khai
thác đầy đủ hơn các nguồn lực phát triển của từng địa phương, trong đó có nguồn lực lao
động để phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Việc cơ cấu và phân bổ hợp lý nguồn lao
động trong các vùng kinh tế cũng cần được quan tâm,. Thực hiện việc phân bổ lao động
đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ lao động với các nguồn tài nguyên và tư liêu sẵn có trong
từng vùng khác nhau trên phạm vi cả nước để khai thác có hiệu quả tiềm năng đó, tạo ra
nhiều ngành mới , nhiều vùng chuyên môn hóa kết hợp với phát triển tổng hợp, làm cho
nền kinh tế cả nước phát triển một cách đồng đều.
Thực hiện việc phân bổ lao động đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ lao động với các
nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong nội bộ địa
phương mình. Đồng thời phải chú ý điều chỉnh sức lao động giữa các vùng hợp lý hơn.
Để thực hiện được việc đó thì yêu cầu trước hết đối với từng tỉnh, từng vùng phải nắm
chắc nhân lực và nhu cầu lao động. Dân số là cơ sở của nguồn nhân lực. Vì vậy, kế hoạch
hóa nguồn nhân lực phải gắn liền với kế hoạch hóa dân số. Trong khi dân số tăng lên khá
nhanh, thu nhập quốc dân bình quân đầu người còn thấp, vì vậy phải thực hiện kế hoạch
hóa dân số và coi đó là cuộc vận động lớn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, xã hội.
b, Phát triển công nghiệp nông thôn bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, phát triển dịch
vụ nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực, phát triển sản
xuất và nâng cao đời sống nông thôn.
Phát triển các ngành nghề ở nông thôn là để sản xuất nguyên liệu, công cụ sản
xuất, thực hiện chế biến, dịch vụ đời sống. vv.. Một bộ phận lao động nông nghiệp chưa
có việc làm có thể làm thêm dịch vụ trong các ngành khác. Trong việc phát triển ngành
nghề nông thôn cần phải tạo ra từng bước những người có nghề và hình thành các làng
nghề . Đẩy mạnh hơn nữa việc trang bị cho người lao động những tư liệu sản xuất cần
thiết, đảm bảo cả về số lượng và chủng loại công cụ sản xuất.
Bên cạnh đó nên khuyết khích và tạo điệu kiện để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( sử dụng từ 4-5 đến vài chục lao động)
có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn. Về thực chất các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu ra đời và hoạt động trên cơ sở kinh tế gia đình và tiểu chủ.
Đây là loại hình doanh nghiệp thích ứng rộng rãi trong nền kinh tế do có thể thay đổi linh
51
hoạt về phương hướng, quy mô sản xuất kinh doanh và ứng dụng công nghệ sản xuất…
Tính thích ứng rộng tạo khả năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đứng vững
trên thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với phương hướng sản xuất kinh doanh đa
dạng có thể phân bổ rộng khắp ở địa bàn nông thôn là một nguồn thu hút lao động tại chỗ
quan trọng, góp phần trong việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Trong
những năm tới, để góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, các địa phương
và cơ sở cần có các biện pháp khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh
doanh các ngành nghề, phi nông nghiệp và phát triển các loại hình trang trại nông thôn,
lâm, ngư nghiệp phù hợp với từng địa phương và cơ sở.
c, Phát triển dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ cho lao động nông thôn.
Hiện nay, theo kết quả điều tra nghiên cứu, số lao động trong nông nghiệp nông
thôn nước ta được đào tạo chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 8-9% trong tổng số lao
động nông thôn. Tuyệt đại bộ phận lao động trong nông nghiệp, nông thôn hoạt động sản
xuất kỹ thuật nhờ thế hệ cha ông truyền lại hoặc tích lũy qua hoạt động hoặc học hỏi trực
tiếp lẫn nhau. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn còn hạn chế là một
trong những nguyên nhân cản trở việc phát triển sản xuất kinh doanh trong nông thôn và
hạn chế sử dụng lao động trong nông thôn. Trong những năm tới, để giải quyết vấn để
việc làm cho người lao động nông thôn, cần coi trọng việc phát triển dạy nghề cho người
lao động nông thôn. Các hoạt động sản xuất kinh doanh có đối tượng sản xuất và phương
pháp sản xuất, công cụ sản xuất và kết quả sản xuất riêng thì được gọi là một nghề. Như
vậy, nghề trong nông thôn rất đa dạng, bao gồm các nghề trong nông nghiệp và các nghề
phi nôngn nghiệp. Vì vậy, mỗi địa phương cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa
phương mình, vào nhu cầu của địa phương mình, của vùng, và của toàn xã hội về sản
phẩm và dich vụ để cơ cấu nghề cần đạo tạo tại địa phương một cách phù hợp tay nghề
cho lao động để sử dụng có hiệu quả. Sự hình thành thị trường sức lao động trong nền
kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần được sự hướng dẫn bảo vệ của nhà nước và
pháp luật. Sự hình thành đó mở ra khả năng để người lao động tạo việc làm theo luật
định. Cần mở rộng hệ thống các trung tâm đào tạo và hình thành và phát triển các trung
tâm giới thiệu việc làm.
52
Nhà nước cần phải đổi mới và từng bước hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, hoàn
thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo giải phóng thực sự nguồn nhân lực. Trong đó chú ý
chính sách và luật về tự do kinh doanh, tự do lao động và tự do di chuyển lao động, góp
vốn và huy động vốn, quyền sử dụng đất đai, quyền thừa kế tài sản, thực hiện tốt hợp
đồng lao động và luật lao động của nước ta.
4. Một số biện pháp khác tác động đến thị trường lao động
a, Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế thị trường lao động
- Tạo hành lang pháp lý phù hợp, đảm bảo đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao
động và người lao động:
- Xây dựng Luật dạy nghề, Luật tiền lương tối thiểu, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Xuất
khẩu lao động, Pháp lệnh đình công; sửa đổi Bộ Luật Lao động; phê chuẩn các công ước
và khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về lao động, việc làm và thị trường
lao động; các thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế liên quan của Việt Nam trong hội nhập
- Tiếp tục cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của
chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về lao động
Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch; đơn giản các thủ tục hành chính trong cấp
phép cho người lao động nước ngoài, cho dịch vụ cung ứng xuất khẩu lao động; xây
dựng quan hệ lao động lành mạnh trong doanh nghiệp
b Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động:
- Quy hoạch hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm và các cơ sở giới thiệu việc làm; đầu
tư nâng cao năng lực các Trung tâm ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm, xây dựng 3
Trung tâm ở 3 vùng kinh tế trọng điểm đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực
- Đa dạng hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động: thông qua hội chợ việc làm,
các trang Web việc tìm người-người tìm việc, thông tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, ưu tiên các vùng kinh tế
trọng điểm, các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung, thu thập và phổ biến thông tin
thị trường lao động nhanh chóng, kịp thời.
c, Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước
53
- Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu lao động sang các khu vực, các nước phù hợp
với lao động Việt Nam.
- Mở hội chợ việc làm để cho người lao động trực tiếp tiếp cận với các thông tin tuyển
dụng và tìm được đúng ngành nghề lĩnh vực phù hợp.
- Lập cơ quan chuyên về xuất khẩu lao động để giảm dịch vụ “ma” bên ngoài thị trương
giúp lao động đỡ mất chi phí qua trung gian.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về xuất khẩu lao động, tập trung đào tạo
nghề cho xuất khẩu lao động, nâng cao tay nghề, ngoại ngữ, ý thức chấp hành pháp luật,
tác phong công nghiệp…
- Thực hiện mô hình “ba nhà” gắn kết giữa nhà tuyển dụng (doanh nghiệp xuất khẩu
lao động), nhà trường (cơ sở dạy nghề) và nhà nước (cơ quan quản lý về xuất khẩu lao
động) với nhau.
- Doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần bám sát, dự báo trước được nhu cầu thị trường lao
động nước ngoài về ngành nghề, trình độ cần đào tạo.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động phối hợp với Hiệp hội xuất khẩu
lao động Việt Nam tổng hợp, phân tích, dự báo từ nguồn thông tin của các doanh nghiệp
để xác định chỉ tiêu đào tạo và chuẩn bị nguồn lao động cho xuất khẩu.
- Các địa phương đã áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ đối với người lao động: tư vấn định
hướng học nghề, hỗ trợ chi phí học nghề, chi phí thủ tục…
IV. KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu ở trên chúng ta có thể thấy được Viêt Nam là một nước
có nguồn lao động khá dồi dào với rất nhiều lợi thế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, và hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Nguồn nhân lực từ nông thôn
Tính đến nay, số dân của cả nước là 84,156 triệu người1, trong đó, nông dân chiếm
khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Số liệu trên
đây phản ánh một thực tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã
hội. Theo các nguồn số liệu mà tôi thống kê được, hiện nay, cả nước có khoảng 113.700
trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề và 40% sản
54
phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước. Như vậy, so
với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác,
chưa được tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún.
Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ
cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng
dẫn cũng có thể làm được. ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân
trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn
chung, hiện có tới 90% lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông
thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân
còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn
còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu
quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp) chỉ là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nông
thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi
khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi
vào túi những ông có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách
đối với người nông dân.
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ
phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Tình
trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong
khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều.
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại. Nông dân
ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm; chất lượng lao động thấp, nhưng cho đến nay,
qua tìm hiểu, tôi thấy vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp chưa rõ ràng.
Nguồn nhân lực từ công nhân:
55
Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng dưới 5 triệu người,
chiếm 6% dân số của cả nước, trong đó, công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước
chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng khoảng 40% so với lực lượng công nhân
nói chung của cả nước; lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước có khoảng 2,70
triệu, chiếm gần 60%. Xu hướng chung là lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước
ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công
nhân nói chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công
nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm
khoảng 3,3% so với đội ngũ công nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu
lao động tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam
đã đưa được gần 375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ,
tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người). Hiện nay, lao động Việt Nam
làm việc tại nước ngoài có khoảng 500 nghìn người, làm việc tại trên 40 nước và vùng
lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề.
Vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm
thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công,
buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không
phải là công nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công
nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi
đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao,
khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ công nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với
tình hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực chất, công nhân Việt Nam chưa có địa
vị bằng trí thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã
hội và trong sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm
chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức:
56
Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí
thức Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao
đẳng phát triển nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7
nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005:
1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước
đến nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16
nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ;
52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ thạc sĩ
trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và
925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ
chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước
ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có
khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số
trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, 178
trường cao đẳng, 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả
nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học
sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ
học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn
chiếm rất thấp so với thế giới.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia
trung học phổ thông năm học 2007-2008. Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt
Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong
giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước. Nhà nước đã dành một khoản ngân
sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà
nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007. Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên
đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các
ngành của đất nước cũng tăng nhanh: Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành
xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42,
địa phương 12). Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và
hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng
chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in
57
ấn, tiếp thị quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí,
báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình. Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế
Việt Nam hiện có gần 39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người,
ngành kho bạc là 13.536 người.
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật
của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35
tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm
5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có
2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000
luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân). Trí thức, công chức, viên chức
trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.
Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra
trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, công
chức, viên chức còn quá yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn còn khoảng 80% số công
chức, viên chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn
của một công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học,
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra
trường chưa có việc làm, không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo
lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng
cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số
sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân
bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63%
số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất
nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó,
4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).Việt Nam có khoảng 2,6 triệu
người có trình độ đại học trở lên. Con số này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức
nước nhà.
58
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có công
chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có
tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân
hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế
Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.
Có thể thấy qua nội dung của để tài chúng ta thấy được rõ ràng thực trạng lớn của
nguồn lao động của Việt nam đó là nguồn lao động ở Việt Nam khá dồi dào, đặc biệt là
ở nhưng vùng nông thôn, vung đông dân cư nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức,
chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, còn đào tạo thì nửa vời, nhiều người chưa
được đào tạo, chất lượng nguồn lao động chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất, sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện mục
tiêu chung là xây dựng và bảo vệ đất nước. Những thực trạng này đã tồn tại trong nhiều
năm và vẫn đang là những rảo cản cản trở con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, vì vậy, trong những năm tới mục tiêu lớn nhất
trong cách chính sách và đường lối của nhà nước phải lấy con người làm trung tâm, lực
lượng lao động là hạt nhân chính để phát triển đất nước, có như vậy thì Việt Nam mới có
thể đạt được mục tiêu tiến lên xã hội chủ nghĩa vào những năm 2010-2020..
59
MỤC LỤC
Lời nói đầu……………………………………………………………………...1
I. Lý Thuyết về lao động và nguồn cung lao động
1 Một số khái niệm về lao động và nguồn cung lao động
1.1 Khái niệm về lao động……………………………………………………………………...2
1.2 Khái niệm về thị trường lao động……………………………………………………….…2
1.3 Khái niệm về nguồn cung lao động……………………………………………………..…3
1.4 Vai trò của nguồn lao động đối với phát triển xã hội…………………………………………...….3
2. Đặc điểm của nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay
2.1 Số lượng tăng nhanh nhưng chất lượng chưa đảm bảo…………………………………..5
2.2 Phần lớn lao động ở nông thôn…………………………………………………...……..…8
2.3 Còn một bộ phận lớn chưa được sử dụng…………………………………………….........9
3 Các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn cung lao động ở Việt Nam.
3.1 Dân số……………………………………………………………………………………….10
3.2 Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động…………………………………………………………10
3.3 Một số yếu tố khác ảnh hưởng tới chất lượng của cung lao động Việt Nam
- a, Giáo dục và trình độ lao động……………………………………………………10
- b, Sức khỏe người lao động…………………………………………………………11
- c, Yếu tố trách nhiệm và tác phong công nghiệp ………………………………..…12
II. Thực trang nguồn cung lao động ở Việt Nam hiện nay.
* Tổng quan về cơ cấu nguồn lao động ở Việt Nam giai đoạn 1990-2009
1. Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế…………………………………………….13
2. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế…………………………………………..……….15
3. Cơ cấu lao động theo loại hình doanh nghiệp………………………………………………16
4. Cơ câu lao động theo vùng thành thị và nông thôn……………………………………. …..17
5. Cơ cấu lao động theo vùng và lãnh thổ………………………………………………….......18
** Thực trạng chung về nguồn lao động Việt Nam
60
1. Tỷ lệ tham gia vào lao động giảm……………………………………………………..……..20
2. Tỷ lệ người trẻ tuổi trong lao động còn thấp…………………………………………...........21
3. Người lao động ở nông thôn giàu tiềm năng nhưng chưa được quan tâm đúng mức và sử
dụng hợp lý…………………………………………………………………………….………...22
4. Một số thực trạng khác về chất lượng thấp của nguồn cung lao động Việt Nam.
- a, Thực trang chất lương lao động theo trình độ học vấn và tay nghề……………...…..25
- b, Thực trạng chất lượng lao đông theo sức khỏe……………………………....……...28
- c, Thực trạng chất lượng lao động theo ý thức kỷ luật và tác phong
công nghiệp………………………………………………………………………….31
Nguyên nhân của những thực trạng trên
Nguyên nhân của tỷ lệ người lao động giảm……..…………………………………………….33
Nguyên nhân của sự chưa quan tâm và sử dụng hợp lý
nguồn lao động ở nông thôn………………………….………………………………………..34
Nguyên nhân thực trang chất lượng lao động thấp……………………………..............35
III. Biện pháp tăng cường nguồn cung lao động ở Việt Nam giai đoạn
2010-2020.
Đánh giá chung về nguồn lao động ở Việt Nam trong năm những năm 2010-
2020………………….……………………………………………………….….…37
Những định hướng cho phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2010-
2020………..…………………………………………………………………...…..40
* Các giải pháp tăng cường cho nguồn cung lao động ở Việt Nam giai đoạn
2010-2020
1. Nâng cao chất lượng của người lao động trong tương lai cả về tay nghề và sức
khỏe…………………………………………………………………………………………………….…42
2. Xây dựng các chương trình đào tạo nguồn
lao động một cách hợp lý, hiệu quả……………………………………….…………………………….45
3. Xây dựng các đường lối hợp lý cho việc sử dụng nguồn nhân lực ở nông thôn
a, Xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lý……………………………………………....…..49
b, Phát triển công nghiệp nông thôn bao gồm cả tiểu thủ công nghiệp, phát triển dịch vụ nông
thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực, phát triển sản xuất và nâng cao
đời sống nông thôn…………………………………………………………………….......50
61
c, Phát triển dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ
cho lao động nông thôn…………………………………………………………………….…... 51
4. Một số biện pháp khác tác động đến thị trường lao động
a, Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế thị trường lao động………………………………….…52
b Hoàn thiện hệ thống giao dịch của thị trường lao động……………………….……………...52
c, Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước……………..…….….….…….…..52
IV. Kết luận………………………………………………………………..……….53
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp tăng cường nguồn cung lao động Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020.pdf