Từ thực tiễn, thực hiện công tác quản lý Nhà nước về khiếu nại và tình
hình khiếu nại tại địa bàn thành phố Quảng Ngãi những năm vừa qua cho
thấy, tình hình KNTC của công dân với số lượng đơn, số lượng vụ việc, số
lượng người tham gia có chiều hướng giảm hơn, nhưng tính chất: phức tạp,
gay gắt, đông người, vượt cấp, trở thành điểm nóng còn nhiều tiềm ẩn và chứa
đựng nguy cơ. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu nại chiếm trên 80%,
để thực hiện tốt công tác tiếp dân, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại trong
thời gian tới cần thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu như sau:
Nâng cao chất lượng quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại; cần chủ
động chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới;
phát huy tối đa hiệu quả việc đối thoại, gặp gỡ, trao đổi với người khiếu nại,
đặc biệt là đối với các vụ việc đông người, phức tạp, gay gắt.
Đề cao vai trò vận động, thuyết phục của các tổ chức chính trị - xã hội,
nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức là thành viên của Mặt trận.
Quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, theo hướng chuyên nghiệp, ổn định; chú trọng
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác tiếp công dân, xử
lý đơn thư, giải quyết khiếu nại; đồng thời, tăng cường công tác quy hoạch,
tuyển chọn cán bộ và có chính sách đãi ngộ thoả đáng, phù hợp với điều kiện
đặc thù của công tác này.
Triển khai có hiệu quả công tác cải cách hành chính trong giải quyết khiếu
nại, nhất là cải cách thủ tục hành chính, chú trọng việc ứng dụng rộng rãi công
nghệ thông tin. Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan
khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo đáp ứng yêu
cầu chỉ đạo, điều hành công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.83
Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải
quyết khiếu nại.
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, để nâng
cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại, của cán bộ, nhân dân (tập trung ở khu
vực xã, thị trấn), nhất là những điểm mới theo tinh thần Luật Khiếu nại và
Luật Tiếp công dân, Luật Đất đai.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng công tác giải quyết khiếu
nại, từ việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật tới việc tổ chức
thưc hiện những hoạt động trong lĩnh vực này và xác định giải quyết khiếu
nại, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy mà UBND các
cấp có vai trò hết sức quan trọng trong việc triển khai công tác giải quyết
khiếu nại, thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; Làm tốt công tác giải quyết
khiếu nại, một mặt để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo
đảm để pháp luật được thực hiện nghiêm minh, mặt khác sẽ góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tác
giả hy vọng rằng một số vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn
cũng như về kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong công tác giải quyết
khiếu nại, như đã trình bày trong Luận văn sẽ góp phần nâng cao công tác giải
quyết khiếu nại tại thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới; đồng thời là tài
liệu hữu ích để cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công tác giải quyết
khiếu nại, trong toàn thành phố cùng tham khảo vận dụng khi thực hiện công
vụ được giao.
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 546 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết khiếu nại - Từ thực tiễn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để gây áp lực vẫn diễn ra. Ở một số nơi thu hồi đất, bồi thường, tái định cư để
phục vụ các công trình, dự án lớn khi đời sống của người dân có đất bị thu hồi
gặp khó khăn sau khi được tái định cư, lại bị các phần tử xấu xúi giục, kích
động, có thể phát sinh khiếu kiện quy mô lớn, có dấu hiệu phức tạp.
Về nhận thức phải coi công tác giải quyết khiếu nại về đất đai là một
nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của chính quyền các cấp
trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, nhằm bảo đảm quyền lợi của
61
công dân và góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế- xã hội.
Đề cao trách nhiệm, xác định công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ
huyện đến cơ sở. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết khiếu
nại đất đai; phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của
chính quyền, sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tổ chức tốt công tác tiếp dân, triển khai thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ
Đề án đổi mới công tác tiếp công dân theo Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày
14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Chủ tịch UBND các cấp trong huyện,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp dân,
thực sự “gần dân, hiểu dân” để làm tốt chức năng quản lý nhà nước, kịp thời
giải quyết đúng chính sách, pháp luật những phản ánh, khiếu nại đất đai của
nhân dân.
Tăng cường công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện chính sách,
pháp luật; chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nhà nước trong lĩnh vực
quản lý, sử dụng đất đai nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo. Khi phát
sinh khiếu nại đất đai, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét giải quyết
kịp thời, đúng quy định của pháp luật, đồng thời xác định nguyên nhân phát
sinh khiếu nại, tố cáo để có biện pháp chấn chỉnh những tồn tại trong quản lý
nhà nước, xử lý những cán bộ có hành vi vi phạm, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết những bất cập của chính sách, pháp luật.
3.1.2. Giải quyết khiếu nại nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân
Giải quyết khiếu nại qua thực tiễn từ thành phố Quảng ngãi trong thời
gian qua về cơ bản đã đảm bảo được quyền khiếu nại, lợi ích hợp pháp của
62
công dân, đảm bảo được lợi ích Nhà nước - xã hội. Khiếu nại là một trong
những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 và
nhiều văn bản pháp luật khác như đã trình bày ở chương 1. Giải quyết khiếu
nại là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, việc giải quyết tốt các khiếu nại
thực chất là đã đảm bảo được quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Mọi khiếu nại đều được cơ quan Nhà nước tiếp nhận, giải quyết kịp thời,
đúng pháp luật, mọi hành vi thiếu trách nhiệm hay cản trở, vi phạm pháp luật
trong giải quyết khiếu nại đều phải xử lý nghiêm. Cơ quan Nhà nước, cán bộ,
công chức gây thiệt hại cho công dân trong khi thực hiện giải quyết khiếu nại
phải bồi thường. Các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức phải nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong việc giải quyết các khiếu nại và thông qua việc giải
quyết khiếu nại góp phần thực hiện dân chủ, công bằng xã hội.
Đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại bởi cơ quan Nhà nước, đòi hỏi phải
tăng cường vai trò cơ quan thanh tra trong công tác giải quyết khiếu nại, kiểm
tra việc chấp hành pháp luật về giải quyết khiếu nại của các cơ quan Nhà
nước.
3.1.3. Tổ chức thi hành nghiêm túc, triệt để các quyết định giải quyết khiếu
nại đã có hiệu lực pháp luật
UBND thành phố ban hành Kế hoạch số 120/KH-UBND ngày
31/12/2015; Công văn số 577/UBND ngày 07/3/2016 chỉ đạo, đôn đốc các cơ
quan chuyên môn, UBND các xã, phường nghiêm túc triển khai thực hiện các
quyết định giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thuộc
trách nhiệm của UBND thành phố. Định kỳ, Chủ tịch UBND thành phố chủ
trì tổ chức Hội nghị trực báo các cơ quan để kiểm tra tiến độ, xử lý vướng
mắc và chỉ đạo thực hiện các bước tiếp theo. Chủ tịch UBND thành phố xây
dựng kế hoạch, chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan chuyên môn, UBND các xã,
63
phường nghiêm túc triển khai thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại
của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh, thuộc trách nhiệm của UBND thành
phố, để thực hiện dứt điểm các vụ việc khiếu nại đã có hiệu lực.
3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Nâng cao nhận thức về quyền khiếu nại và trách nhiệm của Nhà
nước trong giải quyết khiếu nại
Qua thực tiễn về khiếu nại, giải quyết khiếu nại tại thành phố Quảng
Ngãi, vấn đề đặt ra đối với cơ quan Nhà nước cần phải tiếp tục nâng cao nhận
thức về quyền khiếu nại, bảo đảm về quyền khiếu nại và trách nhiệm trong
việc giải quyết khiếu nại phải đúng đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước như sau:
Quyền khiếu nại là quyền tối thiếu mà con người có để tự vệ, là hình
thức quan hệ bình đẳng giữa công dân với Nhà nước trong Nhà nước pháp
quyền là một trong những biểu hiện quyền cơ bản của công dân, thể hiện khả
năng công dân yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét các quyết
định, hành vi trong các trường hợp mà họ cho rằng đã bị cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước xâm hại quyền lợi ích hợp pháp
của mình.
Quyền khiếu nại gắn liền với bản chất của nhà nước và pháp luật.
Quyền khiếu nại là quyền dân chủ. Thực tế, không có công cụ phương tiện
nào có được các lợi thế như pháp luật trong việc tổ chức, quản lý xã hội cũng
như trong vấn đề thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Quyền khiếu nại của công dân gắn liền với mối quan hệ giữa công dân
và Nhà nước trong thực thi quyền lực nhà nước, chỉ được thừa nhận và bảo
đảm thực hiện khi có sự hiện diện của chế độ dân chủ. Vì vậy, quyền khiếu
nại thường được ghi nhận trong Hiến pháp.
64
Ngày nay, tính chính trị của quyền khiếu nại không chỉ thể hiện trong
phạm vi quốc gia mà còn được ghi nhận và bảo đảm trong quan hệ quốc tế.
Với đặc điểm nói trên, ý nghĩa của quyền khiếu nại được thể hiện trên hai
phương diện:
Thứ nhất, thực hiện quyền khiếu nại là phương thức để công dân bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân là nguyên tắc quan trọng nhất trong bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân. Thực hiện quyền khiếu nại là việc công dân yêu cầu
cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức của nhà
nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các quyết định, hành vi
của họ.
Thứ hai, thực hiện quyền khiếu nại là phương thức công dân tham gia
vào quản lý nhà nước, giám sát việc thực thi pháp luật. Để quyền lực nhà
nước vận hành đúng quỹ đạo phục vụ nhân dân thì đòi hỏi phải được đặt trong
sự kiểm soát chặt chẽ. Trong hệ thống kiểm soát đó, giám sát của công dân
thông qua thực hiện quyền khiếu nại là một hình thức giám sát rất quan trọng
bởi lẽ sự chế ngự quyền lực cũng có thể được thực hiện bởi nhân dân mà biểu
hiện ở nhiều hình thức như nhân dân tham gia giám sát các cơ quan nhà nước
và bãi miễn các quan chức lạm quyền, khởi kiện cơ quan nhà nước.
Trên bình diện khác, tình hình khiếu nại, khiếu kiện còn phản ánh một
phần thực trạng hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là việc thực
hiện nhiệm vụ công vụ của các cơ quan thi hành pháp luật. Khiếu nại là kênh
thông tin phản hồi của nhân dân về những vấn đề khiếm khuyết của cơ chế,
chính sách để Nhà nước xem xét, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp, giúp cho
công tác quản lý Nhà nước hiệu quả hơn. Ngoài ra, thông qua hoạt động giải
quyết các khiếu nại các cơ quan cấp trên có điều kiện kiểm tra, giám sát, đánh
giá hoạt động quản lý của cơ quan cấp dưới nhằm quản lý, kịp thời khắc phục
65
những yếu kém và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong thực thi pháp luật,
góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Cần phải tăng cường nhận thức như đã nêu ở trên và cần tạo ra các bảo
đảm cho quyền khiếu nại như sau:
- Bảo đảm kinh tế nói chung là tổng thể các yếu tố vật chất để công dân
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Kinh tế là nền tảng quyết định sự phát
triển và tác động mạnh đến sự ổn định chính trị, xã hội và điều kiện thụ hưởng
của mỗi con người, vì vậy bảo đảm kinh tế là một trong những bảo đảm quan
trọng để công dân thực hiện quyền khiếu nại.
- Bảo đảm xã hội là các yếu tố xã hội, bao gồm cả những yếu tố văn
hóa, đạo đức và tư tưởng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo đảm thực hiện
quyền khiếu nại của công dân. Biểu hiện ra bên ngoài của bảo đảm về xã hội
rất phong phú, đa dạng. Đó là tinh thần đoàn kết trong xã hội, mối quan hệ về
lợi ích trong cộng đồng, ý thức pháp luật, trình độ dân trí, thói quen, phong
tục, tập quán, sự hỗ trợ, chia sẻ của các thành viên trong xã hội...Những yếu
tố này vừa là những tiền đề xác lập quyền công dân, trong đó có quyền khiếu
nại vừa tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện các quyền đó.
- Đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và chịu trách nhiệm của cơ
quan nhà nước trong giải quyết khiếu nại của công dân. Công khai, minh bạch
các thủ tục giải quyết khiếu nại thể hiện quyền tiếp cận, quyền được biết và
quyền giám sát các công việc cơ quan nhà nước thực hiện trong quá trình giải
quyết khiếu nại theo quy định. Khi phát hiện ra những việc mà cơ quan nhà
nước thực hiện không đúng thì công dân có quyền kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để yêu cầu người đó phải chấm dứt hành vi sai phạm
hoặc xử lý theo quy định của pháp luật.
- Quy trình giải quyết khiếu nại phải thuận tiện cho người khiếu nại:
Quy trình giải quyết khiếu nại không chỉ là cách thức để các cơ quan nhà
66
nước giải quyết khiếu nại mà còn là con đường để công dân thực hiện quyền
khiếu nại của mình. Do vậy, quy trình giải quyết khiếu nại phải được diễn đạt
một cách rõ ràng, phổ thông để mọi cơ quan nhà nước, mọi công dân đều có
thể hiểu và thực hiện giống nhau. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để
cho người dân tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu; phải có hình thức giáo dục,
tuyên truyền để cho công dân biết và thực hiện theo; cần tạo mọi điều kiện để
công dân thực hiện các quyền trong quá trình các cơ quan nhà nước giải quyết
khiếu nại của họ. Giúp người dân giám sát được các tiến độ cũng như các hoạt
động giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước, từ đó tránh tình trạng công
dân khiếu kiện vượt cấp, trùng lắp, kéo dài.
3.2.2. Tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung pháp luật về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại
Cần nhận thức rằng biểu hiện rõ nét nhất thẩm quyền của các cơ quan
bảo hiến trên thế giới là quy định về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện
hiến pháp của công dân khi họ cho rằng quyền cơ bản, quyền hiến định của
mình bị xâm phạm bởi quyết định hoặc hành vi của các cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Hoàn thiện thủ tục xem xét lại
quyết định, hành vi đó cần tập trung vào các nội dung:
Thứ nhất, thống nhất xác định rằng thủ tục giải quyết khiếu nại chỉ là
thủ tục xem xét lại các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước. Thủ tục cần được thiết lập đơn giản
hơn, có thể được thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Luật Khiếu nại không nên
quy định các thời hạn thụ lý, thời hạn giải quyết dài như hiện nay mà cần phải
rút gọn lại để bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của công dân, bởi lẽ thời
hiệu khởi kiện đã được giới hạn trong Luật Tố tụng hành chính. Bên cạnh đó,
cần phân loại các khiếu nại đối với các quyết định, hành vi trong các lĩnh vực
khác nhau để xác định thời hạn thụ lý và giải quyết phù hợp với đặc điểm,
67
tính chất của từng lĩnh vực. Ví dụ, phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường thì
thời hạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, quản
lý thị trường... phải được quy định ngắn hơn so với thời hạn giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực đất đai.
Thứ hai, quyết định và hành vi có rất nhiều điểm khác biệt, vì vậy, cần
phân biệt rõ hơn trình tự, thủ tục và thời hạn thụ lý, giải quyết khiếu nại đối
với hành vi và giải quyết khiếu nại đối với quyết định. Thời hạn giải quyết
khiếu nại đối với quyết định nên được quy định như hiện nay nhưng thời hạn
giải quyết khiếu nại đối với hành vi nên rút ngắn hơn, chỉ khoảng 10 đến 15
ngày là phù hợp. Mặt khác, trong thủ tục giải quyết khiếu nại đối với hành vi
cần tăng cường đối thoại giữa người khiếu nại và người thực hiện hành vi.
Trong quyết định giải quyết khiếu nại phải bảo đảm giải thích rõ nội dung
khiếu nại và quan điểm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải
quyết.
Thứ ba, Có quy định cụ thể về chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm các
quy định về hình thức giải quyết khiếu nại, thủ tục thụ lý đơn khiếu
nại,...tránh tình trạng người giải quyết khiếu nại nhận đơn khiếu nại nhưng
không ghi vào sổ nhận đơn, cố tình không thụ lý đơn khiếu nại khi đã đủ điều
kiện, thụ lý nhưng không thông báo bằng văn bản cho đương sự hoặc có
thông báo nhưng không đúng thời hạn luật định, người giải quyết khiếu nại
không ra quyết định bằng văn bản mà chỉ ra thông báo, công văn để giải quyết
khiếu nại làm cho văn bản giải quyết khiếu nại không mang tính pháp lý bắt
buộc các đối tượng phải thi hành...
Để hạn chế tình trạng người khiếu nại gửi đơn đến nhiều cấp, nhiều
ngành hoặc cố tình khiếu nại dai dẳng, không chấp hành quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật, đề nghị bổ sung thêm nghĩa vụ của người
khiếu nại, người bị khiếu nại đó là: người khiếu nại phải có nghĩa vụ nộp tạm
68
ứng phí khiếu nại, nếu khiếu nại đúng thì được hoàn trả lại phí và người ban
hành quyết định hành chính sai, có hành vi hành chính sai phải chịu phí và
ngược lại nếu khiếu nại sai thì phải chịu lệ phí (áp dụng như với lệ phí Toà
án). Cần quy định chặt chẽ hơn về biện pháp đảm bảo thi hành quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, cụ thể là có thời hạn tự nguyện chấp
hành quyết định giải quyết khiếu nại; sau thời hạn đó, nếu không thực hiện sẽ
áp dụng biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật với các lý do không chấp
hành các quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ tư, bổ sung nội dung quy định về quyền khiếu nại đối với quyết
định, hành vi của các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện quyền trong Luật
Khiếu nại. Hiện nay, việc giao cho Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác
ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại trong các cơ
quan, tổ chức như quy định tại Điều 3 Luật Khiếu nại 2011 là chưa thống nhất
với Luật Tố tụng hành chính. Đồng thời, trình tự, thủ tục thụ lý và giải quyết
các khiếu nại trong đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, Tòa án
nhân dân tốỉ cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn
phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước và các cơ quan khác của Nhà
nước cần được quy định đơn giản hơn, thời hạn giải quyết ngắn hơn so với
giải quyết khiếu nại hành chính trong cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu
nại đối với trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về cùng một nội dung.
Luật Khiếu nại năm 2011 mới chỉ quy định hình thức khiếu nại trong trường
hợp nhiều người khiếu nại về một nội dung (Điều 8) và không có quy định
việc thụ lý, giải quyết trong trường hợp này. Do đó, trong thời gian tới cần bổ
sung trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc khiếu nại nhiều người về cùng một
nội dung và áp dụng thủ tục nhập vụ việc khiếu nại, quy định việc áp dụng
viện dẫn kết quả giải quyết khiếu nại trước đó để giải quyết các vụ việc khiếu
69
nại có nhiều người khiếu nại về cùng một nội dung nhưng thực hiện việc
khiếu nại trong những thời điểm khác nhau.
Thứ sáu, bảo đảm sự thông suốt giữa công tác tiếp công dân, xử lý đơn
thư với hoạt động giải quyết khiếu nại, về tổ chức, chỉ nên thành lập mô hình
tổ chức tiếp công dân phi tập trung, không thành lập Trụ sở tiếp công dân
chung của các cơ quan Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương như
hiện nay. Công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư được cần xác định rõ là
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị và thủ trưởng phải thực
hiện trách nhiệm trực tiếp tiếp công dân theo định kỳ.
Thứ bảy, hoàn thiện thủ tục thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có
hiệu lực pháp luật theo hướng nếu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước không thi hành quyết định giải quyết
khiếu nại có hiệu lực pháp luật thì công dân có quyền khởi kiện ra tòa án.
Người nào bị thiệt hại do quyết định giải quyết khiếu nại không được thi hành
sẽ được bồi thường. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thi hành quyết định giải
quyết khiếu nại ngoài việc xem xét, xử lý trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm
người đứng đầu còn có thể bị xử phạt.
Thứ tám, tăng cường thẩm quyền cho cơ quan thanh tra trong giải quyết
các khiếu nại hành chính. Hiện nay, việc tham mưu cho thủ trưởng cơ quan
hành chính trong giải quyết khiếu nại hành chính chủ yếu do cơ quan thanh
tra thực hiện. Tuy nhiên, do cơ quan thanh tra chỉ là cơ quan tham mưu, vì
vậy, kết luận thanh tra và kết quả đôn đốc thực hiện quyết định giải quyết
khiếu nại hành chính có hiệu lực pháp luật của cơ quan thanh tra phụ thuộc rất
lớn vào thủ trưởng cơ quan hành chính. Để bảo đảm việc xem xét lại các
quyết định hành chính, hành vi hành chính khách quan, chính xác và kịp thời,
cần tăng thẩm quyền cho cơ quan thanh tra trong giải quyết khiếu nại hành
chính, có cơ chế giải trình sự khác biệt giữa quyết định giải quyết khiếu nại
70
hành chính với kết luận thanh tra trên cơ sở quy định rõ giá trị của kết luận
thanh tra về nội dung khiếu nại hành chính.
Ngoài ra, để bảo đảm thực hiện giải quyết khiếu nại, cần có trình tự, thủ
tục để cơ quan quản lý, người có thẩm quyền giải trình với công dân trước khi
ban hành quyết định hoặc trong quá trình thực hiện hành vi, đặc biệt là phải
thông báo trước và gặp gỡ, trao đổi với công dân trước khi ban hành quyết
định. Thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền sẽ giúp công dân tiếp cận được đầy đủ hơn những thông tin liên quan
đến việc ban hành quyết định và việc thực hiện hành vi, từ đó công dân xác
định rõ căn cứ thực hiện quyền của mình cũng như nhận thức đúng về nội
dung giải quyết khiếu nại.
Thứ chín, trước tình hình khiếu nại hành chính liên quan đến việc thu
hồi đất phục vụ các dự án hiện nay, cần thiết quy định phải thành lập trong
các ban quản lý dự án bộ phận làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, tiếp nhận ý
kiến và đối thoại với công dân trong việc thực hiện dự án. Việc hình thành các
bộ phận này vừa góp phần tăng cường tính minh bạch trong thực hiện các dự
án, vừa giúp củng cố hồ sơ khi giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện hành
chính.
3.2.3. Minh bạch hóa quá trình giải quyết khiếu nại
Trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận quyền khiếu nại
với tư cách là các quyền chính trị quan trọng của công dân, do vậy cần quan
tâm nội dung nhằm nâng cao, bảo vệ quyền khiếu nại của người dân:
Cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức đầy đủ, chính xác: Tiếp cận
thông tin là phương tiện để nhân dân giám sát hoạt động của Nhà nước. Công
khai thông tin sẽ làm tăng sự tin tưởng của nhân dân vào Nhà nước, giảm
khiếu nại, tố cáo khi chưa đủ căn cứ. Thông tin được công khai, minh bạch,
mọi người được tự do tiếp cận không chỉ tạo cơ sở để nhân dân, xã hội giám
71
sát đối với bộ máy nhà nước, đối với việc thực thi công vụ của cán bộ, công
chức, mà quan trọng hơn nó tạo niềm tin của nhân dân vào chủ trương, cơ
chế, chính sách đổi mới của Nhà nước. Tình trạng đóng dấu mật tràn lan,
không đúng theo danh mục, quy định của Nhà nước đã gây khó khăn cho
công dân khi thực hiện các quyền của mình, nhất là giám sát hoạt động của cơ
quan, tổ chức (thông qua khiếu nại). Do pháp luật hiện hành còn thiếu các quy
định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc công khai
thông tin do mình nắm giữ cũng như minh bạch hóa hoạt động của các cơ
quan nhà nước, quyền được thông tin của công dân gặp vướng mắc khi thực
hiện.
3.2.4. Nâng cao năng lực thực thi, trách nhiệm công vụ của chủ thể có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) ở các
cơ quan, đơn vị, địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng động và
sáng tạo; hăng hái thực hiện đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước. Trình độ kiến thức và năng lực công tác ngày càng được
nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức
đã có những đóng góp quan trọng trong việc đạt được những thành tựu về
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trong thời gian qua. Tuy nhiên, trong
thực tế ở thành phố Quảng Ngãi vẫn còn một số cán bộ, công chức không nhỏ
chưa đáp ứng được yêu cầu công việc trong quá trình xây dựng và phát triển
thành phố. Đó là do một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa coi trọng
đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức nên một số chỉ tiêu theo tiêu chuẩn quy định đạt thấp. Cán bộ, công
chức chủ yếu vừa học vừa làm nên thời gian học tập trung không nhiều.
Nhiều cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ các xã, cán bộ có tuổi. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng tuy có nhiều cố gắng nhưng còn chạy theo số lượng, chưa cử đúng
72
đối tượng đào tạo, học chưa đúng chuyên ngành cần đào tạo, vì thế chưa đáp
ứng được nhu cầu của cơ quan, tổ chức. Việc đào tạo với sử dụng chưa cân
đối, chưa quản lý chặt đội ngũ cán bộ dự nguồn sau đào tạo (nhiều trường hợp
được cử đi đào tạo đã tốt nghiệp nhưng chưa được bố trí công việc theo quy
hoạch). Nội dung và chất lượng đào tạo chưa cao, giáo trình đào tạo tuy đã
được cải tiến song vẫn chưa thật phù hợp với đối tượng cán bộ cơ sở, phương
thức đào tạo chưa đa dạng hoá. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đi
học nhằm hợp thức hoá bằng cấp. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức chưa được thực hiện đồng bộ, mới chỉ đào tạo về lý luận chính trị
và chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý bồi dưỡng về kỹ năng quản lý điều
hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống trong thực tiễn. Thêm
vào đó là chế độ chính sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi
dưỡng tuy đã được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hơn so với trước, song còn
thấp và chưa phù hợp với giá cả của thị trường hiện nay.
Trình độ đào tạo sau đại học của đội ngũ cán bộ, công chức cấp thành
phố chiếm tỷ lệ thấp; chưa xây dựng được đội ngũ cán bộ giỏi ở một số lĩnh
vực quản lý nhà nước. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức
chưa cao; kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước còn hạn chế. Một bộ
phận cán bộ, công chức chậm đổi mới tư duy, thiếu chủ động, sáng tạo trong
thực thi nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chưa đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn trình độ đào tạo theo quy định, nhất là đối với cán bộ chuyên trách;
phần lớn công chức cấp xã làm việc không theo chuyên môn được đào tạo.
Điều hành và xử lý công việc còn lúng túng; nhiều cán bộ, công chức cấp xã
chưa thật sự tận tâm, tận tụy phục vụ nhân dân. Thời gian qua thành phố
Quảng Ngãi đã có chính sách thu hút nhân tài về phục vụ cho thành phố,
nhưng việc bố trí công việc và các điều kiện làm việc không tốt nên có một số
người sau một thời gian làm việc đã chuyển đi nơi khác. Thời gian tới thành
73
phố nên đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ công chức phải công khai, minh
bạch, rà soát, thống kê cán bộ trẻ có sẵn đưa đi đào tạo theo nhu cầu, bố trí
cán bộ đúng chuyên môn ở các cấp chính quyền, phòng, ban, cơ quan đơn vị
bằng cách thi tuyển ở cấp cán bộ chủ chốt thông qua kế hoạch hành động cụ
thể.
3.2.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại
Kiểm tra, giám sát là phương thức để kiểm soát quyền lực nhà nước,
nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước theo đúng định hướng, mục
tiêu đề ra. Hoạt động giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước là hoạt động
thực hiện quyền lực nhà nước, do đó hoạt động này cũng cần phải được kiểm
tra, giám sát đôn đốc thường xuyên, bởi những thiết chế chính trị - xã hội
khác nhau. Bên cạnh các thiết chế trực tiếp thực hiện chức năng giải quyết
khiếu nại, pháp luật về khiếu nại cũng ghi nhận vai trò và trách nhiệm của
nhiều cơ quan, tổ chức khác với chức năng giám sát giải quyết khiếu nại.
Giám sát của Hội đồng nhân dân, trong công tác giải quyết khiếu nại,
Giám sát của Hội đồng nhân dân là giám sát mang tính quyền lực nhà nước,
được tiến hành bởi chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
một hay một hệ thống các cơ quan nhà nước khác theo những nguyên tắc nhất
định về sự phân công quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành hoạt động giám
sát theo hình thức này là các cơ quan quyền lực nhà nước.
Hội đồng nhân thành phố xem xét báo cáo của Uỷ ban nhân dân về
công tác giải quyết khiếu nại, tổ chức đoàn giám sát việc giải quyết khiếu nại,
kiến nghị xử lý vi phạm pháp luật nếu có. Thường trực Hội đồng nhân dân
thành phố, thực hiện những việc: kiểm tra, xem xét tình hình giải quyết khiếu
nại, tiếp nhận khiếu nại của công dân; nghiên cứu khiếu nại, kiến nghị xử lý
vi phạm pháp luật nếu có; đề nghị, đôn đốc cơ quan hành chính, tư pháp trực
tiếp xem xét, xử lý khiếu nại, Các ban của Hội đồng nhân dân thành phố có
74
quyền giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại.
Hội đồng nhân dân thành phố thông qua các cơ quan của mình thực
hiện quyền giám sát bằng các phương thức: xem xét, đánh giá các văn bản
quy phạm pháp luật về khiếu nại, các báo cáo về công tác giải quyết khiếu
nại, chất vấn; cử đoàn giám sát, xem xét cụ thể việc giải quyết khiếu nại,
chuyển đơn, thư khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, -
đôn đốc việc giải quyết... Như vậy, có thể thấy vai trò giám sát của Hội đồng
nhân dân ở đây mang tính chất theo dõi, kiểm tra về công tác giải quyết khiếu
nại, mà không tham gia kiểm tra trực tiếp đối với hoạt động giải quyết khiếu
nại nhưng có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá văn bản pháp luật,
giám sát và chất vấn trong giải quyết khiếu nại và là cơ chế theo dõi thường
xuyên để đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước.
Luật Khiếu nại, năm 2011 tại Điều 66 quy định về vai trò giám sát
trong công tác giải quyết khiếu nại, cơ quan này như sau: “Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm giám sát việc
thi hành pháp luật về khiếu nại theo quy định của Luật này; động viên nhân
dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật về khiếu nại; tổ chức việc tiếp công dân
đến khiếu nại; khi nhận được khiếu nại thì nghiên cứu, hướng dẫn người
khiếu nại đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Như vậy, giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình thực
hiện: tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến
khiếu nại, tố cáo; tiếp nhận đơn và chuyển đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo; kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét,
giải quyết (nếu không đồng ý với kết quả giải quyết). Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân các cấp định kỳ thông báo đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
cùng cấp về công tác giải quyết khiếu nại.
75
3.3.6. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
Việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp
luật trong công tác giải quyết khiếu nại đối với cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại.
Phổ biến, giáo dục pháp luật qua hoạt động hòa giai cơ sở là một trong các
hình thức tuyên truyền đơn giản, thiết thực và hiệu quả. Để phát huy vai trò
tích cực của loại hình này cần tiến hành các giải pháp sau đây:
Một là: Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại
và giải quyết khiếu nại để nâng cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại của cán
bộ, nhân dân, nhất là những điểm mới của Luật Khiếu nại và các Nghị định
hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, tăng cường thông tin, tuyên truyền về các
vụ việc khiếu nại cụ thể, bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, chú
trọng việc biểu dương những điển hình tốt, kinh nghiệm, sáng kiến hay; phê
bình những hành vi vi phạm pháp luật và những biểu hiện lệch lạc trong lĩnh
vực khiếu nại.
Hai là: Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật.
Đây là nhiệm vụ quan trọng, phải được thực hiện thường xuyên để
nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ báo cáo viên pháp luật về đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong giải quyết
khiếu nại. Thường xuyên nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác tuyên truyền. Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
giới thiệu các quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động khiếu
nại và giải quyết khiếu nại.
Ba là: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Luật khiếu nại nói chung, giải
quyết khiếu nại nói riêng, tuyên truyền pháp luật với hình thức và nội dung
phong phú, đa dạng và sinh động.
76
Các hội thi tìm hiểu về Luật Khiếu nại nói chung, giải quyết khiếu nại
nói riêng là một trong các hoạt động tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
có sức hấp dẫn và hiệu quả, thông qua các hội thi những nội dung được truyền
tải đến các đối tượng một cách đơn giản, ngắn gọn, dể hiểu, dễ nhớ, sinh động
hơn, tránh được sự cứng nhắc, khô khan; đối tượng tiếp cận có thể nắm được
thông tin nhanh.
Ngoài ra, có thể tổ chức những buổi sinh hoạt định kỳ, đưa công tác
tuyên truyền pháp luật về giải quyết khiếu nại lồng ghép vào các hoạt động
phong trào khác của địa phương như: phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
cuộc sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào xây dựng nếp sống văn minh;
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội.
Bốn là: Cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ, quy trình khiếu nại và
giải quyết khiếu nại.
Việc cung cấp thông tin pháp luật, tài liệu văn bản pháp luật về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm
tăng cường hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại. Tài liệu
nghiệp vụ, tài liệu pháp luật có thể gồm các đề cương tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật; Sổ tay nghiệp vụ giải quyết khiếu nại; báo chí về pháp luật
đất đai, khiếu nại; Sách hỏi - đáp pháp luật phổ thông; tờ rơi, tờ gấp và các tài
liệu cần thiết khác.
3.2.7. Tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công
tác giải quyết khiếu nại
3.2.7.1. Đối với các cấp ủy Đảng
Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo tinh thần Chỉ thị số 35/CT-TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo và Kế hoạch số 92-KH/TU ngày
77
07/11/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy, triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-
CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.2.7.2. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Một là, cần tăng cường chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh tiếp tục
quán triệt thực hiện có kết quả Thông báo số 130-TB/TW của Bộ Chính trị,
Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chấn
chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và Kế hoạch 847/KH-UBND ngày 17/3/2014 của UBND tỉnh về việc rà
soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng và tăng cường
hiệu quả quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi;
chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 39/2012/QH13 của Quốc hội
về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành
chính.
Hai là, Chỉ đạo và thực hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong
giải quyết khiếu nại của công dân; chỉ đạo để thực hiện nghiêm việc các cơ
quan giải quyết có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi giải quyết sai, xâm
phạm quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Ba là, Tăng cường công tác thanh tra trách nhiệm và chấp hành pháp luật
khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng các sở, ban, ngành, Chủ tịch UBND các
huyện, thành phố nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những yếu kém, xử lý
nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các trường hợp vi phạm trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Đồng thời, cần kiên quyết
xử lý nghiêm những trường hợp cố tình lợi dụng việc khiếu kiện để gây rối,
khích động khiếu nại, tố cáo nhất là khiếu nại, tố cáo đông người.
3.2.7.3. Đối với Uỷ ban nhân dân thành phố Quảng Ngãi
78
Một là, Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
kịp thời về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm giữ vững
ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; Kế hoạch số 38/KH-UBND ngày
08/6/2012 của UBND thành phố về thực hiện Chỉ thị số 02 của Chủ tịch
UBND tỉnh về việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa phát sinh khiếu nại, tố
cáo. Phân tích, làm rõ các nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại, tố cáo. Chấn
chỉnh những tồn tại, hạn chế trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đặc
biệt là các lĩnh vực dễ phát sinh khiếu nại, tố cáo và công khai minh bạch các
thủ tục hành chính nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo và đề ra giải pháp
cụ thể để khắc phục.
Hai là, Tiếp tục thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân các xã, phường phải trực tiếp tiếp công dân định kỳ,
thường xuyên, đột xuất theo quy định, gắn tiếp công dân với kiểm tra, đôn
đốc, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tăng cường đối thoại trực tiếp với công dân,
chủ động đối thoại với công dân trong trường hợp cần thiết, chú trọng hòa
giải ở cơ sở, ngay từ khi mới phát sinh vụ việc.
Ba là, Tập trung chỉ đạo giải quyết có chất lượng các vụ khiếu nại, tố
cáo, phấn đấu đạt tỷ lệ từ 85% trở lên (đối với số vụ việc thuộc thẩm quyền
của Chủ tịch UBND thành phố) và 90% trở lên (đối với số vụ việc thuộc thẩm
quyền của Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn, Chủ tịch UBND các xã,
phường); tập trung nguồn lực giải quyết các vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo
dài, đặc biệt các vụ việc có tính chất đông người phát sinh từ các dự án để
trách phát sinh những điểm nóng.
79
Bốn là, Tiếp tục xây dựng kế hoạch thực hiện các quyết định giải quyết
khiếu nại, tranh chấp đất đai, văn bản xử lý tố cáo của UBND tỉnh có hiệu lực
pháp luật, thuộc trách nhiệm của UBND thành phố; chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn, UBND xã, phường nghiêm túc triển khai thực hiện có hiệu quả.
Năm là, Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch, đột
xuất đối với trách nhiệm của Thủ trưởng các phòng, ban, Chủ tịch UBND các
xã, phường trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại, tố cáo để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế, xử lý
nghiêm trách nhiệm người đứng đầu nếu có sai phạm.
Sáu là, Chủ tịch UBND thành phố phải trực tiếp chỉ đạo công tác giải
quyết khiếu nại. Tăng cường việc đối thoại với giải quyết đơn thư khiếu nại
để tìm ra giải pháp giải quyết tốt nhất, tạo tiếng nói chung giữa người giải
quyết và người khiếu nại. Trong giải quyết khiếu nại, chú trọng xem xét giải
quyết để đảm bảo quyền lợi cao nhất cho người khiếu nại, đồng thời kiên
quyết xử lý với những trường hợp đã giải quyết thấu lý, đạt tình để không tạo
ra tâm lý “nhờn luật”, xung đột chính sách.
Bảy là, Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ
năng tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo cho cán bộ trực tiếp giải quyết
đơn thư các cấp thuộc thành phố, khắc phục kịp thời những hạn chế về năng
lực, trình độ chuyên môn để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về
khiếu nại, cũng như tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo trên địa bàn
thành phố.
80
3.2.7.4. Đối với Thanh tra thành phố
Tích cực, chủ động tham mưu để UBND thành phố có các giải pháp,
biện pháp đồng bộ, thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố,
trong đó, cần tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả các công tác: tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ; thanh tra,
kiểm tra công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trách nhiệm người
đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu
nại, Luật Tố cáo; đôn đốc các cấp, các ngành thực hiện nghiêm chế độ thống
kê, báo cáo theo quy định pháp luật; đảm bảo chế độ, chính sách cho cán bộ,
công chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo...
Tăng cường quan hệ phối hợp với các ngành, các cấp trong việc giúp
Chủ tịch UBND thành phố giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
Tham mưu cho Chủ tịch UBND thành phố chỉ đạo, giải quyết dứt điểm các vụ
việc khiếu nại còn tồn đọng ở cả hai cấp và những vụ việc phức tạp, tồn đọng,
kéo dài qua kiểm tra, rà soát theo Kế hoạch 847/KH-UBND ngày 17/3/2014
của UBND tỉnh; tham mưu chỉ đạo, đôn đốc thực hiện dứt điểm các Quyết
định giải quyết khiếu nại chưa được thực hiện. Có kế hoạch chủ trì, phối họp
với các đơn vị liên quan rà soát sổ sách, hồ sơ giải quyết khiếu nại thuộc thẩm
quyền để tham mưu, đề xuất giải quyết.
81
Tiểu kết chương 3
Với mục đích đưa ra những giải pháp và kiến nghị sát thực nhằm giúp
UBND thành phố thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại trong thời gian
tới. Trên cơ sở xây dựng các nhiệm vụ trọng tâm và phương hướng liên quan
đến công tác giải quyết khiếu nại, chương 3 đề xuất giải pháp cơ bản góp
phần giải quyết tốt khiếu nại, quản lý hiệu quả công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi.
Trong thời gian tới, Đảng bộ, Chính quyền thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi quyết tâm thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp trên thì công tác
giải quyết khiếu nại, quản lý nhà nước khiếu nại trên địa bàn thành phố sẽ có
những chuyển biến tích cực, đạt hiệu quả cao, góp phần ổn định an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, xã hội của thành phố theo hướng
văn minh, hiện đại, sớm xây dựng thành phố Quảng Ngãi đạt đô thị loại 1.
82
KẾT LUẬN
Từ thực tiễn, thực hiện công tác quản lý Nhà nước về khiếu nại và tình
hình khiếu nại tại địa bàn thành phố Quảng Ngãi những năm vừa qua cho
thấy, tình hình KNTC của công dân với số lượng đơn, số lượng vụ việc, số
lượng người tham gia có chiều hướng giảm hơn, nhưng tính chất: phức tạp,
gay gắt, đông người, vượt cấp, trở thành điểm nóng còn nhiều tiềm ẩn và chứa
đựng nguy cơ. Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu nại chiếm trên 80%,
để thực hiện tốt công tác tiếp dân, xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại trong
thời gian tới cần thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu như sau:
Nâng cao chất lượng quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại; cần chủ
động chỉ đạo, tổ chức phối hợp giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới;
phát huy tối đa hiệu quả việc đối thoại, gặp gỡ, trao đổi với người khiếu nại,
đặc biệt là đối với các vụ việc đông người, phức tạp, gay gắt.
Đề cao vai trò vận động, thuyết phục của các tổ chức chính trị - xã hội,
nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức là thành viên của Mặt trận.
Quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, theo hướng chuyên nghiệp, ổn định; chú trọng
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác tiếp công dân, xử
lý đơn thư, giải quyết khiếu nại; đồng thời, tăng cường công tác quy hoạch,
tuyển chọn cán bộ và có chính sách đãi ngộ thoả đáng, phù hợp với điều kiện
đặc thù của công tác này.
Triển khai có hiệu quả công tác cải cách hành chính trong giải quyết khiếu
nại, nhất là cải cách thủ tục hành chính, chú trọng việc ứng dụng rộng rãi công
nghệ thông tin. Thanh tra Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan
khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, nhằm chuẩn hóa, nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo đáp ứng yêu
cầu chỉ đạo, điều hành công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
83
Định kỳ sơ kết, tổng kết công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải
quyết khiếu nại.
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, để nâng
cao hiểu biết pháp luật về khiếu nại, của cán bộ, nhân dân (tập trung ở khu
vực xã, thị trấn), nhất là những điểm mới theo tinh thần Luật Khiếu nại và
Luật Tiếp công dân, Luật Đất đai.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng công tác giải quyết khiếu
nại, từ việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật tới việc tổ chức
thưc hiện những hoạt động trong lĩnh vực này và xác định giải quyết khiếu
nại, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy mà UBND các
cấp có vai trò hết sức quan trọng trong việc triển khai công tác giải quyết
khiếu nại, thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; Làm tốt công tác giải quyết
khiếu nại, một mặt để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo
đảm để pháp luật được thực hiện nghiêm minh, mặt khác sẽ góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tác
giả hy vọng rằng một số vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn
cũng như về kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong công tác giải quyết
khiếu nại, như đã trình bày trong Luận văn sẽ góp phần nâng cao công tác giải
quyết khiếu nại tại thành phố Quảng Ngãi trong thời gian tới; đồng thời là tài
liệu hữu ích để cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công tác giải quyết
khiếu nại, trong toàn thành phố cùng tham khảo vận dụng khi thực hiện công
vụ được giao.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
2010, định hướng đến 2020.
2. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 26/5/2014 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp
công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
3. Bùi Thị Đào (2008), “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại dưới góc nhìn dân
chủ”, Tạp chỉ Dân chủ và pháp luật, số 11/2008.
4. Bùi Xuân Đức (2008), “Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện
hành chính ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 5/2008.
5. Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về
việc thi hành Luật Đất đai, Hà Nội.
6. Chính phủ (2006), Nghị định 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 về quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố
cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố
cáo, Hà Nội.
7. Chính phủ (2007), Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định
bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà
Nội.
8. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy
định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà
Nội.
9. Chính phủ (2012), Nghị định 75/2012/NĐ-CP ngày 03/12/2012 của quy
định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại.
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kỉện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), về tình hình, kết quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo từ năm 2006 đến nay và giải pháp thời gian tới.
14. Đảng bộ thành phố Quảng Ngãi (2015), Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Đảng bộ thành phố Quảng Ngãi khóa XIV trình Đại hội đại biểu
Đảng bộ thành phố lần thứ XV Nhiệm kỳ 2015-2020.
15. Đỗ Thị Phượng (2005), Luận văn Thạc sỹ luật học: “Vi phạm hành
chính về đất đai ở Thái Bình thực trạng và giải pháp khắc phục”, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Hoàng Ngọc Giao (2009), Cơ chế giải qụyểt khiếu nại - thực trạng và giải
pháp, Viện nghiên cứu chính sách pháp luật và phát triển, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
17. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam
(2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Khoa học-xã hội, Xuất bản
năm 2002, tr.506-507.
18. Hà Văn Khanh (2007), Luận văn Thạc sỹ luật học: “Áp dụng pháp luật
trong quản lý hành chính nhà nước về đất đai ở thành phố Hà Nội”,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
19. Lương Thanh Cường (2001), "Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sỹ.
20. Nguyễn Đức Giao (Chủ biên), Nguyễn Văn Hoan, Nguyễn Đắc Bình
(2000), giải quyết khiếu nại, tố cáo, Bộ Tư pháp.
21. Nguyễn Hữu Hoằng (2007), "Một số vấn đề nảy sinh xung quanh các quy
định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo", Tạp chí Thanh tra, Hà
Nội.
22. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Luận văn Thạc sỹ luật học: “Quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với đất đai qua thực tiễn tỉnh Thái Bình”, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
23. Nguyễn Cảnh Quý (2001), Luận án tiến sỹ luật: “Hoàn thiện cơ chế
điều chỉnh pháp luật đất đai ở Việt Nam” Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
24. Nguyễn Công Tình (2005), Vấn đề gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với
người khiếu nại và người bị khiếu nại – Thực tiễn việc áp dụng, Thanh
tra.
25. Nguyễn Quốc Việt dịch, Nguyễn Văn Luật hiệu đính, Thuật ngữ pháp
lý phổ thông, Nxb Pháp lý, Xuất bản năm 1986, Tr.206.
26. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn
hóa – Thông tin. Tr.904.
27. Phạm Hồng Thái, TS. Đinh Văn Mậu, (1996) Luật hành chính Việt
Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
28. Phạm Hồng Thái (1994), Pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
29. Phạm Thu Uyên (2008), Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công:
“Giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai tôn giáo trên địa
bàn thành phố Hà Nội”, Học viện hành chính - Học viện Chính trị
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
30. Quốc hội (2014), Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm
2013, Hà Nội.
31. Quốc hội (2003), Luật đất đai năm 2003, Hà Nội.
32. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại 2011, Hà Nội.
33. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013, Nxb Tài nguyên-Môi trường
và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội 2014.
34. Quốc hội (2013), Luật khiếu nại, Luật tố cáo, quy trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo - tiếp công dân năm 2013, Hà Nội.
35. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 39/2012/QH13 về tiếp tục nâng cao
hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất
đai, Hà Nội.
36. Trần Minh Hương (chủ biên) (2009), Giáo trình thanh tra và giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
37. Trần Xuân Long (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Trần Văn Sơn (2007), Tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
39. Thanh tra Chính phủ (2012), Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước sau khi tòa hành
chính được thiết lập, Hà Nội.
40. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 về
chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, Hà Nội.
41. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2014), Kế hoạch số 92-KH/TU ngày 07/11/2014
của Ban Thường vụ Thành ủy, triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-
CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
42. Thanh tra Chính phủ (2013), Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày
30/9/2013 quy định quy trình giải quyết khiếu nại.
43. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Quyết định số 38/2014/QĐ-UBND
ngày 23/7/2014 ban hành quy định về thụ lý và giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi;
44. UBND thành phố Quảng Ngãi (2014), Quyết định số 3573/2014/QĐ-
UBND ngày 08/9/2014 của UBND thành phố quy định thụ lý và giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND thành
phố Quảng Ngãi.
45. UBND thành phố Quảng Ngãi, Báo cáo kết quả công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo năm 2013, năm 2014, năm 2015 và năm 2016.
46. Viện Khoa học thanh tra, Thanh tra chính phủ (2012), Khiếu nại, tố cáo
hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_khieu_nai_tu_thuc_tien_thanh_pho_quang_n.pdf