Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý giá,
không thể thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ chính trị.
Đất đai có vị trí và tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong đời sống chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội của mọi quốc gia, dân tộc. Nhận thức rất rõ vị trí,
tầm quan trọng của đất đai nên qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển
của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có những chủ trương, chính sách
nhằm quản lý và sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ
một cách tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Để phát
huy được vai trò của đất đai trong đời sống thì chúng ta phải tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai mà một trong những nội
dung quan trọng của nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai là hoạt
động áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Do
vậy, áp dụng pháp luật giải quyết tốt các tranh chấp về đất đai góp phần
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Áp
dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật nhưng là hình thức có
tính chất đặc thù. Tính đặc thù của áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ là nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật,
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định
làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ
thể. Điều này cho thấy áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt
của cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng, mà biểu hiện rõ nhất là các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy
định của pháp luật luôn có sự can thiệp của nhà nước hay nhà chức trách có
thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để,110
hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào các quan hệ của đời sống xã hội.
Trên cơ sở đó, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của
Uỷ ban nhân dân cấp huyện là việc người có chức trách thẩm quyền của Uỷ
ban nhân dân cấp huyện bằng quyền hạn của mình, căn cứ vào quy định
của pháp luật ban hành một quyết định hành chính giải quyết các tranh
chấp về đất đai nhằm để xác định tính chất đúng, sai của nội dung tranh
chấp, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết
định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị tranh chấp; buộc bồi
thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người tranh chấp có quyền tranh chấp
tiếp, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án hay không; khôi phục uy
tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tranh chấp. Trong những năm qua, nhất là từ khi có Luật đất đai năm 2013
đến nay, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của
các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp
huyện nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi vào nền nếp,
giải quyết được một số lượng lớn các vụ việc, chất lượng giải quyết được
nâng lên, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo dài đã
được giải quyết dứt điểm, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
đã được khôi phục góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hoạt động áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về đất đai còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Nhờ vậy,
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp dân và giải
quyết tranh chấp về đất đai đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,
Bộ Chính trị yêu cầu các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu; Quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương,111
chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác tiếp công dân, giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên
quan đến quyền và lợi ích của người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài
nguyên, đầu tư, tài chính., bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết tranh chấp, khiếu nại
theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng
nhân dân trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ
quan có thẩm quyền giải tranh chấp, quyết khiếu nại.
119 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 603 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân huyện cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Đất đai năm 2013 chưa trực
tiếp khẳng định quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản, nhưng với những
nội dung quy định về quyền của người sử dụng đất thì có thể hiểu Hiến pháp
năm 2013, Luật Đất đai năm 2013 đã gián tiếp công nhận quyền sử dụng đất
là một loại quyền tài sản khi công nhận quyền sử dụng đất có giá trị, đồng
thời quyền sử dụng đất có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn, khi Nhà nước thu hồi thì người sử
dụng đất được bồi thường. Với những căn cứ đó, có thể lập luận rằng quyền
sử dụng đất là một loại quyền tài sản, vì vậy, quyền của người sử dụng đất
cũng thuộc về quyền con người, quyền công dân, được Hiến pháp, pháp luật
quy định và bảo đảm.
Theo quy định của khoản 5, khoản 7, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013,
người sử dụng đất có quyền “được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình” và có quyền “khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của
90
mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai” [166, Tr 118]. Đây
là những bảo đảm pháp lý quan trọng cho quyền con người, quyền công dân
trong lĩnh vực đất đai. Do đó, trong thực tiễn, khi quyền sử dụng đất hợp pháp
của công dân bị xâm phạm bởi các chủ thể khác (trong đó có thể gồm các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức khi thực thi công vụ trong quản lý đất đai),
công dân có quyền sử dụng các phương tiện pháp lý để bảo về quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, đó là quyền khởi kiện, quyền khiếu nại và quyền tố cáo.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được đơn khởi kiện, khiếu nại,
tố cáo của công dân trong lĩnh vực đất đai phải có trách nhiệm tiếp nhận, giải
quyết trong thời hạn do pháp luật quy định.
3.1.3. Xử lý mối quan hệ hài hòa về lợi ích của các bên trong quan hệ
đất đai và trong quá trình giải quyết tranh chấp về đất đai thông qua hệ
thống các quy phạm pháp luật
Để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực đất đai của
công dân không chỉ đơn thuần là việc ghi nhận quyền đó trong các văn bản
quy phạm pháp luật mà quan trọng hơn đó là sự bảo đảm bằng nhiều biện
pháp hữu hiệu để giải quyết kịp thời, có hiệu quả tranh chấp về đất đai của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Muốn vậy, một mặt đòi hỏi nhà nước phải xây dựng,
ban hành được một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, về
giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai đồng bộ, đầy đủ, khoa học và khả
thi; một mặt yêu cầu các chủ thể pháp luật, bao gồm cả các cơ quan nhà nước
phải triệt để tuân thủ pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh những quy định của
pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai.
Trong quản lý nhà nước về đất đai, cần thiết phải xây dựng và thực hiện
một hệ thống chính sách tổng hợp về kinh tế - xã hội, đảm bảo giải quyết hài
hòa giữa lợi ích của các bên tham gia vào quan hệ quản lý, sử dụng đất đai
(đặc biệt là lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của người được giao đất,
91
cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư đã được phê duyệt và lợi ích của nhà
nước - lợi ích của toàn xã hội) cũng như giải quyết hài hòa giữa lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
Hệ thống pháp luật về đất đai là những văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và là công cụ pháp lý chủ yếu
để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực đất đai.
Như vậy, hệ thống pháp luật đất đai có vai trò hết sức to lớn, là công cụ quan
trọng nhất trong quản lý nhà nước đối với đất đai. Hệ thống pháp luật đất đai
có hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất thì mới nâng cao được hiệu quả của cơ
chế quản lý hành chính về đất đai. Một điều không thể phủ nhận là thời gian
qua, hệ thống pháp luật về đất đai đã đạt được nhiều tiến bộ, có tác dụng rất
lớn trong việc thể chế hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng về chính sách
đất đai thành những quy tắc xử sự thông qua hành vi pháp luật. Đồng thời, kịp
thời điều chỉnh nhiều quan hệ mới nảy sinh trong xã hội. Song, thực tiễn cũng
cho thấy rằng hệ thống pháp luật đất đai còn nhiều tồn tại, bất cập, là nguyên
nhân cơ bản làm cho quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất
đai (đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất
đai) còn nhiều hạn chế, kém hiệu quả và nhiều vấn đề bức xúc, chưa đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm 2013 là một năm ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến, lập
pháp của nước ta, khi mà Quốc hội khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua
hai văn bản có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là Hiến pháp năm 2013 và Luật
Đất đai năm 2013.
92
Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai
hướng dẫn thi hành đã khắc phục nhiều thiếu sót, bất cập, chồng chéo trong
lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng
của xã hội trong những điều kiện, hoàn cảnh yêu cầu mới, những quy định
của pháp luật về đất đai cần được hoàn chỉnh cho phù hợp.
Thời gian qua, có thể nói là nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều cơ quan có
thẩm quyền ban hành rất nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện
quản lý nhà nước về đất đai. Chỉ tính riêng từ khi Luật đất đai năm 1993 có
hiệu lực pháp luật đến trước khi có Luật đất đai năm 2003 là: hơn 200 văn bản
pháp luật về đất đai được ban hành ở cơ quan trung ương, trong đó có 04
Luật, 08 pháp lệnh, 01 nghị quyết của Quốc hội, 03 Nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, 71 văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, 39 văn bản
thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, 68 văn bản thuộc thẩm quyền
của cấp bộ và tổng cục. Nếu tính cả các văn bản quy định pháp luật liên quan
đến đất đai trong dân sự, hình sự, đầu tưthì số lượng lên đến hơn 500 văn
bản, luật đất đai số 45/2013/QH13, ngày 29 tháng 11 năm 2013 quy định về
sử dụng đất đai đã ban hành hơn 100 văn bản pháp luật về đất đai, trong đó có
bộ luật, nghị định của quốc hội, nghị quyết của ban thường vụ Quốc hội, văn
bản thuộc thẩm quyền của chính phủ....., văn bản của HĐND tỉnh, quyết định
của UBND tỉnh, nếu kể cả các văn bản quy định pháp luật thuộc thẩm quyền
cấp huyện thì số lượng văn bản tới hàng nghìn.
Điển hình là sau khi có Luật đất đai năm 2013, để cụ thể hoá Luật đất
đai và thực hiện những chính sách liên quan đến đất đai. Với con số thống kê
chưa đầy đủ, nhưng nếu tính từ năm 2014 (Thời điểm Luật đất đai có hiệu lực
pháp luật) đến nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương đã ban
hành hơn 100 văn bản; trong đó có hơn 40 văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai và hơn 100 văn bản liên quan đến pháp luật về đất đai. Uỷ ban nhân
93
dân các huyện, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Uỷ ban nhân
dân cấp huyện) cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật
về đất đai tại địa phương, nhất là sau khi có Chỉ thị Số: 01/CT-TTg ngày 22
tháng 01 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật
Đất đai, chỉ thị Số: 05/CT-TTg ngày 04 tháng 04 năm 2013 về tập trung chỉ
đạo và tăng cường biện pháp thực hiện để trong năm 2013 hoàn thành cơ bản
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất. Đến nay, các địa phương đã ban hành theo thẩm quyền
hầu hết 06 loại văn bản quy định cụ thể về giá đất; về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về hạn mức giao đất ở; về hạn mức công
nhận đất ở cho thửa đất có vườn, ao gắn với nhà ở; về thủ tục hành chính
trong giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; về cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân các huyện
đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, lập kế hoạch cụ thể để triển khai thi hành
pháp luật về đất đai.
Để thi hành Luật Đất đai, Luật khiếu nại và các quy định về khiếu nại
trong các luật, pháp luật, các cơ quan hành chính đã ban hành hơn 100 văn
bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, trong đó
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hơn 06 văn bản; 18/22 Bộ ban
hành hơn 40 văn bản; có trên 50 Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố ban hành
hơn 100 văn bản. Các cơ quan tư pháp đã ban hành hơn 06 văn bản, trong đó
Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) phối hợp với cơ quan hữu quan ban hành 03 thông tư liên tịch;
TANDTC ban hành 01 thông báo; VKSNDTC ban hành 01 quyết định và
phối hợp với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành 01
quy chế phối hợp .
94
Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/7/2014, Ủy ban nhân dân
huyện cần tập trung rà soát những văn bản quy phạm pháp luật do cấp mình
ban hành nhằm phát hiện những nội dung không phù hợp với Luật Đất đai
năm 2013 để kịp thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ đối với các văn bản thuộc thẩm
quyền ban hành và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ đối với các văn bản
không thuộc thẩm quyền ban hành; kịp thời ban hành các quy định cụ thể mà
Luật Đất đai năm 2013, các nghị định của Chính phủ và các Thông tư của Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định UBND cấp huyện ban hành, để tạo ra cơ
chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất đai phù hợp với tình hình thực tế, đặc
biệt là các quy định của tỉnh về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong
việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về đất đai.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết tranh
chấp đất đai
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao trách nhiệm, của cá nhân cán
bộ, công chức với công tác giải quyết tranh chấp về đất đai là một yêu cầu
quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra
chủ trương, đường lối cụ thể trên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực tranh
chấp đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai. Đồng thời, Đảng thường xuyên
theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức Đảng, các tổ chức cơ sở
Đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương đối với cơ quan hành chính
nhà nước; khuyến khích những mặt tốt, tích cực; xử lý, uốn nắn kịp thời
những lệch lạc, những vi phạm trong lĩnh vực đất đai nói chung và lĩnh vực
tranh chấp đất đai nói riêng. Ngoài ra, Đảng còn lãnh đạo bằng vai trò tiên
phong, gương mẫu của các Đảng viên trong việc chấp hành pháp luật về đất
đai, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về đất đai.
95
Như vậy, Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không áp đặt, không bao
biện, làm thay chức năng của các cơ quan hành chính Nhà nước; đồng thời
không coi nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng với tất cả các cơ quan nhà
nước ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Sự lãnh đạo của
Đảng là lãnh đạo chính trị, mang tính định hướng cho các cơ quan nhà nước
có thể hoạt động độc lập và đạt hiệu quả cao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
của mình, thông qua các hoạt động của các cơ quan nhà nước mà các chủ
trương, đường lối của Đảng được thực hiện trong toàn xã hội. Với tư cách là
người, tổ chức Đảng không được trực tiếp nắm quyền lực nhà nước, mà
“Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các cá nhân Đảng viên, được Đảng giới
thiệu, được nhân dân bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan
quyền lực nhà nước. Đây là một bộ phận của Đảng, có vị trí pháp luật ở ngay
trong cơ cấu quyền lực nhà nước, được quyền trực tiếp sử dụng công cụ của
bộ máy nhà nước, chính bộ phận này và thông qua Đảng mới có thể chi phối,
điều khiển trực tiếp quyền lực nhà nước một cách hợp pháp. Qua đó, quyền
lực chính trị của Đảng và quyền lực Nhà nước mới thống nhất, mới tiêu biểu
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân”.
Đối với tỉnh Uỷ tỉnh Đắk Lắk đã có văn bản chỉ đạo, lãnh đạo đối với
công tác giải quyết tranh chấp đất đai, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Thời gian
vừa qua, cấp uỷ Đảng, chính quyền có lúc, có nơi còn coi nhẹ công tác giải
quyết tranh chấp của người sử dụng đất, chưa huy động được vai trò của các
tổ chức trong hệ thống chính trị, chưa phát hiện giải quyết kịp thời các tranh
chấp, kiến nghị liên quan đến đất đai, có nơi có biểu hiện đùn đẩy trách
nhiệm, thiếu thống nhất, chỉ tập trung, chú trọng vào vấn đề phát triển kinh tế
của địa phương, chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề xã hội phát sinh từ vấn đề
thu hồi đất như: tái định cư, đời sống, việc làm, nghề nghiệp., từ tình hình
trên, để thực hiện đúng các chính sách, quy định của pháp luật về đất đai và
96
giải quyết phù hợp với chính sách pháp luật các tranh chấp, tranh chấp về đất đai
thì tỉnh Ủy đã có văn bản chỉ đạo UBND tỉnh ra quyết định, Chỉ thị về việc giải
quyết tranh chấp đất đai. Các quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật
nhưng chậm được thi hành là những nguyên nhân làm cho công tác giải quyết
tranh chấp của người sử dụng đất chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đất đai
của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để phát hiện kịp thời
những vi phạm trong quản lý, sử dụng đất và có biện pháp tháo gỡ khó khăn
đối với từng trường hợp cụ thể, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của các cấp ủy
đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Kịp thời xử lý đối với
tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm pháp luật đất đai, thu hồi những diện tích đã
giao, cho thuê nhưng sử dụng không đúng mục đích theo quy định của pháp
luật, chủ đầu tư không triển khai, triển khai không đúng tiến độ, chủ đầu tư
không có năng lực thực hiện dự án. Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các
khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất còn tồn đọng, kéo
dài và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh thuộc thẩm quyền theo đúng
quy định của pháp luật. Đặc biệt, chú trọng giải quyết các vụ khiếu nại đông
người, những khiếu nại về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất
đai; hạn chế tối đa tình trạng chậm trễ, đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết
đơn yêu cầu, khiếu nại, ngăn ngừa các hành vi vi phạm về quản lý và sử dụng
đất dẫn tới tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Đảm bảo pháp luật đất đai được thực
hiện nghiêm, không để tiêu cực và vi phạm.
Đối với Huyện ủy Cư M’gar; nhắm thực hiện tốt phương châm trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân , phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên các mặt của đời sống xã hội. Nhân dân
tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, kịp thời nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý giải quyết các vấn đề còn tôn tại,
97
vướng mắc trong nhân dân nói chung, trong đó có tranh chấp đất đai chưa có
giấy chứng nhận hoặc chưa có giấy tờ theo điều 100 của Luật đất đai năm
2013 giữa các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện nói riêng. Huyện Uỷ
Cư M’gar đã bàn hành Quyết định về việc ban hành quy chế tiếp xúc, đối
thoại trực tiếp giữa Bí thư, Phó bí thư các cấp Uỷ trong Huyện với nhân dân
trên địa bàn huyện Cư M’gar trong nhiệm kỳ, xây dựng kế hoạch về việc tổ
chức đối thoại trực tiếp giữa Bí thư, Phó bí thư Huyện ủy với nhân dân trên
địa bàn huyện năm 2016. Qua đó hàng tháng trong năm 2016 Huyện ủy Cư
M’gar có thống báo lịch tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân trên địa bàn,
1 lần trên 1 xã trong 1 tháng.
Quá trình tổ chức đối thoại có nhiều lãnh đạo của các bàn, ngành đoàn
thể tham gia để có ý kiến trả lời cụ thể như: Một là, sau khi kết thúc buổi tiếp
xúc, đối thoại, chậm nhất là 07 ngày làm việc, văn phòng cấp ủy hoặc cán bộ
phụ trách văn phòng cấp ủy thông báo ý kiến kết luận của Bí thư, Phó bí thư
cấp ủy, bảo đảm việc giải quyết các kiến nghị được giải quyết kịp thời, có
hiệu quả của các ngành, các cấp có liên quan về những vấn đề bức xúc, nổi
cộm chính đáng của nhân dân. Hai là, chậm nhất 30 ngày làm việc sau khi có
thống báo kết luận của Bí thư, Phó bí thư cấp ủy, các cơ quan, đơn vị có trách
nhiệm giải quyết thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết vụ việc cho
tập thể, cá nhân có liên quan (nếu có) và báo cáo với Bí thư, Phó bí thư cấp
ủy. trường hợp những vụ việc cần có thêm thời gian để xác minh, làm rõ
hoặc nội dung giải quyết phải tuân thủ các quy định của pháp luật thì cơ quan
có trách nhiệm giải quyết cũng phải có văn bản trả lời cho nhân dân, tổ chức,
cá nhân có liên quan biết về nội dung, yêu cầu, thời gian, trách nhiệm giải
quyết và báo cáo với Bí thư, Phó bí thư các cấp.
Huyện ủy Cư M’gar đã xây dựng Nghị quyết về nhiệm vụ của năm
2016, đánh giá công tác thực hiện nhiệm vụ của năm 2015 và phương hướng
98
nhiệm vụ của năm 2016 trên địa bàn huyện, trong đó cần phải tập trung vào
vấn đề cụ thể của địa phương; Công tác nội chính: Tiếp tục chỉ đạo thực hiện
có hiệu quả công tác cải cách tư pháp; tăng cường công tác phối hợp liên
ngành trong giải quyết tin báo tố giác tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án; bảo đảm truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. thực hiện nghiêm công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân, đảm bảo kịp thời và theo luật định; tổ
chức thanh tra theo kế hoạch và thanh tra chuyên đè; thực hiện việc kê khai
tài sản, thu nhập theo quy định. Đẩy mạnh công tác tuyên truyề giáo dục pháp
luật nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đảng ủy cơ quan chính quyền huyện Cư M’gar là đảng bộ trực thuộc của
Huyện ủy Cư M’gar, được thành lập theo Quyết định số 2071-QĐ/HU, ngày 06
tháng 4 năm 2012 của abn thương vụ Huyện ủy Cư M’gar, căn cứ vào tình hình
thực tế và Nghị quyết của Huyện ủy, Đảng ủy cơ quan chính quyền xây dựng
Nghị quyết đánh giá hoạt động của Đảng ủy cơ quan chính quyền năm trước và
đưa ra phương hướng hoạt động của năm tiếp theo, trên cơ sở đó có báo cáo
hàng tháng, quý, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghi quyết.
Chi bộ nói chung, Chi bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường nói riêng là
tổ chức cơ sở đảng có chức năng, xây dựng Đảng, lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan
đơn vị xây dựng nhiệm vụ chuyên môn, lãnh đạo đoàn thể. Chi bộ xây dựng
Nghị quyết về nhiệm vụ trong năm, quá trình thực hiện Nghị quyết có đánh
giá kết quả thực hiện của năm trước và đưa ra phương hướng thực hiện của
năm tiếp theo, trong đó có báo cáo hàng tháng, quý, sơ kết, tổng kết việc thực
hiện nghị quyết của Chi bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện. Nếu có
sự việc tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của UBND huyện Cư M’gar,
UBND đã chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu giải quyết thì
quá trình giải quyết đó có sự lãnh đạo của Chi bộ P TN& MT.
99
Như vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của UBND huyện Cư M’gar, do P TN& MT tham mưu, nếu không có
sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng ủy cơ quan chính quyền, chi bộ P TN& MT
bằng Nghị quyết, bằng kế hoạch tổ chức tiếp xúc đối thoại thì vụ việc khó mà
giải quyết kịp thời, đúng chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Do đó vai trò lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng từ huyện đến cơ sở trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật đất đai phải được cụ thể hoá phù hợp với đặc điểm tình hình của địa
phương trong huyện bằng các Chỉ thị, Nghị quyết để chính quyền, đoàn thể,
cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân thực hiện quản lý, sử dụng đất đai theo
đúng quan điểm của Đảng. Đảng viên ở từng cơ sở vừa phải nêu cao vai trò
gương mẫu của mình, vừa phải phát hiện và đấu tranh kịp thời với những biểu
hiện vi phạm pháp luật đất đai. Các cấp, các ngành trong huyện cần tập trung
vào việc thực hiện tốt các nghị quyết của Huyện uỷ Cư M’gar đã đề ra.
3.2.3. Công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị
của huyện Cư M’gar về giải quyết tranh chấp đất đai
Hệ thống chính trị huyện Cư M’gar là tổng thể các cơ quan Đảng, cơ
quan quyền lực, cơ quan hành chính nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội
trên địa bàn Huyện. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu
Huyện ủy, Đảng ủy cơ quan chính quyền, chi bộ lãnh đạo bằng Nghị quyết,
HĐND, UBMTTQVN Huyện giám sát, phản biện hoạt động quản lý đối với
UBND Huyện về các lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong đó có giải quyết
tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân thì quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai đạt hiệu quả cao, đúng quy định, người tranh chấp không khiếu
nại tiếp.
Hội nông dân, Ban dân vận và các bàn ngành đoàn thể trong công tác
tiếp dân và giải quyết tranh chấp đất đai, làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích
100
hợp pháp của nhân dân, kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét, giải quyết khi có tranh chấp. Giải thích, thuyết phục công dân
chấp hành các quyết định giải quyết khiếu nại và kết luận, quyết định xử lý đã
được xác định là đúng chính sách, pháp luật. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối
thoại, vận động, thuyết phục công dân chấm dứt khiếu nại, tranh chấp đất đai
không đúng, giảm thiểu các tranh chấp, khiếu nại từ cơ sở.
UBND Huyện Cư M’gar là cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện có
chức năng chấp hành, điều hành mọi hoạt động tại địa phương. Căn cứ văn
bản của cấp trên, UBND Huyện đã ban hành nhiều thể thức văn bản như: văn
bản quy phạm pháp luật; văn bản thông thường, để điều hành các phòng ban,
các xã, thị trấn, thực hiện các hoạt động trong đó có lĩnh vực tiếp công dân, để
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của công dân khi có tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai, đồng thời giao cho một số phòng ban có chức năng,
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, viêc thực hiện có chế độ báo cáo, kết quả xử lý,
giải quyết các vụ tranh chấp đất đai để UBND kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, nhất
là đối với P TN & MT là cơ quan tham mưu UBND Huyện giải quyết các vụ
việc tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền UBND Huyện.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện là cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar; chịu sự lãnh đạo và quản lý trực tiếp, toàn
diện của Ủy ban nhân dân huyện; đồng thời chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk. Giúp
UBND huyện quản lý nhà nước về đất đai, tiếp nhận đơn thư, khiếu nại, tranh
chấp đất đai từ bộ phận tiếp công dân hoặc trực tiếp từ người dân khiếu nại,
tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai đúng thẩm quyền, kết hợp với các
cơ quan, ban, ngành đoàn thể làm công tác thẩm tra, xác minh các vụ việc
khiếu nại liên quan đến tranh chấp đất đai, tham mưu, đề xuất Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện, phối hợp các cơ quan có liên quan xử lý, giải quyết dứt
101
điểm các đơn thư, khiếu nại, tranh chấp đất đai và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai theo quy định của pháp luật.
Thanh tra huyện Cư M’gar là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện
có chức năng tham mưu, giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác
thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tranh chấp., trong đó có tranh
chấp đất đai, hàng năm thanh tra huyện lập chương trình, kế hoạch tiếp công
dân và xử lý, giải quyết các vụ khiếu nại, tranh chấp., hướng dẫn, kiểm tra
đồn đốc Chủ tịch UBND cấp xã, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
thuộc UBND huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tranh chấp. Hàng tuần, hàng tháng, quý, năm, tổ chức sơ kết, tổng
kết ngành thanh tra, báo cáo kết quả thực hiện nhiệm được giao cho Chủ tịch
UBND huyện.
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về đất đai đối với nhân dân trên địa bàn huyện Cư M’gar
Để tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp
về đất đai đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay thì yêu cầu đặt ra là phải làm thế
nào cho mọi người đều hiểu rõ những quy định của pháp luật nói chung, các
quy định của pháp luật đất đai, pháp luật tranh chấp, khiếu nại.. nói riêng.
Muốn vậy chúng ta phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật nói chung, pháp luật đất đai, khiếu nại nói riêng cho cán bộ và nhân
dân để đảm bảo tính thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp luật. Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm mục đích nâng cao hiểu
biết về pháp luật, ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý cho cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước nói riêng và mọi tầng lớp nhân dân nói chung, xây dựng
được ý thức chấp hành pháp luật của mọi người dân và của toàn xã hội. Trong
102
những năm vừa qua, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
đã thu hút được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia.
Thực hiện sự chỉ đạo của UBND tỉnh về công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật kiếu nại, tố cáo nói chung và pháp luật về đất đai nói riêng, trên
cơ sở đó hàng năm UBND huyện Cư M’gar giao cho Phòng tư pháp tham
mưu xây dựng quyết định kế hoạch hàng năm về tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về khiếu nại, tố cáo, đất đai. Giao cho một số phòng ban có liên quan nếu
thuộc lĩnh vực đất đai thì giao cho P TN & MT tham mưu thực hiện. Chỉ đạo
UBND các xã, thị trấn cụ thể hóa quyết đinh, kế hoạch hàng năm của huyện
để ban hành quyết định, kế hoạch triển khai công tác tuyên truyền phổ biến
đến cán bộ, công chức và nhân dân trên địa bàn Thôn, Buôn, Tổ dân phố.
Đồng thời giao cho thanh tra huyện có trách nhiệm tham mưu hướng dẫn về
mặt chuyên môn, nghiệp vụ. có báo cáo kết quả thực hiện 6 tháng, năm về
UBND huyện để theo dõi theo quy định.
Căn cứ Đề án 1-1133/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ “Tiếp tục
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo, ở cấp
xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016” từ tháng 6/2013 đến tháng 6/2016.
Đối với UBND huyện Cư M’gar đã ban hành 4 quyết định, kế hoạch về công
tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về khiếu nại, tranh chấp, tố cáo
trên địa bàn huyện. Đồng thời đã hướng dẫn cán bộ, công chức cập nhật trên
cổng thông tin điện tử của Thanh tra Chính phủ về bộ tài liệu theo Đề án 1-
1133, với kết quả cụ thể như sau: Một là, truyên truyền pháp luật về tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo qua phương tiện truyền thông và hình thức khác;
UBND huyện đã chỉ đạo Phòng tư pháp in ấn 9000 bản tin pháp luật. Thanh
tra huyện phát 174 đĩa CD-Room cho 17 xã, thị trấn, Đài truyền thanh huyện
xây dựng 14 tin bài, với thời lượng 18 phút/ 1 tin bài, 15 chuyên mục, với thời
lượng 75 phút, phát song bằng tiếng Êđê trên hệ thống truyền thanh của
103
huyện, Phòng Văn hóa - thông tin tuyên truyền lưu động 1 ngày / 1 tháng đến
nhân dân các xã, thị trấn. Ngoài ra nhân ngày pháp luật hàng tháng các Phòng,
Ban, Đoàn thể thuộc huyện cũng triển khai các văn bản pháp luật về khiếu
nại, tranh chấp, tố cáo đến cán bộ, công chức thuộc cơ quan, đơn vị mình để
nắm bắt và tổ chức thực hiện theo quy định. Hai là, tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật qua tập huấn ch cán bộ, công chức, người có trách nhiệm;
6 tháng cuối năm 2013, UBND huyện giao Phòng Tư pháp, Thanh tra huyện
tham mưu, triển khai 1 lớp tập huấn các văn bản Luật khiếu nại, Luật tố cáo
năm 2011, Nghị định 75, 76 hướng dẫn thi hành một số điều Luật khiếu nại,
Tố cáo và một số văn bản có liên quan đến công tác tiếp công dân, nhận, phân
loại, giải quyết đơn khiếu nại, tranh chấp, Tố cao của công dân với hơn 200
người tham dự. Năm 2014, UBND huyện chỉ đạo Phòng Tư pháp phối hợ
Thanh tra huyện và Trung tâm chính trị huyện tổ chức 2 lớp phổ biến, tuyên
truyền pháp luật về tiếp công dân, khiếu nại, tranh chấp đất đai, tố cáo đến
1134 cán bộ Thôn, Buôn, Tổ dân phố trên địa bàn huyện tham dự, năm 2015
UBND huyện chỉ đạo Thanh tra huyện phối hợp với HCCB huyện Cư M’gar
tổ chức 1 lớp tập huấn nghiệp vụ về Luật Tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo đến
68 cán bộ là Chủ Tịch, Phó chủ tịch HCCB và các đồng chí Uỷ viên ban kiểm
tra HCCB 17 xã, thị trấn trên địa bàn huyện. 6 tháng đầu năm, nhằm thực hiện
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phối hợp giữa các Bộ, Ngành,
UBND các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân và trên cơ sở Công văn của HND tỉnh Đắk Lắk về việc phối hợp mở lớp
tập huấn tuyên truyền pháp luật năm 2016 tại HND huyện Cư M’gar. Ngày
22/4/2016, HND huyện phối hợp với Thanh tra huyện tổ chức 1 lớp tập huấn
tuyên truyền Luật Tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật Tố cáo đến 100 cán bộ
là Chi Hội trưởng hoặc Chi Hội phó HND 17 xã, thị trấn trên địa bàn huyện.
104
Đối với UBND các xã, thị trấn: Từ 6 tháng cuối năm 2013 đến 6 tháng
đầu năm 2016, UBND các xã, thị trấn bàn hành 52 Quyết định, kế hoạch và 2
văn bản khác về công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo
cho đơn vị mình. kết quả thưch hiện như sau: Một là, UBND các xã, thị trấn
đã phổ biến, giáo dục pháp luật về tranh chấp, KN, TC trên phương tiện Đài
truyền thanh xã, thị trấn với số lượng Tuyên truyền pháp luật về KN, TC qua
loa truyền thanh xã, thị trấn với 17 tin bài, thời lượng 181 phút. Qua 3 chuyên
mục với thời lượng 40 phút. Qua hình thức khác có 200 tờ gấp. Tiến hành bồi
dưỡng, tập huấn 13 cuộc, với 349 lượt cho cán bộ, công chức, người có trách
nhiệm về pháp luật tranh chấp , KN, TC. Tuyên truyền phổ biến trực tiếp cho
nhân dân 177 cuộc, với 13.144 lượt người tham dự. Đồng thời cấp phát 5
cuốn tìm hiểu Luật tranh chấp, KN, TC, sách hỏi đáp luật KN, Luật TC, trong
đó tờ gấp bằng tiếng Êđê có 1600. Hai là, UBND các xã, thị trấn bồi dưỡng,
tập huấn cho cán bộ, công chức, người có trách nhiệm; Tập huấn 13 cuộc, so
với số lượng 349 cán bộ, công chức, người có trách nhiệm pháp luật về tranh
chấp, KN, TC. Tuyên truyền, phổ biến trực tiếp đến nhân dân 177 cuộc, so
với 13.144 lượt người tham dự. Thông qua tuyên truyền vien pháp luật, câu
lạc bộ phụ nữ, Nông dân với kiến thức pháp luật, HCCB, Hội nghị cán bộ,
công chức, lồng ghép các Ban, Ngành đoàn thể của xã, thị trấn, công tác hòa
giải, công tác tiếp công dân, công cuộc họp phát động quần chúng ở Thôn,
Buôn, Tổ dân phố với số lượng 300 buổi và 11.089 người tham dự.
Như vậy trình độ, kiến thức về pháp luật đất đai của các cán bộ quản lý,
tổ chức, công dân đã được nâng dần từng bước theo hướng tích cực. Tuy
nhiên, tình hình tranh chấp, những bất cập, hạn chế của công tác giải quyết
tranh chấp về đất đai ở nước ta thời gian gần đây còn diễn ra phổ biến mà đó
là một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, lỏng lẻo trong công
tác quản lý nhà nước về đất đai, theo đánh giá của Đảng ta là bởi chưa làm tốt
105
việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó có pháp luật đất đai.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai chưa được triển
khai đồng đều ở các địa phương.
Hiện nay, còn nhiều địa phương chưa quan tâm tới công tác này. Hiệu
quả triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
chưa thật cao. Nhận thức về pháp luật thiếu toàn diện, nhất là nhận thức về sự
thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, quyền và nghĩa vụ
của cơ quan quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế trên, nhằm nâng
cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật
tranh chấp, khiếu nại cho mọi tầng lớp nhân dân, đòi hỏi phải giải thích tất cả
các quy định trong các văn bản pháp luật đất đai, pháp luật tranh chấp, khiếu
nại và phải giải thích trước khi tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó,
chứ không chỉ giải thích khi nảy sinh vướng mắc, tranh chấp, khiếu nại, trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ.
3.2.5. Công tác xây dựng lực lượng cán bộ, công chức có trình độ,
năng lực giải quyết tranh chấp đất đai
Thực tế cho thấy, công tác xây dựng, tổ chức thực hiện các văn bản pháp
luật đất đai thường bị chậm trễ; kế hoạch xây dựng, tổ chức triển khai không
thực hiện được; chưa phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn, giải quyết tranh
chấp không thấu tình, đạt lý điều này có nguyên nhân từ sự yếu kém của đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp về đất đai. Vì vậy, việc nâng cao trình độ, năng
lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và
cán bộ, công chức làm công tác áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về đất
đai là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao
trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức này cần chú ý
một cách toàn diện các yếu tố khác nhau như tổ chức, nhân sự, cơ chế, điều
106
kiện vật chất kỹ thuật...; có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác tổ chức và cán
bộ; tạo mọi điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động áp dụng pháp luật giải
quyết tranh chấp về đất đai. Trong những năm tới, để nâng cao trình độ đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai và áp dụng pháp luật giải
quyết tranh chấp về đất đai, huyện Cư M’gar cần phải quán triệt chủ trương:
“Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ chuyên môn, và năng lực thực hiện. Quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý..., trước hết là đội ngũ cán bộ chủ
chốt..., coi trọng cả đức và tài, đức là gốc” Cụ thể:
Một là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, công
chức làm công tác quản lý nhà nước về đất đai và áp dụng pháp luật giải
quyết tranh chấp về đất đai. Do tính chất phức tạp của lĩnh vực đất đai, đội
ngũ cán bộ, công chức này cần phải thật sự tâm huyết, gắn bó với công việc
và phải được trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là phải có trình
độ chuyên môn Đại học Luật; phải không chỉ chuyên sâu một lĩnh vực về đất
đai, mà còn phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác như kiến thức pháp luật nói
chung, tài chính, ngân hàng, thuế, xây dựng...
Hai là, khắc phục kịp thời những hạn chế về năng lực, trình độ chuyên
môn để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, cũng như áp dụng
pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp
luật cho cán bộ, công chức của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có ý thức pháp luật cao, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ quản lý và để góp phần tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật trong xã hội. Đặc biệt đối với cán bộ lãnh đạo, như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy: “Riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành nào thì phải biết chuyên
môn ngành ấy”.
107
Như vậy, đối với những người đứng đầu cơ quan Phòng Tài nguyên&
Môi trường từng cấp thì phải là người có năng lực thực chất trong chỉ đạo,
quản lý, điều hành. Am hiểu sâu rộng về kiến thức pháp luật và nhận thức
đúng đắn về vai trò của cơ quan chuyên môn. Nên tránh tình trạng bố trí
trước, đào tạo sau, đề bạt vào cương vị lãnh đạo do nể nang, tình cảm hoặc
chắp vá. Vì điều này sẽ làm lãng phí cán bộ do không phát huy được khả năng
chuyên môn cũng như công tác quản lý, dẫn đến tình trạng không đủ khả năng
tham mưu cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về đất
đai, trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai.
Ba là, người cán bộ làm công tác giải quyết tranh chấp về đất đai phải
thực sự gương mẫu, “vừa hồng, vừa chuyên” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Người cán bộ phải đoàn kết, nhất trí, giữ vững đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính,
kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí, hết lòng, hết dạ phục vụ nhân dân,
chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” .
Bốn là, để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất
đai và giải quyết tranh chấp về đất đai, phải tuyển dụng cán bộ đúng theo tiêu
chuẩn và yêu cầu nhiệm vụ của các chức danh, phân công, bố trí cán bộ phù
hợp với chuyên môn và sở trường, khắc phục tình trạng mà Đảng ta đã chỉ ra:
“đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ” .
Năm là, phải có kế hoạch, phương thức kiểm tra, đánh giá đúng năng
lực cán bộ, phân loại trình độ cán bộ để có kế hoạch đào tạo cụ thể, hiệu quả.
Kiểm tra thực hiện công việc và nhiệm vụ trong cơ quan; qua đó chính là
chúng ta đã kiểm tra, đánh giá được năng lực và trình độ cán bộ. Đảng ta
trong tổ chức và hoạt động của mình, luôn luôn coi trọng công tác kiểm tra,
coi đó là một nguyên tắc, một mắt khâu quan trọng của quy trình lãnh đạo và
công tác xây dựng Đảng. Đảng thường xuyên quan tâm đến khâu mấu chốt là
kiểm tra thực hiện và kiểm tra sự chấp hành; đồng thời xác định kiểm tra là
108
một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng; lãnh đạo mà buông lỏng việc
kiểm tra, thì cũng bằng không, coi như không lãnh đạo. Mạnh dạn sử dụng, đề
bạt đội ngũ cán bộ trẻ, có phẩm chất, đạo đức và năng lực, được đào tạo chính
quy vào giữ các chức vụ có liên quan đến đất đai. Có quan điểm tích cực
trong việc sắp xếp các cán bộ kém năng lực, không đáp ứng yêu cầu và nhiệm
vụ được giao; đồng thời xử lý kiên quyết, nghiêm minh những cán bộ có hành
vi vi phạm pháp luật, tiếp tay cho vi phạm pháp luật về đất đai.
Sáu là, tăng cường đầu tư khoa học công nghệ, điều kiện vật chất cho
công tác quản lý đất đai; từng bước hiện đại hoá hệ thống quản lý đất đai bằng
công nghệ tin học trên cơ sở xây dựng hệ thống dữ liệu địa chính quốc gia.
Hỗ trợ kinh phí, tạo điều kiện về thời gian cho cán bộ theo học các lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học... để họ khai thác hiệu quả khoa học công
nghệ và các thông tin đã được trang bị.
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai nói chung và
giải quyết khiếu nại về đất đai nói riêng ở tất cả các cấp từ Trung ương đến
địa phương. Đất đai là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, thường hay xảy ra khiếu
nại và vi phạm pháp luật. Do đó việc thường xuyên quan tâm kiện toàn về tổ
chức, cán bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai là hết sức cần thiết
và quan trọng; cần chú ý tăng thêm biên chế, lựa chọn những cán bộ có năng
lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc để bố trí vào cơ
quan quản lý đất đai, bởi chính họ cũng là người trực tiếp tham gia giải quyết
khiếu nại về đất đai. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã chất
lượng công việc thấp, tiếp dân kém hiệu quả cần được bồi dưỡng nâng cao
nghiệp vụ. Thành lập các cơ quan định giá đất độc lập và chuyên nghiệp hỗ
trợ quá trình xác định giá đất cụ thể, để làm căn cứ tính bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất và các trường hợp khác theo quy định của
Luật Đất đai năm 2013.
109
KẾT LUẬN
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản vô cùng quý giá,
không thể thay thế được đối với tất cả các quốc gia ở mọi chế độ chính trị.
Đất đai có vị trí và tầm quan trọng vô cùng lớn lao trong đời sống chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội của mọi quốc gia, dân tộc. Nhận thức rất rõ vị trí,
tầm quan trọng của đất đai nên qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển
của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có những chủ trương, chính sách
nhằm quản lý và sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên đất đai, phục vụ
một cách tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Để phát
huy được vai trò của đất đai trong đời sống thì chúng ta phải tăng cường
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai mà một trong những nội
dung quan trọng của nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai là hoạt
động áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp, khiếu nại về đất đai. Do
vậy, áp dụng pháp luật giải quyết tốt các tranh chấp về đất đai góp phần
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai. Áp
dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật nhưng là hình thức có
tính chất đặc thù. Tính đặc thù của áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ là nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật,
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để ra các quyết định
làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ
thể. Điều này cho thấy áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt
của cơ quan nhà nước nói chung và của cơ quan hành chính nhà nước nói
riêng, mà biểu hiện rõ nhất là các chủ thể pháp luật khi thực hiện các quy
định của pháp luật luôn có sự can thiệp của nhà nước hay nhà chức trách có
thẩm quyền, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện triệt để,
110
hiệu lực và hiệu quả khi tác động vào các quan hệ của đời sống xã hội.
Trên cơ sở đó, áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của
Uỷ ban nhân dân cấp huyện là việc người có chức trách thẩm quyền của Uỷ
ban nhân dân cấp huyện bằng quyền hạn của mình, căn cứ vào quy định
của pháp luật ban hành một quyết định hành chính giải quyết các tranh
chấp về đất đai nhằm để xác định tính chất đúng, sai của nội dung tranh
chấp, yêu cầu giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hay toàn bộ quyết
định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị tranh chấp; buộc bồi
thường thiệt hại (nếu có); khẳng định người tranh chấp có quyền tranh chấp
tiếp, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án hay không; khôi phục uy
tín, danh dự đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tranh chấp. Trong những năm qua, nhất là từ khi có Luật đất đai năm 2013
đến nay, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của
các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của Uỷ ban nhân dân cấp
huyện nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần đi vào nền nếp,
giải quyết được một số lượng lớn các vụ việc, chất lượng giải quyết được
nâng lên, nhiều “điểm nóng”, nhiều vụ việc phức tạp, gay gắt, kéo dài đã
được giải quyết dứt điểm, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
đã được khôi phục góp phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hoạt động áp dụng pháp luật trong giải
quyết tranh chấp về đất đai còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Nhờ vậy,
Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác tiếp dân và giải
quyết tranh chấp về đất đai đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới,
Bộ Chính trị yêu cầu các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu; Quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương,
111
chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác tiếp công dân, giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên
quan đến quyền và lợi ích của người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài
nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết tranh chấp, khiếu nại
theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng
nhân dân trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ
quan có thẩm quyền giải tranh chấp, quyết khiếu nại.
112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay
của tiến sĩ Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 4/2001
2. Tô Văn Châu (2003), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với đất đai ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Phạm Hữu Nghị với bài viết tiêu đề Về thực trạng chính sách đất đai ở
Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2002
4. Chính phủ (2014), Chỉ thị Số: 01/CT-TTg, ngày 22 tháng 01 năm 2014
của Chính phủ về việc triển khai luật đất đai
5. Chính phủ(2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất
đai;
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định về giá đất;
7. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất;
8. Chính phủ (2015), Luật số 77/2015/QH13, ngày 19 tháng 6 năm 2015,
Luật tổ chức Chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
9. Chính phủ (2012), Nghị định số 75/2012/NĐ-CP , ngày 3 tháng 10 năm
2012 quy định chi tiết một số điều luật khiếu nại;
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 15/NĐ-CP, ngày 27 tháng 2 năm 2014
của chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi
hành luật hòa giải ở cơ sở và các văn bản pháp luật có liên quan;
113
11. Chính phủ (2014), Nghị Định Số 37/2014/NĐ-CP, ngày 05 tháng 05
năm 2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
12. Bộ tư pháp (2016), Thông tư số 02/TT-BTP , ngày 1 tháng 2 năm 2016
quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phán
ánh trong thi hành luật dân sự;
13. Quốc Hội (2012), Nghị quyết số 30/2012/QH13, ngày 21 tháng 6 năm
2012, về chất vấn và trả lời chất vấn;
14. Quốc Hội (2012), Nghị định số 39/2012/QH13, ngày 23/11/2012 của
quốc hội về việc cấp giấy CNQSDĐ
15. Quốc Hội (2015), Luật dân sự số 91/2015/QH13, ngày 24 tháng 11
năm 2015;
16. Quốc Hội (2013) Luật số 45/2013/QH13, ngày 29 tháng 11 năm 2013
quy định về luật đất đai
17. Thông tư Liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, ngày 28 tháng 8
năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ
Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
18. Thông tư Liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC, ngày 04
tháng 4 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ
trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Trung
tâm Phát triển quỹ đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường;
19. Thông tư Liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP, ngày 04 tháng 4
năm 2015.
114
20. của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định việc tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất
có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất;
21. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg, ngày
25/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ
chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương;
22. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg, ngày
25/3/2015 của Thủ tướng chính phủ ban hành quy chế thưch hiện cơ
chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương;
23. Thủ tướng Chính phủ (2014), chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 22/1/2014 về
việc triển khai thi hành luật đất đai;
24. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chỉ thị số 05/CT-TTg, ngày 4 tháng 4
năm 2015 về tập trung chỉ đạo và tăng cường biện pháp thực hiện để
trong năm 2013 hoàn thành cơ bản việc cấp giấy CNQSDĐ, QSH nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất;
25. Thủ tướng Chính phủ (2014), Chỉ thị 1474/CT-TTg, ngày 28 tháng 8
năm 2014 của thủ tướng chính phủ về thực hiện một số nhiệm vụ, giải
pháp cấp bách để chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và xây dựng cơ
sở dữ liệu đất đai;
26. Uỷ ban nhân dân (2013), Chỉ thị 08/2013/CT-UBND, ngày 18 tháng
11 năm 2013 quy định về việc tăng cường công tác tiếp công dân, xử lý
đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa ban tỉnh Đắk Lắk;
115
27. Uỷ ban nhân dân (2014), Chỉ thị số 11/2014/CT-UBND, ngày 28
tháng 10 năm 2014 về việc triển khai thực hiện luật hòa giải ở cơ sở
trên địa ban tỉnh đắk lắk;
28. Uỷ ban nhân dân (2014), Chỉ thị số 09/2014/CT-UBND, ngày 5 tháng
10 năm 2014 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với
các trường hợp vi phạm pháp luật đất đai trên địa ban tỉnh đắk lắk;
29. Trung ương (2012), Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 31 tháng 10 năm
2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
30. Giáo trình khoa tài nguyên và môi trường nông nghiệp trường đại học
huế của tiến sỹ Nguyễn Hữu Ngữ.
31. Đại tư điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, nhà xuất bản văn hóa năm
2009, trang 138.
32. Tư điển tiếng Việt viện ngôn ngữ, nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000 trang
813.
33. Trần Quang Huy với bài Luật Đất đai năm 2003 và vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế, Tạp chí luật học số 3/2005
34. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
đất đai qua thực tiễn huyện Thái Bình, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
35. Trần Văn Sơn với bài Tăng cường giám sát việc giải quyết tranh chấp,
khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp tăng cường
pháp chế XHCN, Tạp chí Lập pháp tháng 8/2005
36. Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Hà Văn Khanh, năm 2007 với đề
tài Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước về đất đai ở
thành phố Hà Nội;
116
37. Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Trần Nam Khởi, năm 2008 với
đề tài Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước ở cấp huyện, huyện Bạc Liêu hiện nay.
38. Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar, Báo cáo kết quả công tác tiếp công
dân, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo từ năm 2012 đến năm
2016, ngày 22 tháng 9 năm 2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_dat_dai_thuoc_tham_quyen_cua.pdf