Luận văn Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước

Nước ta đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những đổi thay đáng phấn khởi, những cơ hội phát triển, các DN Việt Nam nói chung, các DNNN Việt Nam nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Từ một nền kinh tế bao cấp sang cơ chế mới, chịu sự điều chỉnh của các quy luật kinh tế thị trường, đòi hỏi các DN phải thực sự chuyển biến về mọi mặt, trư ớc hết phải đổi mới các công cụ quản lý kinh tế, trong đó có KTQT và PTKD.

pdf176 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2412 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ềm đã cài đặt), trình độ mã hóa các chỉ tiêu để thu nhập và xử lý số liệu của người sử dụng máy, đặc biệt là kế toán tổng hợp và kế toán trưởng DN. Đồng thời, quá trình sử dụng các phần mềm, cần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp yêu cầu thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho quản trị DN. Các chỉ tiêu được phân tổ, tổng hợp có thể xây dựng (in ra) dưới dạng cột số liệu, đồ thị, biểu đồ để người sử dụng thông tin có thể nhanh chóng nhận ra quá trình biến đổi, xu hướng phát triển của chỉ tiêu kinh tế, từ đó có thể đưa ra những quyết định quản lý phù hợp, kịp thời. Ví dụ: Công ty Sứ Thanh Trì có thể phân chia chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sản phẩm thành doanh thu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; doanh thu tiêu thụ từng loại sản phẩm theo từng đợt khuyến mại; theo từng mã hiệu sản phẩm, ví dụ VI2. VI5... để đánh giá chi tiết cụ thể kết quả thực hiện chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sản phẩm, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho quản trị DN. + Phương pháp liên hệ cân đối: Dùng để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố đến chỉ tiêu phân tích trong trường hợp các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ cân đối (tổng, hiệu) với chỉ tiêu phân tích. Các DNNN hiện nay đã sử dụng phương pháp liên hệ cân đối trong phân tích khả năng thực hiện chỉ tiêu kế hoạch với nguồn lực sẵn có (phân tích dự đoán) để đưa ra biện pháp đảm bảo và huy động các nguồn lực cho sản xuất. Trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, việc đảm bảo cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận của chỉ tiêu rất quan trọng. Kết quả thực hiện chỉ tiêu phụ thuộc vào kết quả thực hiện từng bộ phận cấu thành của chỉ tiêu. Do vậy, các DNNN nên sử dụng rộng rãi phương pháp liên hệ cân đối khi phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu nhằm đánh giá đúng kết quả thực hiện chỉ tiêu là do bộ phận nào tăng, giảm tác động đến, từ đó đi sâu phân tích nguyên nhân ảnh hưởng cụ thể: Ví dụ: Error! Kết quả thực hiện chỉ tiêu tổng lợi nhuận phụ thuộc lợi nhuận đạt được từ 3 loại hoạt động. Có thể dùng phương pháp liên hệ cân đối để xác định mức độ ảnh hưởng của lợi nhuận từng loại hoạt động đến chỉ tiêu tổng lợi nhuận trước thuế của DN như sau (ví dụ tại DNNN A). Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu Kế hoạch Thực tế Tăng giảm Tổng lợi nhuận trước thuế 5.000.000 5.200.000 +200.000 Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 4.000.000 4.300.000 +300.000 - Lợi nhuận từ hoạt động tài chính 800.000 800.000 0 - Lợi nhuận khác 200.000 100.000 -100.000 Qua số liệu trên ta thấy sở dĩ tổng lợi nhuận trước thuế thực tế tăng 200.000 (NĐ) so với kế hoạch là do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng 300.000 (NĐ), lợi nhuận hoạt động tài chính không thay đổi, nhưng lợi nhuận khác giảm 100.000(NĐ). Cần đi sâu phân tích nguyên nhân ảnh hưởng cụ thể đến từng loại lợi nhuận để có biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục tồn tại, nhằm tiếp tục tăng tổng lợi nhuận trước thuế trong kỳ tới. Tương tự, có thể sử dụng phương pháp liên hệ cân đối để phân tích mức độ ảnh hưởng của 3 khoản mục giá thành đến tổng giá thành của từng loại sản phẩm (tính theo cùng số lượng sản phẩm thực tế), ảnh hưởng của từng điều khoản chi phí đến chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp... Ngoài ra, tùy theo điều kiện nguồn số liệu thu thập được, có thể sử dụng phương pháp đồ thị, phương pháp dãy số thời gian, phương pháp tương quan... để phân tích dự đoán về xu hướng phát triển, tính qui luật của hiện tượng kinh tế để phục vụ cho việc hoạch định chiến lược và xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, sản xuất, tiêu thụ... cho phù hợp. b) Hoàn thiện việc tổ chức thực hiện qui trình phân tích Các DNNN hiện nay tổ chức thực hiện qui trình phân tích chưa chu đáo, tỉ mỉ và chưa khoa học nên kết quả phân tích còn nhiều hạn chế, chưa phục vụ tốt cho yêu cầu quản trị DN. Cần phải tổ chức thực hiện tốt qui trình phân tích, cụ thể: * Lập kế hoạch phân tích: Căn cứ vào yêu cầu thông tin PTKD cần cung cấp cho quản trị DN, căn cứ vào trình độ năng lực của cán bộ thực hiện PTKD và điều kiện cụ thể của DN, cần lập kế hoạch PTKD bao gồm những nội dung cụ thể: + Xây dựng chương trình phân tích chỉ rõ mục tiêu, nội dung, phạm vi, thời gian phân tích. Để thực hiện tốt công việc phân tích, trước hết phải xác định rõ mục tiêu của từng cuộc phân tích. Trong năm sẽ thực hiện những cuộc phân tích cụ thể nào? Phân tích toàn bộ các nội dung hoạt động SXKD hay chỉ phân tích một chuyên đề nào đó? Cuộc phân tích nào thực hiện trên phạm vi toàn DN còn cuộc phân tích nào chỉ phân tích ở từng bộ phận (bộ phận cụ thể nào?), thời gian bắt đầu và kết thúc của từng cuộc phân tích. Tuy nhiên có thể không tổ chức thành từng cuộc phân tích thì cũng phải qui định rõ những thông tin cần cung cấp vào thời gian nào cho các bộ phận chức năng trong việc thực hiện PTKD. + Xác định rõ loại hình phân tích, chỉ tiêu và phương pháp phân tích cho từng cuộc phân tích hay từng giai đoạn phân tích. Chẳng hạn, phòng kế toán thực hiện phân tích thường xuyên tình hình công nợ và thanh toán, tiền vay, tiền gửi, tình hình sản xuất (thành phẩm, nguyên liệu chế biến), tình hình tiêu thụ... để cung cấp thông tin nhanh cho nhà quản trị biết được tiền còn bao nhiêu? Phải vay bao nhiêu? Dự trữ nguyên vật liệu nhiều hay ít? Tồn kho thành phẩm như thế nào?... Phương pháp phân tích chủ yếu là phương pháp so sánh (với kế hoạch, định mức, kỳ trước...) để nhanh chóng cung cấp thông tin cho nhà quản trị kịp thời. Định kỳ (tháng, quí, năm) phòng kế toán phân tích các chỉ tiêu chi phí, giá thành, doanh thu, kết quả, số lượng sản phẩm sản xuất tiêu thụ theo đơn đặt hàng của từng loại sản phẩm chủ yếu... Phương pháp phân tích không chỉ dừng lại ở so sánh mà có thể sử dụng các phương pháp phân tổ tổng hợp, liên hệ cân đối, thay thế liên hoàn, số chênh lệch hay những phương pháp phân tích khác nếu có điều kiện về tài liệu và trang bị phương tiện kỹ thuật. + Tổ chức phân công người thực hiện rõ ràng, cụ thể: Ai đảm nhiệm phần việc nào, thời gian hoàn thành công việc. Đồng thời nếu có nhu cầu mời chuyên gia (ví dụ phân tích phương án thực hiện dự án mới thực hiện lần đầu...) thì cần xác định ngay từ khi lập kế hoạch phân tích cho chủ động. Tuy nhiên, theo mô hình tổ chức PTKD kết hợp thì kế hoạch PTKD chính là một bộ phận trong kế hoạch công tác của từng phòng, ban chức năng, nhưng cũng phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể. Riêng đối với tổ chuyên trách PTKD của DN cần chú ý lập kế hoạch phân tích một cách chu đáo, tỷ mỷ. * Sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra tài liệu phân tích: - Cần sử dụng kết hợp các nguồn tài liệu trong quá trình PTKD. Các tài liệu thực tế và kế hoạch (dự toán) cho ta biết kết quả thực hiện chỉ tiêu, tài liệu hạch toán chi tiết, thống kê và nghiệp vụ sẽ cho ta thấy được diễn biến của quá trình thực hiện chỉ tiêu, còn những tài liệu ngoài hạch toán như báo cáo tổng kết, biên bản thanh tra, báo cáo kiểm toán, ý kiến đóng góp của quần chúng tích cực, của các tổ chức Đảng, Đoàn, Công đoàn cho ta thấy rõ nguyên nhân cụ thể của việc hoàn thành hay không hoàn thành chỉ tiêu. Việc tham khảo các tạp chí chuyên ngành, tạp chí kinh tế, kế toán... sẽ giúp cho việc đánh giá chính xác các nhân tố và nguyên nhân khách quan cũng như giúp cho việc phân tích dự đoán được sát đúng để hoạch định chính sách kinh tế của DN cho phù hợp. + Khi phân tích cần căn cứ vào mục đích, nội dung, phạm vi của từng cuộc phân tích để sưu tầm các tài liệu cho phù hợp, đảm bảo tiết kiệm thời gian, nhanh chóng đưa ra kết luận thỏa đáng. + Cần chú ý kiểm tra tài liệu sử dụng trước khi phân tích, đảm bảo sự phù hợp về nội dung kinh tế, phương pháp tính toán đối với chỉ tiêu giữa kỳ kế hoạch và thực tế, đảm bảo sự hợp lý, trung thực của số liệu tính toán nhằm đưa ra kết quả phân tích đáng tin cậy. Thông thường, nếu dùng kết quả thực tế đã qua kiểm toán nội bộ hay kiểm toán độc lập sẽ đảm bảo độ tin cậy cao hơn. * Thực hiện công việc phân tích Căn cứ vào chỉ tiêu phân tích mà lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp. Cần thực hiện công việc phân tích theo một trình tự hợp lý. Khi đã xác định được chỉ tiêu phân tích, có thể tiến hành công việc phân tích theo trình tự sau: + Đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu: Dùng phương pháp so sánh theo nhiều góc độ: So sánh theo chiều ngang, chiều dọc, so sánh cả số tuyệt đối và tương đối, so sánh bằng số liệu hay biểu đồ... tùy theo đặc điểm của chỉ tiêu phân tích và yêu cầu về thông tin cho quản lý. Trong quá trình đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu cần kết hợp sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp phân tổ - tổng hợp theo những tiêu thức hợp lý để đạt được mục đích phân tích đã đặt ra. + Xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích: Tùy theo mối quan hệ giữa nhân tố ảnh hưởng và chỉ tiêu phân tích mà sử dụng phương pháp thích hợp để xác định mức độ ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu phân tích. Nhân tố có quan hệ dạng tích số với chỉ tiêu phân tích có thể sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn hay phương pháp số chênh lệch, dạng thương số có thể sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn, dạng tổng (hiệu) có thể sử dụng phương pháp liên hệ cân đối. Ngoài ra, có thể sử dụng phương pháp đồ thị, phương pháp tương quan... trong phân tích dự đoán về xu hướng phát triển, tính qui luật của sự biến động của chỉ tiêu phân tích... + Phân tích mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng cụ thể dẫn đến kết quả đó. * Kết thúc quá trình phân tích: + Phải lập những báo cáo phân tích trình bày đầy đủ nội dung và kết quả phân tích theo các mục tiêu và yêu cầu đã đặt ra cho việc phân tích. Kết quả phân tích phải được minh họa bằng những số liệu, biểu đồ một cách rõ ràng. Phải diễn giải ngắn gọn, dễ hiểu những nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng, biện pháp khắc phục hạn chế, phát huy ưu điểm... Báo cáo phân tích thường xuyên cần đơn giản, gắn gọn, nêu bật những vấn đề trọng tâm cần chú ý giải quyết. Báo cáo phân tích định kỳ cần trình bày đầy đủ, chi tiết các nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng, những điển hình tiên tiến, những biểu hiện tiêu cực hay thiếu sót, những khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ... + Kết quả phân tích phải được cung cấp cho người có chức năng và trách nhiệm giải quyết những vấn đề đã đưa ra. Có thể thông báo kết quả phân tích trong các cuộc họp và phải gửi kèm văn bản cho những người có liên quan hoặc công khai tại địa điểm phù hợp chứ không chỉ đọc trong cuộc họp. Những ý kiến nhận xét và biện pháp đưa ra cần được thảo luận trong các cuộc họp giao ban định kỳ hoặc các cuộc hội nghị, đại hội đại biểu công nhân viên chức, đại hội Đảng, Đoàn... vì một trong những nội dung quan trọng trong các cuộc sinh hoạt của các tổ chức này là bàn về những biện pháp nâng cao hiệu quả SXKD. Việc thông báo rộng rãi kết quả phân tích sẽ có tác dụng động viên những tập thể, cá nhân điển hình, chỉ rõ những tồn tại, thiếu sót của từng bộ phận, cá nhân trong SXKD, góp phần phát huy dân chủ ở cơ sở, thực sự phát huy tác dụng của kết quả phân tích trong thực tiễn SXKD của DN. 3.3.3. Hoàn thiện tổ chức quản lý và sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp 3.3.3.1. Hoàn thiện tổ chức quản lý thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh Song song với việc hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD cần hoàn thiện tổ chức quản lý thông tin KTQT và PTKD với mục đích: - Đảm bảo tiện lợi cho việc sử dụng khi cần thiết. - Đảm bảo an toàn, bí mật thông tin của đơn vị. Tùy từng DN với điều kiện cụ thể nhất định mà có chế độ quản lý phù hợp. + Đối với những DN thực hiện thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin thủ công, thông tin KTQT và PTKD thường được lưu giữ trên giấy nên cần lưu giữ chúng trong những tập hồ sơ, file tài liệu theo thứ tự sắp xếp phù hợp để vừa đảm bảo cho việc tìm kiếm thông tin cần thiết được nhanh chóng, tiện lợi, vừa đảm bảo không hư hỏng tài liệu, thông tin. + Đối với những DN thực hiện thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin trên máy, thông tin KTQT và PTKD được lưu trữ trên các đĩa băng theo cấu trúc của các tập tin cơ sở dữ liệu. Một cơ sở dữ liệu có thể chứa nhiều thông tin nhưng các nhà quản trị không phải đều cần thiết sử dụng mọi thông tin sẵn có mà chỉ có một bộ phận thông tin nhất định hữu ích cho từng nhà quản trị nhất định, do vậy mỗi người chỉ cần và chỉ nên biết những gì liên quan đến mình. Do vậy, DN cần sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu phù hợp để đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho người sử dụng, sao cho người sử dụng có thể truy xuất những thông tin cần thiết có liên quan đến nhiệm vụ, chức năng của mình một cách nhanh chóng mà không cần và không được xem toàn bộ các file dữ liệu. Hệ quản trị dữ liệu phải đảm bảo các yêu cầu cụ thể sau: + Đảm bảo truy xuất thông tin thuận lợi. + Đảm bảo lưu giữ dự phòng các thông tin: Thông tin KTQT và PTKD được tạo ra phải có đĩa sao chép dự phòng cả tập tin. Đĩa sao chép dự phòng phải được cất giữ ở địa điểm khác để tránh thiên tai, hỏa hoạn... có thể làm hỏng tập tin nguồn. Hoặc có thể thiết kế một bộ phận lưu trữ thông tin cách xa trung tâm chính... + Có chế độ đảm bảo an toàn thông tin phòng ngừa gian lận, rủi ro. DN cần phân chia quyền hạn tiếp cận thông tin tùy theo nhiệm vụ, chức năng của nhà quản trị từng cấp mà được tiếp cận thông tin ở mức độ phù hợp, giảm tối thiểu các nguy cơ làm hỏng, mất thông tin. Có thể giới hạn sử dụng thông tin bằng cách luôn khóa lối vào tập tin, ai truy nhập hệ thống phải có mật mã (mật mã cho hệ thống và mật mã riêng cho từng tập tin) mới được sử dụng, đảm bảo chỉ có những người có trách nhiệm liên quan đến tập tin nào thì mới có thể thâm nhập để sử dụng tập tin đó. Những yêu cầu này là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay vì do trình độ sử dụng máy vi tính của nhiều cán bộ quản lý chưa thành thạo nên có nguy cơ làm hỏng, mất thông tin. Mặt khác, thông tin KTQT và PTKD là nguồn tin chi tiết, chỉ phục vụ cho quản trị nội bộ DN nên cần được bảo mật, phòng ngừa đối thủ cạnh tranh... 3.3.3.2. Hoàn thiện tổ chức sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh Để thông tin KTQT và PTKD thực sự trở nên hữu ích đối với nhà quản trị DN trong việc ra các quyết định quản lý, cần tổ chức sử dụng thông tin KTQT và PTKD trong quản trị DN. Sau khi đã thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin KTQT, cần phải thực hiện tư vấn cho nhà quản trị trong việc sử dụng thông tin cho từng tình huống ra quyết định. Kế toán trưởng cùng với các trưởng phòng (ban) chức năng cần xử lý những thông tin KTQT và PTKD có liên quan đến phần việc của mình, chuẩn bị những phương án giải quyết tồn tại, tháo gỡ khó khăn, trình phương án đã dự thảo với ban giám đốc có kèm theo những giải trình, thuyết minh để giám đốc đưa ra những quyết định quản lý phù hợp, có thể sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực hiện có, nâng cao hiệu quả SXKD, bảo toàn và phát triển vốn, tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của DN. Tùy theo đặc điểm cụ thể về loại hình sản xuất, loại sản phẩm dịch vụ, tình hình huy động sử dụng các nguồn lực hiện có của DN ở mức độ nào... của từng DN trong từng khoảng thời gian, từng thời kỳ mà nhà quản trị DN có thể đưa ra quyết định quản lý phù hợp. Trên giác độ chung nhất, DN có thể tổ chức sử dụng thông tin KTQT và PTKD cho các loại quyết định chủ yếu sau: (1) Tổ chức sử dụng thông tin cho các quyết định về đảm bảo và sử dụng các yếu tố sản xuất. Dựa trên những thông tin được cung cấp từ KTQT và PTKD về tình hình đảm bảo và sử dụng các yếu tố lao động, nguyên nhiên vật liệu và trang thiết bị trong quá trình SXKD của DN, nhà quản trị DN có thể đưa ra các quyết định nhằm huy động đầy đủ, kịp thời, sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, nâng cao hiệu quả SXKD. Các quyết định chủ yếu là: + Quyết định tiếp tục mua, dự trữ hay ngừng mua, dự trữ loại nguyên vật liệu nào đó (hay tiếp tục duy trì hoặc thay đổi nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu)... + Quyết định bán hay xuất cho mục đích khác đối với loại nguyên vật liệu tồn kho, ứ đọng lâu ngày. + Quyết định tiếp tục xuất vật liệu cho sản xuất sản phẩm hay tạm dừng sản xuất và cho vay, đổi nguyên vật liệu. + Quyết định dùng loại nguyên vật liệu khác thay thế nguyên vật liệu đang sử dụng để nâng cao qui cách, phẩm cấp sản phẩm. + Quyết định mua hay thuê thêm TSCĐ, máy móc thiết bị sản xuất. + Quyết định cho thuê hoạt động hay nhận gia công chế biến đối với loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất không sử dụng hết công suất. + Quyết định nhượng bán, thanh lý kịp thời những TSCĐ không cần dùng, hết thời hạn sử dụng... + Quyết định tuyển lao động: số lượng, nguồn tuyển dụng, trình độ tay nghề... + Quyết định phân công lao động hợp lý về trình độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm... để nâng cao năng suất lao động. + Quyết định cải tiến tổ chức quản lý để huy động sử dụng thời gian làm việc của công nhân được hợp lý, giảm bớt đi đến loại trừ thời gian ngừng việc, không có việc làm... để nâng cao hiệu quả sử dụng thời gian làm việc của công nhân. + Quyết định bồi dưỡng, đào tạo, kèm cặp để nâng cao tay nghề cho người lao động. + Quyết định nhận thêm lao động hợp đồng hay trả thêm lương để huy động thêm thời gian làm việc của lao động hiện có để hoàn thành mục tiêu tiến độ sản xuất... v.v... (2) Tổ chức sử dụng thông tin cho các quyết định về điều chỉnh mặt hàng sản xuất nhằm tối đa hóa lợi nhuận Dựa trên những thông tin KTQT và PTKD về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thị trường, giá cả, tình hình sử dụng các nguồn lực hiện có kết hợp với các nguồn thông tin khác có liên quan đến từng loại mặt hàng sản xuất, nhà quản trị DN có thể đưa ra những quyết định điều chỉnh mặt hàng sản xuất cho phù hợp nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Để đưa ra từng quyết định quản lý cụ thể dạng này, cần phải cung cấp cho nhà quản trị những thông tin quá khứ, những thông tin tương lai liên quan đến các phương án đang xem xét. Đối với những thông tin quá khứ không thay đổi được (ví dụ chi phí chìm) hoặc những thông tin giống nhau giữa các phương án là những thông tin không thích hợp nên không cho vào khi xem xét phương án vì nó sẽ làm "loãng tin", gây khó khăn cho việc lựa chọn phương án tối ưu. Dựa trên những thông tin thích hợp đã được cung cấp, nhà quản trị có thể đưa ra những quyết định quản lý chủ yếu sau: + Thay đổi số lượng sản xuất của từng loại sản phẩm (theo từng kích thước, mẫu mã, màu sắc...) cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng để đảm bảo tiêu thụ nhanh chóng. + Đưa thêm mặt hàng mới vào SXKD. + Nhận hay từ chối đơn đặt hàng mới. + Tự sản xuất hay mua ngoài một số chi tiết. + Bán nửa thành phẩm hay tiếp tục sản xuất, chế biến thêm. + Sản xuất toàn bộ sản phẩm theo đơn hàng hay đặt gia công chế biến thêm từ đơn vị khác (chia xẻ đơn đặt hàng). + Cắt bỏ, cho thuê hay tiếp tục sử dụng cho sản xuất một bộ phận dây chuyền sản xuất. + Duy trì hay loại bỏ một loại (một mẫu mã) sản phẩm đang sản xuất. Qua đó sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực hiện có của DN. (3) Tổ chức sử dụng thông tin cho các quyết định điều chỉnh giá cả, sản lượng, chi phí đối với từng mặt hàng sản xuất kinh doanh cụ thể nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Dựa trên những thông tin KTQT và PTKD về doanh thu, chi phí, giá cả, sản lượng sản xuất và tiêu thụ, lợi nhuận, phân tích điểm hòa vốn, phân tích nhu cầu thị trường... của từng mặt hàng (mẫu hàng) sản xuất cụ thể, nhà quản trị có thể đưa ra những quyết định điều chỉnh giá cả, sản lượng, chi phí đối với từng mặt hàng SXKD cụ thể nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Để đưa ra từng quyết định cụ thể này, bên cạnh thu thập xử lý và cung cấp những thông tin quá khứ có liên quan nêu trên, cần phải thu thập những thông tin tương lai như dự kiến về thị trường, giá cả, chính sách phát triển hay hạn chế loại hình sản phẩm nào của Đảng và Nhà nước, xem xét khả năng cạnh tranh của những DN khác trong và ngoài nước đối với mặt hàng đó. Đối với thông tin chi phí, quan trọng nhất là phải phân chia toàn bộ chi phí SXKD cho từng mặt hàng thành chi phí cố định (định phí) và chi phí biến đổi (biến phí). Khi xem xét từng phương án, chủ yếu xem xét lãi trên biến phí đơn vị sản phẩm: Lãi trên biến phí đơn vị = giá bán đơn vị - biến phí đơn vị và tổng lãi trên biến phí tính theo sản lượng sản xuất và tiêu thụ dự kiến. Tổng lãi; trên biến phí = Sản lượng sản xuất ; tiêu thụ x Lãi trên biến phí; đơn vị Khi xem xét từng phương án cụ thể, nếu tổng lãi trên biến phí lớn hơn tổng định phí là phương án có lãi và ngược lại. Khi xem xét nhiều phương án khác nhau thì: - Nếu tổng định phí của các phương án như nhau thì phương án nào có tổng lãi trên biến phí lớn hơn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn. - Nếu tổng định phí của các phương án khác nhau thì phương án nào có số chênh lệch giữa tổng lãi trên biến phí với tổng định phí lớn hơn thì phương án đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Phương án được chọn thường là phương án có khả năng làm tăng lợi nhuận của DN. Tuy nhiên, khi xem xét lựa chọn các phương án để ra quyết định, không chỉ chú ý đến lợi nhuận mà còn phải chú ý đến những điều kiện khác như uy tín của DN, thị phần của DN, khả năng huy động và tận dụng nguồn lực hiện có của DN, khả năng cạnh tranh của DN, sự thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng và những yếu tố tác động đến nhu cầu có khả năng thanh toán của họ... Do vậy, phương án được chọn có thể không phải là phương án mang lại nhiều lợi nhuận nhất khi DN ưu tiên mục tiêu khác như tận dụng nguồn lực, thị phần, uy tín của DN... Dựa trên những thông tin thích hợp đã được cung cấp, nhà quản trị DN có thể đưa ra những quyết định quản lý chủ yếu sau: + Thay đổi định phí và doanh thu: Đầu tư đổi mới công nghệ, đầu tư thêm dây chuyền sản xuất... làm tăng định phí nhưng số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng nhanh làm tăng doanh thu (tốc độ tăng doanh thu có chiều hướng nhanh hơn tốc độ tăng định phí). + Thay đổi biến phí và doanh thu: có rất nhiều quyết định liên quan đến thay đổi biến phí và doanh thu, ví dụ như: - Dùng loại nguyên vật liệu tốt hơn làm biến phí tăng nhưng sẽ tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ hoặc tăng giá bán làm cho doanh thu tăng nhanh hơn (đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có khả năng thanh toán cao). - Dùng loại nguyên vật liệu rẻ tiền hơn làm giảm biến phí, giảm giá bán, tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ (đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có thu nhập thấp...). - Trả lương công nhân cao hơn làm tăng biến phí nhưng sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm nhiều hơn để tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng thị phần (khi sản phẩm trên thị trường có thể tiêu thụ nhanh chóng hay có thêm đơn đặt hàng mới)... + Thay đổi định phí, giá bán và doanh thu: thuộc dạng này cũng có thể có nhiều loại quyết định như: - Đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ làm tăng định phí, tăng khối lượng tiêu thụ và giữ nguyên giá bán làm doanh thu tăng nhanh hơn. - Đầu tư máy móc thiết bị mới làm tăng định phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, tăng giá bán và khối lượng tiêu thụ (khi nghiên cứu thị trường thấy nhu cầu về loại sản phẩm hiện tại rất cao và bộ phận khách hàng có thu nhập cao sẵn sàng mua sản phẩm mới, có chất lượng cao với giá tăng...). - Giảm định phí (nhượng bán TSCĐ, giảm nhân viên quản lý...), giảm giá bán để tiêu thụ được những mặt hàng tiêu thụ khó khăn, nguy cơ tồn đọng không tiêu thụ được...). v.v... + Thay đổi định phí, biến phí và doanh thu: có nhiều khi DN cần phải thay đổi cả định phí, biến phí và doanh thu (khối lượng tiêu thụ và giá bán sản phẩm để đạt mục tiêu lợi nhuận. Có những loại quyết định cơ bản thuộc loại này như: - Giảm định phí, biến phí ở mức tối đa cho phép như giảm nhân viên quản lý, tăng năng suất lao động, thay thế nguyên vật liệu rẻ tiền... và giảm giá bán để tăng khối lượng tiêu thụ (khi DN muốn tăng thị phần hoặc sản phẩm sản xuất ra đang tiêu thụ với giá cao so với khả năng thanh toán của bộ phận lớn người tiêu dùng có nhu cầu về sản phẩm đó...) - Tăng định phí (đầu tư đổi mới công nghệ, sửa chữa lớn kết hợp hiện đại hóa máy móc thiết bị...), giảm biến phí (tăng năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu do áp dụng công nghệ mới...), giữ nguyên giá bán nhưng khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng nhanh do sản phẩm có chất lượng cao và mẫu mã đẹp hơn. v.v... (4) Tổ chức sử dụng thông tin KTQT và PTKD cho mục đích lập dự toán SXKD. Các dự toán SXKD cho từng thời kỳ lập trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật đã được xây dựng và kế hoạch về số lượng sản phẩm (công việc) trong kỳ. Việc xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật là một công việc mang tính chủ quan, thể hiện trình độ quản lý và sự linh hoạt của người quản lý. Người ta quan niệm công việc xây dựng định mức là một công việc nghệ thuật hơn là khoa học vì nó khác nhau với mỗi loại hình sản phẩm, điều kiện tự nhiên, khí hậu, thời tiết, môi trường. Nó còn thể hiện việc giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích toàn DN, người lao động và từng bộ phận vì định mức là cơ sở thanh toán chi phí lao động, nguyên vật liệu và các chi phí khác cho bộ phận (cá nhân) nhận khoán. Khi xây dựng định mức phải chú ý ở mức độ hợp lý: Chặt đến mức có thể đạt, nếu cố gắng có thể vượt. Nếu định mức quá chặt chẽ tức là xây dựng ở điều kiện tốt nhất sẽ khó đạt dẫn đến phản tác dụng cho quản lý vì nó không khuyến khích người lao động (hay từng bộ phận) phấn đấu vươn lên. Nếu định mức quá lỏng sẽ không có tác dụng cho quản lý vì gây ra sự lãng phí làm tăng chi phí, giá thành sản phẩm của DN do phải trả theo định mức (hoặc thưởng thêm khi vượt định mức) cho bộ phận và cá nhân. Nếu định mức hợp lý sẽ giúp cho việc tăng cường hiệu quả quản lý và khuyến khích bộ phận, cá nhân tích cực phấn đấu đạt và vượt định mức. Do vậy, việc xây dựng định mức hợp lý là việc làm rất quan trọng. Để xây dựng được định mức mới làm căn cứ cho lập dự toán hợp lý, cần căn cứ vào các thông tin KTQT và PTKD về tình hình chấp hành các định mức cũ về từng loại chi phí lao động, vật tư và chi phí khác cho sản xuất từng loại sản phẩm và có thể phải kết hợp với tổ chức sản xuất thử (bấm giờ các thao tác kỹ thuật) và phân tích những nguyên nhân phát sinh chênh lệch giữa thực tế so với định mức như thay đổi quy trình công nghệ, thay đổi nguyên vật liệu v.v... Đồng thời căn cứ vào các thông tin liên quan đến số lượng sản xuất, khả năng huy động các nguồn lực của DN, sự biến động của thị trường, tình hình cạnh tranh v.v... để xác định số lượng sản phẩm dự kiến. Trên cơ sở định mức đã được xây dựng và số lượng sản xuất dự kiến, DN lập nên dự toán SXKD cho từng năm, từng quý, từng tháng... Trong quá trình thực hiện kế hoạch, căn cứ vào thông tin KTQT và PTKD cung cấp về tình hình chấp hành dự toán, nguyên nhân thoát ly dự toán, nhà quản trị sẽ có cơ sở để điều chỉnh (tăng, giảm) dự toán tháng sau, quý sau cho phù hợp. Như vậy, thông tin KTQT và PTKD là căn cứ quan trọng không thể thiếu cho việc lập và duyệt các dự toán SXKD. Ngoài ra, thông tin KTQT và PTKD còn giúp cho nhà quản trị đưa ra các quyết định quản lý khác trong quá trình quản lý và điều hành SXKD trong DN, chẳng hạn như các quyết định về giá bán cho từng loại sản phẩm, từng đơn đặt hàng, quyết định về tỷ lệ hay mức khuyến mại trong từng đợt bán hàng đối với từng loại sản phẩm nhằm thúc đẩy tiêu thụ, quyết định đầu tư v.v... Đồng thời, thông tin KTQT và PTKD còn giúp cho nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát hoạt động SXKD trong DN. 3.4. Điều kiện cơ bản để hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước Tuy đã nhận thức được vai trò, nhiệm vụ, chức năng của KTQT và PTKD đối với việc quản lý và điều hành SXKD trong DN, nhưng các DNNN hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc tổ chức KTQT và PTKD một cách khoa học và hợp lý. Sở dĩ như vậy vì ngay cả trong nhận thức về KTQT và PTKD, cũng như về việc vận dụng chúng trong DN đều còn rất nhiều điểm khác biệt giữa các nhà khoa học kinh tế, kế toán, giữa các trường đào tạo chuyên ngành và giữa các doanh nhân... Mặt khác, cơ chế quản lý hiện nay chưa thúc đẩy nhà quản trị DNNN trong việc nâng cao trình độ nhận thức về các công cụ quản trị DN nói chung, về KTQT và PTKD nói riêng, dường như họ thấy không hoặc chưa cần thiết cấp bách v.v... (đã phân tích cụ thể trong mục 2.5.2. chương 2). Do vậy, để thực hiện việc hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN hiện nay, cần phải có sự kết hợp từ nhiều phía, cả bên trong và bên ngoài DN. Trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của Nhà nước và các cơ quan quản lý chức năng, các trường đào tạo cán bộ quản lý... và bản thân DN phải có sự vận động tích cực. 3.4.1. Đối với nhà nước, cơ quan chức năng và các trường... Thứ nhất, Nhà nước cần quy định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm đối với những người quản lý trong DNNN, quy định rõ người chịu trách nhiệm cao nhất với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại DNNN - Đó là giám đốc DN. Thứ hai, Phải tạo ra những khuôn khổ pháp lý để các loại hình DN đều bình đẳng trong kinh doanh, thúc đẩy và khuyến khích các DN trong đó có DNNN hoạt động SXKD theo cơ chế thị trường có cạnh tranh lành mạnh, từ đó DNNN sẽ nhận thức đúng sự cần thiết phải tổ chức KTQT và PTKD để cung cấp thông tin kịp thời cho việc ra quyết định quản lý phù hợp để ứng phó với thị trường luôn biến động. Thứ ba, Để thực hiện nâng cao tính chủ động cho giám đốc DNNN, nhà nước chỉ nên đánh giá kết quả của DNNN tập trung vào 3 chỉ tiêu chính: - Thu nhập của người lao động. - Lợi nhuận. - Các khoản nộp ngân sách nhà nước. Trong đó cần xác định hợp lý mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu lợi nhuận và thu nhập của người lao động đối với từng loại hình, quy mô DN để khuyến khích DN nâng cao lợi nhận. (Tuy nhiên, kết qủa hoạt động SXKD của DN phải được dựa trên những BCTC đã kiểm toán độc lập). Đồng thời nhà nước cần có cơ chế tài chính minh bạch và thỏa đáng về quyền lợi và trách nhiệm vật chất của giám đốc và cán bộ quản lý DN đối với kết quả hoạt động SXKD của DN, chẳng hạn thưởng 10% lợi nhuận sau thuế đối với những DNNN làm ăn có lãi, vượt mức kế hoạch (và thưởng lũy tiến). Bãi miễn chức vụ giám đốc và yêu cầu bồi thường vật chất đối với những giám đốc thiếu trách nhiệm làm DN thua lỗ. Hoặc có cơ chế thi tuyển, thuê giám đốc một cách khách quan, coi giám đốc như một nghề nghiệp cần luôn được nâng cao tay nghề, cũng như đội ngũ cán bộ quản lý trong DN. Khi giám đốc và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ nhận thức đúng hơn về sự cần thiết của KTQT và PTKD đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý và SXKD trong DN. (Không ít giám đốc hiện nay không có nhu cầu về thông tin KTQT và PTKD). Thứ tư, Nhà nước cần tạo dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho công việc và nghề kế toán phát triển bằng hệ thống văn bản pháp quy về những yêu cầu cơ bản đối với kế toán viên trong các DN nói chung, DNNN nói riêng. Phải chỉ rõ cho họ thấy người cán bộ kế toán hiện nay phải biết thu nhận, xử lý và cung cấp thôngtin KTTC, KTQT và thực hiện phân tích số liệu kế toán đã thu thập được, kết hợp với các thông tin khác để tư vấn cho nhà quản trị trong việc ra các quyết định quản lý tối ưu. Từ việc chuẩn hóa các yêu cầu của kế toán viên sẽ chi phối chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và trung học kinh tế có đào tạo chuyên ngành kế toán, trang bị kiến thức đầy đủ cho cán bộ kế toán, đồng thời cũng đòi hỏi người cán bộ kế toán phải tự học hỏi để đáp ứng theo yêu cầu kế toán viên. Thứ năm, Nhà nước (trực tiếp là Bộ tài chính) có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình áp dụng KTQT và PTKD trong các DNNN. Do vậy Bộ tài chính cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau: * Tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu, các cuộc hội thảo của các chuyên gia kế toán đầu ngành trong nước, những chuyên viên kinh tế, giảng viên giàu kinh nghiệm trong các trường đào tạo kinh tế - tài chính - kế toán với sự trợ giúp của những chuyên gia nước ngoài để cơ bản thống nhất quan điểm, nhận thức về KTQT và PTKD cho các loại hình DN để các DNNN có thể lựa chọn vận dụng một cách phù hợp. Trước mắt, cần nhanh chóng triển khai thực hiện đề án đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán đã được dự án kế toán - kiểm toán EURO - TAPVIET đưa ra, trong đó có mảng về KTQT, nhằm nhân rộng trong các trường đào tạo cán bộ kế toán cũng như các cơ sở thực tiễn. * Bộ Tài chính cần đưa ra các văn bản yêu cầu các DNNN, (đặc biệt các tổng công ty 90, 91 và các DNNN trực thuộc Tổng công ty) phải thực hiện tổ chức KTQT và PTKD một cách hệ thống. Đồng thời đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với các DNNN trong việc tổ chức KTQT và PTKD để giúp các DNNN có phương hướng, mục tiêu cụ thể và thực hiện dễ dàng. Đây là việc nên làm ngay vì Bộ tài chính có thể với tư cách là chủ sở hữu vốn trong các DNNN, cần phải có biện pháp trợ giúp các DNNN sử dụng đồng vốn có hiệu quả nhất. * Cần tiếp tục duy trì và phát triển việc đào tạo kiến thức quản lý kinh tế - kế toán - tài chính cho đội ngũ giám đốc bằng nguồn vốn ngân sách như hiện nay, nhằm nâng cao năng lực quản lý và trình độ nhận thức về kinh tế thị trường và các công cụ quản lý DN trong cơ chế thị trường, trong đó có KTQT và PTKD. Từ đó, các giám đốc DN sẽ quan tâm hơn nữa đến việc tổ chức KTQT và PTKD trong DN. Thứ sáu, Các trường đào tạo cán bộ quản lý kinh tế, tài chính, kế toán, đặc biệt chuyên ngành kế toán cần tăng cường đào tạo hướng dẫn và tổ chức thực hiện KTQT và PTKD cho các DN theo hướng kết hợp lý luận và thực tiễn qua các dịch vụ tư vấn, các đề tài nghiên cứu, mở các lớp bồi dưỡng cán bộ kế toán về KTQT và PTKD v.v... Đồng thời, phải đưa môn học KTQT và PTKD thành môn học bắt buộc, môn học chuyên ngành đối với ngành học kế toán. Tuy nhiên, Bộ Tài chính hay Hội kế toán Việt Nam, trực tiếp chủ trì biên soạn tài liệu hoặc tư vấn cho các trường về những nội dung cơ bản trong đào tạovề KTQT và PTKD nhằm trang bị cho cán bộ kế toán những kiến thức cần thiết về KTQT và PTKD để có thể cùng hợp tác khi cán bộ kế toán, tài chính đào tạo từ các trường khác nhau cùng về làm việc trong một DNNN. Thứ bẩy, các Bộ, Ngành, Tổng công ty cần tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu kết hợp lý luận và thực tiễn để đưa ra mô hình tổ chức KTQT và PTKD phù hợp để hướng dẫn cho các DN trực thuộc. Chủ động tổ chức các cuộc hội thảo, các lớp bồi dưỡng về KTQT và PTKD cho cán bộ quản lý, cán bộ kế toán. Tổ chức tham quan, giao lưu học hỏi kinh nghiệm của các đơn vị trong và ngoài nước. Thứ tám, tăng cường quy chế dân chủ ở cơ sở trong các DNNN sẽ tạo điều kiện cho mọi người lao động trong DN tham gia đóng góp ý kiến về những tồn tại của DN, đó cũng là nguồn thông tin trợ giúp cho KTQT và PTKD trong việc giải trình nguyên nhân cho nhà quản trị. 3.3.2. Đối với các doanh nghiệp nhà nước Để hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD như đã nêu trên, bản thân các DNNN phải thực hiện 9 giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất, Giám đốc và kế toán trưởng trong DN cần nhận thức đúng mức về vai trò, chức năng của KTQT và PTKD trong quản lý DN, từ đó mới thấy rõ sự cần thiết phải tổ chức KTQT và PTKD. Thứ hai, cần chủ động xây dựng mô hình tổ chức KTQT và PTKD thích hợp với từng DN Giám đốc, kế toán trưởng và trưởng các phòng ban chức năng cần thảo luận và đi đến thống nhất về mô hình tổ chức KTQT và PTKD sao cho phù hợp với DN. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, kiểm soát, tổ chức sắp xếp, điều chỉnh và hoàn thiện bộ máy quản lý, đảm bảo sự kết nối giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý của DN với nhau một cách chặt chẽ, đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin KTQT và PTKD. Thứ ba, trang bị kiến thức về kinh tế thị trường, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý, cán bộ kế toán, đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới. Cán bộ quản lý và kế toán cần nhận thức được ý nghĩa thiết thực của KTQT và PTKD trong công tác quản trị DN để chủ động thực hiện phần công việc của mình và thực hiện tốt sự phối hợp giữa các bộ phận khi cần thiết để cung cấp thông tin kịp thời cho việc lập các báo cáo KTQT và PTKD. Hầu hết cán bộ quản lý, cán bộ kế toán trong các DNNN đều được đào tạo từ lâu (trừ rất ít DNNN mới thành lập) nên kiến thức về kinh tế thị trường nói chung, kiến thức về KTQT nói riêng còn nhiều hạn chế. Kiến thức về PTKD đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đào tạo cán bộ kinh tế, kế toán từ rất lâu, nhưng do cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài không đòi hỏi các DNNN sử dụng (do họ không nhận thức hết sự cần thiết của PTKD), nên mai một dần hoặc đã trở nên lạc hậu. Do vậy, việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức KTQT và PTKD là rất cần thiết và cần được quan tâm chú ý đúng mức nhằm tạo cho cán bộ quản lý, cán bộ kế toán một cung cách quản lý kinh doanh hiện đại, gắn hoạt động của DN với thị trường. Thứ tư, tổ chức bộ máy kế toán hợp lý và hoạt động tốt. Phải sắp xếp, phân công công việc cho các nhân viên kế toán một cách cụ thể, sắp xếp lại trình tự, nội dung công việc, quy định rõ ràng phần việc KTTC, KTQT và PTKD cho từng nhân viên kế toán. Về cơ bản không xáo trộn cơ cấu tổ chức của bộ máy kế toán nhưng phải tuỳ theo trình độ, khả năng nghiệp vụ chuyên môn của từng nhân viên kế toán để phân công công việc cho phù hợp, có thể phải thực hiện kèm cặp thêm cho những nhânviên có trình độ nghiệp vụ non kém (chưa giao hẳn phần việc KTQT và PTKD), nhằm đảm bảo chất lượng thông tin KTQT và PTKD. Thứ năm, Giám đốc, kế toán trưởng và trưởng các phòng ban chức năng cần thảo luận để xác định hệ thống chỉ tiêu cần thiết cho quản trị DN mình. Qua đó xây dựng hệ thống báo cáo KTQT và PTKD phù hợp, phân công cụ thể cho từng bộ phận chức năng phải cung cấp thông tin gì cho việc lập báo cáo KTQT và PTKD. Phải xây dựng được mối quan hệ giữa các bộ phận sao cho thông tin đầu vào, đầu ra phù hợp, không để hiện tượng cung cấp thông tin trùng lặp (dư thừa) gây tốn kém thời gian, chi phí hay "loãng tin", cũng không để hiện tượng cung cấp thiếu hoặc cung cấp thông tin không kịp thời cho việc ra quyết định quản lý. Khi hoạt động SXKD của DN có sự biến động thì phải thay đổi, bổ sung các chỉ tiêu vào thông tin cần cung cấp, tức là đặt ra yêu cầu cụ thể cho KTQT và PTKD để tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin cho phù hợp, tránh cung cấp thông tin không thích hợp, thông tin lạc hậu. Thứ sáu, Thực hiện phân chia chi phí, doanh thu và kết quả theo nhiều cách phân loại khác nhau, tạo điều kiện cho KTQT và PTKD tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin chi tiết cụ thể theo yêu cầu thông tin mà nha quản trị đặt ra. Thứ bảy, Chú ý xây dựng và hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật phù hợp làm cơ sở cho việc lập dự toán (kế hoạch) các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật phản ánh các mặt hoạt động SXKD của DN. Hệ thống kế hoạch (dự toán) khoa học và hợp lý là cơ sở để KTQT thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin đồng thời là căn cứ để PTKD đánh giá cụ thể kết quả thực hiện các chỉ tiêu, xu hướng phát triển của chúng... để có giải pháp phù hợp. Thứ tám, tổ chức ứng dụng công nghệ tin học vào công tác kế toán, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống máy tính đã trang bị. Phần lớn các DNNN hiện nay đã trang bị máy vi tính cho phòng kế toán và các phòng ban chức năng. Nhưng việc khai thác sử dụng máy vi tính còn rất hạn chế. Nhiều DNNN chỉ sử dụng máy tính như một công cụ để tính toán, lập bảng biểu mà không khai thác hết công dụng của nó. Cần phải có biện pháp khai thác có hiệu quả tính năng tác dụng của máy vi tính. Doanh nghiệp cần đầu tư cài đặt phần mềm kế toán và quản trị dữ liệu phù hợp. Nếu phần mềm kế toán hiện tại đang sử dụng không đáp ứng được yêu cầu thì cần phải sửa đổi hoặc thay thế cho phù hợp. Phần mềm kế toán ứng dụng phải đảm bảo dễ sử dụng, Việt hóa, an toàn bảo mật số liệu, dễ mở rộng, có khả năng phát triển và kết nối với các hệ thông tin khác trong DN. Khi sử dụng các phần mềm, cần căn cứ vào yêu cầu thông tin đặt ra cho KTQT và PTKD mà thiết kế hệ thống các báo cáo đầu ra của hệ thống, xây dựng hệ thống mã, xây dựng chu trình KTQT và PTKD trên máy tính và thiết kế cơ sở dữ liệu. Cần lập các chương trình KTQT và PTKD trên máy, nạp yêu cầu kết xuất thông tin cụ thể cho từng bộ phận (từng phân hệ) thông tin KTQT và PTKD, ví dụ nguyên vật liệu, TSCĐ, lao động tiền lương, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, thành phẩm, hàng hóa và tiêu thụ, doanh thu và kết quả, lập dự toán...). Thứ chín, củng cố và hoàn thiện các tổ chức Đảng, Đoàn, Công đoàn trong DN. Một khác biệt cơ bản giữa DNNN và DN thuộc các thành phần kinh tế khác là cơ chế quản lý và chế độ sở hữu tài sản. Những người lao động trong DNNN không chỉ là người thực thi những phần việc của mình để hưởng lương (làm công ăn lương) mà còn có quyền và trách nhiệm bảo vệ tài sản của DN vì họ cũng là người chủ trong DNNN. Phải làm cho họ nhận thức được rằng tiền vốn và kinh phí của Nhà nước trong DNNN cũng chính là do họ đóng góp tạo nên. Do vậy, cần phát huy tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ công nhân viên trong DNNN trong hoạt động SXKD thông qua các tổ chức Đảng, Đoàn, Công đoàn trong DN. Những ý kiến đóng góp của những người cán bộ công nhân viên tích cực, tâm huyết sẽ cung cấp thêm cho KTQT và PTKD nguồn tài liệu phong phú cho việc giải thích nguyên nhân và kết quả hoạt động SXKD của DN trong kỳ, làm cho thông tin KTQT và PTKD trở nên hữu ích, thiết thực hơn cho quản trị DN. * * * Tóm lại, từ cơ sở lý luận đã trình bày trong chương 1 và thực trạng tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN đã trình bày trong chương 2, kết hợp xem xét đến xu hướng phát triển của công tác KTQT và PTKD trong DN Việt Nam nói chung, DNNN nói riêng, luận án đã khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN Việt Nam. Luận án đã nêu và phân tích các yêu cầu và nguyên tắc cơ bản đối với việc hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN. Từ đó, luận án đưa ra những nội dung cơ bản hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN hiện nay là: - Hoàn thiện tổ chức bộ máy kế toán trong DNNN đảm bảo thực hiện KTQT. - Hoàn hiện tổ chức thu nhận, xử lý, hệ thống hóa và cung cấp thông tin KTQT. - Hoàn thiện tổ chức phân công thực hiện công việc PTKD. - Hoàn thiện tổ chức công tác PTKD. - Hoàn thiện tổ chức quản lý và sử dụng thông tin KTQT và PTKD. Đồng thời luận án đã đưa ra các điều kiện (giải pháp) cơ bản nhằm hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN Việt Nam hiện nay. Kết luận Nước ta đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những đổi thay đáng phấn khởi, những cơ hội phát triển, các DN Việt Nam nói chung, các DNNN Việt Nam nói riêng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Từ một nền kinh tế bao cấp sang cơ chế mới, chịu sự điều chỉnh của các quy luật kinh tế thị trường, đòi hỏi các DN phải thực sự chuyển biến về mọi mặt, trước hết phải đổi mới các công cụ quản lý kinh tế, trong đó có KTQT và PTKD. Với mong muốn bổ sung thêm những vấn đề lý luận về KTQT và PTKD, góp phần giúp các DNNN Việt Nam nhận thức đúng đắn về vai trò, chức năng của KTQT và PTKD, vận dụng để tổ chức KTQT và PTKD, tác giả đã nghiên cứu để thực hiện luận án về đề tài: "Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước". Theo mục đích đặt ra, luận án đã thực hiện được những nội dung cơ bản sau: 1. Luận án đã nêu và phân tích cơ sở lý luận về tổ chức KTQT và PTKD trong DN, ưu nhược điểm của từng mô hình tổ chức, từ đó rút ra mô hình phù hợp với các DNNN Việt Nam hiện nay. 2. Luận án đã phân tích thực trạng tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN Việt Nam hiện nay. - Phân tích vị trí, vai trò và yêu cầu quản lý đối với DNNN. - Phân tích biểu hiện của KTQT và PTKD trong chế độ kế toán và các văn bản pháp quy của nước ta. - Khảo sát thực tế, phân tích thực trạng quản lý nói chung, tổ chức KTQT và PTKD nói riêng trong DNNN, từ đó đánh giá ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. - Khái quát kinh nghiệm tổ chức KTQT và PTKD của một số nước trên thế giới. 3. Luận án đã nêu rõ sự cần thiết, yêu cầu, nguyên tắc cơ bản và nội dung hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN, đồng thời nêu ra những điều kiện để thực hiện được các nội dung hoàn thiện đó. Những nội dung trình bày trên đã đáp ứng về cơ bản những yêu cầu, mục đích nghiên cứu đặt ra. Luận án đã được hoàn thành nhờ nghiên cứu tài liệu liên quan của nhiều tác giả được công bố trên các tạp chí, sách báo đã xuất bản, đồng thời cũng nhận được sự giúp đỡ quý báu, tận tình của thầy hướng dẫn, của các đồng nghiệp và các cán bộ quản lý, kế toán trong các DNNN mà tác giả đã tiếp xúc, trao đổi trực tiếp. Vấn đề nghiên cứu còn đang tồn tại nhiều quan điểm về lý luận, chưa được quan tâm vận dụng đúng mức trong thực tiễn, cộng với kinh nghiệm, khả năng còn hạn chế của tác giả, luận án không tránh khỏi những khiếm khuyết, tồn tại. Tác giả rất mong nhận được những góp ý, chỉ dẫn của các chuyên gia và đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện đề tài. Qua luận án, tác giả hy vọng được đóng góp phần mình vào việc hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong các DNNN Việt Nam. Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt trong luận án Danh mục các bảng biểu Mở đầu 1 Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp 5 1.1. Khái quát chung về kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 5 1.1.1. Khái niệm về kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 5 1.1.2. Vai trò, chức năng và mục đích của kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 9 1.2. Các quan điểm cơ bản về tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp 16 1.2.1. Các quan điểm cơ bản về tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp 16 1.2.2. Các quan điểm cơ bản về tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp 23 1.3. Tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp 27 1.3.1. Tổ chức bộ máy kế toán quản trị trong doanh nghiệp 27 1.3.2. Tổ chức thu nhận, xử lý, hệ thống hóa và cung cấp thông tin kế toán quản trị trong doanh nghiệp 29 1.4. Tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp 38 1.4.1. Tổ chức phân công thực hiện công việc phân tích 38 1.4.2. Tổ chức công tác phân tích trong doanh nghiệp 41 1.5. Tổ chức quản lý và sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp 57 1.5.1. Tổ chức quản lý thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 57 1.5.2. Tổ chức sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp 58 Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay 60 2.1. Thực trạng hoạt động và tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay 60 2.1.1. Quá trình phát triển và vai trò của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam 60 2.1.2. Thực trạng tổ chức quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay 64 2.2. Thực trạng về tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhà nước 66 2.2.1. Biểu hiện của kế toán quản trị trong chế độ kế toán Việt Nam 66 2.2.2. Thực trạng tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhà nước 71 2.3. Thực trạng tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 81 2.3.1. Quy định hiện hành về tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp 81 2.3.2. Thực trạng tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 83 2.3.3. Thực trạng tổ chức quản lý và sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay 91 2.4. Kinh nghiệm tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 96 của một số nước trên thế giới 2.4.1. Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh ở Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô cũ) 96 2.4.2. Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh ở Cộng hòa Pháp 98 2.4.3. Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh ở Mỹ 100 2.5. Nhận xét đánh giá thực trạng tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay 104 2.5.1. Những kết quả đạt được 104 2.5.2. Những hạn chế cần khắc phục 106 Chương 3: Hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 115 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 115 3.2. Yêu cầu và nguyên tắc cơ bản đối với việc hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 116 3.2.1. Yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh 116 3.2.2. Các nguyên tắc hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 117 3.3. Nội dung hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 119 3.3.1. Nội dung hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị 119 3.3.2. Nội dung hoàn thiện tổ chức phân tích kinh doanh 145 3.3.3. Hoàn thiện tổ chức quản lý và sử dụng thông tin kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp 162 3.4. Điều kiện cơ bản để hoàn thiện tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước 171 3.4.1. Đối với nhà nước, cơ quan chức năng và các trường... 172 3.4.2. Đối với các doanh nghiệp nhà nước 175 Kết luận 180 danh mục Tài liệu tham khảo những công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến luận án Phụ lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước.pdf
Luận văn liên quan