- Phân cấp cho BHXH ở huyện, thị xã, thành phố trong quản lý thu BHXH bắt buộc,
không phân biệt loại hình doanh nghiệp như hiện nay. Xây dựng quy trình quản lý thu
BHXH phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động của các đơn vị, đặc biệt là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.đảm bảo liên thông với
BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp phù hợp với hội nhập kinh tế thế giới.
- Đầu tư cơ sở vật chất, bao gồm cả việc nâng cấp Trụ sở làm việc và trang bị hệ
thống máy vi tính, đảm bảo mỗi cán bộ, công chức có 1 máy và BHXH huyện, thị xã,
thành phố đều có máy chủ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng, phát triển nguồn thu ở khu
vực kinh tế ngoài nhà nước, vì Thanh Hóa có tiềm năng phát triển nguồn thu BHXH lớn.
103 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7048 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh bản thân mình.
Phát hiện, nuôi dưỡng nguồn thu BHXH là một trong những chủ trương tiếp tục
mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh. Để thực hiện được yêu
cầu trên, ngành BHXH chủ động cùng sở Kế hoạch & Đầu tư; sở Lao động Thương binh
& Xã hội; Ban Quan lý khu kinh tế và chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch hoạt
động liên tịch:
- Đối với sở Kế hoạch & Đầu tư và Ban Quản lý khu kinh tế: thực hiện trao đổi
thông tin nắm chắc tình hình di biến động của các doanh nghiệp để cơ quan BHXH quản
lý đăng ký tham gia BHXH; trước khi trình UBND tỉnh phê duyệt dự án, cấp phép đầu tư
hoặc khi thẩm định cấp giấy phép hoạt động đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp
bổ sung nội dung điều khoản về thực hiện chế độ BHXH cho người lao động.
- Đối với sở Lao động Thương binh & Xã hội: tập trung công tác khảo sát thực
hiện chính sách lao động, BHXH, đồng thời xây dựng hình thức Phiếu trao đổi thông tin
sau khi khảo sát giữa hai ngành từ tỉnh đến các huyện, thị xã, thành phố nhằm đảm bảo
đồng bộ trong quản lý, nắm chắc nguồn thu BHXH và tình hình thực hiện chính sách lao
động và BHXH trong các đơn vị ngoài quốc doanh. Định kỳ hằng tháng, quý cơ quan
BHXH huyện, thị xã, thành phố thông báo tình hình thực hiện chính sách BHXH, danh sách
các đơn vị vi phạm quy định BHXH, các đơn vị có hoạt động nhưng chưa thực hiện đóng
BHXH. Cơ quan Lao động Thương binh & Xã hội thông báo tình hình thực hiện hợp đồng
lao động, danh sách các đơn vị đăng ký hợp đồng lao động, danh sách các đơn vị kiểm tra,
thanh tra theo đề nghị của cơ quan BHXH.
- Đối với chính quyền, đoàn thể địa phương: việc gắn kết với UBND các huyện,
thị xã, thành phố và phường xã, giúp cơ quan BHXH kịp thời nắm bắt tình hình biến
động của loại hình dân doanh tuy nhiều, nhưng nhỏ, manh mún và không ổn định lại khó
quản lý.
Để quản lý tốt nguồn thu BHXH phải quản lý tốt mức đóng, phương thức đóng, tiền
lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH. Đây là nội dung quan trọng, như là những tiêu chí
bắt buộc người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH phải tuân thủ đúng theo
quy định khi tham gia BHXH và là cơ sở pháp lý khi giao kế hoạch thu BHXH hằng năm của
cơ quan có thẩm quyền.
Mức đóng, phương thức đóng và tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH do
Nhà nước quy định được thể hiện trong Luật BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật.
Mức đóng được tính theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương hoặc tiền công của người lao
động và tổng quỹ tiền lương, tiền công của người sử dụng lao động đã được dự toán vào
chi phí quản lý thường xuyên của đơn vị hành chính, sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, các
doanh nghiệp nhà nước và được hạch toán vào chi phí sản xuất của các doanh nghiệp
ngoài nhà nước. Cơ quan BHXH phải dựa trên mức đóng này để tổ chức thu BHXH đảm
bảo kịp thời gian, đúng mức và đủ số lượng. Không có những quy định về mức đóng thì
không có căn cứ để đóng BHXH và tránh tuỳ tiện trong việc thu nộp BHXH; mặt khác từ
mức đóng này để tính toán mức hưởng, tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH đảm bảo tính hợp
pháp và công bằng trong mối quan hệ giữa đóng góp và thụ hưởng quyền lợi của người
lao động.
Theo quy định hiện nay phương thức đóng BHXH bắt buộc theo tháng (trừ một
số đối tượng đặc thù hoạt động mùa vụ, hộ cá thể...có thể đóng theo quý, sáu tháng) và
phải thông qua chủ sử dụng lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH, bao gồm cả
phần đóng của đơn vị và phần đóng của người lao động. Quy định phương thức đóng như
trên nhằm nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động làm
công, ăn lương.
Tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH, đó là mức tiền cụ thể tính theo hệ
số lương (đối với người hưởng lương từ Ngân sách nhà nước) hoặc mức tiền tuyệt đối
của người lao động theo hợp đồng lao động với người sử dụng lao động. Dựa trên cơ sở
này để biết được tổng quỹ tiền lương của người lao động và của đơn vị sử dụng lao động,
đây là cơ sở xác định tổng số tiền phải đóng BHXH từng tháng, quý, năm của từng đơn
vị và toàn tỉnh.
Để quản lý tốt mức đóng, phương thức đóng và tiền lương, tiền công làm căn cứ
đóng BHXH, cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau:
- Hằng năm, cơ quan BHXH phải rà soát lại toàn bộ đối tượng đang tham gia, lập kế
hoạch thu chi tiết, thống kê chính xác số lao động phải đóng BHXH theo các mức đóng khác
nhau, vì trong thực tế theo quy định chung là đóng 20% trên tiền lương, tiền công và có một
số đối tượng đóng theo tỷ lệ 16%.
- Phối hợp với các Sở: Tài chính, Nội vụ, Lao động Thương binh & Xã hội, các sở
quản lý chuyên ngành, Hội doanh nghiệp vừa & nhỏ, đại diện Phòng Thương mại &
Công nghiệp, Liên minh Hợp tác xã; chính quyền địa phương để nắm chắc danh sách các
đơn vị và lao động thụ hưởng lương từ Ngân sách nhà nước; số không hưởng lương từ
Ngân sách nhưng được cấp có thẩm quyền phê duyệt trả lương theo thang, bảng lương
nhà nước; các đơn vị doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ; việc phân cấp quản lý
bộ máy, tổ chức & cán bộ trên cơ sở đó để kiểm tra, rà soát thực hiện nâng lương, phụ
cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, thâm niên nghề (nếu có) để thu BHXH đúng
các quy định của Nhà nước.
- Khi có thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, mất mùa hoặc lý do bất khả kháng khác mà
người sử dụng lao động buộc phải thu hẹp sản xuất, tạm dừng sản xuất, kinh doanh, giảm
chỗ làm việc... phải phối hợp với các ngành chức năng của địa phương xác định nhanh
chóng, chính xác thiệt hại để thực hiện việc cho phép tạm dừng đóng BHXH theo đúng
các quy định.
- Thực hiện đúng trình tự, thủ tục tham gia, đóng BHXH có ý nghĩa quan trọng, vì
đây là cơ sở ban đầu xác định đối tượng, phạm vi, số lượng lao động, mức tiền lương,
tiền công làm căn cứ đóng BHXH, thời gian đóng và thời gian được tính hưởng BHXH,
xác định về tuổi và thân nhân của người lao động, liên quan trực tiếp cả một quá trình
làm việc của người lao động từ khi bắt đầu đóng BHXH cho đến khi dừng đóng để thực
hiện chế độ BHXH cho bản thân người lao động hoặc cho thân nhân họ. Vì vậy, hồ sơ
tham gia BHXH của người lao động và người sử dụng lao động phải đảm bảo tính pháp
lý, tức là phải hợp pháp và hợp lệ, người sử dụng lao động phải đảm bảo tư cách pháp
nhân theo quy định để lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH. Đây là cơ sở để cơ quan
BHXH có căn cứ thực hiện thu nộp BHXH, đảm bảo quyền lợi cho người lao động; tránh
lạm dụng sơ hở để trục lợi BHXH, là điều kiện ràng buộc trách nhiệm của các bên tham
gia trong kê khai, xác nhận, lập hồ sơ tính hưởng BHXH; đồng thời là căn cứ xử phạt đối
với người lao động, người sử dụng lao động vi phạm BHXH và thực hiện tính lãi số tiền
chưa đóng, chậm đóng BHXH theo quy định.
3.2.4. Khắc phục nợ đọng tiền đóng bảo hiểm xã hội
Đến hết quý I/2008, số thu của BHXH tỉnh Thanh Hóa mới đạt trên 18% kế hoạch
năm- một kết quả đuợc xem là thấp. Nguyên nhân dẫn đến công tác thu BHXH đạt thấp
(thực chất nợ BHXH), về khách quan là do có sự tác động của tình hình kinh tế- xã hội
nói chung như lạm phát tăng giá cao, giá xăng dầu, nguyên liệu đầu vào, lương tối thiểu...
đều tăng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp; một số doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu cũng gặp nhiều khó khăn do sự mất giá của đồng đô la Mỹ...Nhưng điều
quan trọng là do nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến nghĩa vụ BHXH ngay từ tháng
đầu, quý đầu năm, chưa quán triệt đầy đủ thực hiện phương châm là thu đúng, thu đủ,
song phải đảm bảo tiến độ.
Tình trạng trốn, nợ, chiếm dụng BHXH trong các doanh nghiệp đã đến mức báo động
và trở thành một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp và khiếu kiện giữa
người lao động và chủ sử dụng lao động. Việc không tham gia BHXH đầy đủ cho người lao
động không những gây thất thu cho quỹ BHXH mà quan trọng hơn là quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của người lao động bị xâm hại, ảnh hưởng đến lòng tin của người lao động làm
công ăn lương.
Thực tế nợ đọng BHXH trong những năm qua đã tạo nên vòng luẩn quẩn, có thể
khái quát là: người lao động đến tuổi nghỉ hưu chờ sổ hưu-sổ hưu chờ BHXH-BHXH chờ
doanh nghiệp nộp tiền-doanh nghiệp nợ BHXH thì nhiều lý do và cuối cùng người lao động
chịu thiệt thòi. Có thể phân các doanh nghiệp nợ BHXH theo hai nhóm, trên cơ sở đó có biện
pháp xử lý phù hợp:
- Nhóm thứ nhất: đó là các doanh nghiệp thực sự khó khăn, như các doanh nghiệp
ngành giao thông, xây dựng, các doanh nghiệp trong danh sách chuyển đổi, sắp xếp, giải
thể...đặc thù của nhóm này là khi công trình hoàn thành mới được quyết toán, hoặc khi
hình thành tổ chức mới hay khi Toà án tuyên bố phá sản... lúc đó doanh nghiệp mới có
nguồn đóng BHXH.
- Nhóm thứ hai: những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, người lao động
có việc làm thường xuyên, nhưng cố tình nợ đọng BHXH dây dưa kéo dài, lạm dụng quỹ
BHXH, vi phạm quyền lợi của người lao động.
Để hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH, cần tập trung vào nhóm hai với việc thực
hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, xử phạt nghiêm minh vi phạm về BHXH, chọn một số doanh nghiệp cố
tình vi phạm mà lâu nay đã vận động, thuyết phục nhưng không chuyển biến lập hồ sơ
khởi kiện ra Tòa án truy cứu trách nhiệm đối với lãnh đạo doanh nghiệp và áp dụng hình
thức tuyên bố phá sản.
Hiện nay mức phạt tiền tối đa là 20 triệu, thực ra là không đáng kể đối với những
doanh nghiệp lớn, có số nợ cao, nên tăng mức phạt bằng mức lãi suất cho vay của Ngân
hàng Thương mại. Việc khởi kiện ra Tòa án về nợ đọng BHXH chỉ là những giải pháp
tình thế, vì cũng gặp những khó khăn do quy trình tố tụng kéo dài thời gian, khả năng thu
hồi nợ khó và đặc biệt làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động trong
các doanh nghiệp đó. Những doanh nghiệp cố tình vi phạm, có thể tiến hành các biện
pháp mạnh tay hơn, ví dụ như doanh nghiệp trong một thời gian nào đó không nộp tiền
BHXH cho người lao động, bất cứ hình thức nào trốn hay gian lận, chúng ta cần áp dụng
hình thức bắt doanh nghiệp đó tuyên bố phá sản, giống như trường hợp doanh nghiệp nợ
thuế kéo dài.
Hai là, ban hành các Văn bản phối hợp giữa cơ quan BHXH với ngành LĐTB&XH,
LĐLĐ địa phương, thông qua hình thức xây dựng Quy chế phối hợp thực hiện chính
sách, chế độ BHXH cho người lao động. Để đảm bảo cơ sở pháp lý trong phối hợp thực
hiện, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các bên cần có
hướng dẫn hoặc có sự hiệp y của cơ quan quản lý cấp trên về Quy chế đó, như
BLĐTB&XH, BHXH Việt Nam và TLĐLĐ Việt Nam. Đây là ba cơ quan có mối quan
hệ mật thiết, trực tiếp đến việc thực hiện chính sách BHXH: BLĐTB&XH thực hiện quản
lý nhà nước, BHXH Việt nam là cơ quan thực hiện và TLĐLĐ Việt Nam thực hiện giám
sát, đặc biệt phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn, đặc biệt Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam giám sát chặt chẽ trong việc hình thành và hoạt động của các Công đoàn cơ sở tại
các doanh nghiệp trốn, nợ BHXH để Công đoàn ở cơ sở có chỗ dựa vững chắc bảo vệ quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động.
Xây dựng văn bản liên tịch với Ngân hàng hoặc Kho bạc để thực hiện việc trích nộp
BHXH và lãi của số tiền nợ BHXH từ tài khoản của doanh nghiệp hoặc phong toả tài
khoản đến khi doanh nghiệp nộp đủ tiền nợ BHXH theo quy định của pháp luật.
Ba là, gắn chặt chẽ công tác thu nộp BHXH với việc cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT
và thực hiện chế độ BHXH
Thu-cấp Sổ, Thẻ-giải quyết hưởng các chế độ BHXH là các khâu nghiệp vụ có quan
hệ mật thiết, không tách rời nhau. Trong đó, khâu sau là hệ quả của khâu trước và khâu
trước là cơ sở, làm điều kiện, tiền đề của khâu sau. Trong quản lý BHXH, thì đóng
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động là các yếu tố đầu vào. Việc cấp sổ
BHXH là để ghi nhận tiền đóng, thời gian đóng BHXH, làm cơ sở để giải quyết các chế
độ BHXH. Đồng thời với cấp sổ BHXH là cấp thẻ BHYT làm cơ sở thanh toán các chi
phí khám chữa bệnh cho người lao động khi đi khám chữa bệnh. Giải quyết các chế độ,
đảm bảo quyền lợi thụ hưởng BHXH của người lao động gắn liền với quá trình đóng
BHXH; đây là khâu cuối cùng, như là yếu tố đầu ra của quá trình tái sản xuất xã hội của
từng người lao động.
Phối hợp chặt chẽ, tuần tự theo đúng quy trình trên, là biện pháp ràng buộc để quản lý
thu BHXH được đảm bảo theo đúng các quy định của Nhà nước. Người lao động có đóng
BHXH thì được cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, đóng đến đâu, mức đóng như thế nào thì được
xác nhận trên sổ BHXH và thời hạn giá trị sử dụng trên thẻ BHYT tương ứng với thời gian
đóng. Căn cứ vào sổ BHXH cơ quan BHXH thực hiện giải quyết các chế độ BHXH khi có
phát sinh. Như vậy, người lao động mặc dù hết tuổi lao động, đã đóng đầy đủ BHXH,
nhưng chủ sử dụng lao động còn nợ tiền đóng BHXH thì vẫn không được giải quyết các chế
độ BHXH. Với những quy định như trên sẽ nâng cao vai trò trách nhiệm của người sử dụng
lao động đối với người lao động. Đây là trách nhiệm mang tính cộng đồng, nhằm ràng buộc
người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đầy đủ cho toàn bộ số lao động thuộc diện phải
tham gia BHXH bắt buộc, cơ quan BHXH mới thực hiện các chế độ cho người lao động.
Bốn là, nghiên cứu điều chỉnh cung cầu về lao động. Thực tế cung lao động rất lớn
nhưng cầu lao động hạn chế, lượng người không có việc làm lớn, vì vậy sự ràng buộc
quyền lợi về BHXH giữa người lao động và người sử dụng lao động là rất khó khăn.
Điều quan trọng nữa là cách tiếp cận của chúng ta với BHXH phải theo nguyên tắc thị
trường, không thể coi BHXH như một chính sách xã hội thuần tuý, mà đây còn là một
trong những chính sách kinh tế, để gắn chặt trách nhiệm của người sử dụng lao động với
người lao động.
Năm là, cần có các quy định đồng bộ và đủ mạnh, đặc biệt hoàn thiện hệ thống
luật pháp. Vì hiện nay, các doanh nghiệp nợ đọng BHXH có thể kéo dài triền miên,
trong khi cùng khoản tiền như vậy, thậm chí chỉ bằng 1/10 đối với thuế đã bị khép vào
tội trốn thuế. Vậy, nên quy định trốn đóng, nợ đóng BHXH là một tội danh để xử lý
bằng nhiều hình thức. Trong bối cảnh khi chúng ta phát triển một nền kinh tế dựa trên
rất nhiều thành phần kinh tế khác nhau, bên cạnh đó bộ máy quản lý của chúng ta, tuy
đã có hệ thống luật pháp, nhưng vẫn cần được hoàn thiện thêm, đặc biệt với hệ thống
quản lý để làm sao thu nộp BHXH một cách tốt nhất. Ví dụ, như bên Thuế có hàng
chục ngàn cán bộ thu thuế, nhưng đối với BHXH thì hệ thống cán bộ rất mỏng, chưa
đủ sức để quản lý một sự bùng nổ các doanh nghiệp như hiện nay. Tình hình nợ đọng
BHXH được phản ánh qua Biểu 3.3 sau:
Biểu 3.3: Danh sách các đơn vị nợ đọng tiền đóng BHXH
tính đến quý I/2008
Đơn vị tính: Triệu đồng
Số
TT
Tên đơn vị sử dụng lao động Số tiền nợ
1 Công ty CP công nghiệp Tàu thuỷ Hoàng Linh 826
2 Công ty CP chế biến Thuỷ sản 255
3 Công ty XD công tình Giao thông 892 244
4 Công ty xây dựng 838 336
5 Công ty CP Thanh Hoa Sông Đà 313
6 Công ty CP Vĩnh Nguyên 203
7 Liên doanh may Việt Thanh 308
8 Công ty giày Hoàng Long 1.270
9 Công ty CP SX công nghiệp & xuất nhập khẩu 125 348
10 Công ty cơ khí xây lắp công nghiệp Tàu thuỷ 386
11 Công ty CP Giống gia cầm 98
12 Công ty CP vật liệu chất đốt 74
13 Công ty CP khai thác chế biến khoáng sản xuất khẩu 202
14 Công ty CP chế biến tinh bột ngô 198
15 Công ty CP tư vấn xây dựng & đầu tư 68
16 Công ty Đông á 158
17 Công ty CP tàu thuyền Hoàng Long Vinasim 86
18 Công ty CP vận tải viễn dương Nam Triệu 313
19 Công ty CP XD 1 Thanh Hóa 144
20 Công ty CP Viglacera Bỉm Sơn 876
21 Công ty CP Licogi 15 448
22 Công ty CP xây dựng K2 211
23 Nông trường quốc doanh Yên Mỹ 1.629
24 Công ty CP bê tông thương phẩm 177
25 XN thủy nông Hà Trung 190
26 Nhà máy chế biến thực phẩm Như Thanh 328
Tổng cộng 9.689
Nguồn: [20].
Đến ngày 30/3/2008, số nợ BHXH luỹ kế ở Thanh Hóa gần 57 tỷ đồng, trong đó:
doanh nghiệp nhà nước chiếm 23,6%; doanh nghiệp dân doanh chiếm 72,2%; các đơn vị
khác chiếm 4,2%. Phân tích tình hình nợ BHXH cho thấy: gần 9,7 tỷ đồng thuộc dạng nợ
tồn đọng (số nợ lớn hớn số tiền phải đóng BHXH bình quân 3 tháng); nợ gối đầu là 9,1 tỷ
đồng (số nợ nhỏ hơn số tiền phải đóng BHXH bình quân 1 tháng) và 38,2 tỷ đồng nợ
chậm đóng (số nợ lớn hơn số tiền phải đóng BHXH bình quân 1 tháng).
Phân loại nợ như trên nhằm có biện pháp xử lý thu nợ BHXH, chẳng hạn khi phát
hiện nợ gối đầu thì phải đôn đốc, nhắc nhở để người sử dụng lao động đóng đúng kỳ, đủ số
lượng. Khi phát hiện nợ chậm đóng thì đôn đốc, nhắc nhở bằng văn bản và khi thấy nợ tồn
đọng phải báo cáo với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương chỉ đạo, phối hợp với các cơ
quan chức năng để kiểm tra, xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật Lao động,
pháp luật BHXH.
3.2.5. Cải tiến phương thức quản lý thu bảo hiểm xã hội
Luật BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 với nhiều thay đổi cơ bản, do
vậy cần nhanh chóng cải tiến phương thức quản lý BHXH, trước hết tập trung cải cách
thủ tục hành chính và đổi mới phương thức phục vụ của BHXH tỉnh Thanh Hóa.
3.2.5.1. Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu bảo hiểm xã hội
Cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động BHXH nói chung và trong quản lý thu
BHXH nói riêng theo hướng chuyển từ tác phong hành chính sang tác phong phục vụ là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm, mang tính cấp thiết của toàn ngành.
- Tác phong hành chính, là cách nghĩ và việc làm máy móc, chỉ biết dựa vào văn
bản, đôi khi văn bản đã lạc hậu; ít lắng nghe, tìm hiểu cặn kẽ nhu cầu của đối tượng; đùn
đẩy trách nhiệm; giải quyết công việc chậm, cứng nhắc; khi có yêu cầu của trên thì mở
hội nghị và chờ đợi, không có hướng dẫn cụ thể, không cần biết tại sao người lao động,
người sử dụng lao động không tham gia BHXH, chưa tham gia BHXH. Đây là lối suy
nghĩ mang tính hành chính, thụ động.
- Tác phong phục vụ là luôn lấy đối tượng làm căn cứ cho mọi hành vi ứng xử; quan
tâm đến lợi ích, nguyện vọng của đối tượng; chủ động tìm đến đối tượng, làm việc cùng
đối tượng; không quan tâm đến hình thức mà quan tâm đến chất lượng dịch vụ; luôn thay
đổi điều kiện, thái độ làm việc để phục vụ, sẳn sàng phục vụ đối tượng khi có yêu cầu;
luôn lấy sự thoả mãn của đối tượng là thành công của mình.
Cải cách hành chính là một chương trình tổng thể gồm 4 nội dung cơ bản, từ cải
cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Trong đó cải cách thủ tục hành chính mà cụ
thể là thực hiện cơ chế " một cửa" làm khâu đột phá không những trong thực hiện chế độ,
chính sách mà có tác dụng quan trọng trong quản lý thu BHXH. Tổ chức theo mô hình
mới này thay cho việc bố trí từng khâu công việc theo mô hình cũ, người sử dụng lao
động muốn làm việc với cơ quan BHXH phải qua rất nhiều cung đoạn: Trước hết phải
vào bộ phận thu để đăng ký danh sách lao động và tổng quỹ tiền lương đóng BHXH cho
người lao động; nếu đang tham gia đóng BHXH thì kiểm tra, xác nhận kết quả đóng
BHXH làm cơ sở để giải quyết các chế độ theo quy trình: nếu giải quyết chế độ BHXH
thì gặp Phòng quản lý Chế độ, chính sách; muốn làm thẻ, gia hạn thẻ, đổi thẻ BHYT thì
gặp phòng thu (nếu đối tượng bắt buộc), gặp phòng Tự nguyện (nếu đối tượng tự
nguyện), gặp Phòng quản lý Chế độ, chính sách (nếu đối tượng hưu trí); làm hồ sơ giám
định khả năng lao động thì gặp Phòng quản lý Chế độ, chính sách; làm giám định BHYT
thì gặp phòng Giám định chi. Khi thực hiện theo cơ chế "một cửa" thì chỉ cần đến "Phòng
tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả". Có thể khái quát mô hình "một cửa" như sau: Đơn vị sử
dụng lao động, người lao động chỉ cần nộp hồ sơ và nhận kết quả giải quyết của cơ quan
BHXH tại "Phòng tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả". Khi nhận hồ sơ, Phòng này kiểm tra
kỹ và chỉ được hướng dẫn một lần, không được hướng dẫn nhiều lần và phải chịu trách
nhiệm đảm bảo về chất lượng hồ sơ khi tiếp nhận là giải quyết được công việc, trả kết
quả đúng hạn theo Phiếu hẹn. Như vậy, việc thẩm định giải quyết cụ thể sẽ do các phòng
chức năng đảm nhận, người lao động, người sử dụng lao động không tiếp xúc trực tiếp
với cán bộ BHXH có trách nhiệm giải quyết công việc. Thực hiện cơ chế này sẽ loại bỏ
được nguyên nhân có thể dẫn đến các hiện tượng tiêu cực; đồng thời tạo được cơ chế
kiểm soát chặt chẽ giữa các phòng chức năng, tạo thuận lợi cho người tham gia và thụ
hưởng quyền lợi BHXH.
Xây dựng trang Web để cung cấp kịp thời văn bản pháp luật BHXH, trả lời câu hỏi,
thắc mắc của đơn vị sử dụng lao động, người lao động về chính sách BHXH nói chung và
thu BHXH nói riêng ở trên mạng, đáp ứng kịp thời yêu cầu nắm bắt thông tin chính sách
mới của Đảng, Nhà nước và của Ngành, góp phần tuyên truyền, mở rộng đối tượng tham
gia BHXH. Ngoài ra cần xây dựng trang Web nhằm trao đổi thông tin, dữ liệu giữa đơn
vị sử dụng lao động và cơ quan BHXH để giảm bớt phiền hà, thời gian đi lại của đơn vị
tham gia BHXH. Với hệ thống này mỗi đơn vị tham gia BHXH được cung cấp một tài
khoản dùng làm cơ sở trao đổi dữ liệu thu, chi BHXH với cơ quan BHXH trước khi in
thành văn bản, danh sách chính thức. Hệ thống trao đổi dữ liệu này không những giúp
cho công tác quản lý thu BHXH có hiệu quả vượt trội mà còn đáp ứng yêu cầu thực hiện
cải cách thủ tục hành chính một cách triệt để theo mô hình "một cửa”.
Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu BHXH liên quan đến nghiệp vụ
BHXH của nhiều phòng chức năng, có thể coi việc cải cách này mang tính đột phá và là
nội dung cải cách cơ bản. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện có hiệu quả cơ chế "một cửa" tại
cơ quan BHXH cần thực hiện những giải pháp đồng bộ từ tư tưởng, nhận thức và hành
động vì nó đụng chạm trực tiếp đến quyền và trách nhiệm của cá nhân, từng phòng chức
năng trong đơn vị, nhất là khi các thông tin cần thiết phục vụ cho việc điều hành thực thi
nhiệm vụ điều phải công khai, minh bạch. Phải rà soát, điều chỉnh lại chức năng, nhiệm
vụ các phòng chức năng đảm bảo không chồng chéo, không bỏ sót, mỗi việc chỉ do một
phòng chịu trách nhiệm chính, đồng thời có cơ chế phối hợp, kiểm soát giữa các phòng
chức năng. Đây cũng chính là tác phong phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong
Ngành nói chung, của cán bộ thu BHXH nói riêng.
3.2.5.2. Đổi mới phong cách phục vụ
Bước vào thời kỳ phát triển mới, nhiệm vụ đặt ra cho ngành BHXH tỉnh Thanh Hóa
hết sức nặng nề, khối lượng công việc ngày càng lớn và tăng nhanh, thời cơ và thách thức
đều đang ở phía trước, đòi hỏi BHXH tỉnh Thanh Hóa phải có nhiều giải pháp cơ bản về
công tác tổ chức, bộ máy & cán bộ, trong đó công tác nhân sự được đặc biệt quan tâm, vì
cán bộ là khâu quyết định. Trước hết, cùng với việc củng cố cơ cấu tổ chức, bộ máy theo
lộ trình của BHXH Việt Nam, cần kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, luân
chuyển, đào tạo và gắn chặt chẽ với đánh giá, sử dụng cán bộ. Chú trọng giáo dục phẩm
chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, tinh thần và tác phong phục vụ đối tượng để mỗi cán
bộ, công chức thực sự yêu ngành, yêu nghề, có thái độ phục vụ đúng đắn. Xây dựng tiêu
chuẩn cụ thể về đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức, viên chức trong ngành, trong đó
quy định rõ những tiêu chuẩn cần phải "xây", đồng thời chỉ rõ những vi phạm thường gặp
cần phải "chống" để cán bộ, công chức có cơ sở đối chiếu kiểm điểm tự phê bình, tự tu
dưỡng và làm cơ sở cho việc giám sát, phê bình, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực. Xử lý nghiêm minh đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi
phạm pháp luật; lợi dụng chức quyền, nhiệm vụ, công vụ được giao để tham nhũng.
Thực hiện tự tu dưỡng, rèn luyện theo Tiêu chuẩn chung về đạo đức của cán bộ,
công chức ngành BHXH là: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN; hết lòng, hết sức vì nghiệp BHXH, BHYT và ngành BHXH Việt Nam. Nêu
cao tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, tôn trọng và đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của người tham gia và thụ hưởng chế độ. Chấp hành nguyên tắc, pháp luật, kỷ
cương; có thức xây dựng, giữ gìn đoàn kết trong cơ quan; trung thực, thẳn thắn trong đấu
tranh phê bình, tự phê bình; bảo vệ chân lý, quan điểm của Đảng, không chạy theo thành
tích; không bao che, giấu giếm khuyết điểm. Tích cực công tác, học tập có chất lượng và
hiệu quả; triệt để thực hành tiết kiệm, biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập
thể, của nhân dân; không lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng nhiệm vụ được giao để
vụ lợi, chiếm đoạt của công làm của riêng. Nói đi đôi với làm, kiên quyết đấu tranh với
lối sống thực dụng, cơ hội, tư tưởng cục bộ, kéo bè, kéo cánh để cầu danh, trục lợi,
chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể và quần chúng.
Đối với cán bộ chuyên quản thu BHXH cần phải hiểu biết thêm nhiều lĩnh vực khác
nhau, vì công tác thu BHXH liên quan đến nhiều kiến thức về: lao động, việc làm, tiền
lương, tài chính,...hiểu biết nhiều văn bản luật, ngoài Luật BHXH, còn có các Luật: Lao
động, Ngân sách, Dân sự, Doanh nghiệp, Đầu tư, Hành chính... và am hiểu về tổ chức,
tính chất hoạt động của các đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp để thu đúng đối tượng, phạm
vi, mức đóng, phương thức đóng theo quy định của Chính phủ.
Trong thời gian tới, cần hình thành một hệ thống cán bộ chuyên thu từ tỉnh đến cơ
sở, không nên bố trí công tác thu BHXH kết hợp với công tác cấp sổ BHXH, thẻ BHYT
như hiện nay. Đối với BHXH cấp huyện cần thành lập Tổ thu BHXH không kết hợp bố
trí kiêm nhiệm, có phụ cấp trách nhiệm đối với Tổ trưởng và Tổ phó; tiến tới thành lập
Phòng Thu BHXH cấp huyện. Đối với cơ sở nên bổ sung thêm chức danh chuyên trách
cán bộ xã, phường, thị trấn trực tiếp làm công tác BHXH như các chức danh chuyên môn
khác.
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra; gắn xử phạt với khen thưởng
kịp thời
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế độ BHXH nói chung, quản lý thu BHXH
bắt buộc nói riêng có vị trí hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc thu nộp BHXH
đúng, đủ, kịp thời. Không có thanh tra, kiểm tra thì không thực hiện đúng chức năng lãnh
đạo, quản lý về BHXH.
Thanh tra về BHXH là biện pháp mà các cơ quan quản lý nhà nước sử dụng để kiểm
tra việc thực hiện chính sách, chế độ BHXH, thực hiện xử lý hành chính và phạt tiền đối với
người sử dụng lao động, nếu có những vi phạm về BHXH (hiện nay theo quy định thẩm
quyền xử lý là: Thanh tra chuyên ngành Lao động Thương binh & Xã hội; Chủ tịch UBND
cấp tỉnh và huyện). Còn kiểm tra là biện pháp mà cơ quan có thẩm quyền sử dụng để kiểm
tra, chấn chỉnh các khâu trong quản lý BHXH nói chung, quản lý thu nộp BHXH bắt buộc
nói riêng đảm bảo theo đúng các quy định; kiểm tra không có quyền xử lý vi phạm hành
chính và phạt tiền như Thanh tra, mà chỉ kiến nghị xử lý khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm
về BHXH (đó là kiểm tra của cơ quan BHXH). Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện thu nộp
BHXH tức là đề cập đến vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH thông
qua việc chấp hành các quy định đóng BHXH.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành
thu nộp BHXH theo quy định đối với người lao động, người sử dụng lao động, cần phải
tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện, một mặt biểu dương người tốt, việc tốt, đồng
thời phát hiện lệch lạc để có biện pháp uốn nắn kịp thời và áp dụng những hình thức xử
lý để răn đe, giáo dục không tái phạm những lần sau. Đây là công việc thường xuyên, vì
thực trạng hiện nay nhiều đơn vị sử dụng lao động, ngoài việc trốn tránh nghĩa vụ tham
gia, lại chậm nộp BHXH đã làm ảnh hưởng tới việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính
đáng của người lao động.
Các vi phạm pháp luật về đóng BHXH đối với người sử dụng lao động và người
lao động, bao gồm các hành vi: không đóng, đóng không đúng thời gian, đóng không
đúng mức quy định và đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH. Những vi
phạm trên, ngoài việc phải đóng số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định
của pháp luật, còn phải đóng số tiền lãi do chưa đóng, chậm đóng theo lãi suất của hoạt
động đầu tư từ quỹ BHXH trong năm, theo công thức tính lãi, áp dụng từ ngày
01/01/2007, là: Lt = D x K/12. Trong đó:
+ Lt: Số tiền lãi phải nộp do chưa đóng, chậm đóng được tính hằng tháng.
+ D: Số tiền chưa đóng, chậm đóng thuộc các trường hợp phải tính lãi.
+ K: Lãi suất của hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong năm.
Đề nghị sửa đổi, bổ sung tính lãi như sau:
- Về lãi suất tính: từ đầu năm 2007, lãi suất tính tuy nhiều lần được điều chỉnh từ
8,4% năm, lên 8,76% năm và từ tháng 6/2008 là 14%năm, nhưng vẫn thấp, doanh nghiệp
chấp nhận nộp phạt số tiền lãi này hơn là trả lãi vay Ngân hàng. Đề nghị áp dụng tính lãi
suất cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại, vì thực chất đây là tiền của
người lao động đóng góp mà có.
- Về thời điểm tính: theo quy định hiện nay thì chỉ tính lãi sau ngày thứ 30 kể từ
ngày hết hạn phải đóng BHXH và chỉ áp dụng từ ngày 01/01/2007, tức là khi Luật
BHXH có hiệu lực. Như vậy chưa công bằng, vì có những doanh nghiệp nợ tồn đọng
BHXH từ trước năm 2007 và có doanh nghiệp mới phát sinh nợ sau này, nhưng khi thực
hiện chế độ BHXH thì đều được điều chỉnh theo chỉ số CPI hiện tại.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về BHXH, cơ quan, tổ chức, cá nhân vi
phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền như
trên. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung,
như tước quyền sử dụng Giấy phép hoạt động có thời hạn hoặc không thời hạn hoặc tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Phải có chế tài đủ mạnh đảm bảo nghiêm minh của pháp luật, phù hợp với điều
kiện kinh tế-xã hội và tập quán pháp luật của đất nước. Thiếu chế tài thoả đáng, hệ thống
BHXH sẽ bị lạm dụng và sẽ không thực hiện được chức năng đáp ứng bù đắp thu nhập
cho các thành viên tham gia BHXH. Bản chất của chế tài là đề ra các biện pháp pháp luật
thoả đáng trong phạm vi pháp luật mà các bên liên quan có thể chấp thuận được vì lợi ích
chung. Nhưng để chế tài thực hiện được thì bản thân hệ thống BHXH cũng phải phù
hợp, tiến tới hoàn thiện (các quy định về đóng-hưởng, các thủ tục thu nộp BHXH, tính
minh bạch của hệ thống tài chính…). Khi người sử dụng lao động thấy rõ và hiểu rõ
quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH thì mức độ sẵn sàng hợp tác với cơ quan BHXH tốt
hơn. Đây là chế tài theo hướng phòng ngừa sự vi phạm BHXH, nó bao hàm cả việc cung
cấp thông tin, cung cấp tài liệu hướng dẫn, tổ chức huấn luyện cho doanh nghiệp về công
tác BHXH, có như vậy sẽ tạo ra sự tuân thủ tự giác, sự liên kết, hợp tác giữa các doanh
nghiệp với cơ quan BHXH. Trong những trường hợp không hiểu hết ý nghĩa hoặc chưa
hiểu rõ pháp luật về BHXH, đặc biệt cố tình không hiểu, họ luôn tìm mọi sơ hở của pháp
luật để trốn tránh đóng BHXH, trốn tránh nghĩa vụ đóng để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động mà họ thuê mướn, sử dụng thì cần có chế tài đủ mạnh buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ BHXH.
Sử dụng đồng bộ biện pháp kinh tế với biện pháp hành chính, khi phát hiện doanh
nghiệp vi phạm về đóng BHXH, thực hiện phạt tiền và thực hiện truy thu thông qua hệ
thống Kho bạc hoặc Ngân hàng; hoặc phong toả tài khoản và các giao dịch kinh doanh
của doanh nghiệp tuỳ theo mức độ vi phạm về đóng BHXH. Nhưng để thực hiện được
chế tài này cần làm rõ trách nhiệm của Thanh tra lao động (thanh tra chuyên ngành),
chính quyền các cấp…Đặc biệt phải nghiên cứu xây dựng hệ thống thanh tra chuyên
ngành về BHXH theo hệ thống dọc từ Trung ương tới địa phương, được giao quyền hạn
đủ lớn, nếu phát hiện vi phạm có quyền ghi mức nộp phạt hoặc ra các thông báo để
phong toả tài khoản của doanh nghiệp.
Bên cạnh việc xử lý nghiêm các vi phạm, cần khen thưởng kịp thời những đơn vị
sử dụng lao động làm tốt công tác đăng ký tham gia và thu nộp BHXH hàng năm. Khen
thưởng phải được thực hiện khách quan, kịp thời, coi trọng cả vật chất và tinh thần, nếu
không quán triệt đầy đủ nguyên tắc trên thì tác dụng giáo dục thông qua công tác khen
thưởng không những bị hạn chế mà tạo sức ỳ lớn, vi phạm không giảm mà tái phạm có
thể vẫn tăng. Vì, khi gắn kết chặt chẽ giữa xử lý các vi phạm với khen thưởng kịp thời,
bản thân cách làm này đã giúp cơ quan quản lý hiểu hơn về doanh nghiệp, thông cảm khó
khăn của doanh nghiệp. Chúng ta có thể dễ dàng trả lời được câu hỏi vì sao trên 63%
doanh nghiệp và gần 65% lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
chưa tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động. Tuy nhiên, đi vào thực tế quá trình
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chúng ta mới thấy được câu trả lời không hề
đơn giản, không chỉ là do người sử dụng lao động cố tình vi phạm pháp luật, cố tình trốn
đóng BHXH, mà đó là do các doanh nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa hiện nay khả năng
cạnh tranh thấp. Vì vậy, để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và trách nhiệm một cách hoàn
hảo như trong các văn bản pháp luật quy định không phải là việc dễ.
Kết luận và kiến nghị
Đất nước ta đang chuyển mình trên con đường đổi mới, thực hiện quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự nghiệp đổi mới đó đã thổi một
luồng sinh khí vào toàn bộ nền kinh tế, nó khơi dậy, phát huy và khai thác tiềm năng to
lớn về vốn, lao động, tài nguyên, trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, khả năng
quản lý, quan hệ xã hội, thông tin và các nguồn lực khác của mọi thành phần kinh tế để
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Kết quả thực hiện chính sách
BHXH nói chung, quản lý thu BHXH bắt buộc nói riêng ở tỉnh Thanh Hóa đóng góp một
phần không nhỏ vào việc hoạch định, hoàn thiện cơ chế chính sách về BHXH và nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách
BHXH đối với người lao động. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu BHXH
trong điều kiện mới, tác giả đã nghiên cứu Đề tài: “Hoàn thiện quản lý thu BHXH trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa". Trong luận văn tác giả đã:
- Đưa ra khái niệm về quản lý thu BHXH, phân tích những nội dung của quản lý thu
BHXH và chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến thu và quản lý thu BHXH.
- Từ những vấn đề lý luận đã nêu trên, tác giả đã vận dụng, đối chiếu với tình hình
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa để chỉ ra những kết quả đạt được cùng những hạn
chế, thiếu sót và nguyên nhân của kết quả đạt được, của những hạn chế, thiếu sót một
cách toàn diện, khách quan và cụ thể.
- Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, thực hiện những nhiệm vụ
đã được xác định trong chiến lược phát triển của Ngành và xuất phát từ thực tế của
Thanh Hóa, tác giả đã đề xuất 6 nhóm giải pháp mang tính đồng bộ nhằm hoàn thiện
công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Để thực hiện có hiệu quả 6 nhóm giải pháp đã đề xuất, tác giả kiến nghị với Chính
phủ, với UBND tỉnh Thanh Hóa, với BHXH Việt Nam sau đây:
1. Kiến nghị với Chính phủ
WTO tác động đến thị trường lao động và ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động
BHXH, vì vậy Chính phủ cần có chính sách vĩ mô về BHXH phù hợp với điều kiện hội
nhập.
- Về mức đóng BHXH cần tăng dần đến năm 2015 là 29% (người lao động đóng 9%,
chủ sử dụng lao động đóng 20%). Đối với các doanh nghiệp mức đóng BHXH hằng
tháng không căn cứ theo mức tiền lương, tiền công ghi trên hợp đồng lao động như hiện
nay, vì người lao động thường được trả tiền công thấp hơn mức lương tối thiểu chung, do
áp lực việc làm và đời sống nên dù trả công thấp người lao động vẫn chấp nhận làm việc,
thậm chí thực tế có nhiều trường hợp 8-10 năm không tăng tiền công. Đối với những
trường hợp trên thì tiền công, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH phải dựa trên thang
bảng lương Nhà nước của cùng loại công việc, nhưng điều chỉnh tăng dần theo thời gian
cứ 2- 3 năm một lần.
- Nghiên cứu ban hành Luật Tiền lương tối thiểu đối với khu vực sản xuất kinh
doanh; quy định nguyên tắc xây dựng thang, bảng lương để người lao động và người sử
dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương hợp lý; thực hiện tốt công tác định mức lao
động trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bổ sung, hoàn thiện chính
sách cho nghỉ hưu sớm đối với công nhân một số nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
- Tăng dần tuổi nghỉ hưu từ năm 2010, mỗi năm thêm 01 tuổi cho đến khi đạt ổn định
mức tăng tối đa 05 tuổi (tuổi nghỉ hưu của nam 65 tuổi, nữ 60 tuổi) để đảm bảo cân đối
giữa mức đóng và mức hưởng, làm cho nguồn thu phát triển liên tục và bền vững, phù
hợp với phát triển kinh tế và mức sống của người lao động, đồng thời không gây lãng phí
sức lao động.
- Cho phép tổ chức BHXH ở địa phương được sử dụng số tiền nhàn rỗi từ nguồn thu
BHXH để đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH do người lao động và chủ sử dụng lao
động đóng góp tạo nên, việc đầu tư trở lại giúp các doanh nghiệp có thêm vốn sản xuất
kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động là rất hợp lý, nhằm tham gia tháo
gỡ khó khăn cùng các doanh nghiệp như trong trường hợp doanh nghiệp gặp khó khăn
phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh hoặc gặp khó khăn do thiên tai, mất mùa dẫn đến
việc người lao động và người sử dụng lao động không có khả năng đóng BHXH.
- Cho phép các đơn vị sử dụng lao động không giữ lại 2% trên mức đóng BHXH.
Đây là quy định trong Luật BHXH, nhằm chi trả kịp thời chế độ thai sản, ốm đau cho
người lao động. Về mặt lý thuyết là tạo thuận lợi cho người lao động, thế nhưng đi vào
thực hiện quy định này lại phát sinh nhiều vấn đề lúng túng và khó thực hiện và hiện nay
nhiều doanh nghiệp lại "kêu trời" vì điều này, ở Thanh Hóa có tới 99% doanh nghiệp làm
văn bản đề nghị cơ quan BHXH không để lại tỷ lệ này, với nhiều lý do:
+ Doanh nghiệp có nhiều công nhân thì số chi lớn, trong khi phần được giữ lại
không đủ chi, việc quy định thanh toán theo tháng, không đủ cán bộ chuyên trách, việc
làm hồ sơ và sổ theo dõi sức khoẻ công nhân thường bị chậm so với biến động lao động
quá lớn. Ngay cả doanh nghiệp ít công nhân, phần giữ lại 2% chẳng đáng là bao, nếu có
phát sinh ốm dau, thai sản thì cũng không đủ để chi trả.
+ Doanh nghiệp có tỷ lệ nữ đông lại càng bất lợi vì ốm đau nhiều, thanh toán
thai sản lớn, doanh nghiệp bức xúc vì họ không những không được lợi từ việc giữ lại
2% mà còn bị đủ thứ rắc rối, công nhân cũng chẳng được thanh toán chế độ nhanh hơn
mà còn có nguy cơ bị ảnh hưởng đến quyền lợi, ngay cả cơ quan BHXH phải giải
quyết thêm một khối lượng không nhỏ công việc.
- Cho phép cơ quan BHXH có thẩm quyền xử phạt hành chính về vi phạm BHXH;
theo quy định hiện nay thẩm quyền xử phạt thuộc UBND cấp huyện, cấp tỉnh và thanh tra
lao động chứ không thuộc ngành BHXH. Trong khi thực tế chính quyền các cấp bận quá
nhiều việc, với nhiều lĩnh vực chứ không phải chỉ có mỗi lĩnh vực BHXH. Xem xét lại
mức phạt và cơ chế xử lý vi phạm Luật BHXH: các hành vi vi phạm pháp luật lao động
dẫn đến vi phạm Luật BHXH vẫn tiếp tục diễn ra chủ yếu do mức xử lý như hiện nay là
quá nhẹ, không đủ sức răn đe hành vi vi phạm trốn đóng BHXH chủ yếu ở các đơn vị lớn
nhưng mức phạt tối đa không quá 20 triệu là quá ít.
- Mở rộng thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với lao động do UBND xã,
phường, thị trấn hợp đồng làm công việc quản lý các chợ của xã, phường, thị trấn. Hiện
nay ở Thanh Hóa có khoảng 3.000 lao động này, tuy có quan hệ lao động và quan hệ tiền
công nhưng chưa được đưa vào diện tham gia BHXH bắt buộc.
2. Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh
- Chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp trên địa bàn
thực hiện nghiêm túc việc ký thỏa ước lao động tập thể, hợp đồng lao động theo đúng các
nội dung quy định trong Bộ Luật lao động, làm cơ sở cho việc đăng ký tham gia BHXH
theo quy định của pháp luật về BHXH.
- Đưa việc thực hiện thu, nộp BHXH cho người lao động là một trong những tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hằng năm và bình xét thi đua, khen thưởng, công
nhận các danh hiệu thi đua của doanh nghiệp.
- Chỉ đạo các ngành chức năng khi xem xét đăng ký kinh doanh đối với các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh phải có nội dung tham gia BHXH, yêu cầu các doanh nghiệp
thực hiện nghiêm túc các quy định về Hợp đồng lao động và đăng ký tham gia BHXH
cho người lao động đầy đủ, kịp thời, đúng các quy định.
3. Kiến nghị với Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- Thí điểm uỷ nhiệm cho cơ quan thuế ở địa phương trực tiếp thu hộ BHXH khu vực
cá thể, vì có đặc thù là họ vừa là người lao động vừa là người sử dụng lao động, tuy
nhiều, nhưng nhỏ lẻ, manh mún, khó quản lý và việc tham gia đóng BHXH giản đơn.
- Phân cấp cho BHXH ở huyện, thị xã, thành phố trong quản lý thu BHXH bắt buộc,
không phân biệt loại hình doanh nghiệp như hiện nay. Xây dựng quy trình quản lý thu
BHXH phù hợp với đặc điểm tổ chức hoạt động của các đơn vị, đặc biệt là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác...đảm bảo liên thông với
BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp phù hợp với hội nhập kinh tế thế giới.
- Đầu tư cơ sở vật chất, bao gồm cả việc nâng cấp Trụ sở làm việc và trang bị hệ
thống máy vi tính, đảm bảo mỗi cán bộ, công chức có 1 máy và BHXH huyện, thị xã,
thành phố đều có máy chủ nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng, phát triển nguồn thu ở khu
vực kinh tế ngoài nhà nước, vì Thanh Hóa có tiềm năng phát triển nguồn thu BHXH lớn.
- Bổ sung nhân sự đủ về số lượng và có chất lượng để bố trí trực tiếp quản lý thu
BHXH hiện nay còn quá mỏng; thường xuyên tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ chuyên quản thu nói riêng.
Thí điểm thành lập Phòng thu BHXH cấp huyện ở những nơi có số thu BHXH hằng năm
từ 10 tỷ đồng và quản lý thu từ 200 đơn vị trở lên.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bùi Quỳnh Anh (2007), "Nợ BHXH và giải pháp hạn chế", Tạp chí Lao động & Xã
hội, (312).
2. Mạc Tiến Anh (2005), "BHXH- Khái niệm và bản chất", Tạp chí Bảo hiểm xã hội,
(5).
3. Nguyễn Huy Ban (2007), "Hoàn thiện chính sách BHXH, BHYT thời kỳ hội nhập
và phát triển", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (2).
4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1996), Quyết định số 177/QĐ-BHXH ngày 12/03/1996
về thu nộp BHXH.
5. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1999), Chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm
2010, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1999), Quyết định số 2902/1999/QĐ-BHXH ngày
23/11/1999 ban hành quy định về quản lý thu thuộc hệ thống BHXH Việt Nam.
7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2000), Tóm tắt những nội dung chủ yếu của các đề tài
nghiêm cứu từ năm 1996-1998, Kỷ yếu khoa học, Tập I, Hà Nội.
8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2002), Quyết định số 1620/2002/QĐ-BHXH-TCCB
ngày 17/12/2002 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo
hiểm xã hội ở địa phương.
9. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2003), Quyết định số 195/2003/QĐ-BHXH-TCCB ngày
19/02/2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ quản lý
của các phòng trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
10. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2003), Giải pháp thực hiện chính sách BHXH, BHYT
trong giai đoạn mới, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
11. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2003), Quyết định số 722/QĐ-BHXH ngày 26/5/2003
ban hành quy định về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc.
12. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2004), Tóm tắt những nội dung chủ yếu của các đề tài
nghiên cứu từ năm 1999-2002, Kỷ yếu khoa học, Tập II,
Hà Nội.
13. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007), Một số văn bản quy phạm pháp luật và văn bản
của ngành hướng dẫn thực hiện BHXH, BHYT.
14. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2007), Quyết định số 902/QĐ-BHXH, ngày 26/6/2007
quy định về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc.
15. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2008), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2007, triển khai
nhiệm vụ năm 2008.
16. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2008), Tài liệu tham khảo kinh nghiệm thực hiện BHXH
của các nước trong khu vực và một số nước trên thế giới.
17. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2008), Quyết định số 1333/QĐ-BHXH, ngày 21/2/2008,
sửa đổi, bổ sung một số điểm tại Quyết định số 902/QĐ-BHXH ngày 26/6/2007 quy
định về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc.
18. Bảo hiểm xã hội Thanh Hóa (2006), Thống kê lương tháng đóng BHXH trong
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
19. Bảo hiểm xã hội Thanh Hóa, Báo cáo tình hình thực hiện thu BHXH các năm từ
2003-2007 và quý I/2008.
20. Bảo hiểm xã hội Thanh Hóa, Báo cáo tình hình nợ đọng BHXH đến quý I/2008.
21. Bảo hiểm xã hội Thanh Hóa, Báo cáo Tổng kết công tác BHXH các năm từ 2003-
2007 và quý I/2008.
22. Nguyễn Khánh Bật (2005), "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về BHXH", Báo
Bảo hiểm xã hội, (2), tr.2.
23. Phạm Đình Bình (2005), "Về một số khái niệm liên quan đến BHXH", Tạp chí Bảo
hiểm xã hội, (4).
24. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII
(1998), Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26/5/1998 về tăng cường lãnh đạo thực hiện
các chế độ bảo hiểm xã hội.
25. Bộ Lao động Thương binh & Xã hội (1993), Một số Công ước của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO).
26. Bộ Lao động Thương binh & Xã hội (1999), Thuật ngữ Lao động Thương binh &
Xã hội, tập I, Nxb Lao động, Hà Nội.
27. Bộ Tài chính (1995), Thông tư số 58/TT/HCSN ngày 24/7/1995 hướng dẫn tạm thời
phương thức thu nộp BHXH.
28. Nguyễn Văn Châu (1996), Thực trạng quản lý thu BHXH hiện nay và các biện pháp
nâng cao hiệu quả công tác thu, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, BHXH Vệt
Nam.
29. Chính phủ (1995), Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 ban hành Điều lệ bảo hiểm
xã hội.
30. Chính phủ (1998), Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 về việc sửa đổi
Nghị định số 50/CP bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ phường, xã, thị
trấn.
31. Chính phủ (2002), Nghị định số 100/NĐ-CP ngày 06/12/2002 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
32. Chính phủ (2003), Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 về việc sửa
đổi một số điều của Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ.
33. Chính phủ (2003), Nghị định số 121/2003/ NĐ-CP ngày 21/10/2003 về chế độ
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
34. Chính phủ (2006), Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một
số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
35. Chính phủ (2007), Nghị định số 135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
36. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2003), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.
37. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (2005), Nghị quyết 10-NQ/TH ngày 21/3/2005 về phát
triển doanh nghiệp giai đoạn 2005-2010.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Minh Đạo (2008), "Quỹ phòng xa Trung ương (CPF) của Singapore tăng mức
đóng", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (5), tr.54.
41. Phạm Thị Định (2007), "BHXH- một bộ phận cấu thành trong kinh tế công", Tạp
chí Bảo hiểm xã hội, (1).
42. Phạm Trường Giang (2006), "Bàn về một số nhân tố tác động đến thu BHXH ở Việt
Nam", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (9).
43. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình khoa học quản lý, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Sinh Hùng (2008), "Nâng cao năng lực xây dựng và phát triển ngành
BHXH", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (3), tr.3.
45. Thu Hương (2008), "Nhiều biện pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở BHXH
tỉnh Nam Định", Báo Bảo hiểm xã hội, (3), tr.2.
46. Liên đoàn lao động tỉnh Thanh Hóa (tháng 2/2008), Thống kê tình hình CNCC-lao
động trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
47. Bùi Sĩ Lợi (2002), Phát triển nguồn nhân lực của Thanh Hóa đến năm 2010 theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Tô Minh (2007), "Kinh nghiệm BHXH ở Trung Quốc", Báo Nhân dân.
49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật bảo hiểm xã hội,
Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
50. Cao Văn Sang (2008), "Giải pháp quản lý thu BHXH tại thành phố Hồ Chí Minh",
Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (3), tr.4.
51. Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Đỗ Văn Sinh (2007), "Bảo hiểm xã hội Việt Nam phát triển và hội nhập", Tạp chí
Bảo hiểm xã hội, (4).
53. Nguyễn Văn Tám (2004), Hoàn thiện quản lý BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
54. Lê Thị Hoài Thu (2007), "Nghiên cứu pháp luật ASXH một số nước trên thế giới",
Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (9).
55. Mạc Văn Tiến (2007), "An sinh xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập", Tạp
chí Bảo hiểm xã hội, (2).
56. Tỉnh uỷ Thanh Hóa (2007), Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 12/3/2007 về tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội trong tình hình
mới.
57. Nguyễn Chí Tỏa (2007), "Chu kỳ tính toán BHXH: Khái niệm và sự cần thiết",
Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (4).
58. Dương Xuân Triệu (2000), Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, BHXH Việt Nam.
59. Trần Quốc Tuý (2006), Hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
60. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2000), Chương trình phát triển doanh nghiệp đến
năm 2010.
61. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2007), Chỉ thị số 15/CT-UB ngày 8/6/2007 về
việc tăng cường công tác thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.pdf