Luận văn Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam

Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày ở trên, luận văn đã đi sâu phân tích việc sử dụng công cụ thuế đối với DNCNNQD ở Việt Nam cả về chính sách, bộ máy và cơ chế. Trước hết, luận văn tập trung vào phân tích tình hình phát triển ngành công nghiệp và tình hình thu thuế nói chung, từ đó luận văn mới đi sâu phân tích từng khía cạnh riêng có của doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích khá tỉ mỉ về tác động của hệ thống thuế đối với Nhà nước là chủ thể quản lý và doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý nhằm có những cách nhìn và đánh giá toàn diện. Cuối cùng, luận văn tập hợp những phân tích đánh giá về những ưu nhược điểm của hệ thống thuế ở nước ta đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh.

pdf97 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2482 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong tài chính doanh nghiệp... làm phá vỡ cơ cấu, định hướng, chiến lược. Do đó, phải luôn chủ động trong vị thế mới, lựa chọn những mục tiêu cụ thể cho phép khai thác tốt nhất mọi lợi thế so sánh của đất nước. Mục tiêu lâu dài của chính sách thuế là động viên hợp lý, đảm bảo công bằng xã hội, đảm bảo cho nông dân Việt Nam được dùng hàng rẻ, hàng tốt. Có lúc phải chấp nhận nhiều sắc thuế, nhiều thuế suất, chấp nhận sự bảo hộ sản xuất trong nước còn nhiều, còn tình trạng bao cấp trong chi NSNN. Nhưng phải chủ động, tỉnh táo, có bước đi và cách làm cho từng mục tiêu chiến lược, sách lược, cho từng nhóm giải pháp cụ thể [38]. Những tình huống này chỉ có thể do con người tạo ra và phải do chính họ mới có giải pháp hữu hiệu. Nếu không coi trọng nhân tố con người tất yếu không thể phát triển chiến lược tài chính ổn định được. Do đó, nhân tố con người là nhân tố chính trong việc vận dụng công cụ thuế. - Các DNCNNQD ở Việt Nam còn non trẻ, định hướng phát triển chưa rõ ràng, đặc biệt là rất yếu về chiến lược kinh doanh dẫn đến tình trạng kinh doanh chụp giật, luồn lách trốn thuế. Thậm chí, nhiều nhà kinh doanh vẫn có tư tưởng coi việc trốn thuế là nghệ thuật kinh doanh. ý thức chấp hành pháp luật kinh doanh của các DNNQD vẫn còn kém, thiếu tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc, nhiều việc vô kỷ luật, chấp hành không nghiêm chỉnh các quy định về thu, chi, điều tiết ngân sách Nhà nước. Chủ trương trong chính sách tài chính là xử lý tốt mối quan hệ giữa động viên và thu nhập, huy động nguồn lực và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu; xử lý tốt mối quan hệ giữa bảo hộ sản xuất trong nước và yêu cầu nâng cao sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp; giữa tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và tài chính dân cư; đồng thời đảm bảo nguyên tắc cân bằng giữa khuyến khích các tổ chức tài chính nhưng không có nghĩa là buông lơi quản lý doanh nghiệp phát triển tự do. - Thiếu cơ chế vận hành kiểm tra, kiểm soát đối với toàn bộ nền kinh tế. Yêu cầu của tài chính trong nền kinh tế mở là an ninh, an toàn và lành mạnh. Nguy cơ của những tiêu cực, những đổ vỡ về tài chính trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại bên cạnh những thời cơ và tính năng động của nền tài chính quốc gia. Ngoài việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý về thuế, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hệ thống giám sát bằng nghiệp vụ, bằng tổ chức có sẵn trong bản thân công tác quản lý thuế. Thường xuyên rà soát, thiết lập mới các quy trình, các cơ cấu tổ chức nhằm ngăn chặn các hành vi và việc làm gây tổn hại đến Nhà nước. Nâng cao tính hiệu lực của hệ thống giám sát nội bộ, bộ máy và quy trình kiểm soát nội bộ; đảm bảo mọi hoạt động luân chuyển của từng dòng tiền của Nhà nước. Các hệ thống thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài, từ trên xuống cần có sự sắp xếp hợp lý, coi trọng thực chất hơn là hình thức. Thanh tra, kiểm tra có trọng điểm, có chủ định, xử lý dứt điểm mọi sai phạm do thanh tra phát hiện mới giữ nghiêm kỷ cương phép nước. - Công tác nghiên cứu và hoạch định chiến lược ngành thuế còn thiếu phương pháp khoa học tiên tiến, thiếu thông tin hữu ích. Hầu hết các nước phát triển đều nghiên cứu hệ thống thuế một cách tỷ mỉ, trên nhiều khía cạnh khác nhau. Việc nghiên cứu này hoàn toàn mang tính định lượng và rút ta nhiều thông tin hữu ích phục vụ công tác quản lý cũng như công tác hoạch định chính sách phát triển. ở nước ta, việc phân tích hầu như bị xem nhẹ hoặc phân tích mang tính định tính khó có số liệu minh chứng nên không tạo điều kiện cho việc quản lý và xây dựng chính sách thuế hợp lý. Mặt khác, nước ta còn thiếu các phương pháp nghiên cứu khoa học đồng thời cán bộ chịu trách nhiệm và trang thiết bị phục vụ cho công tác này cũng còn bất cập. Phần lớn các cán bộ quản lý dựa vào kinh nghiệm bản thân và cũng thường từ kinh nghiệm đi lên. Thiếu những bài bản và kế hoạch cụ thể trong nghiên cứu về thuế nên việc quản lý rất thụ động, manh mún và đôi khi giải quyết được hậu quả nhiều hơn là giải quyết tận gốc những nguyên nhân cơ bản. Giữa công tác nghiên cứu với công tác quản lý thực tế cũng khó ăn nhập, do tính chất và trách nhiệm của hai lĩnh vực này chưa được chú trọng. Việc nghiên cứu chỉ mang tính tham khảo tra cứu, còn việc quản lý mang tính kinh nghiệm nên từng cán bộ có thể nhận thức sâu, kinh nghiệm tốt nhưng không thể phối kết hợp tạo nên sức mạnh toàn ngành. Chương 3 Giải pháp hoàn thiện sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh 3.1. một số quan điểm 3.1.1. Thứ nhất: Xác định điểm đánh thuế phù hợp với hệ thống thuế Trước hết, phải định dạng rõ các điểm đánh thuế trong một hệ thống thuế. Theo như lý thuyết kinh tế học hiện đại, vòng tuần hoàn của quá trình tái sản xuất trong xã hội để đánh thuế như sơ đồ 3.1. Sơ đồ 3.1: Vòng tuần hoàn của quá trình tái sản xuất Như vậy nếu đánh thuế vào các đầu vào và ra của các doanh nghiệp trong xã hội, hay nói cách khác là dùng hệ thống thuế gián thu qua các hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ không đánh trực tiếp vào thu nhập của cá nhân hay các hộ gia đình, và ngược lại nếu đánh thuế vào thu nhập đầu vào của các cá nhân hay hộ gia đình thì sẽ hạn chế đánh thuế vào các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, vì suy cho cùng sản xuất ra của cải vật chất là để cho tiêu dùng. Nếu lựa chọn cách đánh thuế chủ yếu vào thu nhập cá nhân và các hộ gia đình thì diện thu thuế rất rộng nhưng đảm bảo chặt chẽ và công bằng và không làm tăng giá bán hàng hóa của các Các hộ gia đình Các doanh nghiệp Thu nhập Sản xuất Tiêu dùng Lao động doanh nghiệp để họ có cơ hội cạnh tranh quốc tế lớn hơn, mặt khác thuế sẽ không trùng lắp nên không phải sử dụng thuế gia tăng. Nếu đánh thuế thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cơ chế vận hành phức tạp, giá cả hàng hóa sẽ được tính cao hơn và phải sử dụng nhiều cơ chế hoàn thuế hay tín dụng thuế. Nước Mỹ vẫn tự hào rằng đánh thuế dựa trên thuế trực thu là tiên tiến hơn cách đánh thuế dựa vào thuế gián thu và muốn thực hiện cách đánh thuế này phải có một hệ thống quản lý và thu thuế tiên tiến và hiện đại. Thực chất, việc chọn các kiểu đánh thuế khác nhau không thể so sánh trực quan cảm tính như vậy mà phải dựa vào hiệu quả của hệ thống thuế ở mỗi quốc gia và sự tương thích của nó. Nếu trình độ phát triển kinh tế và ý thức của dân chúng chưa cao thì chưa chắc khi áp dụng mô hình đánh thuế kiểu tiên tiến hơn sẽ đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn. Mặt khác, bản thân hai kiểu đánh thuế khác nhau phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế và ý thức tự giác của dân chúng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, cho nên các luật thuế (dù đánh theo kiểu nào) cũng phải dựa vào tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách quốc gia. Tác giả W.Bowman Cutter cho rằng: "Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách hàng năm của Mỹ hợp lý nhất là 19%. Tỷ lệ động viên cao hơn sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và sức sản xuất" [40]. Năm 2001, nước Mỹ có tỷ lệ động viên khá cao tương đương với 20,7% GDP, cho nên gánh nặng thuế nói chung là cao hơn trước đây. Tuy nhiên, gánh nặng thuế về thuế sẽ nghiêng về người tiêu dùng hay người sản xuất lại phụ thuộc nhiều vào điểm đánh thuế và kiểu đánh thuế, đặc biệt phụ thuộc vào các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung cầu v.v... Theo kiểu đánh thuế ở Mỹ thì đánh thuế vào doanh nghiệp sẽ giảm rất nhiều nhưng thuế quỹ lương và thu nhập cá nhân lại tăng lên rất cao. Kiểu đánh thuế này giúp cho các doanh nghiệp phải chịu gánh nặng thuế thấp đi và bán hàng hóa rẻ hơn. Trong khi đó, nếu đánh thuế theo kiểu cũ thì hàng hóa cung loại của các doanh nghiệp ở Mỹ sẽ cao hơn hàng hóa của các doanh nghiệp ở nước khác, do đó sẽ làm giảm tính cạnh tranh hàng hóa của của Mỹ trên trường quốc tế. Mặt khác, ưu điểm của kiểu đánh thuế này là chỉ đánh vào phần thu nhập đã rút ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh để chuyển thành thu nhập của cá nhân hay hộ gia đình. Nếu những khoản thu nhập này vẫn lưu chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh thì không chịu thuế thu nhập cá nhân nên có tác dụng khuyến khích sản xuất kinh doanh hơn kiểu đánh thuế khác. Chính vì vậy, Nhà nước ta nên thay đổi quan điểm về việc đánh thuế đối với các doanh nghiệp theo hướng giảm các loại thuế đánh vào sản xuất kinh doanh và tăng cường trực tiếp đánh thuế vào thu nhập của cá nhân và các hộ gia đình. 3.1.2. Quan điểm hai: Vận dụng linh hoạt hệ thống thuế gắn với mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ lịch sử Do nước ta chưa thể đổi mới hoàn toàn các luật thuế một cách đột ngột và đồng loạt trong một thời điểm ngắn cho nên việc cải tiến hệ thống luật thuế có kế hoạch với từng giai đoạn phát triển kinh tế như của Hàn Quốc là rất phù hợp. Điều kiện tự nhiên và lịch sử để lại những đặc thù riêng nên nước ta phải vận dụng khéo léo công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế. Bất kỳ loại thuế nào cũng có vai trò riêng, do đó khi áp dụng mỗi luật thuế Nhà nước cần xem xét và thay đổi một cách linh hoạt cho phù hợp với từng điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Các luật thuế sẽ có tác dụng đan xen lẫn nhau trong hệ thống, do đó Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống luật thuế chuẩn tắc, tránh chồng chéo. Giai đoạn hiện nay, những yêu cầu cơ bản của hệ thống thuế là: Hiệu quả kinh tế: Nhà nước không nên can thiệp trực tiếp thông qua hệ thống thuế nhằm phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Hệ thống thuế phải cải tiến theo hướng đơn giản hóa và dễ hiểu, dễ quản lý và không tốn kém. Hệ thống thuế phải đảm bảo linh hoạt trong mọi điều kiện thay đổi kinh tế xã hội. Hệ thống thuế phải có tính tích cực về mặt chính trị. Các cá nhân phải hiểu họ nộp cái gì và cho mục đích gì để hệ thống chính trị có thể phản ánh đúng nguyện vọng của đa số các cá nhân. Hệ thống thuế phải công bằng và hợp lý. Trên cơ sở những yêu cầu cơ bản đó Nhà nước sẽ điều chỉnh các luật thuế cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của từng thời kỳ nhất định. 3.1.3. Quan điểm ba: Kết hợp hài hòa giữa thuế trực thu và gián thu Trong một hệ thống thuế bao gồm cả luật thuế gián thu và thuế trực thu, mỗi loại thuế lại có những ưu nhược điểm riêng và hỗ trợ cho nhau một cách chặt chẽ hơn. Nếu chỉ sử dụng các luật thuế trực thu dễ nảy sinh mâu thuẫn và luôn có sự chống đối của người nộp thuế đối với các cơ quan quản lý thuế. Đặc biệt là trong những thời điểm nền kinh tế có biến động lớn mà các chính sách thuế trực thu không có sự điều chỉnh kịp thời sẽ dẫn đến những mâu thuẫn gay gắt về kinh tế và dễ chuyển thành các mâu thuẫn về chính trị xã hội. Các luật thuế gián thu cũng có những ưu điểm trong việc làm giảm các mâu thuẫn đó nhưng các luật thuế này rất dễ gây chồng chéo và tạo gánh nặng về thuế đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các luật thuế có diện thu thuế rộng và bao quát. Mặc dù các nước phát triển có thiên hướng sử dụng nhiều các luật thuế trực thu thay cho thuế gián thu trên cơ sở hiện đại hóa quản lý thu thuế nhưng không phải không có các luật thuế gián thu như các nước khác. Đặc biệt là hiện nay nước ta chưa đáp ứng được cơ sở hiện đại hóa công tác quản lý thuế nên không thể chỉ trông chờ vào các luật thuế trực thu. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ở nước ta đến nay không có nhiều tác dụng trong khi đó luật thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng lại có tác dụng rất lớn. Về căn bản, pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân lại có những ưu điểm hơn như là điều tiết thu nhập, đánh thuế chính xác, khuyến khích sản xuất kinh doanh nhưng không dễ thực hiện như các luật thuế gián thu khác. Trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, Nhà nước ta cần đặc biệt quan tâm đến việc phối hợp sử dụng hai loại thuế này trong cơ cấu thu thuế và quản lý thuế ở nước ta. Trong quản lý, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần có sự kết hợp giữa hai loại thuế này để đảm bảo bao quát được nguồn thu nhưng tránh sự chồng chéo. Như vậy, Nhà nước mới khuyến khích được các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển sản xuất kinh doanh. 3.1.4. Quan điểm bốn: Luật pháp hóa các nguồn thu vào NSNN Như trên đã trình bày về sự phân cấp quản lý thuế thành hai cấp cấp trung ương và địa phương, các khoản thu của ngân sách Nhà nước dù ở cấp độ nào cũng rất có sự hợp thức hóa rõ ràng. Hiện tượng càng nhiều khoản thu của các cơ quan quản lý không được hợp pháp hóa thì Nhà nước càng khó quản lý và dễ nảy sinh các tiêu cực trong công tác quản lý và thu thuế kèm theo tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế của đất nước. Phân cấp mà không phân quyền hoặc phân quyền mà không phân cấp tất yếu nảy sinh hiện tượng tự thu hay thụ động không triển khai công tác quản lý và thu thuế ở các địa phương. Nhiều địa phương thậm chí không thực hiện các luật thuế tài nguyên, thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp trong việc khai thác rừng, biển và khai khoáng. Các địa phương đôi khi chỉ yêu cầu thu một khoản phí nhất định như là mức lệ phí khai thác nên không thể quản lý được tình hình khai thác và kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cùng với kiến nghị phân cấp thuế thành thuế quốc gia và thuế địa phương cũng cần có sự thừa nhận chính tắc bằng luật mới đảm bảo công bằng, nghiêm túc và thống nhất trên cả nước về hệ thống thuế của nước ta. Khi tất cả các nguồn thu từ trung ương đến địa phương được pháp luật hóa, tất yếu sẽ củng cố sự bình đẳng trong xã hội. Các thành phần kinh tế và thậm chí mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, tất nhiên được bình đẳng trước các luật thuế và công bằng trong việc đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Những quan điểm này rất hữu ích trong việc xây dựng một hệ thống thuế hoàn chỉnh và thống nhất ở nước ta hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hệ thống thuế phải đảm bảo được áp dụng nhiều phương pháp và phương tiện tiên tiến trong công tác quản lý và thu thuế mới phù hợp với nền kinh tế công nghiệp và hiện đại. Do đó, tiếp thu những kinh nghiệm quốc tế về công tác quản lý và thu thuế tất yếu là rất cần thiết đối với nước ta. Nhà nước cũng nên xây dựng các luật thuế cho cả cấp địa phương và bổ sung thành hệ thống luật thuế phân cấp rõ ràng. Mỗi luật thuế cấp trung ương và cấp địa phương phải cùng nằm trong một hệ thống thuế thống nhất tránh hiện tượng thu chồng chéo hay bất ổn định. Nhiều quy định hướng dẫn thi hành hay quy định các khoản thu mới hiện nay đã làm méo mó hệ thống thuế đã được pháp luật hóa của nước ta. Mỗi địa phương, mỗi vùng có những lệ "thu phí" hay các "khoản đóng góp" bất hợp lý. Mặc dù các khoản đóng góp địa phương biến tướng dưới nhiều hình thức nhưng các khoản chi phí phải chi ra đều được các doanh nghiệp phân bổ vào giá thành, do đó rất khó có những hàng hóa có giá cả cạnh tranh trên trường quốc tế. Nhiều mặt hàng nông thổ sản và thủ công mỹ nghệ của nước ta hiện nay vẫn khó cạnh tranh với hàng hóa của Trung Quốc, Thái Lan v.v... phần lớn là do cơ chế chính sách chưa tạo ra những điều kiện cạnh tranh có lợi cho các nhà sản xuất. Nhiều khoản thu của ngân sách địa phương dưới dạng các khoản đóng góp đôi khi sẽ nảy sinh vấn đề tham ô hay nhũng nhiễu làm cản trở đến hoạt động kinh tế xã hội. Cán bộ ở các địa phương thường rất yếu kém nên khâu tổ chức càng cần phải có những khoản thu rõ ràng từ cấp trung ương. Hình thức hợp lý nhất là pháp luật hóa các khoản thu này thành luật thuế địa phương. Tổ chức hệ thống cơ quan quản lý thuế theo sự phân cấp các nguồn thu này cũng tạo điều kiện cho các địa phương hoàn thiện bộ máy quản lý thuế phù hợp với hệ thống thuế trung ương, do đó khuyến khích được các địa phương thực hiện tốt các luật thuế ở địa phương mình. Trên cơ sở phân cấp các luật thuế các doanh nghiệp sẽ yên tâm phát triển một cách ổn định và rõ hơn về các chi phí thuế của đơn vị mình nhờ đó khuyến khích các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh hơn nữa. Những quan điểm trên làm tiền đề cho việc hoàn thiện hệ thống thuế hiện nay có ở nước ta, đồng thời nghiên cứu và áp dụng các sắc thuế mới nhằm hoàn thiện hơn nữa công cụ quản lý thuế trong quản lý nhà nước đối với DNCNNQD. 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế đối với các doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh 3.2.1. Những giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thuế hiện có 3.2.1.1. Cải tiến phương pháp tính và áp thuế suất - Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tính và áp thuế suất mới Xuất phát từ vị trí, vai trò của thuế đối với các doanh nghiệp công nghiệp mà chúng ta thấy rất rõ tầm quan trọng của thuế. Trong những điều kiện kinh tế cụ thể, đối khi thuế sẽ trở thành những gánh nặng đối với các doanh nghiệp công nghiệp. Gánh nặng về thuế có thể xét trên hai khía cạnh là gánh nặng thuế tương đối và gánh nặng thuế tuyệt đối. Gánh nặng thuế tuyệt đối là khoản thuế phải nộp cao hơn so với khoản thu lãi từ lĩnh vực hoạt động kinh doanh công nghiệp đó. Tỷ lệ huy động này cao hơn tỷ lệ lãi bình quân của ngành công nghiệp. Điều đó có nghĩa là ngành công nghiệp đó chịu gánh nặng về thuế và ngược lại. Một doanh nghiệp hay một ngành công nghiệp sẽ được coi là chịu gánh nặng về thuế khóa khi bản thân họ là người làm ra của cải vật chất lại không được hưởng lãi suất nhiều mà phải nộp thuế nhiều hơn lãi họ được phép thu về. Do đó, ngành công nghiệp đó rất khó có động lực phát triển. Chẳng hạn, tỷ lệ huy động của ngành công nghiệp vào ngân sách quốc gia sẽ thể hiện rõ chỉ số đóng góp thuế là nặng hay nhẹ. Tỷ lệ huy động bình quân hiện nay của nước ta khoảng 20% GDP. Nếu tỷ lệ lãi bình quân kinh doanh của ngành công nghiệp này không thể đạt được mức thuế phải nộp cho Nhà nước, có nghĩa là các doanh nghiệp công nghiệp này phải chịu một gánh nặng thuế tuyệt đối. Trong trường hợp đó, lợi ích của doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh lại thấp hơn lợi ích của Nhà nước và tất nhiên lợi của người lao động không thể cao hơn tỷ lệ lợi nhuận chung này được. Do đó sẽ triệt tiêu động lực tăng năng suất của người lao động và động lực phát triển của doanh nghiệp. Gánh nặng về thuế tương đối lại diễn ra khi có sự chênh lệch về tỷ lệ huy động của thuế giữa các ngành, các lĩnh vực. Chỉ số huy động thuế từ ngành công nghiệp nào cao hơn sẽ chịu gánh nặng thuế tương đối cao hơn và ngược lại. Đối với xuất khẩu cũng vậy, chỉ số gánh nặng thuế tương đối có thể được biểu hiện qua giá cả hàng hóa cùng loại sản xuất ở nước này là cao hơn hay thấp hơn nước khác. Khi đó quốc gia nào có ngành sản xuất những mặt hàng chịu gánh nặng thuế tương đối thấp hơn sẽ có giá thấp hơn và có điều kiện xuất khẩu sang nước khác. Trên cơ sở định lượng được các chỉ số trên sẽ đưa vào phương án cân đối liên ngành theo chương trình mục tiêu đã chọn. Nhiều đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế sẽ được cân đối khi xét chọn điểm đánh thuế, điểm miễn giảm thuế và mục tiêu động viên vào ngân sách trong năm hay thời kỳ đó. Tránh hiện trạng nhiều cơ quan có quyền cho phép miễn giảm thuế gây tiêu cực và khó kiểm soát. Nhiều diện được miễn giảm thuế do các cơ quan ngoài bộ máy quản lý thuế cho phép làm cho Bộ Tài chính khó dự kiến đầy đủ và chính xác nguồn thu. Nhiều diện đối tượng chịu thuế được ưu đãi nhưng vẫn không được hưởng thực sự do không có sự cân đối về mặt tổng thể. Chính vì vậy, khi đã tính toán được các chỉ tiêu định lượng phản ánh gánh nặng thuế đối với từng đối tượng chịu thế và đối tượng nộp thuế sẽ phải cân đối xem chỗ nào cần đánh thuế trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Nội dung và phương pháp tính Phương pháp tính và áp thuế suất mới sẽ có những cân đối hợp lý trên cơ sở giải quyết bài toán liên ngành trong nền kinh tế. Mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Bộ Tài chính đề ra hàng năm phải huy động từ 20% - 21% GDP vào ngân sách quốc gia, thu thông qua thuế đất từ 18% - 19% GDP thì biện pháp phân bổ mức đóng góp giữa các ngành nghề, các sản phẩm hay các đối tượng chịu thuế là hết sức phức tạp. Ngành nghề nào cũng muốn phát triển theo định hướng, mặt hàng nào được phép khuyến khích, đối tượng nào được miễn giảm thuế phải được giải quyết bằng giải pháp tổng thể. Hiện trạng manh mún thiếu đồng bộ và lộn xộn trong các biện pháp khuyến khích như miễn giảm thuế, miễn tiền thuê đất ở từng địa phương, từng loại thuế không thể kích thích đầu tư hay phát triển kinh tế. Chính vì vậy, việc hoạch định chính sách và áp thuế suất phải tính toán trên cơ sở liên ngành cụ thể như sau: Bước 1: Tính toán các chỉ số gánh nặng thuế cho từng loại ngành hàng, mặt hàng theo công thức: + Công thức tính chỉ số gánh nặng thuế tuyệt đối: Ka =     n i n i Pi Ti 1 1 (3.1). Ka: Chỉ số gánh nặng thuế tuyệt đối. i: Đối tượng chịu thuế. Ti: Chỉ số huy động thuế đối của đối tượng chịu thuế i vào ngân sách. Pi: Chỉ số lợi nhuận của đối tượng chịu thuế i. n: Số lần chịu thuế. + Công thức tính chỉ số gánh nặng thuế tương đối: Kb =     m j n i Tj Ti 1 1 (3.2) Kb: Chỉ số gánh nặng thuế tương đối i,j: Đối tượng chịu thuế Ti: Chỉ số huy động thuế đối tượng i n: Là số lần chịu thuế của đối tượng i. Tj: Chỉ số huy động thuế tương ứng của đối tượng j. m: Là số lần chịu thuế của đối tượng j. Bước 2: Lập phương án cân đối thuế liên ngành theo công thức: Mức huy động GDP vào ngân sách =      m i mn ji TijTjnTjTj 1 , 1,1 .....21 (3.3). Trong đó: Tj1....Tjn: Thuế lần thứ nhất đến lần thứ n cho đối tượng i. i: Đối tượng chịu thuế, n là số lần chịu thuế của đối tượng i trong ngành. j: Ngành sản xuất, m là số ngành trong nền kinh tế quốc dân. Bước 3: Xác định những sản phẩm, ngành hoặc đối tượng cần hỗ trợ và khuyến khích những điểm phải bù trừ trong hệ thống thuế. Nếu hỗ trợ thuế cho sản phẩm thứ nhất trong ngành i thì sẽ cân đối khoản thu thêm thuế ở sản phẩm thứ mấy, ngành nào để không bị mất cân đối. Tình trạng giảm thuế bất ngờ bằng các chế độ miễn giảm thuế lộn xộn. Đặc biệt, khi có các chỉ số về gánh nặng thuế tương đối và gánh nặng thuế tuyệt đối sẽ cân đối trên tổng thể về các mức thuế suất đặt ra cho mỗi sản phẩm hay mỗi ngành. - Hiệu quả của phương pháp tính vá áp thuế suất mới Thứ nhất: Tránh tình trạng thuế suất áp dụng mất công bằng, tránh phải sửa đổi bổ sung thuế suất liên tục gây bất ổn. Thuế suất luôn là vấn đề gây phản ứng mạnh mẽ nhất đối với đối tượng nộp thuế. Đối với các nước tư bản phát triển, việc Chính phủ tăng thuế suất thậm chí gây biểu tình trong dân chúng. Thậm chí nhiều nhà lãnh đạo phương Tây trong các cuộc tranh cử đã dùng chiêu bài hạ thuế suất để lấy lòng dân chúng. Khi sử dụng công cụ thuế, Nhà nước ta cũng nên hạn chế tối đa việc thay đổi thuế suất để tránh sự bất ổn trong xã hội như các nước khác. Mặt khác, cần áp dụng thuế suất có căn cứ khoa học và công bằng ngay từ khi xây dựng luật thuế sẽ đảm bảo cho sự ổn định của luật thuế đó trong khoảng thời gian dài tạo đà cho phát triển kinh tế. Thuế suất công bằng hơn cũng làm cho sự di chuyển vốn và lao động giữa các ngành được xã hội hóa cao hơn và tránh được những khiếm khuyết điều tiết vô hình của nền kinh tế thị trường. Thứ hai: Khuyến khích và hỗ trợ thuế đúng nơi, đúng chỗ tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng thực sự. Khi thuế suất được tính toán công bằng và có hiệu quả sẽ tạo cho môi trường đầu tư thực sự thông thoáng. Những biện pháp nhất thời như giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế v.v... không có tác dụng lớn khi các nhà đầu tư chưa quan tâm và ngược lại trong lúc lựa chọn đầu tư kinh doanh các nhà đầu tư luôn quan tâm mạnh mẽ nhất đến hệ thống thuế áp dụng hơn là chú trọng đến một sắc thuế đơn lẻ. Chính vì vậy, cách áp dụng thuế suất trên thực tế là sự cân đối mang tính công bằng và hiệu quả nhất trong cả một hệ thống thống nhất. Nếu Nhà nước thực hiện được công tác này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động kinh doanh phát triển trên nền tảng một hệ thống thuế thông thoáng và hiệu quả trong môi trường đầu tư và kinh doanh hợp lý. Thứ ba: hạn chế tình trạng miễn giảm thuế và cạnh tranh thu hút vốn đầu tư lộn xộn. Trong môi trường kinh doanh đầu tư, các vùng và địa phương ở nước ta đã liên tục được trung ương phân quyền lớn hơn nhưng kèm theo đó là tình trạng lộn xộn trong công tác thu hút vốn đầu tư. Các địa phương thi nhau miễn tiền thuê đất, miễn giảm thuế nhưng tình trạng các khu công nghiệp chưa được các nhà đầu tư quan tâm còn có nhiều lý do mà trong đó có lý do về hệ thống thuế trên phạm vi cả nước. Các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn về chính sách thuế, môi trường đầu tư kinh doanh, thủ tục pháp lý hơn là những chi phí đầu tư cố định ban đầu. Vì vậy, để tránh tình trạng lộn xộn này Nhà nước cần nhanh chóng cải cách hệ thống thuế thống nhất tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh doanh thống nhất. - Điều kiện áp dụng phương pháp tính và áp dụng thuế suất mới Để áp dụng thành công phương pháp tính và áp thuế suất này, Nhà nước cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công tác này. Trước hết, Nhà nước nên quy định những chỉ tiêu cần báo cáo thống kê phục vụ cho công tác nghiên cứu chính xác các chỉ số ảnh hưởng của thuế. Đặc biệt là công tác điều tra tính toán khoản thuế hữu dụng cho mỗi loại sản phẩm hàng hóa và ngành hàng sản xuất kinh doanh. Phân định rõ những ưu tiên nào cần thông qua thuế và thông qua ở sắc thuế nào, điểm nào trong hệ thống thuế. Những ưu tiên đó thể hiện bằng thuế suất sẽ được cân đối với hạng mục nào trong hệ thống thuế. Từ những số liệu và công tác thu thập số liệu đó, Nhà nước mới tổ chức tính toán và áp dụng phương pháp mới trong hệ thống thuế. Thứ hai là: Tổ chức hoặc phân công bộ phận tham mưu để nghiên cứu và phân tích các chỉ số liên quan. Chức năng chính của Tổng cục Thuế là quản lý thuế nhưng công tác nghiên cứu và tư vấn có thể thực hiện bằng việc tổ chức các chương trình hoặc dự án nghiên cứu. Khi đạt kết quả sẽ thực hiện nghiệm thu đề tài. Nhà nước cũng có thể lập ra các phòng ban hoặc giao cho Tổng cục Thuế thực thi việc phân tích và tư vấn cho Chính phủ các thông tin về thuế và tác động của hệ thống thuế. 3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống hóa đơn chứng từ, cơ chế thu nộp thuế và cơ chế giảm giá - Những căn cứ thay đổi hệ thống hóa đơn chứng từ và cơ chế giảm giá Hiện nay hệ thống hóa chứng từ của nước ta vẫn chưa ổn định. Hóa đơn mua bán hàng hóa thiết kế chưa phù hợp cả về kích cỡ và nội dung. Hiệu quả pháp lý của hóa đơn quá hẹp và thấp nên người tiêu dùng thường không lấy hóa đơn trong khi đó các doanh nghiệp lại trao đổi mua bán hóa đơn. Do đó Nhà nước nên thừa nhận hóa đơn bán hàng là những giấy bảo hành mang tính pháp lý cao nhất, hạn chế nạn tự ý in các loại giấy bảo hành và những lời hứa bảo hành vô thưởng vô phạt của các công ty và các nhà kinh doanh. Thậm chí, Nhà nước khuyến khích cơ chế lấy hóa đơn bằng việc hoàn thuế qua giá cho người tiêu dùng và thừa nhận những thẻ căn cước của mọi người như là thẻ giám giá đặc biệt. Nếu người dân đi mua hàng có mang theo giấy chứng minh thư để viết hóa đơn sẽ nhận được giảm giá thông qua thuế là 2 - 3% thị mọi người dân sẽ luôn luôn lấy hóa đơn tài chính và như vậy buộc người bán hàng sẽ thực thi nghiêm túc chế độ sử dụng hóa đơn chứng từ. Nội dung của hóa đơn tài chính nên thiết kế cỡ nhỏ cho phù hợp với các loại máy in với đầy đủ các nội dung sau: + Người bán hàng, mã số thuế (hoặc số CMT), địa chỉ, điện thoại. + Người mua hàng, mã số thuế (hoặc số CMT), địa chỉ + Phương thức thanh toán, và hình thức thanh toán + Hàng hóa, số lượng, đơn giá, đơn vị tính và thành tiền. + Mức thuế giá trị gia tăng và mức khấu trừ. + Số tiền bằng chữ, ngày tháng, đơn vị phát hành. Với những thông tin trên cả người bán hàng và người mua đều có quyền lợi, như vậy Nhà nước rất dễ quản lý công tác quản lý hóa đơn chứng từ đối với các đơn vị kinh doanh. Thực chất các biện pháp này là trao quyền giám sát việc nộp thuế cho người mua (người thực sự phải trả thuế GTGT) đối với các nhà kinh doanh (người nộp hộ cho người tiêu dùng và thu hộ cho Nhà nước). Nguyên lý thiết kế hóa đơn là phải phù hợp với sắc thuế và bộ máy quản lý thuế. Việc sử dụng hóa đơn cho nhiều sắc thuế phải đảm bảo tính linh hoạt và bao quát cho các loại thuế. Chính vì vậy, khi áp dụng cơ chế thẻ giảm giá và luật thuế mới cần phải có những thay đổi trong mẫu hóa đơn tài chính. - Nội dung của cơ chế thẻ giảm giá và thay đổi mẫu hóa đơn tài chính Kích thước hóa đơn có thể đa dạng theo các cỡ hay khổ giấy in hóa đơn trên các máy bán hàng siêu thị và máy in văn phòng (có thể là khổ 4cm, 6cm, 12cm và 21cm). Hiện nay, kích thước hóa đơn tài chính thiết kế cho doanh nghiệp nhiều hơn là cho người tiêu dùng mặc dù là hóa đơn thuế giá trị gia tăng. Người tiêu dùng rõ ràng sẽ thờ ơ với chứng từ hóa đơn đó khi không có quyền lợi thiết thực. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo quản cũng khó khăn khi kích thước hóa đơn bị nhỡ cỡ. Kích thước hóa đơn đỏ là 18,5cm x 25cm nhỏ hơn khổ A4 và hóa đơn tự in là 14,5cm x 18,5cm to hơn phiếu thu và phiếu chi nên khi kẹp vào hồ sơ bị gấp nhàu nát các phần giấy thừa. Vì vậy, hóa đơn nên được thiết kế và bổ sung nội dung như hình 3.1. Hóa đơn bán hàng Liên: ............ Ngày, tháng. Số hóa đơn Đơn vị bán, địa chỉ, điện thoại, mã số thuế Họ tên người Mua, địa chỉ, mã số thuế, số chứng minh thư... Hình thức thanh toán: Tên hàng, số lượng, đơn giá, thành tiền. Số tiền: Thuế GTGT Chiết khấu cho người Mua: Cộng tiền thanh toán (Ngày tháng, chữ ký, và dấu...) Hình 3.1: Mẫu hóa đơn tài chính. Nội dung được bổ sung 2 điểm là: Mã số thuế cho người mua là các đơn vị kinh doanh, số chứng minh thư là cho người tiêu dùng cá nhân. Chiết khấu cho người mua sẽ ghi tỷ lệ chiết khấu theo quy định giảm giá cho người mua là người tiêu dùng cá nhân, còn các doanh nghiệp đã được khấu trừ khi hạch toán thuế đơn vị mình. Giả định thuế GTGT 10%, giảm giá 5%, Nhà nước thu được 5% thay vì sửa đổi thuế các nhóm mặt hàng từ 10% xuống 5%. Với cơ chế này, người tiêu dùng sẽ phải lựa chọn việc lấy hóa đơn giảm 5% giá, được đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng khi có tranh chấp xảy ra và có chế độ bảo hành tối thiểu do Nhà nước quy định theo nhóm hàng. Nếu không có hoặc không mang chứng minh nhân dân khi mua hàng sẽ chịu thuế 10%. Ngược lại, nếu người bán hàng ghi giá trị hóa đơn thấp hơn giá trị thật hay không xuất hóa đơn thì quyền lợi người mua bị xâm hại nên tự người mua sẽ yêu cầu người bán thực hiện nghiêm chỉnh việc ghi và xuất hóa đơn bán hàng. Người bán hàng cũng không thể thu thập được số lượng lớn số chứng minh thư hay chữ ký của người mua hoặc khó có thể ghi một số chứng minh thư của một người mua cho nhiều tờ hóa đơn. - Những ưu điểm của cơ chế thẻ giảm giá và mẫu hóa đơn mới Trong cơ chế thẻ giảm giá này người tiêu dùng có chứng minh thư nhân dân xuất trình thì các doanh nghiệp sẽ phải giảm giá theo quy định của Nhà nước. Việc quyết toán thuế đối với Nhà nước sẽ do doanh nghiệp thực thi nhưng không thể khai gian lận khi đã phát hóa đơn. Nếu doanh nghiệp muốn trốn tránh xuất hóa đơn cho khách hàng thì quyền lợi của khách hàng bị xâm phạm nên khách hàng sẽ không chấp nhận. Khách hàng nào mua hàng có hóa đơn sẽ được Nhà nước bảo hộ quyền lợi thông qua Hội người tiêu dùng bằng hình thức coi chính tờ hóa đơn là giấy bảo hành. Khi có cơ chế này cũng sẽ loại bỏ hẳn tình trạng lộn xộn trong các cam kết bảo hành và phát hành phiếu bảo hành tràn lan như hiện nay của người bán. Việc giảm giá này được người bán ghi trên hóa đơn bán hàng, hàng tháng báo cáo với cơ quan thuế theo mẫu biểu báo cáo về "hóa đơn đầu ra". Bên cạnh đó, cơ quan thuế vẫn tiến hành quyết toán thuế như trước đây nhưng sẽ được xem xét việc ghi hóa đơn nếu thấy sai đơn vị bị truy thu thuế như bình thường mà không được giảm trừ. Việc tính toán về thuế sẽ do cơ quan quản lý thuế và doanh nghiệp thực hiện do đó không gây phiền phức cho khách hàng. Về phía người tiêu dùng cũng không bị phiền hà khi mang chứng minh thư theo người vì đó là giấy tờ tùy thân. Nếu họ quên hoặc có những mặt hàng có giá trị thấp họ không cần giảm trừ thì sẽ chấp nhận mua hàng với giá cao hơn. Về phía người tiêu dùng không dành thời gian hay làm thủ tục gì với cơ quan thuế nên hoàn toàn không gây phiền hà cho họ. Thậm chí, có những người không quan tâm đến những hàng hóa tiêu dùng có giá trị thấp thì vẫn giao dịch mua bàn bình thường. 3.2.1.3. Xây dựng hệ thống thuế đơn giản và thống nhất Xu thế chung của các nước trong khu vực và trên thế giới, hệ thống thuế của các quốc gia sẽ đơn giản hơn và thống nhất hơn không chỉ ở riêng mỗi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế. Luật thuế nên có ít mức thuế suất hơn và đơn giản hơn trong cách tính toán. Khoảng cách về các mức thuế suất sẽ ít và đối tượng nộp thuế sẽ rộng hơn nhưng cũng được bình đẳng hơn. Hệ thống thuế nên thống nhất trên các mặt như đối tượng nộp thuế, điều kiện nộp thuế, cách tính toán thuế và các điều kiện ưu đãi hay miễn giảm thuế. Về mức thuế và thuế suất phải có căn cứ khoa học như kiến nghị mục 3.2.1.1. Về chế độ khai báo và nộp thuế nên thực hiện theo cơ chế tự nguyện trên cơ sở áp dụng các biện pháp kinh tế. Hạn chế các biện pháp ưu đĩa miễn giảm thông qua thuế nhằm nâng cao tính độc lập của từng sắc thuế. Chuyển dần những hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng nộp thuế thành các chương trình hỗ trợ độc lập nhằm tăng cường sự bình đẳng của thuế đối với mọi đối tượng. Hiện nay, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước hai theo các xu hướng này như xóa bỏ khấu trừ thuế đầu vào không có hóa đơn GTGT, áp dụng biểu thuế suất thống nhất giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp ngoài nước, giữa người có quốc tịch nước ngoài và người có quốc tịch Việt Nam, giảm thuế suất và các mức thuế suất. Tuy nhiên, những giải pháp này vẫn cần được thí điểm và tiếp tục cải cách nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế ở nước ta. 3.2.1.4 Từng bước đổi mới và cải thiện hệ thống kế toán, kiểm toán Công tác kế toán và hạch toán ở nước ta vẫn còn nhiều vướng mắc, thậm chỉ rất khó hòa nhập với hệ thống kế toán và kiểm toán của quốc tế, do đó làm cản trở tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế. Do công tác quản lý thu thuế dựa rất nhiều vào hệ thống kế toán và kiểm toán, nên cần phải xây dựng hệ thống kế toán thống nhất và kiểm toán đáng tin cậy mới nâng cao được hiệu quả của công tác quản lý thuế. Mặt khác, Tổng cục thuế phải nỗ lực hơn nữa trong công tác quản lý và thu thuế. Nâng cao hiệu quả của công tác thu thuế vừa bồi dưỡng được cán bộ trong ngành trong công cuộc hiện đại hóa ngành thuế. Tin học hóa, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và đổi mới công tác kiểm toán, kế toán, phương pháp phân tích nghiên cứu là một loạt các biện pháp thống nhất có tác động tương hỗ lẫn nhau. Nhà nước không thể làm mất cân đối một nội dung nào cả. Các phương pháp phân tích kinh tế tiên tiến ngày nay về thuế có thể xem xét trên nhiều giác độ. Dưới giác độ phân tích kinh tế học hiện đại, công cụ thuế đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế. 3.2.1.5. Phân cấp quản lý thuế thành thuế quốc gia và thuế địa phương Bền cạnh vấn đề tuyên truyền và đào tạo về các luật thuế, Nhà nước ta cấn giúp đỡ các doanh nghiệp tăng cường việc thực hiện luật pháp. Nếu cao chủ trương "sống và làm việc theo luật pháp", lấy đó làm gốc cho việc xây dựng một xã hội có kỷ cương, một Nhà nước pháp quyền và con người văn minh. Đặc biệt là trong quản lý thuế phải luôn coi trọng yếu tố pháp lý. Luật pháp hóa các nguồn thu bất hợp lý, phân cấp quản lý thuế thành cấp trung ương và cấp địa phương. Thuế quốc gia do trung ương quản lý và thu thuế; thuế địa phương do địa phương được quyền quản lý và thu thuế. Nhà nước chỉ tạo khuôn khổ pháp lý cho các địa phương áp dụng các loại thuế địa phương. Trước mắt, một số loại thuế trực thu như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, hoặc thuế gián thu như thuế thuế giá trị gia tăng, thuế tài nguyên, thuế xuất nhập khẩu phải trở thành nguồn thu chính của ngân sách quốc gia. Một số loại thuế hàng hóa như thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt cho phép địa phương thu. Khi cân đối ngân sách địa phương bị thiếu hụt mới phân bổ và hỗ trợ từ ngân sách trung ương. Thực hiện chế độ tạo khung thuế suất cho phép các địa phương linh hoạt trong việc thu thuế và tạo quỹ địa phương. Khuyến khích các địa phương tự cân đối thu chi. Nhà nước nên dành ngân sách trung ương nhiều hơn cho phát triển các công trình trọng điểm, các chương trình quốc gia. 3.2.1.6. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xây dựng chế độ đãi ngộ tương xứng và chế độ thưởng phạt nghiêm minh Muốn thực hiện thành công công tác quản lý thuế phải rà soát xem xét về cơ cấu tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý. Thành công và thất bại phần lớn phụ thuộc vào con người. Mọi biện pháp, chế độ cải tiến ở trên rất cần có đội ngũ cán bộ thuế tinh thông về nghiệp vụ và chuẩn mực về đạo đức, Cơ chế tốt cần phải có đội ngũ cán bộ tốt và có đội ngũ cán bộ tốt mới tạo ra những cơ chế vận hành tốt. Những hạn chế và vướng mắc lâu nay trong công tác thuế không thể giải quyết bằng các chính sách thiếu tình và lý. Nhà nước phải có đội ngũ các nhà quản lý giỏi, đạo đức tốt, phẩm chất tốt và kiên định mới tạo ra thể chế hoàn thiện. Công tác này đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên liên tục đi đôi với việc cải tiến chế độ đãi ngộ và chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Trong quá trình công tác mang nhiều trọng trách phải có sự đãi ngộ tương xứng. Công tác quản lý là công việc lao động phức tạp có hàm lượng trí tuệ cao nên không thể xem thường. Bên cạnh những quyền lợi được nâng cao cũng cần có những chế độ nghiêm khắc đối với các cán bộ sai phạm. Kết hợp chặt chẽ các chế độ này mới bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ có đủ tư cách và tạo ra bộ máy quản lý nhà nước vững vàng. 3.2.2. Những giải pháp bổ trợ việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh 3.2.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền và hướng dẫn công tác thuế Trên thực tế công tác tuyên truyền hướng dẫn về các sắc thuế mới luôn luôn được coi trọng. Khi các sắc thuế được ban hành mà đối tượng chịu thuế điều tiết chưa hiểu sẽ sinh ra nhiều phản ứng hay thực hiện không đúng luật thuế. Hiện nay, công tác hướng dẫn và đào tạo về thuế GTGT và thuế TNDN cần đẩy mạnh hơn nữa. Mặc dù nước ta đã thực thi luật thuế này nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về hai luật thuế trên dẫn đến có nhiều sai phạm. Đặc biệt là thuế GTGT có nhiều sai phạm nghiêm trọng trong việc xin hoàn thuế. Thậm chí, Tổng cục thuế phải tổ chức các lớp học và phổ biến thường xuyên cho các DN nhằm nâng cao hiệu quả của hai luật thuế này. Mỗi lớp học như vậy sẽ nâng cao công tác tuyên truyền và hướng dẫn nhưng nhiều DN không thực thi hoặc thực thi không đúng đúng yêu cầu do ý thức chấp hành chưa tốt. Công tác tuyên truyền hướng dẫn hầu như vẫn bị xem nhẹ do ý thức chấp hành luật pháp chưa cao và thiếu đồng bộ. Nhiều sự việc xảy ra trầm trọng mới được tổ chức học tập hay tập huấn trong khi đó đáng lẽ ra các lớp học này cần thiết phải được tổ chức sớm hơn, thậm chí có những cuộc gặp gỡ trước khi có những quy định mới. 3.2.2.2. Tích cực tiếp thu các kinh nghiệm về việc sử dụng các công cụ thuế Tổ chức nhiều đoàn khảo sát kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là các nước láng giềng hoặc các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhằm học hỏi kinh nghiệm. Việc tham gia khảo sát và học tập kinh nghiệm không chỉ chú trọng đối với các cán bộ trong ngành thuế mà khuyến khích các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia. Thậm chí, khuyến khích mọi người dân có điều kiện đi học tập và du lịch nước ngoài nhằm năng cao nhận thức về cuộc sống nói chung và lĩnh vực thuế nói riêng ở các nước phát triển. Việc thực thi bất kỳ chính sách thuế nào cũng cần phải có sự ủng hộ và ý thức chấp hành tốt của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Khi mọi tầng lớp dân cư đều nhận thức được hành vi ứng xử hợp lý và không hợp lý sẽ tạo điều kiện tốt nhất để các chính sách thuế đi vào cuộc sống. 3.2.2.3. Tăng cường các chế tài phạt vi phạm đối với các DNCNNQD Nhà nước nên đưa ra các chế tài thực hiện đối với một số chức danh quản lý DNCNNQD như giám đốc, trưởng phòng nhằm thực hiện đúng và nghiêm túc luật pháp, đặc biệt là các luật thuế. Nếu đảm nhận chức vụ giám đốc, bắt buộc phải có bằng đại học khối kinh tế trở lên hoặc cấp độ trưởng phòng phải có bằng cao đẳng khối kinh tế trở lên. Tác dụng của giải pháp này là đã coi giám đốc là một nghề hơn là một ông chủ sở hữu. Người quản lý phải có đầy đủ năng lực pháp lý và tiêu chuẩn phân cấp cũng như uy tín nghề nghiệp mới đảm trách cương vị giám đốc. Nếu chủ sở hữu không đủ điều kiện phải đi thuê giám đốc và người quản lý. Nếu các nhà quản lý hay giám đốc vi phạm pháp luật sẽ bị tước quyền làm thuê và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành động của mình. Nhà nước đưa ra các mức tiền phạt nặng hơn cho các sai phạm về luật thuế đối với các cá nhân thay cho trách nhiệm tập thể. Quyết định mức độ vi phạm nghiêm trọng bằng các bản án nghiêm khắc. Cải tiến cơ chế xử án nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện án phạt. Hiện nay, những vi phạm về thuế sẽ bị phạt gấp 3 lần số thuế trốn và bị truy thu thuế. Nếu bị phạt hành chính thì mức cao nhất là 50 triệu đồng. Tuy nhiên, cơ chế để xác định sự vi phạm và người thi hành pháp luật còn nhiều bất cập dẫn đến sự câu kết vi phạm. 3.2.2.4. áp dụng các phương pháp phân tích nghiên cứu kinh tế tiên tiến Công tác nghiên cứu và phân tích ảnh hưởng của hệ thống thuế đến các mặt của đời sống xã hội, các tổ chức, cá nhân cần được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt là những phương pháp phân tích kinh tế học tiên tiến. Những phương pháp phân tích định lượng chính xác sẽ giúp ích nhiều hơn trong việc sử dụng công cụ thuế. Những phương pháp phân tích kinh tế này cần có bộ phận phụ trách và kinh phí thực hiện. Nhà nước nước nên hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ ngành thuế có những kiến thức kinh tế sâu sắc. Những giải pháp kinh tế tối ưu nên được chú trọng và đã ngộ xứng đáng. Thậm chí, Nhà nước tuyển lựa những chuyên viên tư vấn kinh tế giỏi cho đi đào tạo về phân tích chính sách thuế nhằm cung cấp những thông tin về phân tích ảnh hưởng của thuế cho các cơ quan quản lý thuế và Chính phủ. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu và Tổng cục Thống kê nâng cao hiệu quả của các con số thống kê nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu và phân tích. Trong thời gian tới, Nhà nước có thể cho phép những đề án chuyên sâu phác họa những yêu cầu xây dựng nên phần mềm phân tích kinh tế tiên tiến để nâng cao chất lượng thông tin cho quản lý nhà nước về thuế. Việc nghiên cứu xem xét công cụ quản lý thuế dưới nhiều góc độ và quan điểm khác nhau là rất cần thiết, thậm chí là những gốc độ nghiên cứu khác biệt. Trên cơ sở có nhiều các nhìn và nhiều phương pháp nghiên cứu mới có thể có những đánh giá chính xác về công cụ thuế. Những phương pháp phân tích kinh tế tiên tiến là những cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn rất tốt khi đã có những quốc gia phát triển áp dụng. Nhà nước tận dụng được những phương pháp này chắc chắn có được hiệu quả cao với chi phí dành cho nghiên cứu và thí điểm thấp. Kết luận Từ việc giải thích các nội dung về doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh và công cụ thuế, luận văn đưa ra những luận điểm về việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Luận văn cũng phân tích về quản lý nhà nước thông qua công cụ thuế. Việc sử dụng công cụ này diễn ra trên cả 3 phương diện về chính sách thuế, cơ chế quản lý thuế và bộ máy quản lý thuế. Chính sách thuế có hai cấp độ chính là chủ trương chính sách và hệ thống các sắc thuế cụ thể. Luận văn đưa ra những phương pháp phân tích tác động thuế theo lý thuyết kinh tế học tiên tiến như phân tích về độ trễ của thuế; sự mất trắng của thuế. Trên cơ sở những luận điểm đã trình bày ở trên, luận văn đã đi sâu phân tích việc sử dụng công cụ thuế đối với DNCNNQD ở Việt Nam cả về chính sách, bộ máy và cơ chế. Trước hết, luận văn tập trung vào phân tích tình hình phát triển ngành công nghiệp và tình hình thu thuế nói chung, từ đó luận văn mới đi sâu phân tích từng khía cạnh riêng có của doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích khá tỉ mỉ về tác động của hệ thống thuế đối với Nhà nước là chủ thể quản lý và doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý nhằm có những cách nhìn và đánh giá toàn diện. Cuối cùng, luận văn tập hợp những phân tích đánh giá về những ưu nhược điểm của hệ thống thuế ở nước ta đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Để có những giải pháp mang tính khả thi, luận văn đưa ra bốn quan điểm đổi mới về điểm đánh thuế, vận dụng thuế linh hoạt, kết hợp hài hòa thuế trực thu với thuế gián thu và luật pháp hóa tất cả các nguồn thu của Ngân sách. Giải pháp của luận văn tập trung vào hai nhóm giải pháp lớn là giải pháp hoàn thiện hệ thống thuế hiện có, giải pháp bổ trợ cho việc thực hiện công cụ thuế. Những giải pháp này được trình bày theo các khía cạnh về cơ sở lý luận và thực tiễn, nội dung, hiệu quả và điều kiện áp dụng giải pháp. Hơn nữa, các giải pháp này không gây tốn kém về chi phí và công sức của Nhà nước. Với hệ thống các giải pháp trên được áp dụng đồng bộ đảm bảo góp phần hoàn thiện công cụ thuế trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và cố gắng tìm tòi, nghiên cứu nhưng luận văn khó tránh khỏi sai sót. Rất mong thầy cô và bạn đọc quan tâm góp ý hoàn thiện. danh mục tài liệu tham khảo 1. Lê Văn ái (2000), Giáo trình Thuế nhà nước; Trường Đại học Tài chính - Kế toán, Nxb Thống kê, Hà Nội. 2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1996), Tài liệu học tập Văn kiện Đại hội VIII của Đảng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1992), Những quan điểm cơ bản về kinh tế của Đại hội VII, Nxb giáo dục chính trị, Hà Nội. 5. Bộ Tài chính (1998), Những văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế giá trị gia tăng, Nxb Tài chính, Hà Nội. 6. Bộ Tài chính (2001), Lịch sử Tài chính Việt Nam, tập 1. 7. Chính phủ (1998), Pháp lệnh về tài chính kế toán, Nxb Tài chính, Hà Nội. 8. Chính phủ (1998), Nghị định số 28/1998/NĐ-CP quy định chi tiết việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ngày 11/5/1998. 9. Chính phủ (1998), Quyết định số 4-L/CT Công bố luật thuế khoáng sản (có bổ sung) Ngày 28/4/1998. 10. Chính phủ (1998), Quyết định số 75/1998/QĐ-TTg quy định về mã số nộp thuế cho các đối tượng nộp thuế ngày 4/4/1998. 11. Ngô Đình Giao (1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng XHCN và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. 13. Hãng PRICE WATERHOUSE COOPERS (1998), Giáo án thuế GTG... 14. Lê Văn Châu (1998), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam (1999), Nhịp cầu giao thương Việt Mỹ, Nxb Tài chính, Hà Nội. 16. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1992), Văn kiện Đại hội Đảng VII. 17. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1996), Văn kiện Đại hội Đảng VIII. 18. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1998), Các quy định pháp luật về kinh tế ngoài quốc doanh. 19. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Văn kiện Đại hội IX. 20. Nhà xuất bản Pháp lý (1992), Các văn bản pháp luật kinh doanh đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và công ty, Tập 1. 21. Nhà xuất bản Sự thật (1987), Văn kiện Đại hội Đảng VI. 22. Nhà xuất bản Tài chính (2001), Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi bổ sung. 23. Quách Đức Pháp (1999), Thuế công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 24. Luật thuế doanh thu, (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. 25. Luật thuế lợi tức và thuế thu nhập đặc biệt, (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội. 26. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN VN, (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Bổ sung và sửa đổi thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế XNK (1993), (đã được thông qua kỳ họp quốc hội thứ 9 lần thứ 3 ngày 14/7/1993). 28. Luật thuế khoáng sản (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. (1997), 30. Luật Ngân sách Nhà nước, sửa đổi và bổ sung ngày 20/5/1998. 31. Luật Doanh nghiệp (1999). 32. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê công nghiệp - 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội. 33. Tổng cục Thống kê (2002), Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 01/4/2001, Nxb Thống kê, Hà Nội. 34. Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính (8/2000), Thuế Việt Nam qua các thời đại lịch sử. 35. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2002), Báo động gian lận thuế GTGT, số 58, Công nghiệp trước thách thức, số 84, Thuế vẫn vướng, số 86, Ngăn chặn hoàn thuế GTGT, số 113, Dự toán Ngân sách năm 2003, số 143, Bình đẳng cho kinh tế tư nhân, số 146, các doanh nghiệp bị "sốc" vì thuế, số 152. 36. Thời báo Kinh tế Việt Nam (2003), Tốc độ tăng trưởng công nghiệp Việt Nam, số 6. 37. JOSEPH E. STILITZ (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 38. www.mof.org.vn/. 39. www.vneconmy.com.vn/. 40. www//http/worldbank.org/.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Hoàn thiện việc sử dụng công cụ thuế trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam (2).pdf
Luận văn liên quan