Những năm gần đây hoạt động của các cơ quan dân cử nói chung, của
HĐND nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, công cuộc đổi mới về tổ
chức và hoạt động của HĐND đã được nhìn nhận và đề cập trong các nghị
quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND đã được coi trọng.
Đặc biệt, sau khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND ra đời, hoạt động của HĐND đã
đi vào nề nếp và hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm HĐND tỉnh đều ra
Nghị quyết, trên cơ sở yêu cầu thực tiễn ở địa phương HĐND tỉnh xây dựng
chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể; công tác tổ chức thực hiện giám sát
mang tính chủ động, khoa học và sang tạo. Công tác theo dõi, đôn đốc sau
giám sát đã được chú ý, thực hiện nghiêm túc, làm tăng lòng tin của nhân dân
đối với cơ quan quyền lực, góp phần nâng cao vai trò quản lý nhà nước của
chính quyền địa phương trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Giúp các cá nhân,
cơ quan, tổ chức đơn vị chịu sự giám sát kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn các
hoạt động của mình phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị
quyết của HĐND; làm tăng hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh trong giai đoạn
hiện nay.
Bên cạnh những mặt đã làm tốt, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Bình Thuận vẫn còn những bất cập, hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát
chưa hoàn thiện, một số quy định chưa cụ thể, rõng ràng; đôi khi thiếu tính
khả thi do điều kiện đặc thù tại từng địa phương, dẫn đến tình trạng hiệu quả
giám sát chưa cao. Một số cuộc giám sát chưa đem lại hiệu quả thiết thực, chỉ
dừng lại ở việc báo cáo các kết quả ghi nhận được bằng các kiến nghị, đề
xuất; việc các cơ quan đơn vị có thực hiện kiến nghị, đề xuất đó hay không
tuy có kiểm tra nhưng chưa triệt để. Điều này cho thấy hoạt động giám sát của
HĐND tỉnh Bình Thuận chưa quan tâm đúng mức đến nội dung giám sát về88
các vấn đề cử tri quan tâm mà thường là theo kế hoạch, đôi khi thiếu kiên
quyết. đến nay theo thực tế đánh giá vẫn còn là một hoạt động mang tính
hình thức.
102 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 588 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân, chúng ta áp dụng nguyên tắc phân quyền vào tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay mang tính tất yếu khách quan
hợp quy luật và xu thế phát triển trên thế giới. Nguyên tắc phân quyền đã
được quy định trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 phù hợp
với quy định của Hiến pháp năm 2013 là: nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền địa phương được quy định trên cơ sở phân định về thẩm quyền giữa cơ
quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương và giữa các
cấp chính quyền địa phương. Đồng thời, nguyên tắc phân quyền nên được luật
hóa trong đạo luật của nước ta mà cụ thể là Nhà nước ta ban hành Luật phân
quyền là điều kiện không thể thiếu nhằm cụ thể hóa Hiến pháp vừa phân định
thẩm quyền rõ ràng HĐND tỉnh với cơ quan nhà nước cấp trên, các cơ quan
nhà nước cấp dưới vừa để thể hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
HĐND tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Và vì thế, pháp luật về phân quyền sắp tới cần có những giải pháp cụ thể
phân định thẩm quyền giữa HĐND tỉnh và UBND tỉnh trong tổ chức của
chính quyền tỉnh, chúng tôi kiến nghị giải pháp là: HĐND tỉnh cần được quan
niệm một cách mạch lạc theo hướng quan niệm HĐND tỉnh là một thiết chế
mạnh của chính quyền địa phương, trong đó HĐND tỉnh có quyền tự chủ
quyết định mọi vấn đề của địa phương trên cơ sở pháp luật, có quyền ban
hành văn bản quy phạm pháp luật và nắm ngân sách địa phương theo luật
định, UBND tỉnh chỉ là cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, mọi quyết định
và chỉ đạo của trung ương không trực tiếp xuống UBND tỉnh mà phải qua
HĐND tỉnh mới đến UBND tỉnh. Việc quan niệm như thế vừa xác định được
66
đúng vị trí, vai trò của HĐND tỉnh vừa thể hiện được tính dân chủ, tính phân
quyền trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân. Tuy
nhiên, phân quyền hay phân cấp quản lý trong Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân và vì dân đòi hỏi phải được minh bạch hóa và không
chồng chéo, không mâu thuẫn, không chung chung, khó hiểu. Điều đó cũng
có nghĩa là một mặt khẳng định vai trò của HĐND tỉnh chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương của tỉnh và với tính cách là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương còn chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước trung ương
trong cơ cấu của nền hành chính quốc gia thống nhất và thông suốt, thì đồng
thời cũng khẳng định UBND tỉnh chỉ chịu trách nhiệm trước HĐND tỉnh,
không chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên theo cơ chế song
trùng trực thuộc như hiện nay.
Cơ chế song trùng trực thuộc của UBND tỉnh vẫn đang được thực hiện
là quan điểm hiện hành mang tính ổn định và thống nhất trong pháp luật nước
ta từ trước tới nay và những khuyết điểm của nó về tính hình thức của HĐND
tỉnh, hoạt động thiếu tính chủ động, nhiều quyền nhưng không thực quyền,
tính đùn đẩy trách nhiệm trước nhân dân địa phương vẫn diễn ra và đòi hỏi
phải đổi mới mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân và vì dân.
- Quan hệ giữa HĐND tỉnh với TAND, VKSND tỉnh: HĐND tỉnh tôn
trọng và không can thiệp vào tổ chức và hoạt động của các cơ quan TAND và
VKSND trên địa bàn tỉnh nhằm bảo đảm cho các cơ quan xét xử được tổ chức
và hoạt động xét xử độc lập, các cơ quan đó bất luận ở cấp xét xử nào đều là
cơ quan chỉ thuộc về trung ương, không lệ thuộc vào địa phương, không
mang tính địa phương.
67
3.1.2. Quốc hội cần tiếp tục hoàn thiện các cơ sở pháp lý về hoạt
động giám sát của HĐND
Để đổi mới hoạt động giám sát của HĐND nói chung và HĐND tỉnh
Bình Thuận nói riêng, yêu cầu trước hết là phải hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động giám sát. Mặc dù hiện nay Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2015 và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015 đã
quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của các chủ thể tham gia giám sát
của HĐND; quy trình, thủ tục tiến hành hoạt động giám sát. Tuy nhiên, quy
định chế tài đối với tổ chức, cá nhân không thực hiện, thực hiện không đúng
các kiến nghị, kết luận sau giám sát còn chung chung, chưa cụ thể và đủ mạnh
để bắt buộc các đối tượng chịu sự giám sát phải chấp hành các kết luận, kiến
nghị sau giám sát. Khoản 1 và khoản 2 Điều 89 Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND 2015 quy định “Nghị quyết về giám sát của Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, HĐND có giá trị pháp lý bắt buộc..trường hợp cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng yêu cầu trong nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát thì xử lý theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của phải được xác định trên
cơ sở áp dụng các chế tài cụ thể đối với các đối tượng - khách thể chịu sự
giám sát. Việc đưa ra các chế tài cụ thể, nghiêm khắc sẽ buộc các đối tượng
chịu sự giám sát phải báo cáo, giải trình và có biện pháp tích cực khắc phục
những vấn đề mà HĐND đã kiến nghị, yêu cầu. Có như vậy mới nâng cao
tinh thần trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, bảo đảm uy tín cho HĐND.
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng cần xem xét lại một số quy định của
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015. Điều 3 Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND hiện hành quy định về tiêu
chuẩn đại biểu HĐND. So với Luật năm 2003, đã sửa đổi, bổ sung rõ nét
68
hơn ở chỗ quy định các nhóm tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức,
năng lực, trình độ, uy tín và điều kiện tham gia hoạt động của đại biểu
HĐND nhưng hoạt động của HĐND vẫn chưa đáp ứng được lòng mong đợi
của cử tri. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do Luật (và các văn bản
dưới luật) không quy định cụ thể về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
(tiêu chuẩn quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng đại biểu). Vì vậy
Quốc hội cần sửa đổi điều luật này với những quy định chi tiết hơn và nhấn
mạnh người được giới thiệu ứng cử hoặc tự ứng cử đại biểu HĐND các cấp
phải có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn tương ứng với HĐND từng
cấp.
Ngoài các quy định về đại biểu HĐND quy định tại Điều 115 của Hiến
pháp năm 2013, ngoài những quy định cụ thể về đại biểu HĐND tỉnh trong
Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, theo tác giả, cần tiếp tục
nghiên cứu để có những quy định cụ thể về số lượng đại biểu HĐND tỉnh hoạt
động chuyên trách ít nhất từ 25 đến 30 phần trăm tổng số đại biểu HĐND tỉnh.
Số đại biểu sau khi trúng cử phải được bồi dưỡng kiến thức quản lý
nhà nước, kiến thức lý luận chính trị. Có như vậy đại biểu HĐND mới thực
hiện tốt được nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Đối với hoạt động của Tổ đại biểu HĐND, việc quy định về chức năng
giám sát của Tổ đại biểu HĐND là hoàn toàn mới, do đó cần có những quy
định rõ ràng, cụ thể hơn về cơ chế giám sát của Tổ đại biểu; đồng thời phải
tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Thường trực, các Ban và Tổ đại biểu
HĐND trong việc triển khai các hoạt động giám sát, nhằm tránh tình trạng
chồng lấn, trùng lặp về thời gian, đối tượng chịu sự giám sát; tránh việc một
đại biểu phải tham gia nhiều đoàn giám sát của HĐND.
Về chương trình, nội dung hoạt động giám sát của tổ đại biểu. Có lẽ do
tổ đại biểu 100% hoạt động kiêm nhiệm, lại không có cán bộ giúp việc trực
69
tiếp nên tổ đại biểu không cần và không thể xây dựng chương trình hoạt động
giám sát riêng. Hằng năm, HĐND các cấp đều ban hành một nghị quyết về
chương trình hoạt động giám sát của HĐND cấp mình cho năm sau. Nên
chăng, các tổ đại biểu căn cứ vào nội dung, chương trình giám sát đó, chọn ra
một vài nội dung đăng ký với Thường trực hoặc các ban HĐND và tổ chức
giám sát trên địa bàn của mình. Kết quả giám sát của tổ được báo cáo về
Thường trực để tổng hợp chung. Tổ đại biểu HĐND không cần thiết phải
giám sát hết nội dung chương trình giám sát của HĐND mà nên tập trung
giám sát sâu vào một vài vấn đề.
Theo quy định của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, tổ đại biểu
HĐND có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp mình ở địa bàn. Để thực
hiện được nhiệm vụ này, tổ đại biểu phải giám sát được văn bản do HĐND và
UBND địa phương nơi mình ứng cử ban hành, bao gồm cả văn bản QPPL và
văn bản quản lý, chỉ đạo, điều hành. Như vậy, cần quy định nghị quyết của
HĐND huyện, các văn bản của UBND cấp huyện phải được gửi đến tổ trưởng
tổ đại biểu cấp tỉnh; nghị quyết của HĐND cấp xã, các văn bản của UBND
cấp xã phải gửi đến tổ trưởng tổ đại biểu HĐND cấp huyện. Tổ trưởng tổ đại
biểu sao gửi những văn bản đó cho các đại biểu thuộc tổ mình để nghiên cứu,
xem xét. Nếu phát hiện được những nội dung trái với quy định của cấp trên
thì báo cáo Thường trực HĐND cấp mình tổng hợp, xử lý theo thẩm quyền.
Thông thường, tại các cuộc tiếp xúc cử tri của tổ đại biểu trên địa bàn, cử
tri thường phản ánh với đại biểu HĐND cấp trên những vấn đề nổi cộm ở địa
phương. Nếu có thể, tổ đại biểu ngay sau cuộc tiếp xúc cử tri tiến hành giám sát
ngay vấn đề đó. Giám sát tại chỗ, nghe giải trình tại chỗ với sự có mặt của cử
tri có lẽ cũng là một phương thức giám sát của tổ đại biểu, là một cách để tăng
70
hiệu quả giám sát và tạo điều kiện để cử tri giám sát hoạt động của cán bộ,
công chức và cơ quan nhà nước.
Khoản 2, Điều 86, Luật Hoạt động giám sát của QH và HĐND quy
định “Tổ đại biểu HĐND tổ chức để đại biểu HĐND giám sát việc thi hành
pháp luật trên địa bàn nơi đại biểu ứng cử”. Cũng rất cần có hướng dẫn để
thực hiện. Tổ đại biểu tổ chức cho đại biểu giám sát như thế nào? Đây là hoạt
động giám sát của tổ đại biểu hay là của cá nhân đại biểu?
Cuối cùng, tổ đại biểu HĐND cấp tỉnh không phải là một tổ chức hoàn
chỉnh, không có tư cách pháp nhân. Nhưng để thực hiện những nhiệm vụ
được giao phải có thêm những quy định cụ thể hơn. Nên chăng, quy định tổ
đại biểu được ban hành một số văn bản hành chính như công văn, thông báo,
báo cáo tổ đại biểu được sử dụng con dấu của HĐND cấp mình khi ban
hành những văn bản đó.
3.1.3. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND
cấp tỉnh
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức, hoạt
động của HĐND tỉnh được phản ánh cụ thể ở sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy
đối với HĐND tỉnh và đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh. Tỉnh ủy
lãnh đạo HĐND tỉnh thông qua phương thức quyết định những nguyên tắc về
tổ chức bộ máy HĐND tỉnh, giới thiệu đại biểu HĐND tỉnh, về quy hoạch,
đào tạo, giới thiệu, bố trí cán bộ chủ chốt trong bộ máy hoạt động của HĐND
tỉnh theo pháp luật và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Cụ thể là
tỉnh ủy giới thiệu những người ưu tú, có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị,
đạo đức, sức khỏe, điều kiện và năng lực công tác để ứng cử làm đại biểu
HĐND tỉnh và các chức danh do HĐND tỉnh bầu, bảo đảm sự lãnh đạo của
tỉnh ủy trong công tác tổ chức và cán bộ là góp phần hoàn thiện tổ chức bộ
máy HĐND tỉnh, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực hoạt động của đại
71
biểu HĐND tỉnh, hoạt động của các bộ phận hợp thành của HĐND tỉnh.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của tỉnh ủy với HĐND tỉnh và đổi mới
tổ chức, hoạt động của HĐND tỉnh để HĐND tỉnh thực hiện quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhân dân địa phương. Đây là một trong
những nội dung cụ thể về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc
đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh. Tỉnh ủy lãnh đạo thông qua
nghị quyết chứ không thông qua kiêm nhiệm công tác (ví dụ Bí thư tỉnh ủy
không kiêm nhiệm là Chủ tịch HĐND tỉnh...), đồng thời chỉ đạo đại biểu
HĐND tỉnh hoạt động chuyên trách cũng không kiêm nhiệm là công chức nhà
nước ở các cơ quan hành chính khác ở một tỷ lệ thích hợp. Điều cốt yếu nhất
là phải làm rõ và phân định được chức năng lãnh đạo của tỉnh ủy và việc thực
hiện nhiệm vụ của HĐND tỉnh, tỉnh ủy thực hiện vai trò lãnh đạo chứ không
kiêm nhiệm, làm thay HĐND tỉnh. Tỉnh ủy lãnh đạo bằng chủ trương, đường
lối và những định hướng lớn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội địa
phương, HĐND tỉnh thể chế hóa về mặt nhà nước những chủ trương, đường
lối, nghị quyết của tỉnh ủy. Cần khắc phục tình trạng tỉnh ủy quyết định các
vấn đề về kinh tế - xã hội một cách quá chi tiết, cụ thể, dẫn tới việc quyết định
của HĐND tỉnh thực chất là quyết định lại những nội dung mà tỉnh ủy đã
quyết định, do đó quyết định của HĐND tỉnh chỉ mang tính hình thức. Hoặc
một số mục mà theo quy định của pháp luật phải được HĐND tỉnh xem xét,
thông qua, nhưng trên thực tế có những việc UBND tỉnh vẫn triển khai thực
hiện khi chưa thông qua HĐND tỉnh, để đến khi chất vấn thì được trả lời là
thực hiện ý kiến của thường trực tỉnh ủy... Hoàn thiện đường lối, chính sách
của Đảng trong việc chỉ đạo Nhà nước ban hành hành pháp luật nhằm tiếp tục
đổi mới về tổ chức và hoạt động HĐND tỉnh.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND tỉnh nhằm đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
72
Tính pháp quyền đòi hỏi một cách khách quan rằng: Đảng ta là Đảng cầm
quyền nhưng một mặt Đảng lãnh đạo HĐND tỉnh, không làm thay công việc
của HĐND tỉnh, không can thiệp vào công việc của HĐND tỉnh, mặt khác,
Đảng tôn trọng và bảo đảm quyền tự quyết định và khả năng tự chủ, sáng tạo,
tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của HĐND tỉnh theo luật định.
Một trong nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của tỉnh ủy với
HĐND tỉnh là Bí thư hoặc Phó Bí thư tỉnh ủy không kiêm nhiệm làm Chủ tịch
HĐND tỉnh. Điều đó phụ thuộc phần lớn vào sự nhận thức và quyết tâm chính
trị của Đảng. Để thực hiện vai trò của Đảng cầm quyền trong nhà nước dân
chủ đáp ứng yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì
dân thì Bí thư tỉnh ủy có thể kiêm nhiệm là Chủ tịch HĐND tỉnh, kiêm nhiệm
là Chủ tịch UBND tỉnh hoặc không kiêm nhiệm bất cứ vị trí cao cấp nào trong
các cơ quan công quyền của chính quyền địa phương. Bí thư tỉnh ủy không
kiêm nhiệm vừa để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cấp chính
quyền nhà nước ở địa phương, tôn trọng tính độc lập tương đối, tính tự chủ, tự
quyết, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nói chung, HĐND tỉnh
nói riêng, vừa tăng cường tính lãnh đạo chuyên trách, chuyên nghiệp của các
lãnh đạo Đảng, tăng cường chất lượng của các nghị quyết của tỉnh ủy, không
ôm đồm và quá cụ thể trong hoạt động. Qua đó, tỉnh ủy tăng cường các hoạt
động kiểm tra, giám sát quyền lực của HĐND tỉnh, xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hệ thống chính trị tại địa phương nói
chung, chính quyền địa phương, HĐND tỉnh nói riêng. Và như vậy, trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì
dân, Đảng ta là Đảng cầm quyền, không bao biện làm thay chính quyền, tôn
trọng tính tự chủ và tự quyết của chính quyền địa phương, HĐND tỉnh theo
đường lối đổi mới của Đảng, theo đúng các quy định của pháp luật của nhà
nước, đồng thời phát huy vai trò của Đảng cầm quyền thông qua hoạt động
73
kiểm tra đảng, tăng cường tính kiểm soát quyền lực của tỉnh ủy đối với
HĐND tỉnh.
Tăng cường công tác kiểm tra của tỉnh ủy đối với hoạt động của HĐND
tỉnh thông qua Đảng đoàn và đảng viên là đại biểu HĐND tỉnh, đặc biệt là
trong việc thể chế hóa các nghị quyết của tỉnh ủy. Đảng đoàn HĐND tỉnh trực
tiếp lãnh đạo mọi hoạt động của HĐND tỉnh theo đường lối, chính sách của
Đảng, truyền đạt cho đảng viên là đại biểu HĐND tỉnh những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo của tỉnh ủy trong những nội dung hoạt động của HĐND tỉnh,
thuyết phục, vận động các đại biểu HĐND tỉnh thực hiện nghị quyết của
Trung ương Đảng, của tỉnh ủy. Tỉnh ủy thường xuyên thực hiện công tác giáo
dục, tuyên truyền các quan điểm, nội dung và các nguyên tắc đổi mới về tổ
chức và hoạt động của HĐND tỉnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của
HĐND tỉnh. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chấp hành là UBND tỉnh,
người đứng đầu các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nghị quyết của
HĐND tỉnh và giải quyết các kiến nghị qua giám sát. Có như vậy, HĐND tỉnh
mới phát huy được vai trò của mình trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CỤ THỂ
3.2.1. Đổi mới về hình thức giám sát HĐND tỉnh Bình Thuận
Trong thời gian vừa qua, mặc dù hoạt động giám sát của HĐND tỉnh đã
được tăng cường, song qua đánh giá của dư luận quần chúng, báo cáo tổng kết
hàng năm của HĐND đều cho thấy rằng: Hiệu quả giám sát chưa cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước của chính quyền địa phương. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trên vì HĐND chưa thực hiện tốt
các hình thức và phương pháp giám sát, chưa có cơ chế rõ ràng đảm bảo
HĐND thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, để thực hiện có hiệu quả
74
chức năng giám sát, trước hết đòi hỏi HĐND phải nâng cao chất lượng các
hình thức và phương pháp giám sát. Cụ thể như sau:
+ Nâng cao chất lượng xem xét báo cáo.
Trong kỳ họp HĐND tỉnh, các Báo cáo, Đề án, Tờ trình của UBND tỉnh là
những tài liệu quan trọng đánh giá mức tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, đồng thời đề ra các giải pháp để thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh được trình bày một cách cụ thể, đầy đủ và
công khai trước các đại biểu của HĐND tỉnh, trước nhân dân địa phương của
tỉnh thông qua các phương tiện truyền hình trực tiếp.
Để xem xét báo cáo có hiệu quả đòi hỏi Đại biểu HĐND phải rèn luyện
để có kỹ năng thảo luận về nội dung của bản báo cáo. Khi báo cáo thẩm tra
được trình ra HĐND, đại biểu HĐND cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp
ý kiến xác đáng và có thể nêu vấn đề chất vấn để các cơ quan báo cáo giải
trình trước HĐND. Hoạt động của HĐND mang tính tập thể, thảo luận công
khai và quyết định theo đa số, thể hiện bằng cách ra Nghị quyết của HĐND.
Các báo cáo phải được gửi trước tới đại biểu HĐND theo quy định của
pháp luật và phải được đăng tải trên các phương tiện báo chí thông tin đại
chúng trước kỳ họp, để đảm bảo tính công khai, khách quan. Có như vậy, kết
luận bằng nghị quyết của HĐND mới thực sự là kết quả của việc sử dụng hình
thức xem xét báo cáo một cách có chất lượng.
+ Nâng cao chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn.
Chất vấn và trả lời chất vấn là hình thức giám sát quan trọng của
HĐND. Nhưng trong thực tế "hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn mới chỉ
mang tính chất gợi mở các vấn đề, chưa đảm bảo hiệu lực thực sự. Người chất
vấn thường chưa đủ các thông tin cần thiết còn người trả lời chất vấn chưa đủ
thoả đáng và cụ thể" [33, tr.467]. Để hình thức giám sát chất vấn mang lại
75
hiệu quả thiết thực thì HĐND và các đại biểu dân cử phải đổi mới về nội dung
và phương pháp chất vấn. Cụ thể:
Để có được kỹ năng chất vấn, đại biểu HĐND có thể tự trang bị kiến
thức bằng cách thu thập thông tin và sử dụng thông tin, đối với đại biểu thông
tin thường dưới dạng báo chí, tài liệu, sách tham khảo, các bản báo cáo; Tuy
nhiên, thông tin được đưa ra chấn vấn chỉ thuyết phục khi đại biểu có sự am
hiểu vấn đề và có đủ bằng chứng để chứng minh chứ không thể nói là "Báo”
hoặc “sách” viết thế; nội dung chất vấn phải xúc tích, ngắn gọn.
Trong kỳ họp, vai trò của Đoàn Chủ tịch là cần lựa chọn nội dung chất
vấn mà đại biểu HĐND gửi tới đoàn thư ký, nội dung nào cử tri bức xúc và
nhiều đại biểu quan tâm đưa ra chất vấn tại hội trường.
Việc trả lời chất vấn cũng cần có sự đổi mới theo hướng nâng cao tinh
thần trách nhiệm của người trả lời chất vấn. Do thời gian tiến hành kỳ họp
HĐND không dài, quỹ thời gian dành cho chất vấn đã được ấn định trong
chương trình kỳ họp, nên việc trả lời chất vấn của các cá nhân có trách nhiệm
phải đảm bảo: Về mặt nguyên tắc, chất vấn phải được trả lời công khai tại kỳ
họp của HĐND; Nội dung trả lời chất vấn phải cụ thể, ngắn gọn dễ hiểu; đi
thẳng vào bản chất của vấn đề được chất vấn; tránh tình trạng báo cáo thành
tích, diễn đạt vòng vo, phân tích nhiều về tình hình. Đối với vấn đề cần có thời
gian để điều tra, nghiên cứu thì phải trả lời tại kỳ họp tiếp theo hoặc trả lời
bằng văn bản; Trong hình thức chất vấn không chỉ dừng lại ở việc trả lời trực
tiếp, đầy đủ các nội dung mà đại biểu HĐND chất vấn, điều quan trọng hơn là
người bị chất vấn cần xác định rõ trách nhiệm và các biện pháp khắc phục sai
phạm của mình và HĐND có nhận xét, kết luận cụ thể về vấn đề đó.
Trong cơ cấu đại biểu HĐND tỉnh nên tăng tỷ lệ quần chúng có năng
lực, tăng số đại biểu chuyên trách, giảm đại biểu là cán bộ quản lý lãnh đạo.
Bởi vì hiện nay số đại biểu là cán bộ ở các cơ quan nhà nước, cấp uỷ và đoàn
76
thể đang chiếm tỷ lệ khá nhiều. Có những đại biểu vừa tư cách là cơ quan
quyền lực nhà nước vừa tư cách là người đứng đầu cơ quan hành pháp, thậm
chí tư pháp. Trong khi đó chất vấn, buộc người bị chất vấn phải giải thích
trước cơ quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt
động, công tác của cơ quan, cá nhân đó phụ trách; trả lời những nguyên nhân,
biện pháp khắc phục khuyết điểm đó. Rõ ràng đây là vấn đề khách quan mà
HĐND cũng như các đại biểu HĐND không thể vượt qua. Do vậy để khắc
phục hạn chế này chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu đại biểu HĐND một cách
hợp lý.
Cần có quy định cụ thể về hoạt động chất vấn: về hình thức chất vấn;
trình tự, chủ thể, đối tượng, nội dung chất vấn... về hậu quả pháp lý của chất
vấn; sự tham gia của cử tri, các phương tiện thông tin đại chúng vào quá trình
chất vấn; vấn đề giám sát theo dõi kết quả, trả lời chất vấn. Trong buổi chất
vấn phải: tổ chức truyền hình và phát thanh trực tiếp để cử tri thấy được
những đại biểu nào có trách nhiệm, có chất vấn trong kỳ họp những vấn đề cử
tri kiến nghị. Đây là một trong những hình thức để cử tri giám sát, đánh giá
trách nhiệm của đại biểu; HĐND và các đại biểu HĐND thường xuyên theo dõi
và đôn đốc tiến độ thực hiện những cam kết của người trả lời chất vấn bằng các
giải pháp và thời gian thực hiện nhất định; xây dựng cơ chế đánh giá những biện
pháp khắc phục của các cá nhân đó bằng việc bãi nhiệm, miễn nhiệm và bỏ
phiếu tín nhiệm; Khi cần thiết HĐND có thể ra nghị quyết về việc trả lời chất
vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn; Tăng thời gian chất vấn.
+ Đổi mới hình thức tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các
đoàn đi giám sát tại địa phương.
Hình thức tổ chức các đoàn đi giám sát tại cơ sở thời gian qua được
HĐND tỉnh Bình Thuận sử dụng nhiều và triển khai rộng rãi ở hầu hết các địa
phương trên địa bàn và đã đạt nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên trên thực tế,
77
việc thực hiện hình thức giám sát này còn bất cập như chương trình giám sát,
thành viên của đoàn giám sát và phương pháp giám sát. Chính vì vậy, mặc dù
HĐND đã cố gắng tổ chức được nhiều cuộc giám sát song hiệu quả vẫn còn
thấp. Để hình thức tổ chức đoàn giám sát tại địa phương đạt được mục đích,
yêu cầu đề ra phải thực hiện đồng bộ những biện pháp cơ bản sau:
Về chương trình giám sát: khi xây dựng nghị quyết giám sát hàng năm,
HĐND tỉnh ngoài việc xây dựng chương trình giám sát theo định kỳ, cần phải
dự báo những vấn đề phát sinh, nổi cộm cần giám sát đột xuất. Trên cơ sở đó
Thường trực HĐND tỉnh và các ban xây dựng chương trình giám sát của mình
theo kế hoạch cụ thể của từng năm, từng quý, từng tháng nhưng phải có trọng
tâm, trọng điểm. Bởi hiện nay đối tượng, phạm vi, nội dung giám sát của
HĐND tỉnh rất rộng, trong khi đó lực lượng giám sát còn mỏng. Nếu chúng ta
vẫn tổ chức giám sát tràn lan, dàn trải thì hiệu quả chắc chắn sẽ không cao và
làm ảnh hưởng đến uy tín của HĐND. Do đó có thể tổ chức ít cuộc giám sát,
nhưng cuộc giám sát nào cũng phải triệt để và đến cùng thì tác dụng của nó sẽ
mang lại hiệu quả cao hơn.
- Về thành viên của đoàn giám sát: ngoài quyền hạn và kỹ năng giám
sát, thành viên của đoàn giám sát cần phải có chuyên môn về lĩnh vực được
giám sát. Để đáp ứng được yêu cầu đó, có thể thực hiện chế độ hợp đồng mời
các chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực tham gia hoạt động với đoàn giám sát.
Đồng thời phải có quy định cụ thể, để chính kiến giám sát của họ trở thành ý
chí của người đại biểu. Vì thực tế đã xảy ra tình trạng, các thành viên chuyên
môn không phải là đại biểu của HĐND đã đóng góp một vai trò rất lớn trong
việc xem xét, tìm hiểu giúp HĐND phát hiện vấn đề chính xác và nhanh gọn.
Nhưng xuất phát từ tư cách pháp lý, cho nên ý kiến của họ không phải lúc nào
cũng được các chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát chấp nhận. Để
khắc phục hạn chế này, cần phải xem ý chí của các thành viên đó về bản chất
78
cũng là ý chí của những người dân. Với quy định như vậy, việc mời các thành
viên chuyên môn tham gia đoàn giám sát mới thật sự có ý nghĩa.
- Về phương pháp giám sát: tuỳ thuộc vào từng đối tượng có thể lựa
chọn hình thức, phương pháp giám sát khác nhau. Nhưng dù sử dụng phương
pháp, hình thức nào cũng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và triệt để.
Như vậy, để một cuộc giám sát có hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều
yếu tố khác nhau. Tuy nhiên hiệu quả giám sát không chỉ dừng lại ở việc chỉ
ra các ưu điểm, khuyết điểm, đề ra những biện pháp khắc phục cho cơ quan
đơn vị chịu giám sát mà điều quan trọng là đơn vị đó đã khắc phục sửa sai
khuyết điểm của mình như thế nào. Tức là những kiến nghị, đề xuất của
HĐND có được các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm tiếp thu, tổ chức thực
hiện trong thực tế một cách triệt để hay không. Do đó HĐND tỉnh phải có chế
độ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận của đoàn giám sát, đồng thời
pháp luật phải quy định cho HĐND có những chế tài cụ thể đối với cơ quan đơn
vị bị giám sát nếu họ không thực hiện tốt các đề xuất, kiến nghị của Hội đồng.
3.2.2. Nâng cao năng lực của các chủ thể giám sát của HĐND tỉnh
Bình Thuận
3.2.2.1. Nâng cao năng lực của đại biểu và Tổ đại biểu HĐND tỉnh
Bình Thuận
Năng lực của đại biểu HĐND là nhân tố quyết định chất lượng hoạt
động của HĐND. Chính vì vậy HĐND tỉnh cần thường xuyên quan tâm
nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu và có những giải pháp thiết thực
khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, hạn chế về kỹ năng hoạt động của
đại biểu.
- Phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ cấu và chất lượng của đại biểu
HĐND.
79
Đây là vấn đề quan trọng quyết định chất lượng hoạt động của đại biểu
HĐND. Hiện nay thông thường cơ cấu đại biểu HĐND cấp tỉnh bao gồm:
Thường trực HĐND, một số thành viên UBND và các Ban HĐND; đại biểu là
lãnh đạo công tác tại một số Ban Đảng, đoàn thể và sở, ban, ngành thuộc
UBND; đại biểu đại diện một số dân tộc, công tác trong các tổ chức chính trị
xã hội, các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; đại biểu đại diện
cho các doanh nghiệp. Việc cơ cấu đại biểu đại diện cho ngành nghề, lĩnh vực
công tác, vùng miền, dân tộc là hết sức cần thiết. Tuy nhiên vì chất lượng hoạt
động của HĐND nói chung và của đại biểu HĐND nói riêng thì việc lựa chọn
đại biểu “đủ sức, đủ tài” phải được đặt lên hàng đầu, không nên cơ cấu cho đủ
thành phần của HĐND mà xem nhẹ chất lượng đại biểu. Mặt khác cần lựa
chọn cơ cấu đại biểu công tác trong cơ quan, đơn vị, tổ chức ít chịu sự ảnh
hưởng, tác động của UBND; đồng thời tăng số đại biểu HĐND cấp tỉnh hoạt
động chuyên trách.
Giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa cơ cấu và chất lượng đại biểu, bầu
ra được những đại biểu tiêu biểu, có trình độ, năng lực, điều kiện thực hiện
nhiệm vụ vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện tiên quyết, đảm bảo cho HĐND phát
huy được vai trò, vị trí là cơ quan đại diện của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương.
- Để nâng cao chất lượng hoạt động, mỗi đại biểu phải thường xuyên tự
nghiên cứu, nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng và hiểu biết đầy đủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Năng động, sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn. Các đại biểu kiêm nhiệm cũng cần phát huy hơn nữa tính chủ động,
tinh thần trách nhiệm. Không thụ động chờ sự chỉ đạo của Thường trực, các
Ban HĐND.
- Phải kịp thời, thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng hoạt động, trình độ
chuyên môn cho đại biểu HĐND.
80
Do cơ cấu đại biểu đa dạng, các đại biểu có trình độ chuyên môn,
nhận thức, lĩnh vực, địa bàn công tác khác nhau. Vì vậy việc đào tạo, bồi
dưỡng kỹ năng hoạt động, trình độ chuyên môn cho đại biểu HĐND là
việc làm cần đặc biệt quan tâm và phải làm tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất: ngay sau kỳ họp thứ nhất cần phải tổ chức ngay các lớp tập
huấn kỹ năng hoạt động cho đại biểu HĐND (tránh để tình trạng kéo dài, 1 - 2
năm sau mới tập huấn). Nhất là những kỹ năng có tính đặc thù và cần thiết đối
với hoạt động của người đại biểu. Cụ thể:
+ Bồi dưỡng nâng cao kỹ năng phân tích các vấn đề thuộc nội dung,
chương trình kỳ họp. Để các đại biểu có khả năng xem xét, đánh giá vấn đề một
cách toàn diện, sâu sắc, đưa ra được ý kiến, kiến nghị chính xác, đóng góp vào
những quyết sách của HĐND. Bồi dưỡng kỹ năng thu thập, xử lý và kiểm tra
thông tin để chọn lọc thông tin. Kỹ năng trình bày ý kiến khi thảo luận trong
cuộc họp; kỹ năng tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của HĐND...
+ Bồi dưỡng kỹ năng tự giám sát và tham gia đoàn giám sát; xác định
cách tiếp cận để nghiên cứu vấn đề cần giám sát; kinh nghiệm nêu vấn đề, đặt
câu hỏi hợp lý với cơ quan hữu quan để làm rõ các nội dung cần giám sát;
thảo luận và đi đến kết luận giám sát; xây dựng kiến nghị giám sát và theo dõi
kết quả thực hiện yêu cầu của đoàn giám sát.
+ Bồi dưỡng kỹ năng tiếp xúc cử tri, bao gồm các kỹ năng lắng nghe và
tiếp nhận thông tin từ nhân dân; kỹ năng thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin;
kỹ năng báo cáo, giải trình và nói chuyện trước công chúng; kỹ năng tuyên
truyền kết quả kỳ họp, giải thích chính sách pháp luật, giải thích những vấn đề
liên quan đến khiếu nại, tố cáo
+ Bồi dưỡng kỹ năng chất vấn và đối thoại, gồm những nội dung về
phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ; lựa chọn vấn đề đưa ra chất vấn; lựa
chọn ngôn ngữ đối thoại trong chất vấn và trả lời chất vấn...
81
Cần trang bị những kiến thức cơ bản nhất để đại biểu có thể thực hiện
tốt các hoạt động tiếp xúc cử tri, thẩm tra (đối với thành viên Ban của
HĐND), giám sát và các hoạt động khác tại kỳ họp HĐND. Nên dành thời
gian khoảng trên dưới 1 tháng cho các lớp tập huấn kỹ năng hoạt động đầu
nhiệm kỳ.
Thứ hai: Tăng cường đổi mới hình thức, nội dung tập huấn, bồi dưỡng
nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu HĐND. Cần tập trung bồi dưỡng
những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật; về tổ chức và hoạt động của
HĐND, UBND; về vai trò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, của
đại biểu HĐND. Đồng thời, hàng năm cần phải tổ chức các lớp tập huấn theo
chuyên đề, mang tính chuyên sâu, trang bị cho đại biểu các kiến thức về kinh
tế - ngân sách, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng cơ bản, thi hành pháp
luật Thường xuyên tổ chức giao ban, hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm
- Tạo không khí dân chủ trong các hoạt động của HĐND, để đại biểu
HĐND phát huy khả năng, trí tuệ, tâm huyết với hoạt động của cơ quan dân cử.
Vấn đề này mang tính chất nguyên tắc trong hoạt động của HĐND. Chỉ
khi hoạt động của HĐND thực sự dân chủ, thẳng thắn thì trí tuệ của đại biểu
mới được phát huy và đại biểu mới tâm huyết cống hiến, nỗ lực cố gắng nâng
cao hiệu quả hoạt động của mình. Để làm được điều này, tại các kỳ họp
HĐND chủ toạ kỳ họp cần điều hành kỳ họp để đại biểu thấy việc tham gia ý
kiến thảo luận cũng như chất vấn là quyền và trách nhiệm của đại biểu.
Những ý kiến do đại biểu nêu ra phải được ghi nhận, tiếp thu và phân tích,
tránh tình trạng không quan tâm tới ý kiến tham gia của đại biểu.
- Đổi mới và tăng cường công tác thông tin phục vụ hoạt động của đại
biểu. Thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cung cấp tài liệu, các văn bản có
liên quan, nhất là tài liệu về chủ chương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước
và thông tin về đời sống kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng ở địa phương,
82
tài liệu của kỳ họp HĐND, các báo cáo hoạt động của HĐND và UBND hàng
tháng, hàng quý phải được cung cấp đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi để đại
biểu HĐND các cấp thực hiện tốt chức năng quyết định và chức năng giám
sát tại địa phương, cơ sở.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh
Bình Thuận
Thường trực HĐND tỉnh có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện
chức năng giám sát của HĐND. Ngoài công việc chuẩn bị nội dung, chương
trình kỳ họp, Thường trực HĐND còn phải đảm nhiệm hầu hết công việc giữa
hai kỳ họp và thực hiện chức năng giám sát mọi lĩnh vực ở địa phương. Theo
quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì “Thường
trực HĐND là cơ quan thường trực của HĐND”, đây là bước tiến quan trọng
so với Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Đồng thời, cơ cấu của
Thường trực HĐND cấp tỉnh, cũng đã mở rộng hơn so với trước. Nếu như
trước đây, thường trực HĐND cấp tỉnh chỉ gồm 03 người là chủ tịch, phó chủ
tịch và ủy viên thường trực thì hiện nay theo quy định của pháp luật hiện hành
quy định thường trực HĐND tỉnh từ 7-8 thành viên, tùy điều kiện thực tiễn
của mỗi tỉnh, gồm: chủ tịch, hai phó chủ tịch HĐND, các ủy viên là trưởng
ban của HĐND và chánh văn phòng HĐND tỉnh. Với quy định trên, đã khắc
phục hạn chế của nhiệm kỳ trước, tạo điều kiện để Thường trực HĐND tổ chức
các hoạt động, nhất là công tác giám sát.
Tuy nhiên, trong thời gian đến, cần quy định cụ thể thành viên của
Thường trực phải hoạt động chuyên trách, không được giữ một chức vụ nào
trong cơ quan nhà nước khác. Sớm khắc phục tình trạng Chủ tịch HĐND
kiêm nhiệm Bí thư hoặc Phó Bí thư Tỉnh uỷ như hiện nay. Bởi lẽ, trong xu thế
phát huy vai trò của các thành viên, chế độ kiêm nhiệm sẽ làm giảm hiệu quả
hoạt động của họ và làm hạn chế khả năng điều hành của Thường trực
83
HĐND. Khi bầu HĐND, bên cạnh đảm bảo về mặt cơ cấu cần phải chú ý đến
năng lực của từng thành viên. Thành viên Thường trực HĐND phải là người
có đạo đức, uy tín, trách nhiệm, có kiến thức sâu rộng và năng lực tổ chức
điều hoà phối hợp trong công việc.
- Để nâng cao năng lực của Thường trực HĐND đòi hỏi các thành viên
Thường trực cần thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật, nắm vững chủ
trương chính sách, am hiểu sâu các lĩnh vực chuyên ngành. Bên cạnh đó phải
nâng cao kỹ năng tiếp xúc cử tri; kỹ năng thu thập, lựa chọn và phân tích
thông tin liên quan đến hoạt động giám sát; xem xét, đánh giá và kiến nghị sát
với tình hình thực tế, đúng với bản chất, yêu cầu của vấn đề; theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát.
- Thường trực HĐND cần thường xuyên tổ chức giao ban, hội thảo,
tổng kết, sơ kết về hoạt động giám sát để học hỏi, rút kinh nghiệm, thông qua
đó nâng cao năng lực hoạt động giám sát cho từng đại biểu.
3.2.2.3. Nâng cao năng lực hoạt động giám sát của các Ban HĐND
tỉnh Bình Thuận
Tăng cường chất lượng, số lượng thành viên các Ban của HĐND tỉnh
Bình Thuận. Ban của HĐND tỉnh cũng là cơ quan hoạt động thường xuyên
của HĐND, giúp HĐND thực hiện công tác giám sát, thẩm tra ... theo lĩnh
vực hoạt động của mình. Chính vì vậy, dưới góc độ chuyên môn, Ban của
HĐND tỉnh là cơ quan chuyên môn có nhiệm vụ giúp HĐND tỉnh, chuẩn bị,
tư vấn cho HĐND tỉnh và tiến hành một số hoạt động mang tính chất chuyên
môn do HĐND tỉnh giao. Để tăng cường hoạt động của HĐND, một yêu cầu
không thể thiếu là nâng cao chất lượng hoạt động của Ban của HĐND. Cụ thể là:
- Cần chú trọng hơn nữa chất lượng của các thành viên. Thành viên của
Ban phải là những người có trình độ chuyên môn, có năng lực giám sát, phẩm
chất, uy tín và trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt phải thực sự quan tâm
84
tới chức trách trưởng, phó ban. Ngoài tiêu chuẩn của một người đại biểu, họ còn
phải có một quá trình làm việc và thâm nhập thực tiễn sâu rộng, được nhân dân
tín nhiệm cao. Thực tế cho thấy, việc thẩm tra các báo cáo, đề án để trình HĐND
tỉnh là một công việc khó khăn, nhưng giám sát thực hiện Hiến pháp, pháp luật
và các nghị quyết của HĐND lại càng khó khăn hơn.
3.2.3. Tăng cƣờng phối hợp giám sát giữa các cấp, các ngành và các
tổ chức đoàn thể
Hoạt động giám sát của HĐND tỉnh là một mắt khâu quan trọng trong
cơ chế giám sát. Cơ chế đó bao gồm hệ thống các yếu tố tác động qua lại với
nhau từ giám sát tối cao của Quốc hội, HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ
quốc, giám sát của nhân dân..., đến hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát,
thanh tra của các cơ quan ban ngành. Mỗi chủ thể có một nhiệm vụ giám sát
khác nhau nhưng tất cả đều có chung mục đích bảo đảm tăng cường pháp chế,
giữ vững trật tự xã hội và bảo vệ pháp luật nhà nước. Do vậy, HĐND tỉnh cần
chú trọng phối hợp với các chủ thể giám sát khác, với các cấp các ngành cũng
như các chuyên gia để tránh sự chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác giám sát.
Thời gian qua, HĐND tỉnh Bình Thuận đã chú ý đến vấn đề này song
cần phải tăng cường hơn nữa. Cụ thể:
Thứ nhất, tăng cường phối hợp với Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các tổ
chức thành viên. Chẳng hạn như:
Mời Mặt trận Tổ quốc tỉnh tham gia hoạt động giám sát cùng với các
ban để tăng thêm giá trị chức năng tư vấn của các ban đó. Bởi vì khi thực hiện
nhiệm vụ của mình các ban không có thẩm quyền độc lập đưa ra các quyết định
giám sát nên sự phối hợp tham gia của Mặt trận Tổ quốc sẽ tăng thêm sức mạnh
tư vấn trong các kết luận giám sát làm cho đối tượng bị giám sát thấy rõ hơn
85
hành vi của mình. Từ đó nội dung giám sát có thể không phải đưa ra kỳ họp
HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp hành.
Thứ hai, tăng cường phối hợp với các cơ quan ban ngành liên quan
nhằm cung cấp thêm thông tin cho giám sát. Ví dụ: Thường trực HĐND và
các ban của HĐND phải tham gia đầy đủ các cuộc họp của UBND; yêu cầu
các sở, ban, ngành nhất là cơ quan Tư pháp, các cơ quan chuyên môn tổng
hợp như Sở Kế hoạch đầu tư, tài chính, vật giá, ngân hàng, kho bạc...phải
cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động hàng quý, hàng tháng cho HĐND. Có như
vậy, cùng với nguồn thông tin khác (do nhân dân phản ánh, qua phương tiện
thông tin đại chúng...) HĐND mới có đủ căn cứ xác định các đối tượng và nội
dung cần tập trung giám sát.
Thứ ba, tăng cường phối hợp với các đơn vị được giám sát để tạo điều
kiện thuận lợi về cơ sở vật chất cũng như các nội dung, hiện trường phục vụ
giám sát. Khi báo cáo yêu cầu các đơn vị phải quán triệt quan điểm khách
quan, trình bày đúng thực trạng hoạt động của cơ quan đơn vị mình. Muốn
làm tốt điều đó trước hết phải thay đổi cách đánh giá hoạt động của các cơ
quan nhà nước theo hướng đi vào thực chất hiệu quả của công việc, hạn chế
"bệnh thành tích" hình thức như hiện nay. Mặt khác trong quá trình phối hợp,
HĐND phải chỉ rõ cho các đơn vị thấy rằng: giám sát là để ngăn chặn tồn tại,
giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ, đó là động lực để phát triển chứ không
phải "vạch lá tìm sâu" gây cản trở cho nhau.
Thứ tư, tăng cường phối hợp với các chuyên gia về lĩnh vực được giám
sát sẽ giúp cho HĐND nhìn nhận đánh giá một cách khách quan chính xác các
vấn đề giám sát.
Thứ năm, tăng cường phối hợp với các đoàn giám sát của Quốc hội.
Khi có đoàn đại biểu Quốc hội xuống địa phương giám sát, Thường trực, các
ban của HĐND có thể kết hợp thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, vừa
86
tránh được chồng chéo, vừa tranh thủ được trí tuệ của các đại biểu Quốc hội
trong việc tháo gỡ những vướng mắc cho địa phương, đồng thời giảm bớt việc
gây phiền hà cho các đơn vị bị giám sát.
Tóm lại, xuất phát từ chế độ làm việc HĐND, không thể sử dụng mệnh
lệnh hành chính như UBND hay các biện pháp cưỡng chế của ngành Tư pháp
mà chỉ có thể đưa ra các kiến nghị, đề xuất mang tính chất tư vấn. Do vậy để
nâng cao hiệu quả giám sát thì giải pháp tăng cường mối quan hệ phối hợp với
các cơ quan ban ngành và các tổ chức đoàn thể trong hoạt động giám sát là việc
làm hết sức cần thiết.
Tiểu kết chƣơng 3
Tóm lại, các giải pháp trên đều rất cần thiết, mỗi giải pháp có một vị trí,
vai trò riêng. Tuy nhiên, các giải pháp phải được thực hiện một cách đồng bộ
mới đem lại hiệu quả để phát huy hơn nữa sức mạnh của HĐND trên cơ sở
quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và pháp luật về công tác giám sát
góp phần xây dựng BMNN ngày càng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
87
KẾT LUẬN
Những năm gần đây hoạt động của các cơ quan dân cử nói chung, của
HĐND nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, công cuộc đổi mới về tổ
chức và hoạt động của HĐND đã được nhìn nhận và đề cập trong các nghị
quyết của Đảng, thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND đã được coi trọng.
Đặc biệt, sau khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND ra đời, hoạt động của HĐND đã
đi vào nề nếp và hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm HĐND tỉnh đều ra
Nghị quyết, trên cơ sở yêu cầu thực tiễn ở địa phương HĐND tỉnh xây dựng
chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể; công tác tổ chức thực hiện giám sát
mang tính chủ động, khoa học và sang tạo. Công tác theo dõi, đôn đốc sau
giám sát đã được chú ý, thực hiện nghiêm túc, làm tăng lòng tin của nhân dân
đối với cơ quan quyền lực, góp phần nâng cao vai trò quản lý nhà nước của
chính quyền địa phương trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Giúp các cá nhân,
cơ quan, tổ chức đơn vị chịu sự giám sát kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn các
hoạt động của mình phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị
quyết của HĐND; làm tăng hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh trong giai đoạn
hiện nay.
Bên cạnh những mặt đã làm tốt, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh
Bình Thuận vẫn còn những bất cập, hạn chế. Hệ thống pháp luật về giám sát
chưa hoàn thiện, một số quy định chưa cụ thể, rõng ràng; đôi khi thiếu tính
khả thi do điều kiện đặc thù tại từng địa phương, dẫn đến tình trạng hiệu quả
giám sát chưa cao. Một số cuộc giám sát chưa đem lại hiệu quả thiết thực, chỉ
dừng lại ở việc báo cáo các kết quả ghi nhận được bằng các kiến nghị, đề
xuất; việc các cơ quan đơn vị có thực hiện kiến nghị, đề xuất đó hay không
tuy có kiểm tra nhưng chưa triệt để. Điều này cho thấy hoạt động giám sát của
HĐND tỉnh Bình Thuận chưa quan tâm đúng mức đến nội dung giám sát về
88
các vấn đề cử tri quan tâm mà thường là theo kế hoạch, đôi khi thiếu kiên
quyết... đến nay theo thực tế đánh giá vẫn còn là một hoạt động mang tính
hình thức.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế trong hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Bình Thuận, luận văn đưa ra một số quan điểm và
giải pháp chủ yếu nhằm tập trung nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh
Bình Thuận nói riêng và cấp tỉnh nói chung; Góp phần nâng cao hiệu quả
giám sát của HĐND để HĐND xứng đáng là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Công tác lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006),
Báo cáo khoa học đề tài đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng quy trình
giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội.
2. Ban Nội chính Trung ương (2015), Một số vấn đề góp phần tăng
cường hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
3. Bộ Nội vụ (2016), Tài liệu bồi dưỡng đại biểu hội đồng nhân dân
nhiệm kỳ 2016 - 2021, Hà Nội.
4. Chính phủ Việt Nam (2015), Nghị định số 48/2016/NĐ-CP, ngày
27/5/2016 quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế của Văn phòng HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội.
5. Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận (2015), Niên giám thống kê năm 2015,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
6. Nguyễn Như Du (2004), “Cử tri đang mong chờ vào hiệu quả giám
sát”, Báo người đại biểu nhân dân.
7. Nguyễn Đăng Dung (2012), Hội đồng nhân dân trong nhà
nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Dung, Trịnh Quốc Toản, Đặng Minh Tuấn (2016),
Bình luận khoa học - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
9. Đại biểu nhân dân Cần thơ (2015), “Thực trạng thi hành pháp luật
trong hoạt động giám sát”, Cần Thơ.
10. Đại từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
90
12. Vũ Đức Đán (2012), “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh”, Tạp chí quản lý nhà nước.
13. Trần Hữu Đức (2006), “Nâng cao chất luợng giám sát của Hội
đồng nhân dân”, Bản tin Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội.
14. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2014), Nghị quyết xác nhận
kết quả lấy phiếu tín nhiệm trong năm 2014 đối với những người giữ chức vụ
do Hội đồng nhân dân tỉnh bầu nhiệm kỳ 2011 - 2016
15. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2014), Nghị quyết về chương
trình hoạt động giám sát của HĐND tỉnh năm 2015.
16. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2015), Nghị quyết về chương
trình hoạt động giám sát của HĐND tỉnh năm 2016.
17. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bình Thuận (2016), Báo cáo tổng kết về tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa IX, nhiệm kỳ 2011 - 2016.
18. Vũ Hùng (2001), Hoạt động giám sát của Ban Văn hoá xã hội, Hội
đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng và một số kiến nghị nhằm góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao
năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
19. Vũ Đức Khiển (2009), “Quy định về bỏ phiếu tín nhiệm: Từ mong
muốn đến hiện thực”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (147).
20. Nguyễn Hải Long (2012), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám
sát của HĐND, Luận án Tiến sỹ, Khoa Luật - ĐHQGHN.
21. Trọng Phú (2015), “Có quá nửa số phiếu không tín nhiệm có thể
xin từ chức”, Báo Điện tử pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Đinh Ngọc Quang (2005), “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 - 2009”, Tạp chí quản lý Nhà nước.
23. Quốc hội Việt Nam (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội Việt Nam (2015), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
91
luật năm 2015, Hà Nội.
25. Quốc Hội Việt Nam (2015), Luật hoạt động giám sát của Quốc
Hội và Hội đồng nhân dân, Hà Nội.
26. Quốc Hội Việt Nam (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
Hà Nội.
27. Quốc hội Việt Nam (2003), Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và
Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
28. Quốc hội Việt Nam (2014), Nghị quyết số 85/2014/QH13 về việc
lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Hà Nội.
29. Đặng Đình Tân (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Đinh Xuân Thảo (2014), Chế định chính quyền địa phương theo
Hiến pháp 2013, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội.
31. Thường trực Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2013),
Tham luận chất vấn tại kỳ họp là một hình thức giám sát tốt của Hội đồng
Nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Phan Trung Tú (2014), “Những bất hợp lý trong tổ chức Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và các kiến nghị đổi mới”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Tri (2001), Chất vấn và trả lời chất vấn, một hình thức
giám sát quan trọng của Hội đồng nhân dân, Những vấn đề đặt ra nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả, Kỷ yếu nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng
nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
34. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội - Viện nghiên cứu lập pháp (2016),
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và thành tựu
lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
92
35. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2015), Nghị quyết số
1097/2015/UBTVQH13 ngày 22 tháng 12 năm 2015 thành lập và quy định
chức năng, nhiệm vụ cơ cấu tổ chức của Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
36. Viện Chính sách công và pháp luật (2014), Bình luận khoa học
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội,
Hà Nội.
93
Phụ lục 1
CƠ CẤU, CHẤT LƢỢNG, THÀNH PHẦN ĐẠI BIỂU HĐND
TỈNH BÌNH THUẬN, NHIỆM KỲ 2011-2016
Đơn vị tính: Người
Giới tính
Dân
tộc
thiểu
số
Đại
biểu
ngoài
Đảng
Đại
biểu
tái cử
Cơ cấu đại biểu
Nam Nữ
Khối
Đảng
Chuyên
trách
HĐND
Chuyên
trách
Đoàn
ĐB QH
Khối
QLNN
Khối
MT
và
các
đoàn
thể
Khối
LLVT
Khối
cơ
quan
tƣ
pháp
Khối
khoa
học,
trí
thức
Khối
hiệp
hội,
nghiệp
đoàn
Khối
huyện,
thị,
thành
phố
42 10 2 2 19 13 9 2 13 1 3 2 2 3 4
80,77% 19,23% 3,85% 3,85% 36,54% 25% 17,3% 3,85% 25% 1,92% 5,77% 3,85% 3,85% 5,77% 7,96%
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ danh sách những người trúng cử đại biểu HĐND tỉnh Bình Thuận khóa IX nhiệm kỳ
2011-2016 của Ủy ban bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu HĐND tỉnh Bình Thuận.
94
Phụ lục 2
KẾT QUẢ GIÁM SÁT CỦA CÁC BAN HĐND TỈNH
NHIỆM KỲ 2011 - 2016
Ban
Số cuộc giám sát,
khảo sát
Số ý kiến, kiến nghị
qua giám sát
Văn hóa - Xã hội 277 279
Kinh tế - Ngân sách 164 136
Pháp chế 134 406
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nguồn báo cáo tổng kết hoạt động các năm trong
nhiệm kỳ 2011-2016 của HĐND tỉnh Bình Thuận.
95
Phụ lục 3
KẾT QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA
THƢỜNG TRỰC HĐND, LÃNH ĐẠO CHUYÊN TRÁCH CÁC BAN HĐND
NHIỆM KỲ 2011 - 2016
Lƣợt tiếp
công dân
Tiếp nhận
đơn thƣ
Kết quả giải quyết
Ghi chú Chuyển cơ quan
chức năng
Hƣớng dẫn,
báo tin
Lƣu
54 2.063 888 đơn 733 đơn *442 đơn
* Lưu do có nội
dung trùng lắp
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nguồn Báo cáo tổng kết về tổ chức và hoạt động
của HĐND tỉnh khóa IX, nhiệm kỳ 2011 - 2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hoat_dong_giam_sat_cua_hoi_dong_nhan_dan_tinh_binh.pdf