Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã xác định hệ thống các phương
hướng phát triển và hoàn thiện HTXNN trên địa bàn tỉnh, khẳng định nền tảng phát triển
của HTXNN kiểu mới là hộ nông dân, xác định vị trí, vai trò, đặc điểm về tổ chức hoạt
động và yêu cầu phát triển HTXNN kiểu mới trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn của tỉnh. Đồng thời, xây dựng hệ thống giải pháp có tính đồng bộ, hỗ trợ, tương
tác cho nhau; mỗi giải pháp có vị trí và tầm quan trọng riêng. Do vậy, trong quá trình tổ
chức thực hiện, tùy theo tình hình thực tế của mỗi loại hình HTXNN và trên từng địa bàn
cụ thể trong tỉnh mà có sự vận dụng phù hợp nhằm củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả
hoạt động của HTXNN kiểu mới.
100 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4734 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ có nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò, chức năng của HTXNN, về quyền
lợi và trách nhiệm của mình đối với HTX… Do vậy, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, xã viên, người lao động của HTXNN và nâng cao trình độ dân trí nói chung có
ý nghĩa quyết định đến sự phát triển HTXNN ở nước ta trong tiến trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
3.2. Các giải pháp cơ bản để thúc đẩy hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái
Bình phát triển
Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ và các phương hướng nêu trên, phát triển HTXNN
kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
3.2.1. Giải pháp về đổi mới nhận thức
Phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong những năm tới phải hướng vào đổi
mới mạnh mẽ nhận thức của xã hội về lợi ích, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các
HTXNN trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; đổi mới nhận thức về vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn
thể các cấp đối với quá trình phát triển HTXNN kiểu mới; lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn,
nghĩa vụ của người nông dân khi tham gia HTXNN; nâng cao nhận thức của nhân dân về
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước về phát triển HTX
nói chung và HTXNN nói riêng. Thực hiện được yêu cầu đó, chúng ta phải làm tốt công
tác tuyên truyền, phổ biến Luật HTX, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành.
Để phát huy tác dụng của công tác này, cần sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền,
giải thích phù hợp với từng loại đối tượng; tài liệu tuyên truyền gồm nhiều loại, với nhiều
cấp độ khác nhau. Thí dụ, tài liệu dưới hình thức ngắn gọn, đơn giản như: Hỏi đáp về Luật
HTX, về các văn bản hướng dẫn thi hành v.v... Thực hiện xã hội hóa các tài liệu, kết quả
nghiên cứu về HTXNN để cung cấp cho cán bộ các cấp trực tiếp chỉ đạo về công tác này.
Mục tiêu cụ thể của công tác tuyên truyền là:
Thứ nhất, giúp mọi người nắm được sự cần thiết khách quan phải phát triển
HTXNN kiểu mới trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa; mối quan hệ biện
chứng giữa trình độ phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp với quá trình hình
thành, phát triển của HTX kiểu mới trong nông nghiệp; những bài học kinh nghiệm của
các nước trên thế giới về HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ hai, thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật HTX và các văn bản
hướng dẫn của Nhà nước, giúp mọi người phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa hai mô
hình HTX "kiểu cũ" và "kiểu mới". Mục đích, yêu cầu, tác dụng và các bước tiến hành cần
thiết của quá trình chuyển đổi, xây dựng HTXNN kiểu mới. Đồng thời, góp phần nâng cao
ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân
dân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với
HTXNN. Tránh lặp lại những hạn chế như: chuyển đổi hình thức, chạy theo phong trào,
"hợp tác xã cả làng", v.v... Ngược lại, không thể vì những sai lầm trong quá trình hợp tác
hóa trước đây mà kỳ thị với HTXNN kiểu mới.
Tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển đổi, xây dựng HTXNN kiểu mới theo đúng
Luật HTX. Đồng thời, phải coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và nhân rộng các
mô hình có hiệu quả. Công việc này trước hết phải do cơ sở thực hiện, kết hợp với sự giúp
đỡ của các cơ quan chức năng và các cơ sở nghiên cứu. Cùng với việc làm trên, cần chú ý
tổ chức cho đại diện cán bộ HTXNN, nông dân đi tham quan thực tế các mô hình HTXNN
hoạt động có hiệu quả ở các địa phương khác để học tập, rút kinh nghiệm. Trên cơ sở theo
dõi, tổng kết thực tiễn chuyển đổi, phát triển các HTXNN kiểu mới trong tỉnh và các địa
phương khác, kịp thời điều chỉnh công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện Luật HTX để
đạt được hiệu quả cao.
3.2.2. Giải pháp thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, làm cơ sở cho phát
triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
Sự hình thành và phát triển các HTXNN kiểu mới có mối quan hệ biện chứng với
tiến trình nâng cao trình độ phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Khi sản xuất nông nghiệp
mang nặng tính tự cung tự cấp, nhu cầu hợp tác của nông hộ đã có, nhưng rất nhỏ và hết
sức đơn giản (đó là các hình thức kinh tế hợp tác giản đơn - cổ truyền). Nhu cầu phát triển
sản xuất hàng hóa với khối lượng nông phẩm ngày càng lớn đã đặt trước từng chủ thể sản
xuất nông nghiệp những khó khăn, thách thức vượt quá khả năng của từng nông hộ, trang
trại; dẫn đến hình thành và phát triển các HTXNN kiểu mới. Đến lượt mình, sự phát triển
có hiệu quả của các HTXNN kiểu mới sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hóa
phát triển. Do vậy, muốn phát triển HTXNN kiểu mới thì phải phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa, trong đó chủ thể sản xuất chủ yếu là các nông hộ và trang trại. Đồng thời, phải
đẩy mạnh phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn để thu hút một phần lao
động trong nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện cho việc cơ khí hóa sản
xuất và ứng dụng KHCN; giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện giải pháp này, phải làm tốt các công việc sau:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa theo thế
mạnh của tỉnh và của từng vùng, từng địa phương trong tỉnh.
- Đổi mới chính sách tài chính - tín dụng, tạo điều kiện cho hộ nông dân được tiếp
cận các nguồn vốn dễ dàng hơn, được vay lượng vốn lớn hơn và dài thời gian hơn theo chu
kỳ sản xuất - kinh doanh của cây, con cụ thể; điều chỉnh các loại thuế và thuế suất theo h-
ướng tạo điều kiện để hộ nông dân có vốn đầu tư phát triển sản xuất.
- Đổi mới chính sách đất đai nhằm tạo điều kiện để phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hóa quy mô lớn theo hướng đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho các hộ nông dân; nâng mức hạn điền để thúc đẩy việc tích tụ ruộng đất; đẩy
mạnh dồn điền, đổi thửa nhằm khắc phục tình trạng manh mún về đất đai, tạo điều kiện
đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, giảm chi phí canh tác…; khắc phục tình trạng
các hộ nông dân, các tổ chức kinh tế đã chuyển sang làm các ngành nghề phi nông nghiệp
nhưng vẫn giữ đất đang xảy ra ở nhiều xã, trong khi nhiều hộ nông dân có điều kiện để đầu
tư mở rộng sản xuất lại bị thiếu đất.
- Đổi mới chính sách thị trường đối với nông nghiệp theo hướng bình ổn giá một
số vật tư nông nghiệp quan trọng như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…; xây dựng hệ
thống cung cấp thông tin về thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất nông
nghiệp.
- Đổi mới chính sách và các hoạt động KHCN liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp
theo hướng tăng cường hoạt động khuyến nông, đầu tư hơn nữa cho công tác nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; Nhà nước hỗ trợ một
phần kinh phí cho các hộ nông dân, trang trại, HTXNN, doanh nghiệp trong việc đầu tư
ứng dụng tiến bộ KHCN trong sản xuất nông nghiệp.
- Đổi mới chính sách đầu tư với nông nghiệp, nông thôn và các lĩnh vực liên
quan trực tiếp tới nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kết cấu hạ tầng ở nông
thôn như đường giao thông, hệ thống điện, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống chợ…;
đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chế tạo máy nông cụ, thiết bị phục vụ chế biến
nhỏ, các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, trước hết là các ngành nghề phục vụ
nhu cầu dân sinh tại chỗ, các ngành công nghiệp chế biến, bảo quản gắn với thị trường
tiêu thụ nông sản…
Thực hiện tốt các công việc trên sẽ tạo tiền đề tích cực để hình thành và phát triển
các HTXNN kiểu mới trong nông nghiệp.
3.2.3. Lựa chọn mô hình hợp tác xã nông nghiệp phù hợp với đặc điểm cụ thể
của từng ngành, vùng, địa bàn trong tỉnh
Trên phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng hiện đang tồn tại nhiều mô hình
HTXNN kiểu mới với đặc điểm, nội dung hoạt động, quy mô và hiệu quả khác nhau như:
HTX dịch vụ nông nghiệp thuần túy, HTX sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tổng hợp, HTX
chuyên môn hóa cao ở một số hoạt động dịch vụ như chuyên thủy nông, chuyên làm đất,
chuyên cung ứng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp…. Bởi vậy, việc lựa chọn
các mô hình HTXNN phù hợp với từng ngành, từng địa bàn trong tỉnh có tác dụng phát
huy hiệu quả thực sự của các HTXNN đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp và quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Thái Bình là tỉnh có hệ thống HTXNN hình thành và phát triển sớm, sau khi thực
hiện Chính sách khoán 10 trong nông nghiệp, các HTXNN của tỉnh đều chuyển sang hoạt
động dịch vụ nông nghiệp. Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX đến nay, 99% số
HTXNN của tỉnh đã thực hiện chuyển đổi theo Luật và tiếp tục hoạt động dịch vụ nông
nghiệp phục vụ cho nhu cầu sản xuất của hộ nông dân. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật, vốn,
quỹ hạn chế, lại hoạt động trong điều kiện sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún,
mang nặng tính tự cấp, tự túc, mô hình HTXNN phù hợp ở Thái Bình hiện nay vẫn chủ
yếu là HTX dịch vụ nông nghiệp thuần túy. Các HTXNN tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động để nâng cao số lượng và chất lượng các hoạt động dịch vụ nông
nghiệp cho hộ nông dân.
Cùng với tiến trình nâng cao trình độ phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
các HTXNN trong tỉnh sẽ được định hướng phát triển với nhiều quy mô; đa dạng về thành
viên tham gia, từ các hộ nông dân, các trang trại đến các tổ chức và doanh nghiệp thuộc
mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế; với nhiều cấp độ, từ thấp đến cao, từ HTXNN thuần
túy làm dịch vụ đầu vào, đầu ra ở một hoặc nhiều khâu phục vụ cho hoạt động sản xuất -
kinh doanh của các thành viên đến phát triển HTX sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tổng hợp
và hình thành các doanh nghiệp của HTX trên cơ sở điều kiện và nhu cầu kinh tế của từng
ngành, vùng, địa phương trong tỉnh. Đồng thời, từng bước giải quyết triệt để tình trạng
HTXNN chưa chuyển đổi hoặc chuyển đổi hình thức, tình trạng "Hợp tác xã cả làng, đánh
trống ghi tên".
3.2.4. Tăng cường liên kết với các thành phần kinh tế khác trong dịch vụ tổng
hợp cho hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, trước hết là kinh tế nhà nước.
Là tổ chức kinh tế tập thể, hoạt động dịch vụ phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất
hàng hóa của các nông hộ và trang trại, HTXNN muốn đẩy mạnh phát triển, đáp ứng nhu
cầu dịch vụ ngày càng đa dạng của nền nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại thì phải tăng
cường các liên kết kinh tế giữa các HTX với nhau, giữa HTX với các tổ chức KHCN, giữa
HTX với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đặc biệt là với các doanh nghiệp
nhà nước, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội từng vùng, trình độ phát triển ở từng lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp và nhu cầu hợp tác của các xã viên.
Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng có tính
quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Sự tác động đó chủ yếu thông
qua các hệ thống thủy nông, giao thông, cung cấp điện, cung cấp tín dụng, khuyến nông,
khuyến lâm, bảo vệ thực vật, thú y, cung cấp giống, vật tư kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ
sản phẩm. Trong mối quan hệ này, HTXNN phải đóng vai trò người đại diện, là cầu nối
giữa kinh tế nhà nước và kinh tế hộ. Một mặt, HTXNN thực hiện việc tiếp nhận sự hỗ trợ
của nhà nước, triển khai các chương trình dự án có liên quan đến kinh tế hộ ở địa phương.
Mặt khác, HTXNN giúp doanh nghiệp nhà nước mở rộng phạm vi hoạt động phục vụ trực
tiếp, có hiệu quả đến nông dân. Do vậy, tùy điều kiện cụ thể cần phải thiết lập các mối
quan hệ liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với HTX và nông dân, trong đó
doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Doanh nghiệp nhà nước tạo điều kiện cho
HTX mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ, sản xuất - kinh doanh như HTX
làm đại lý, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm…
Các công ty thủy nông, trung tâm khuyến nông, chi cục bảo vệ thực vật… thực
hiện việc phân cấp quản lý với mục tiêu tinh gọn, hiệu quả. Thí dụ: giao cho HTX quản lý
điều hành cấp thoát nước trong phạm vi kênh mương nội đồng, phổ biến áp dụng kỹ thuật
sản xuất, phòng trừ sâu bệnh đến từng hộ nông dân… Đồng thời, phải giúp đỡ HTX đào
tạo kỹ thuật viên và phương pháp tổ chức dịch vụ có hiệu quả.
3.2.5. Giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cán bộ hợp tác xã nông
nghiệp
HTXNN là tổ chức kinh tế độc lập, được quyền tự chủ về mọi mặt hoạt động của
mình theo quy định của pháp luật, trong đó có các công tác cán bộ. Để thực hiện tốt công tác
này, HTXNN phải tiến hành đồng bộ các công việc sau:
Một là, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ HTXNN. Trước hết, phải xây dựng
quy hoạch cán bộ, lấy đó làm cơ sở thực hiện công tác cán bộ HTXNN trong những năm
tới; cần phân biệt rõ nghĩa vụ, quyền hạn của HTXNN với cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương trong công tác cán bộ. Đồng thời hoàn thiện cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi d-
ưỡng, thu hút và sử dụng đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, là tổ chức kinh tế của tầng lớp dân cư
yếu thế nhất trong xã hội, HTXNN rất cần sự trợ giúp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể các
cấp về nhiều mặt, trong đó có công tác cán bộ. Song, đó không phải là sự làm thay hay can
thiệp thô bạo vào công tác cán bộ HTXNN. Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trợ
giúp HTXNN về công tác cán bộ thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao dân trí
nói chung và trình độ văn hóa, nhận thức của cán bộ HTXNN nói riêng; hỗ trợ về tài chính
và tổ chức cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX; phối hợp xây dựng quy hoạch cán
bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng…
Hai là, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ HTXNN phải được thực hiện thường xuyên, liên tục; kết hợp giữa đào
tạo với bồi dưỡng; ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ chủ chốt của HTXNN. Đa dạng
hóa hình thức, lựa chọn địa điểm đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu và điều kiện
thực tế của HTXNN và người học. Nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ HTXNN. Đặc biệt cần tạo nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN căn
cứ vào tình hình phát triển của nó. Khi HTXNN còn nghèo, ít vốn, Nhà nước nên hỗ trợ
100% kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTXNN; khi HTXNN đã phát
triển, vốn của HTX đã dồi dào hơn, nguồn kinh phí cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX
được hình thành một phần bằng khoản đóng góp từ quỹ phát triển của HTX, phần khác
bằng nguồn kinh phí của Nhà nước. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cần mở rộng
hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ HTXNN.
Ba là, trong việc sắp xếp các chức danh quản lý của HTXNN, cần phân định rõ chức
năng quản lý và chức năng điều hành HTX: chức năng quản lý do Ban quản trị hay Hội đồng
quản trị thực hiện, chức năng điều hành do Ban chủ nhiệm HTX thực hiện. Tuy nhiên, trong
thực tế tổ chức thực hiện, tùy điều kiện cụ thể ở từng HTXNN, các chức năng này có thể do
hai người khác nhau thực hiện hoặc kiêm nhiệm. Trưởng ban quản trị có thể kiêm chủ nhiệm
HTX nếu trưởng ban quản trị là người vừa có năng lực quản lý, vừa có năng lực điều hành.
Hình thức tổ chức như vậy mở ra cơ hội cho các HTXNN thuê những người có năng lực phù
hợp làm chủ nhiệm HTX và các chức danh điều hành khác. Trên cơ sở phân định rõ chức
năng quản lý và chức năng điều hành, các HTXNN cần mạnh dạn thực hiện việc thuê chủ
nhiệm HTX và các chức danh quản lý khác của HTX; thu hút những người có năng lực quản
lý từ nơi khác, tổ chức khác đến; người tham gia quản lý HTXNN không nhất thiết phải là
đảng viên; không giới hạn việc lựa chọn cán bộ HTXNN chỉ trong nội bộ xã viên HTX hiện
hành.
3.2.6. Tăng cường vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển của hợp tác xã
nông nghiệp kiểu mới
Tiếp thu tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của
HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới cần phải tăng cường theo những
hướng sau:
3.2.6.1. Tập trung giải quyết những tồn đọng của các HTXNN
Một là, UBND tỉnh tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng kéo dài của
các HTXNN (bao gồm các khoản HTXNN nợ Nhà nước, nợ ngân hàng, nợ doanh nghiệp
và nợ dân) theo Quyết định 146/2001/QĐ-TTg ngày
2-10-2001 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 31/2002/ TT - BTC ngày
29-3-2002 của Bộ Tài chính về hướng dẫn triển khai thực hiện xử lý nợ tồn đọng của HTX
nông nghiệp. Việc xử lý nợ tồn đọng phải trên cơ sở xem xét kỹ, làm rõ từng trường hợp
cụ thể, đặc biệt là với các HTXNN thực sự không còn khả năng thanh toán. Đồng thời, có
phương án thích hợp cấp bù, giảm vốn tương ứng cho các chủ nợ của HTXNN.
Để tránh phát sinh tiêu cực mới trong nông thôn, các khoản nợ được xóa phải làm
rõ, có ý kiến đề nghị của đại hội xã viên HTXNN và được UBND huyện thẩm định. Đồng
thời với việc Nhà nước xóa nợ tồn đọng cho HTX, các HTXNN cần xem xét xóa nợ cho
hộ xã viên đối với những khoản nợ liên quan đến khoản nợ mà Nhà nước đã xóa cho HTX.
Hai là, giải quyết chế độ chính sách cho một số đối tượng cán bộ HTXNN. UBND tỉnh
chỉ đạo Bảo hiểm xã hội tỉnh giải quyết cho cán bộ HTXNN có thời gian công tác từ năm
2003 trở về trước được đóng bảo hiểm từ khi có Luật HTX (năm 1996) như các HTX tín
dụng đã thực hiện. Giải quyết chế độ cho cán bộ HTXNN đã chuyển sang công tác Đảng,
chính quyền, đoàn thể nhưng không được tính chế độ trong tính thời gian công tác ở
HTXNN theo hướng: được đóng bảo hiểm xã hội từ năm 1996, có văn bản giao cho
HTXNN phải thanh toán cho cán bộ có thời gian công tác ở HTX theo Thông báo 31/1995
của UBND tỉnh. UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí giải quyết chế độ cho cán bộ HTXNN vi
phạm kỷ luật thời kỳ 1996 - 1999 đã nghỉ việc trước khi chuyển đổi HTX với mức 1 tháng
thù lao cho mỗi năm công tác.
3.2.6.2. Chính sách đầu tư tài chính đối với HTXNN
Vốn đầu tư là nhu cầu cấp thiết cho hoạt động của các HTXNN cũng như các nông
hộ và trang trại gia đình. HTXNN có hai nguồn vốn cung cấp: vốn nội bộ HTX và nguồn
vốn từ bên. Qua thực tế các HTXNN trong tỉnh, nguồn vốn từ nội bộ rất nhỏ bé. Nguồn
vốn bên ngoài trên địa bàn tỉnh chủ yếu dựa vào hệ thống cung cấp tín dụng phục nông
nghiệp, nông thôn, bao gồm 5 ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Chính sách xã
hội, 78 quỹ tín dụng nhân dân ở cơ sở, nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của Kho bạc
nhà nước, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh… trong đó, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn là đơn vị cung cấp chủ yếu (chiếm khoảng gần 90% thị
phần tín dụng). Tuy nhiên, cho đến nay hầu như các HTXNN trên địa bàn tỉnh đều chưa đ-
ược vay vốn trực tiếp của ngân hàng thương mại quốc doanh. Các nguồn vốn khác từ các
đoàn thể, quỹ hỗ trợ,… thì bị phân tán, đi thẳng theo các chương trình dự án đến nông hộ,
trang trại gia đình, ít liên quan đến vốn HTXNN.
Như vậy, cả nguồn vốn từ bên ngoài và bên trong đều chưa đáp ứng đủ nhu cầu
vốn cho các HTXNN kiểu mới hoạt động. Tình trạng thiếu vốn xảy ra ở hầu hết các
HTXNN trong tỉnh, gây khó khăn cho các tổ chức kinh tế này hoạt động. Ngoài ra, nhu
cầu về vốn đối với kinh tế nông hộ và trang trại gia đình cũng là đòi hỏi hết sức cấp thiết.
Do vậy, thông qua chính sách đầu tư tài chính, Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện cho nông
nghiệp, nông dân và các HTXNN có vốn hoạt động.
Nhà nước chỉ đạo cho các ngân hàng thương mại quốc doanh tạo điều kiện thuận
lợi cho HTXNN sau chuyển đổi và HTXNN mới thành lập được vay vốn bình đẳng như
các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác; các tổ chức tín dụng tăng mức
cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn đối với hộ nông dân, HTXNN; các HTXNN
được thế chấp bằng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn
bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cho phép các HTXNN
được vay vốn từ các chương trình, dự án quốc gia và các tổ chức phi chính phủ, được làm chủ
một số dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn để tiếp nhận và sử dụng vốn. Đồng thời,
coi trọng việc củng cố và phát triển HTX, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của
Bộ Chính trị ngày 13-10-2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể
quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ khó khăn được vay vốn sản xuất. Cho phép
HTXNN được huy động vốn và cho vay nội bộ. Tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình
trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Nhà nước cần dành một tỷ lệ thích đáng ngân sách đầu tư cho HTXNN như đầu tư
cho công tác đào tạo cán bộ HTX và lao động nông thôn, đổi mới công nghệ, xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn…
Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, nhằm tạo điều kiện pháp lý cho thị trư-
ờng tài chính ở nông thôn phát triển lành mạnh, đúng hướng, đáp ứng nhu cầu phát triển
sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, kinh tế trang trại gia đình và kinh doanh của các
HTXNN.
3.2.6.3. Chính sách thuế
Mặc dù Chính phủ có chính sách khuyến khích phát triển HTX, Bộ Tài chính đã
có hướng dẫn về ưu đãi thuế đối với HTX, song hoạt động của các HTXNN hiện nay còn
hạn hẹp. Hoạt động cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm đang là nhu cầu lớn của
kinh tế hộ, song phần lớn HTX đều chưa đáp ứng được. Một số HTX hoạt động trong các
lĩnh vực này thì gặp nhiều khó khăn trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Hơn
nữa, hoạt động dịch vụ của HTX không phải hoàn toàn vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu
nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Bởi vậy, Chính phủ nên miễn thuế
cho các hoạt động dịch vụ của HTX nông nghiệp, gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm… phục vụ sản xuất và đời sống của hộ xã viên.
3.2.6.4. Chính sách đất đai
Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra, đôn đốc các địa phương khẩn trương thực hiện
chính sách cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân; thực hiện giao đất
không thu tiền và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTXNN xây dựng trụ sở,
làm cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích quá trình tích tụ, tập
trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) cho nông hộ và trang trại phát triển sản xuất
hàng hóa; tuyên truyền, khuyến khích và tạo điều kiện để nông dân tiếp tục dồn điền, đổi
thửa, hạn chế tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hóa trong sản xuất
nông nghiệp. Cùng với quá trình nói trên, cần đẩy mạnh việc mở mang ngành nghề để
giải quyết việc làm cho lao động chuyển từ nông nghiệp sang.
3.2.6.5. Chính sách khuyến nông, khoa học và công nghệ
Việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp có vai trò hết sức to lớn. Đó là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại. Do vậy, cần tăng cường nghiên
cứu, áp dụng các thành quả mới nhất của khoa học và công nghệ, nâng cao dân trí, đào tạo,
bồi dưỡng nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức KHCN hiện đại, các quy trình
sản xuất tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp.
Đối với các chủ thể sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản (nông hộ, trang trại,
HTX, doanh nghiệp), cần hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng
tiến bộ KHCN trong sản xuất nông nghiệp như:
- Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất tín dụng…, không điều tiết thuế thu
nhập trong những năm đầu đối với nguồn thu do ứng dụng thành công KHCN, giảm lãi
suất tín dụng đối với nguồn vốn vay đầu tư cho việc ứng dụng KHCN; miễn, giảm thuế
cho các hoạt động ứng dụng KHCN;
- Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện mạng
lưới cán bộ khoa học - kỹ thuật làm nhiệm vụ ứng dụng, tuyên truyền phổ biến ứng dụng
tiến bộ KHCN đến nông dân;
- Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ HTXNN, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức
KHCN để triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án về ứng dụng tiến bộ KHCN vào
nông nghiệp, nông thôn; trên cơ sở đó, giúp cho HTXNN thực sự trở thành cầu nối giữa cơ
quan nghiên cứu khoa học với nông hộ, trang trại nhằm nâng cao hiệu quả quá trình
chuyển giao KHCN vào thực tiễn sản xuất;
- Tăng cường đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ
nông nghiệp, từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón,
thuốc trừ sâu phù hợp yêu cầu phát triển bền vững nền nông nghiệp sinh thái, trên cơ sở
phát huy các lợi thế của nông nghiệp của tỉnh.
Sắp xếp, củng cố hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học trên địa bàn sao cho
hoạt động có hiệu quả, kết hợp với chính sách đãi ngộ thích đáng đối với kết quả nghiên
cứu khoa học được áp dụng nhằm tạo động lực thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và ứng
dụng vào thực tiễn sản xuất, cụ thể như:
- Tăng cường hoạt động của Trung tâm khuyến nông tỉnh trong việc hướng dẫn,
phổ biến sử dụng phương pháp canh tác mới đến hộ nông dân thông qua các HTXNN;
đồng thời, tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan nghiên cứu khoa học các cấp với các
HTXNN, Trung tâm khuyến nông để rút ngắn thời gian chuyển giao, áp dụng kết quả nghiên
cứu vào thực tiễn sản xuất;
- Khuyến khích áp dụng đa dạng các hình thức, biện pháp chuyển giao tiến bộ
KHCN phù hợp với dân trí và tâm lý nông dân;
- Đối với các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và phát triển, chuyển giao ứng
dụng tiến bộ KHCN vào nông nghiệp, nông thôn, Nhà nước cần có cơ chế chính sách phù
hợp để nâng cao trách nhiệm, khuyến khích lợi ích thỏa đáng, thực hiện quyền sở hữu trí
tuệ, quyền công bố, trao đổi, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu theo quy
định của pháp luật.
3.2.6.6. Chính sách thị trường
Thị trường có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng
hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại; là yếu tố cơ bản, quyết định chiến lược phát triển sản
xuất từng loại nông phẩm.
Khi đặt vấn đề phát triển sản xuất một loại nông sản hàng hóa nào đó, trước hết,
các chủ thể sản xuất phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường về số lượng, chất lượng, chủng
loại hàng hóa, nơi tiêu thụ... Quá trình sản xuất nông sản hàng hóa không gắn với thị trư-
ờng sẽ lâm vào tình trạng sản xuất "mù quáng", "mò mẫm" và thất bại là điều khó tránh
khỏi. Đó cũng là lý do tại sao nhiều dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh và
một số địa phương trong những năm qua bị thất bại. Do vậy, có thể khẳng định rằng thị tr-
ường là căn cứ để tổ chức sản xuất, là cơ sở để hình các thành quyết định đầu tư.
Xuất phát từ thực trạng sản xuất nông nghiệp hàng hóa của tỉnh và khả năng hoạt
động của các HTXNN, để đảm bảo thị trường cho sản xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển
nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn, hiện đại, Nhà nước cần phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp sau:
- Các cơ quan chức năng từ tỉnh đến chính quyền cơ sở, các hiệp hội ngành nghề
cần hỗ trợ HTXNN xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm
trong và ngoài nước với hình thức phù hợp; trong đó, phải đặc biệt coi trọng việc thông tin
kịp thời cho các chủ thể sản xuất nông nghiệp nắm được: thứ nhất, nhu cầu của thị trường
tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, trước hết là những nông sản hàng hóa có khối l-
ượng lớn, phục vụ nhu cầu xuất khẩu; thứ hai, tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến
động giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế; thứ ba, những thông tin dự báo cần thiết
về nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu thị trường nông sản trong nước và quốc tế; thứ
tư, những thông tin về phương thức, điều kiện, yêu cầu đảm bảo tính thông suốt, tính thời
gian từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ… Trên cơ sở các thông tin được cung cấp, các chủ thể
sản xuất nông nghiệp có điều kiện tính toán kỹ hiệu quả kinh tế trước khi quyết định phư-
ơng án đầu tư sản xuất.
- Thực hiện rộng rãi việc ký kết hợp đồng trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và
tiêu thụ nông, thủy sản với nông dân qua các HTXNN. Nhà nước có chế độ ưu đãi cho các
doanh nghiệp cung ứng vật tư phân bón, thức ăn gia súc, hướng dẫn quy trình kỹ thuật và
thu mua sản phẩm cho HTXNN theo hợp đồng dài hạn đối với sản phẩm có khối lượng
lớn.
- Khuyến khích nông dân và HTX sản xuất nguyên liệu mua cổ phần, trở thành cổ
đông của các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản.
- Đầu tư xây dựng cơ quan nghiên cứu thị trường trực thuộc Sở Thương mại để
nắm bắt thông tin, dự báo nhu cầu thị trường nông sản trên thế giới và trong nước, làm
nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hóa của tỉnh, tạo
ra những nông sản chủ lực đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, thông qua các HTXNN,
các cơ quan này phải làm tốt nhiệm vụ thông tin, tư vấn, giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế
trang trại gia đình hình thành khả năng, thói quen của người sản xuất hàng hóa.
- Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu nông sản
hàng hóa, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. trước hết, đó là
phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hóa cho kinh tế hộ, kinh tế
trang trại.
3.2.6.7. Tăng cường hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với HTX nông
nghiệp
Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với HTXNN ở tỉnh bao gồm: phòng Chính
sách Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, phòng chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện là những cơ quan tham
mưu của sở và UBND huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với HTXNN. Tuy
nhiên, hiện nay hệ thống này hoạt động còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ và hiệu lực chưa
cao. ở cấp huyện, cán bộ được phân công theo dõi HTXNN thường làm kiêm nhiệm nhiều
việc, cán bộ đã thiếu lại không yên tâm tập trung cho công việc. Do vậy, để tổ chức quản
lý nhà nước đối với HTX nông nghiệp được tăng cường, cần phải:
- Bố trí đủ lực lượng cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đối với phòng Chính
sách Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc sở nên có từ
5 đến 7 cán bộ; phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện nên có từ 1 đến 2
cán bộ chuyên trách về HTXNN.
- Thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ quản lý nhà nước đối với HTXNN thông
qua đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống các trường từ tỉnh đến Trung ương, kết hợp với việc
tham quan học hỏi kinh nghiệm trong nước và ngoài nước.
- Nhà nước cần cấp một khoản kinh phí cần thiết cho hệ thống quản lý nhà nước
đối với HTX hoạt động.
Cùng với hệ thống bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX, cần tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội như: Hội
Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Liên minh HTX trong việc tuyên truyền vận
động giúp đỡ phát triển HTXNN phù hợp với điều kiện thực tiễn và nhu cầu của nông dân
ở từng cơ sở.
3.2.6.8. Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính quyền
và HTXNN trên từng địa bàn
HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ, tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao
nhất trong HTX là đại hội xã viên. Tuy nhiên, HTXNN nằm trên địa bàn dân cư nhất định
nên sự phát triển của HTXNN có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
đó. Bởi vậy, các HTXNN chịu sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, giúp đỡ của chính quyền
địa phương. Đó là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển.
Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần có cơ chế phối hợp hoạt động có hiệu quả.
Tổ chức đảng thực hiện vai trò lãnh đạo chung thông qua chủ trương, nghị quyết và vai trò
gương mẫu của người đảng viên. Chính quyền địa phương có quyền và trách nhiệm kiểm
tra, giám sát HTXNN trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách luật pháp của
Nhà nước, nhưng tuyệt đối không can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của HTX, không
làm thay chức năng của HTX, song phải tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ cho HTXNN hoạt
động theo pháp luật.
Đối với HTXNN, ngoài mục tiêu kinh tế là hàng đầu còn phải thực hiện các mục
tiêu xã hội, góp phần xây dựng tính cộng đồng, đoàn kết, tương trợ trong các xã viên của
mình, song không thể biến HTXNN thành tổ chức xã hội, làm thay nhiệm vụ của hệ thống
chính trị ở địa phương.
Việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa tổ chức đảng, chính quyền và HTXNN trên từng địa bàn sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho HTXNN hoạt động theo đúng Luật, đạt hiệu quả, góp phần thực hiện tốt mục tiêu kinh
tế - xã hội của tỉnh.
3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức
đoàn thể quần chúng đối với sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
Để phát triển, hoàn thiện các HTXNN kiểu mới trên địa bàn tỉnh nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp
các giải pháp về kinh tế, pháp lý, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước…trong đó, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng là
một trong những giải pháp quan trọng. Tổ chức đảng ở cơ sở phải thực sự đóng vai trò là
hạt nhân lãnh đạo, định hướng rõ sự phát triển HTXNN trên địa bàn mình phụ trách và là
lực lượng nòng cốt của phong trào, cụ thể:
- Trên cơ sở nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên về phát triển HTXNN kiểu mới, tổ
chức đảng ở cơ sở phải đề ra được nghị quyết của địa phương, bám sát thực tế cơ sở để
lãnh đạo HTXNN thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết vào cuộc
sống;
- Tổ chức đảng ở cơ sở lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng tăng
cường công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động các tầng lớp nhân dân tự
giác tham gia vào HTXNN theo đúng Luật HTX và thực hiện định hướng phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương; mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là tấm gương cho quần chúng
nhân dân noi theo trong việc tham gia phát triển HTXNN;
- Tăng cường công tác kiểm tra; tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực
hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của các HTXNN; qua đó, kịp thời khắc phục những
lệch lạc, giúp HTX tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cần thiết cho HTX mở
rộng các dịch vụ kinh doanh phục vụ nhu cầu phát triển của kinh tế hộ và trang trại;
- Cấp ủy cơ sở phải quan tâm xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật cho HTXNN; phân công cán bộ có năng lực, am hiểu về
kinh tế, về HTXNN để phụ trách chỉ đạo phong trào. Chú trọng phát triển tổ chức cơ sở
đảng và các đoàn thể trong HTXNN để đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối với
mọi hoạt động của HTXNN.
Trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức thực hiện của chính quyền, các tổ
chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng tập trung các hội viên của mình để quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục, vận động các hội viên tích cực tham gia HTXNN kiểu mới, thanh
toán kịp thời các khoản phí dịch vụ, thực hiện hợp đồng cung cấp nông sản cho doanh
nghiệp, thảo luận và điều chỉnh định mức kinh tế - kỹ thuật các khâu dịch vụ khi có biến
động lớn về giá cả trên thị trường, giúp HTXNN hoạt động thuận lợi.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể quần
chúng đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và hoàn thiện HTXNN kiểu mới
trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian tới, nhu cầu phát triển của sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp đòi hỏi các HTXNN phải mở rộng các hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra, từng
bước đi vào sản xuất - kinh doanh, dịch vụ tổng hợp càng đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa
vai trò của Đảng và các đoàn thể quần chúng nhằm kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ các
HTXNN thích ứng với cơ chế thị trường và hỗ trợ một cách hiệu quả cho kinh tế nông hộ
và trang trại phát triển.
Kết luận chương 3
Từ tình hình chuyển đổi và phát triển HTXNN theo Luật HTX (1996) và Luật
HTX mới (2003), những ưu điểm và hạn chế cần khắc phục ở HTXNN kiểu mới theo Luật
HTX (2003) ở Thái Bình, quán triệt tinh thần nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật HTX năm 2003, trong
chương 3, luận văn đi vào trình bày mục tiêu, nhiệm vụ, các phương hướng và giải pháp
phát triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian tới.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta khẳng định, HTXNN kiểu mới hình thành và
phát triển trên nền tảng của kinh tế hộ nông dân, đi vào phát huy vai trò tự chủ, tiềm năng
to lớn, vị trí quan trọng, lâu dài của kinh tế hộ nông dân; hoạt động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; hướng vào thực hiện mục tiêu CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các HTXNN
kiểu mới trên địa bàn tỉnh hoạt động còn nhiều yếu kém, nhưng việc củng cố, phát triển và
nhân rộng mô hình HTXNN kiểu mới theo Luật HTX (2003) phải theo phương châm tích cực
nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, tuân thủ các nguyên
tắc HTX, đạt hiệu quả thiết thực; từng bước phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp,
kết hợp với chuyên môn hóa theo ngành,vùng; hoạt động ngày càng gắn kết với các thành
phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhà nước.
Quán triệt phương hướng phát triển HTXNN kiểu mới vào thực tế, thực hiện các
giải pháp phát triển và hoàn thiện HTXNN, một mặt, phải thúc đẩy kinh tế hộ nông dân
phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở
nông thôn để ra tạo cơ sở kinh tế cho HTXNN kiểu mới phát triển. Mặt khác, phải đi sâu
vào tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các ngành, các cấp, các chủ thể kinh tế về vị trí,
vai trò, tính tất yếu khách quan phải phát triển HTXNN kiểu mới trong tiến trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển đa dạng mô hình tổ chức và hoạt động của
HTXNN, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương; từng bước mở
rộng liên kết với các thành phần kinh tế trong dịch vụ tổng hợp cho hộ sản xuất kinh doanh
nông nghiệp; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng kinh doanh của HTXNN; đồng thời,
phải tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng nhằm tạo lập môi
trường pháp lý, kinh tế, cơ chế chính sách, tâm lý - xã hội cho HTX, tổng kết thực tiễn quá
trình phát triển HTXNN để nêu gương, nhân điển hình và phát triển các mô hình phù hợp
để giúp đỡ và tạo điều kiện cho HTXNN trong tỉnh phát triển.
Kết luận
Nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phát triển nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa và thực hiện đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tập thể, để
kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế đất
nước, đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển HTXNN kiểu mới cả về số lượng, chất
lượng, đồng thời đa dạng hóa các mô hình tổ chức và hoạt động của HTXNN.
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, thành lập và hoạt động theo Luật HTX được gọi
chung là HTXNN kiểu mới (để phân biệt với HTXNN trước đổi mới). HTXNN kiểu mới là
tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập, nhằm mục đích trợ giúp các
hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ, do lợi
thế về quy mô và chuyên môn hóa hoạt động. HTXNN ra đời dựa trên nền tảng kinh tế hộ
nông dân.
Là một bộ phận của kinh tế HTX, HTXNN kiểu mới vừa mang những đặc trưng và
ưu thế của mô hình HTX kiểu mới nói chung, vừa chịu sự chi phối của các đặc điểm riêng
trong lĩnh vực nông nghiệp cả về chủ thể kinh tế, đối tượng và điều kiện sản xuất, địa bàn hoạt
động; do đó, có sự khác nhau nhất định giữa HTXNN với HTX hoạt động ở các lĩnh vực
kinh tế khác về nhân tố tác động, đặc điểm tổ chức hoạt động, xu hướng vận động và vai
trò giúp đỡ của nhà nước. Đó là căn cứ lý luận cơ bản để xác định các phương hướng và
giải pháp phát triển, hoàn thiện các HTXNN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp còn
nhỏ lẻ, manh mún, mang nặng tính tự cung, tự cấp, đang trong quá trình chuyển sang sản
xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, hiện đại, từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; do
vậy, đòi hỏi phải thúc đẩy phát triển HTXNN kiểu mới để trở thành "bà đỡ" cho kinh tế
nông hộ và trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa.
Sau 5 năm chuyển đổi và phát triển theo Luật HTX (2000 - 2005), HTXNN ở Thái
Bình đã được chuyển đổi về cơ bản và có bước phát triển nhất định cả về số lượng và chất
lượng. Những kết quả và khởi sắc đó bước đầu đã tạo ra nhận thức mới trong đại bộ phận
nông dân và cán bộ về hình thức, nội dung và vai trò của mô hình HTXNN theo Luật HTX.
Chúng là tiền đề quan trọng, mở ra khả năng thực tế để xử lý vấn đề HTXNN hiện nay, tạo ra
hướng đi mới cho kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Tuy vậy, quá trình chuyển đổi và phát
triển HTXNN kiểu mới ở Thái Bình trong thời gian qua còn chậm, chưa tương xứng với yêu
cầu phát triển sức sản xuất; một bộ phận HTXNN chuyển đổi còn mang tính hình thức, chưa
có sự chuyển biến nhiều về nội dung hoạt động; nội lực của HTX còn yếu, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, dịch vụ thấp, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hộ xã viên và đòi hỏi của thị
trường. Thực trạng yếu kém trên có nguyên nhân từ trình độ phát triển thấp của lực lượng
sản xuất, nhưng phần quan trọng hơn là do những thiếu sót, khuyết điểm của các cấp ủy
Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương về công tác tuyên truyền, tổ chức
thực hiện chuyển đổi HTXNN theo Luật; sự thiếu đồng bộ, thiếu kịp thời về cơ chế, chính
sách; sự chậm trễ trong việc khắc phục những tồn tại do lịch sử để lại đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển của HTXNN kiểu mới.
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã xác định hệ thống các phương
hướng phát triển và hoàn thiện HTXNN trên địa bàn tỉnh, khẳng định nền tảng phát triển
của HTXNN kiểu mới là hộ nông dân, xác định vị trí, vai trò, đặc điểm về tổ chức hoạt
động và yêu cầu phát triển HTXNN kiểu mới trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn của tỉnh. Đồng thời, xây dựng hệ thống giải pháp có tính đồng bộ, hỗ trợ, tương
tác cho nhau; mỗi giải pháp có vị trí và tầm quan trọng riêng. Do vậy, trong quá trình tổ
chức thực hiện, tùy theo tình hình thực tế của mỗi loại hình HTXNN và trên từng địa bàn
cụ thể trong tỉnh mà có sự vận dụng phù hợp nhằm củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả
hoạt động của HTXNN kiểu mới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Kinh tế đối ngoại VCA (1995), Đại hội Liên minh hợp tác xã quốc tế lần thứ 31
tại Mandester - Anh.
2. Ban Kinh tế Trung ương (2005), "Báo cáo tham luận của các hợp tác xã và các huyện",
Tài liệu phục vụ: Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về phát
triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương (2005), "Phát triển kinh tế tập thể, Thực trạng và
giải pháp", Tài liệu tham khảo, (9).
5. Báo Quốc tế - Bộ ngoại giao (2003), Toàn cảnh kinh tế - xã hội Thái Bình, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Bích, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), Kinh tế hợp tác - hợp tác
xã ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Trinh Minh Châu (2003), "Nghĩ về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế hợp
tác, hợp tác xã trong lĩnh vực thương mại đến năm 2010", Thương mại, (13).
9. Chính phủ (1997), Nghị định 16/CP ngày 21/2 về chuyển đổi, đăng ký hợp tác xã và tổ
chức hoạt động của Liên hiệp hợp tác xã, Hà Nội.
10. Chính phủ (1997), Nghị định 43/CP ngày 29/4 về ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã
nông nghiệp, Hà Nội.
11. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2006), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 2005, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
12. Trần Ngọc Dũng (2003), "Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển của hợp tác xã",
Luật học, (1).
13. Hà Đăng (2004), Đi lên từ sản xuất nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam với phong trào hợp tác xã (2004), Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Nguyễn Đạt (2002), "Nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới các hợp tác xã nông
nghiệp ở Quảng Ninh", Tư tưởng văn hóa, (5).
19. Nguyễn Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
20. Lâm Quang Huyên (2004), Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Việt
Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2005), Báo cáo của Ban Chấp hành Liên minh Hợp
tác xã Việt Nam khóa II tại Đại hội đại biểu toàn quốc Liên minh Hợp tác xã Việt
Nam lần thứ ba, Hà Nội.
22. Luật hợp tác xã và văn bản hướng dẫn thi hành (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
23. Naoto Imagawa, Chu Thị Hảo (2003), Lý luận về hợp tác xã và quá trình phát triển hợp tác
xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
24. Nguyễn Huy Oánh (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể", Thông tin những vấn đề Kinh tế chính trị học, (4).
25. Nguyễn Huy Oánh (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể", Thông tin những vấn đề Kinh tế chính trị học, (5).
26. Vũ Văn Phúc (2002), "Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta", Lý luận chính trị, (1).
27. Vũ Văn Phúc (2002), "Quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta", Kinh tế
châu á - Thái Bình Dương, (5).
28. Vũ Văn Phúc (2005), Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
29. Quốc hội (1996), Luật hợp tác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản lý hợp tác xã
trong nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
31. Lương Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay - lý luận, thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Chu Hữu Quý, Nguyễn Kế Tuấn (2001), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2000), Hướng dẫn số 271/HD-NN
về chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình.
34. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2006), Báo cáo kết quả tổng điều
tra hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Thái Bình năm 2005, Thái Bình.
35. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Thái Bình (2006), Đề án đổi
mới công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2010, Thái Bình.
36. Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Võ Văn Tân (2005), Kinh tế tập thể trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
38. Lưu Văn Tiền (2000), Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở tỉnh Vĩnh
Long, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
39. Tỉnh ủy Thái Bình (2000), Nghị quyết số 11-NQ/TU về việc chuyển đổi hợp tác xã nông
nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình.
40. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ X
VI, Thái Bình.
41. Tỉnh ủy Thái Bình (2005), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Thái
Bình.
42. Tỉnh ủy Thái Bình (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ X
VII, Thái Bình.
43. Bùi Sỹ Trùy (2003), Nông nghiệp nông thôn Thái Bình - Thực trạng và giải pháp, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Tuất (2002), "Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
- nhìn từ thực tiễn", Khoa học về chính trị, (3).
45. Đỗ Thị Tuyết, Mai Văn Nam, Phước Minh Hiệp, Bùi Văn Trịnh (2002), "Phát triển
kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở tỉnh Cần Thơ", Nghiên cứu kinh tế, (7).
46. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Báo cáo kết quả thí điểm đổi mới nội dung
phương thức hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp và chuyển đổi hợp tác xã
nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái Bình.
47. ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2000), Quyết định số 944/QĐ-UB về việc ban hành
một số quy định về chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã, Thái
Bình.
48. Khánh Vân (2002), "Chính sách cho phát triển kinh tế hợp tác xã", Nghiên cứu lập
pháp, (10).
49. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2003), Kinh nghiệm hoạt động của một
số hợp tác xã sau sáu năm thực hiện Luật hợp tác xã ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
50. Hoàng Việt (2002), "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông
nghiệp", Tạp chí Cộng sản, (19).
51. Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (Chủ biên) (2005), Mô hình phát triển hợp tác xã
nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1 So sánh hợp tác xã nông nghiệp trước đổi mới và hợp tác xã
nông nghiệp kiểu mới
19
2.1 Trình độ cán bộ hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Bình, năm 2005 56
Danh mục các biểu đồ
Số hiệu
biểu đồ
Tên sơ đồ Trang
1.1 Mối quan hệ giữa HTXNN với xã viên và các tổ chức 20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở Thái Bình hiện nay (2).pdf