Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, đạo đức là cơ sở của việc xây
dựng và bảo vệ pháp luật, đồng thời nó cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng luôn
được xác định trên một nền tảng đạo đức nhất định, khi pháp luật không phù hợp với đạo
đức xã hội, sớm muộn nó cũng phải bị thay đổi cho phù hợp. Ngược lại, pháp luật cũng
có sự tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Nó ghi nhận, củng cố và phát huy những quan
niệm, quan điểm đạo đức của giai cấp thống trị, những quan niệm, quan điểm đạo đức
truyền thống tiến bộ, loại trừ những quan điểm đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, không phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, với lợi ích của cộng đồng dân tộc; nó góp phần
ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, nó góp phần hình thành những quan
niệm, quan điểm đạo đức mới.
101 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3063 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏi từ phía quần chúng nhân dân (Chủ
thể bị quản lý) trong việc nâng cao nhận thức, chủ động phối hợp thực hiện tốt mối quan
hệ này. Có như vậy việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN mới được triển khai
sâu rộng và hiệu quả trên thực tế, giúp cho lý luận kết hợp pháp luật và đạo đức không
trở thành lý thuyết, sách vở. Tuy nhiên việc kết hợp này phải được quán triệt trên cơ sở
một số quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, phải kết hợp chặt chẽ pháp luật và đạo đức trong QLNN ở giai đoạn hiện nay,
tập trung chú trọng vào giai đoạn xây dựng pháp luật. Khi đã có một hệ thống pháp luật đồng
bộ, phù hợp với đạo đức tiến bộ của nhân dân lao động, sẽ giúp cho quá trình thực hiện pháp
luật được thuận lợi nhanh chóng bằng sự tự giác, sự tự ý thức về vai trò của pháp luật đối với
đời sống xã hội; quá trình bảo vệ pháp luật cũng sẽ nghiêm minh trên cơ sở ủng hộ, giúp sức
từ phía quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật.
Hai là, coi trọng thể chế hóa đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức cách mạng
trong xây dựng pháp luật XHCN.
Pháp luật XHCN phải được xây dựng phù hợp với lợi ích thống nhất của nhân dân lao
động, phải được kế thừa trên nền tảng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo đức
cách mạng, đồng thời có sự tiếp thu tinh hoa nhân loại trong kỹ thuật lập pháp. Trong điều kiện
xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN, chúng ta tiến tới QLNN bằng pháp luật, lấy pháp luật
làm chuẩn mực cao nhất cho xử sự của con người, vì vậy mà các giá trị đạo đức tốt đẹp phải có
được vị trí tồn tại hợp pháp, đó chính là việc chúng ta đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thể chế
hóa các giá trị đạo đức thành các chuẩn mực xử sự chung mang tính bắt buộc cho mọi người.
Ba là, cán bộ, công chức phải coi trọng trách nhiệm pháp lý đi đôi với đề cao đạo
đức công vụ.
Trong hoạt động quản lý, cán bộ công chức là chủ thể được nhà nước giao quyền
QLNN thông qua hoạt động công vụ của mình. Chính vì vậy, đây trở thành đối tượng đầu
tiên và trước hết phải nhận thức được yêu cầu cũng như ý nghĩa của việc kết hợp pháp luật
và đạo đức trong QLNN. Cán bộ, công chức phải là người am hiểu pháp luật, gương mẫu
chấp hành pháp luật, có trách nhiệm cao, hoạt động trước hết vì lợi ích cộng đồng, thực thi
nhiệm vụ trong phạm vi quyền hạn đã được phân cấp. Song song với đó là nâng cao đạo đức
công vụ, lấy tinh thần trách nhiệm trong công việc, sự tận tụy, tận tâm phục vụ nhân dân, giữ
vững bản lĩnh chính trị, chiến thắng mọi cám dỗ về vật chất và tinh thần, dám đương đầu với
khó khăn thách thức… làm thước đo đạo đức công vụ.
Bốn là, phải coi trọng việc giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức công
dân.
Kết hợp giáo dục pháp luật và đạo đức công dân là công việc hết sức quan trọng, là
nền móng cho hoạt động kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN, bởi nhận thức có
thông thì hành động mới trúng. Việc kết hợp giáo dục này thúc đẩy quá trình hình thành
và phát triển nhân cách công dân trong vai trò là chủ thể quyền lực nhà nước. Người công
dân trong nhà nước Pháp quyền XHCN là chủ thể của quyền lực chính trị, từ vị trí này đòi
hỏi mỗi công dân phải nắm vững và vận dụng pháp luật một cách chính xác, nêu cao trách
nhiệm cá nhân trước cộng đồng. Đồng thời đây cũng là quá trình giúp người dân bảo tồn và
phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa của người Việt
trong điều kiện mở cửa, giao lưu và hội nhập. Do đó coi trọng giáo dục pháp luật phải được
tiến hành song song với công việc giáo dục đạo đức, bổn phận công dân, có như vậy pháp
luật và đạo đức mới có điều kiện phát huy sức mạnh của mình với tư cách là hai công cụ
cơ bản để QLNN.
Trên cơ sở những quan điểm mang tính chất chỉ đạo trên, tác giả luận văn mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN ở Việt
Nam như sau:
2.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật, của đạo đức cũng
như ý nghĩa của sự kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước
Trong QLNN, pháp luật và đạo đức là những công cụ được sử dụng nhiều nhất bởi
tính ưu việt nổi trội của chúng khi tham gia vào điều chỉnh các QHXH. Pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành, là kết quả của quá trình tư duy
mang tính khách quan, khoa học trong việc định hướng và điều chỉnh các QHXH phát
triển theo ý chí chủ quan của giai cấp cầm quyền. Với sức mạnh bảo hộ của nhà nước,
pháp luật có khả năng buộc các đối tượng thực hiện các quy tắc xử sự bằng sự tự giác, tự
nguyện hoặc mạnh hơn là sự cưỡng chế của nhà nước với một hệ thống cơ quan làm
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật.
Đạo đức chủ yếu hình thành bằng con đường tự phát, do nhu cầu đòi hỏi, tự điều
chỉnh của đời sống xã hội. Nó là quá trình tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, là
những quan điểm, quan niệm về cái đẹp, tình yêu, công bằng, về lẽ sống ở đời, đối nhân
xử thế... Bởi vậy đó cũng chính là ý chí, nguyện vọng của đông đảo quần chúng và nhân
dân lao động trong xã hội nên nó có thể tham gia điều chỉnh mọi mối quan hệ trong xã
hội với cơ chế tác động từ bên trong con người. Tuy nhiên, khác với pháp luật, đạo đức
không có sự đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước mà chỉ thông qua sự phán xét
của lương tâm, của dư luận xã hội nên trong một số trường hợp hiệu quả điều chỉnh bằng
đạo đức lại không được mau lẹ trên một diện rộng như hiệu quả điều chỉnh bằng pháp
luật.
Thực tế cho thấy, trong QLNN không thể dùng pháp luật thay thế cho đạo đức
hoặc đạo đức thay thế cho pháp luật. Nếu con người chỉ sống có tình với nhau theo
phương châm “chín bỏ làm mười”, “bán anh em xa mua láng giềng gần” mà quên rằng
trong xã hội còn có bọn trộm cướp, lừa đảo, cửa quyền... thì tình nghĩa chỉ là sợi dây trói
người trung thực và mở cửa cho nhân cách xấu xuất hiện. Ngược lại, nếu xã hội nhất cử,
nhất động đều được quy chuẩn theo luật thì con người sẽ trở thành cỗ máy [11, tr.91].
Hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó là
kiểu nhà nước đề cao pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên như phần trên
đã phân tích, ta thấy pháp luật không thể điều chỉnh được tất cả các QHXH cũng như
không thể điều chỉnh được mọi khía cạnh, mọi mức độ của các quan hệ đó. Sự điều chỉnh
bằng pháp luật các quan hệ không phải khi nào cũng đem lại kết quả như mong muốn.
Hiệu quả điều chỉnh bằng pháp luật các QHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải
kể đến sự phù hợp giữa QPPL và QHXH mà nó điều chỉnh, sự hoàn thiện của hoạt động
áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật của nhân dân, trình độ dân trí...Chính vì vậy, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay phải quan tâm đến mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật, phải nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiết thực của việc kết hợp pháp luật
và đạo đức trong QLNN ở một quốc gia có nền văn hóa phát triển lâu đời. Trong các hoạt
động của QLNN như xây dựng pháp luật, thực hiện và bảo vệ pháp luật phải nhận thức rõ
vai trò, tác dụng, ưu thế cũng như hạn chế của pháp luật và đạo đức để tùy từng đối
tượng, từng bối cảnh có thể sử dụng chúng một cách có hiệu quả nhất. Nhiệm vụ nâng
cao nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật, của đạo đức, về ý nghĩa của việc kết hợp
pháp luật và đạo đức trước hết phải được thực hiện đối với đội ngũ cán bộ, công chức.
Thông qua hoạt động cụ thể của đối tượng này sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức của
quần chúng nhân dân, từ đó mà hình thành các cách xử sự phù hợp với yêu cầu chung của
xã hội.
Giữa pháp luật và đạo đức có mối liên hệ tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau,
nhận thức được mối quan hệ hữu cơ này mới nhất quán được quan điểm quản lý xã hội bằng
pháp luật nhưng phải coi trọng đạo đức, kết hợp chặt chẽ với đạo đức. “Đạo đức là gốc của pháp
lý, pháp lý là chuẩn của đạo đức” [10, tr.25], mọi lòng tốt đều phải tuân thủ công lý nghĩa là
đạo đức tuy phổ quát nhưng phải dựa trên cơ sở hệ chuẩn mực đúng - sai của pháp luật. Pháp
luật phải được xây dựng phù hợp với các quan niệm, quan điểm thực tiễn, đạo đức truyền
thống, đạo đức cách mạng, đạo đức tiến bộ của xã hội nhằm giữ gìn và và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.
Để tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng
của hoạt động kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN cần phải tiến hành những hoạt
động cụ thể sau:
Một là, phải đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học về vấn đề kết hợp pháp luật và
đạo đức trong QLNN mà trước hết là nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
của phương thức kết hợp này trong đường lối trị nước của các triều đại phong kiến Việt
Nam, đặc biệt là các triều đại phong kiến Trung Quốc, đây là cái nôi của hai học thuyết
chính trị Đức trị và Pháp trị nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam cũng như các
nước khác trong khu vực. Nghiên cứu, tìm hiểu tưởng Hồ Chí Minh về phương thức kết
hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội qua hoạt động thực tiễn của Người. Đây là
một nhân chứng lịch sử sinh động, thiết thực và gắn chặt với thời đại của chúng ta, từ đó
hình thành một hệ thống quan điểm khoa học toàn diện về đạo đức, về pháp luật, về sự
kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong QLNN, đưa chúng vào nội dung các sách giáo
khoa chính thức, các tài liệu tập huấn, giảng dạy chuyên ngành, các sách vở, tài liệu
tuyên truyền có liên quan. Việc này cũng đòi hỏi gắn liền với việc đầu tư nhân lực, trong
đó trước hết phải huy động các nhà khoa học xã hội, khoa học pháp lý, các trung tâm
khoa học pháp lý hàng đầu tham gia. Ngoài ra cũng cần phải nghiên cứu và bổ sung nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội, trong đó có nội dung kết hợp pháp luật và đạo
đức với tính cách là phương thức quản lý thành một phần độc lập trong giáo trình của bộ
môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Có như vậy mới thực sự đưa nó lên ngang tầm với yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới hiện nay do tính thực tiễn của nó.
Hai là, cần đào tạo chuyên sâu đội ngũ giáo viên, tuyên truyền viên nắm vững kiến
thức khoa học pháp lý, thấm nhuần sâu sắc các giá trị đạo đức truyền thống tiến bộ của
dân tộc và đặc biệt có nhận thức khách quan, khoa học về mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức, cũng như ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc kết hợp các công cụ quản lý
xã hội này.
Ba là, cần từng bước chuyển hóa nội dung kết hợp pháp luật và đạo đức trong
QLNN thành những nguyên tắc chỉ đạo quá trình QLNN, thành nội dung những quy định
về hoạt động công vụ và thành những tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên cụ thể. Đó là đưa các
giá trị của đạo đức luật hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật trên cơ sở
trước tiên là giáo dục, thuyết phục, chính những việc này sẽ tạo ra một thực tiễn sinh
động trên các lĩnh vực của quản lý xã hội, là điều kiện quan trọng để nội dung tư tưởng
kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN không có nguy cơ trở thành lý thuyết suông.
2.2.2. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với củng cố và
phát triển các giá trị đạo đức tiến bộ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Để kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN nhằm đạt hiệu quả cao nhất thì ngoài
điều kiện về chủ thể áp dụng (tức là quá trình nhận thức đúng đắn về sự kết hợp pháp luật và
đạo đức của nhà nước và xã hội) còn phải có điều kiện về hệ thống pháp luật đồng bộ, hệ
thống các các chẩn mực đạo đức tiến bộ, nhân văn. Đây là những điều kiện cần và đủ mà
thiếu một trong hai yếu tố thì quá trình kết hợp pháp luật và đạo đức chỉ là lý thuyết. Thực tế
cho thấy không thể có sự kết hợp pháp luật và đạo đức hoàn hảo nếu như bản thân hệ thống
pháp luật ấy còn chồng chéo, chắp vá, còn thiếu những văn bản cần thiết nhưng lại thừa
những văn bản mà sau khi ban hành không đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội, nhanh chóng bị
lãng quên sự tồn tại của nó trong hệ thống pháp luật quốc gia. Còn bản thân các giá trị đạo
đức thì lạc hậu, trì trệ, cản trở quá trình đổi mới tư duy và hành động hoặc là sự xô bồ, pha
tạp của nhiều luồng văn hóa, tư tưởng mà trong đó cái tốt chưa đủ sức chiến thắng, lấn át cái
xấu để tìm cho mình một vị trí tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu đã có hệ thống pháp luật
và đạo đức hoàn thiện, đầy đủ, song phía các chủ thể tiến hành hoạt động QLNN lại thờ ơ
với sự kết hợp pháp luật và đạo đức thì pháp luật và đạo đức không thể hỗ trợ cho nhau phát
huy hiệu quả trong điều chỉnh các quản lý xã hội. Vậy để khắc phục tình trạng trên, chúng ta
phải bắt đầu từ những hoạt động gì?
Thứ nhất, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nói đến NNPQ là đề cập
tới sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá
trị phổ biến. Về mặt hình thức pháp lý, NNPQ phải đảm bảo sự ngự trị của pháp luật, sự
ràng buộc của pháp luật đối với nhà nước, xã hội và mọi công dân. Về mặt nội dung pháp
lý, pháp luật phải mang tính pháp quyền, đảm bảo yêu cầu khách quan, thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội. Từ cơ sở lý luận trên cho thấy xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nội dung
yêu cầu không thể tách rời trong quá trình xây dựng NNPQ. Quá trình đó phải đáp ứng
những yêu cầu cơ bản sau đây:
- Nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật suy cho cùng là việc hoàn thiện các QPPL, các chế
định luật, các ngành luật. Trong điều kiện xây dựng NNPQ hiện nay của Việt Nam, điều
cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo để Hiến
pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao trong đời sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền XHCN không thể là sản phẩm tùy tiện, tự do duy ý chí của Nhà nước
và các nhà làm luật mà ngược lại Hiến pháp và pháp luật phải phù hợp với bản chất khách
quan của các QHXH, ý chí của toàn dân và các nguyên tắc pháp chế XHCN.
Tuy nhiên nâng cao chất lượng hệ thống văn bản QPPL còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: Trước hết phải hoàn thiện và tăng cường công tác hoạch định đường lối, chính
sách lãnh đạo của Đảng sao cho nội dung của đường lối, chính sách của Đảng phải phản
ánh đầy đủ và khách quan quy luật tồn tại và phát triển của các QHXH cần được điều
chỉnh bằng pháp luật; nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội, hoạt động lập quy của
Chính phủ và của các cơ quan nhà nước khác; Hiến pháp và pháp luật phải được thông
qua theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ, dân chủ và khoa học.
- Đảm bảo tính thống nhất của hệ thống các văn bản QPPL. Hệ thống này phải
được sắp xếp theo thứ bậc chặt chẽ, trong đó Hiến pháp là tối cao, là đạo luật có hiệu lực
pháp lý cao nhất. Các quy định của Hiến pháp là nguồn, làm căn cứ cho tất cả các văn bản
pháp luật khác. Các đạo luật và văn bản của cấp dưới không được trái, không được mâu
thuẫn với các quy định của Hiến pháp.
Việc ban hành các văn bản QPPL trong điều kiện xây dựng NNPQ cũng phải
mang tính pháp quyền, tức là phải phản ánh một cách khách quan các QHXH cần phải
được điều chỉnh bằng pháp luật. Muốn vậy việc ban hành các các văn bản QPPL phải
tuân thủ một cách nghiêm chỉnh quy trình làm luật chặt chẽ, khách quan, dân chủ.
Để thực hiện nhiệm vụ trên đây trước hết phải có một chiến lược xây dựng pháp
luật thật sự khoa học, phù hợp với các điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, trên
cơ sở kế thừa các giá trị tinh hoa của đạo đức dân tộc, đồng thời theo kịp xu thế xây dựng
pháp luật của quốc tế, nâng cao năng lực lập pháp và chất lượng hoạt động lập pháp của
Quốc hội.
Thứ hai, phải giữ gìn và phát huy các quan niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, định hướng hình thành các giá trị đạo
đức cách mạng, đạo đức cán bộ trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Đồng thời thể chế các giá trị đạo đức này vào trong quá trình xây dựng pháp luật.
Mặc dù đạo đức chủ yếu hình thành bằng con đường tự phát trong đời sống xã hội
nhưng không phải vì thế mà bỏ qua những chuẩn mực đạo đức tiến bộ. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới phù
hợp với từng giới, từng ngành, từng lứa tuổi... Đây là một kinh nghiệm rất quý báu cho
chúng ta trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức mới. Trong điều kiện ngày nay, cần
hết sức chú trọng công tác xây dựng đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công chức. Chúng ta
có thể tìm thấy rất nhiều quy định về tiêu chuẩn cán bộ, công chức được cụ thể hóa trong
các văn bản QPPL theo hướng phù hợp với tình hình mới và ngày càng cụ thể xác thực,
như các quy định về đạo đức, phẩm chất, tư cách của người cán bộ công chức trong các
Pháp lệnh cán bộ, công chức, Luật chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, Luật khiếu nại, tố cáo... Một số ngành đã có những quy định về đạo đức cán bộ,
công chức như quy định y đức của Bộ y tế, Công an nhân dân thực hiện 6 điều Bác Hồ
dạy...
Tuy nhiên, sự quy định các chuẩn mực đạo đức cán bộ công chức còn lẻ tẻ, chưa
liên kết thành một hệ thống chuẩn mực đạo đức chung cho toàn thể đội ngũ cán bộ công
chức. Đã đến lúc cần xây dựng những chuẩn mực đạo đức, văn hóa đối với con người
Việt Nam nói chung, đối với cán bộ công chức Việt Nam nói riêng với nội dung ngắn
gọn, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, chặt chẽ mà sinh động để mọi người dù học vấn cao, thấp
đều có thể thấm nhuần. Đạo đức không phải là những giá trị cao xa, từ trên trời rơi
xuống, nó chính là những chuẩn mực ứng xử trong công tác, trong sinh hoạt, học tập của
mỗi người, nó là tiêu chí để con người hướng tới sống tốt hơn, thoải mái hơn, an toàn
hơn. Bảng các giá trị đạo đức này nên được trình bày một cách trang trọng, lịch sự nhưng
giản dị không phô trương sặc sỡ, đặt ở vị trí thích hợp nơi công cộng để mọi người đều
dễ dàng nắm bắt và thực hiện tốt [40, tr.272]. Trên cơ sở đó mà tùy đối tượng, ngành
nghề, lứa tuổi có sự cụ thể hóa cho riêng mình sao cho phù hợp.
ở vấn đề này chúng ta có thể tham khảo học tập kinh nghiệm xây dựng tiêu chuẩn
đạo đức công vụ Thái Lan [8, tr.187-195]. Đó là việc văn phòng ủy ban công vụ của
Chính phủ Thái Lan đã tập hợp và biên soạn một cuốn sách gồm 4 chương, trong đó quy
định về những giá trị đạo đức cốt lõi cho công chức áp dụng vào công việc hàng ngày,
những giá trị này được lấy ra từ các bài giảng đạo, những chuẩn mực xã hội, những
nguyên tắc dân chủ và đạo đức nghề nghiệp. Nội dung của chúng bao gồm việc quy định
đạo đức cá nhân, đạo đức trong cơ quan, đạo đức trong mối quan hệ với đồng nghiệp, với
cấp trên và cấp dưới và đạo đức đối với công chúng và xã hội.
Sau khi soạn thảo ban hành, "Tiêu chuẩn đạo đức công vụ Thái Lan" này được
tuyên truyền sâu rộng tới công chúng bằng nhiều phương tiện khác nhau. Khi những giá
trị này được thấm nhuần trong xã hội, công luận sẽ được coi là một áp lực tốt để công
chức tự trau dồi đạo đức, tự hoàn thiện mình để thực hiện tốt hơn. Hiện nay tại Thái Lan
và khoảng 40 Cục, cơ quan đánh giá, cập nhật và đưa vào sử dụng quy chế này.
Đối với Việt Nam hiện nay, trong khi chúng ta chưa có điều kiện để xây dựng một
hệ thống hoàn thiện các giá trị đạo đức cơ bản, cốt lõi của dân tộc, các giá trị đạo đức của
công chức dưới một hình thức văn bản pháp lý nhất định thì thiết nghĩ chúng ta cần phải
thực hiện một số biện pháp nâng cao đạo đức công vụ như sau:
+ Loại giải pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu
dưỡng của cán bộ công chức. Khuyến khích, tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ
nhân dân, đất nước, sự nghiệp chung, vì mọi người của cán bộ công chức. Trong nền kinh
tế thị trường càng phải đề cao loại giải pháp này, coi trọng giá trị đạo đức, không vụ lợi,
ích kỷ. Thực hiện loại giải pháp này cần tăng cường công tác giáo dục, có sự khen
thưởng, tôn vinh những người làm công việc tốt, phục vụ tận tụy và có hiệu quả công vụ
cao.
+ Loại giải pháp đổi mới hoàn thiện cơ chế để cán bộ, công chức có điều kiện phát
huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân. Cụ thể là làm rõ chức năng,
nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức, từng cá nhân cán bộ, công chức phù hợp với sự quản lý
và phục vụ trong thời kỳ mới. Phải cải cách, tạo mô hình mới về tổ chức và hoạt động
hợp lý của bộ máy hành chính nhà nước, tạo cơ chế để cán bộ, công chức có điều kiện
làm tốt, cống hiến và phát huy hết năng lực của mình.
+ Loại giải pháp về đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ công chức như: Cải
cách tiền lương đảm bảo cho cán bộ công chức không phải tìm việc kiếm sống thêm, hạn
chế tham nhũng, sách nhiễu. Chế độ tiền thưởng, tiền lương phải phản ánh đúng giá trị
cống hiến, lao động của cán bộ công chức, tạo cho họ động lực mạnh mẽ khi thực hiện
công vụ của mình.
+ Loại giải pháp về hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ công chức, giám sát, ngăn
ngừa và xử phạt vi phạm đạo đức công vụ. Loại giải pháp này đòi hỏi phải có quy định rõ, cụ
thể các hành vi cán bộ, công chức không được làm, có chế tài đối với các hành vi vi phạm
đạo đức. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công vụ, tăng cường kỷ luật, chống tham nhũng,
quan liêu. Xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, kể cả truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động
công vụ. Hoàn thiện và thực hiện tốt quyền dân chủ, đặc biệt là quyền dân chủ cơ sở để
dân thực hiện tốt quyền trực tiếp và gián tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của
cán bộ, công chức.
Hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại
cán bộ, công chức của từng cấp, từng ngành, từng cá nhân đứng đầu để rõ quyền hạn,
trách nhiệm trong quản lý và chịu trách nhiệm đối với hoạt động công vụ của cán bộ,
công chức thuộc quyền.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế về đạo đức công vụ, có các quy định cụ thể, đầy đủ
về tiêu chuẩn đạo đức cho từng đối tượng cán bộ, công chức như: Đạo đức công chức
hành chính, đạo đức nghề nghiệp thầy giáo, thầy thuốc, đạo đức khoa học, đạo đức cán
bộ tư pháp .... Trên cơ sở đó hình thành dần, hoàn thiện dần thể chế đạo đức công vụ để
có thể xây dựng Luật đạo đức công chức, công vụ trong khoảng thời gian sắp tới.
2.2.3. Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong gia đình, nhà trường,
xã hội
Giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức là là sự tác động tới nhận thức của con người
nhằm trang bị cho mỗi người kiến thức pháp luật, tri thức đạo đức nhất định, để từ đó họ
ý thức được yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước và xã hội và tự giác xử sự theo yêu cầu, đòi
hỏi đó. Giáo dục đạo đức, pháp luật cho các tầng lớp dân cư trong xã hội là vấn đề cực kỳ
quan trọng, đặc biệt là đối với đội ngũ cá nhân làm công tác quản lý-chủ thể của hoạt
động QLNN.
Con người ta sinh ra không phải "bản tính thiện" hay "bản tính ác" mà như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói "Thiện ác đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên"
[21, tr.31]. Chỉ trên cơ sở thấm nhuần các quan niệm, quan điểm đạo đức, nắm vững các
quy định của pháp luật thì mới có cơ sở cho việc thực hiện chúng một cách đúng đắn trên
thực tế.
Việc giáo dục pháp luật, đạo đức được tiến hành cho các đối tượng phải đạt được
những mục đích cụ thể sau đây:
Thứ nhất, giáo dục pháp luật, đạo đức phải nhằm hình thành sâu sắc và mở rộng
hệ thống tri thức về pháp luật, về các giá trị, chuẩn mực về đạo làm người, về đối nhân
xử thế (mục đích nhận thức).
Thứ hai, giáo dục pháp luật, đạo đức phải nhằm hình thành tình cảm, lòng tin với
pháp luật, với các giá trị đạo đức của dân tộc (mục đích cảm xúc).
Thứ ba, giáo dục pháp luật, đạo đức nhằm hình thành ở mỗi con người những
động cơ, hành vi và thói quen xử sự hợp pháp, tích cực trong cuộc sống (mục đích hành
động).
Để đạt được cả ba mục đích trên, công tác giáo dục pháp luật, đạo đức phải thực
hiện những nội dung cơ bản sau:
* Về nội dung giáo dục: Đối với pháp luật, cần phải hình thành ở mỗi con người
sự hiểu biết những nội dung cơ bản của pháp luật, thái độ tôn trọng, sống và làm việc theo
pháp luật, có ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời không xâm
phạm đến quyền và lợi ích người khác, bảo đảm quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích
cộng đồng, lợi ích chung xã hội.
Đối với đạo đức: Phải giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống tiêu biểu của
dân tộc, phản đón bắt kịp thời những giá trị đạo đức tinh hoa của nhân loại, nhưng cao
hơn hết là xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức XHCN. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) hai nhóm hệ thống giá trị đạo đức thời
nay gồm có:
Những giá trị chung, lý tưởng nhân đạo, chính sách nhân đạo, lối sống
nhân đạo, vẻ đẹp tâm hồn, hòa bình - hòa hợp, bình đẳng - công lý, nhân
quyền, dân quyền", còn những giá trị riêng là: "Lòng nhân ái, lòng vị tha, yêu
thiên nhiên, thận trọng, sáng tạo, công bằng, sòng phẳng, tự giác, tự trọng ...
[35, tr.258].
Muốn vậy công tác giáo dục pháp luật, đạo đức cần phải được tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục trong gia đình, trường học, trong cơ quan Nhà nước hay ngoài
cộng đồng dân cư.
Một mặt, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp
luật, mặt khác cần chú trọng việc giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
đối tượng thanh thiếu niên. Cần đem đến cho họ những hiểu biết về các quan niệm đạo
đức tốt đẹp của dân tộc, cần làm hình thành ở họ niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm.
Qua đó tạo nên trong mỗi người phẩm chất, nhân cách tốt đẹp của con người. Bên cạnh
đó cần có sự phê phán mạnh mẽ để từng bước đi tới loại bỏ các yếu tố lạc hậu trong các
quan niệm, quan điểm đạo đức của dân tộc. Đồng thời có thái độ đúng đắn trong việc tiếp
thu các giá trị đạo đức tiến bộ trong kho tàng văn minh nhân loại.
Trong công tác này, cần chú ý từng đối tượng mà nhấn mạnh yếu tố đạo đức hay
yếu tố pháp luật. Đối với độ tuổi mầm non, tiểu học và bậc học phổ thông cần chú ý giáo
dục luân lý, gia phong, giáo dục cho các em nghĩa vụ, bổn phận của đạo làm con, làm
em, làm học trò .... đối với thanh niên cần chú trọng giáo dục tư tưởng đạo đức cách
mạng, tư cách công dân, đối với cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước trước tiên phải
nhấn mạnh thái độ tôn trọng pháp luật, tinh thần sống làm việc theo pháp luật, làm đúng
chức trách của mình và đồng thời coi trọng giáo dục, tuyên truyền đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh.
* Về hình thức giáo dục, tuyên truyền: Giáo dục pháp luật và đạo đức là việc làm
không đơn giản, đòi hỏi phải kiên nhẫn, bền bỉ, đó là một quá trình lâu dài nhằm tác động
vào tư duy, tình cảm để rồi có sự "chuyển hóa" thành các hành vi, lối ứng xử khác nhau
của các chủ thể trong cuộc sống. Chính vì vậy việc giáo dục pháp luật, đạo đức cần phải
tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau, song có thể kể đến ba hình thức chủ yếu cơ
bản sau đây:
- Giảng dạy pháp luật và đạo đức: Là hình thức giáo dục pháp luật, đạo đức cơ
bản. Nó đem lại những kiến thức căn bản và sâu rộng về pháp luật và đạo đức. Đây là
hình thức giáo dục pháp luật, đạo đức tốt nhất do không chỉ tạo điều kiện cho việc thực
hiện các quy tắc xử của pháp luật, của đạo đức mà còn giúp cho việc kiểm tra sự nhận
thức đúng đắn về pháp luật và các giá trị đạo đức của các chủ thể thực hiện. Mặt khác
những kiến thức sâu rộng và vững chắc về pháp luật, về đạo đức do hình thức này mang
lại là cơ sở tốt nhất cho việc tuyên truyền rộng rãi các giá trị pháp luật, đạo đức trong các
tầng lớp dân cư. Tuy nhiên hình thức giáo dục này có nhược điểm là không đại chúng khi
được triển khai sâu rộng trong nhân dân.
- Tuyên truyền pháp luật, đạo đức cho nhân dân: Với hình thức này tuyên truyền
pháp luật, đạo đức có thể được thực hiện thông qua việc đóng góp ý kiến xây dựng luật,
xây dựng các hương ước, quy ước làng xã, xây dựng nội quy, quy chế sinh hoạt ở cơ
quan; qua các phương tiện thông tin đại chúng; qua các hình thức sân khấu hóa; qua hoạt
động tư vấn và trợ giúp pháp lý; qua các phiên tòa xét xử lưu động ... Đặc điểm của hoạt
động tuyên truyền này là nó theo sát đời sống thực tế, gắn bó với nguyện vọng của đông
đảo các tầng lớp nhân dân, giúp nhân dân thực hiện quyền dân chủ, đồng thời thực hiện
sự giám sát của nhân dân, chống sự lạm dụng, cục bộ, phiến diện trong công tác xây dựng
luật pháp. Nó cũng là phương thức hiệu quả nhất để chuyển tải các giá trị đạo đức thành
giá trị pháp luật, làm cho văn bản pháp luật nhanh chóng đi vào đời sống sau khi ban
hành.
- Giáo dục pháp luật, đạo đức còn được thực hiện thông qua thực tiễn thực hiện
pháp luật và đạo đức.
Dưới góc độ tâm lý, những tri thức pháp luật được tiếp thu dưới hình thức này có
khả năng cao cho việc hình thành thói quen xử sự tuân theo pháp luật như một nếp sống.
Then chốt trong hình thức giáo dục pháp luật này là sự gương mẫu của cán bộ, công
chức, trong việc chấp hành cũng như trong việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật.
Hình ảnh đọng lại trong tâm lý pháp lý của người dân về xử sự của những cán bộ này
trực tiếp "vun đắp" hoặc ngược lại, làm "xói mòn" giá trị của pháp luật, làm méo mó hình
ảnh của NNPQ. Đối với đạo đức, bên cạnh các hình thức nêu trên thì đây là hình thức
giáo dục có hiệu quả nhất bởi đạo đức luôn được tiếp nhận từ trong nội tâm ra. Đối với
đạo đức "Học thầy không tày học bạn" là có tác dụng hơn cả. Chính các tấm gương đạo
đức mẫu mực, trong sáng, trung thực, thủy chung có giá trị giáo dục nhanh chóng và
mạnh mẽ hơn là những quy định pháp luật khô cứng.
Cần lưu ý là, giáo dục pháp luật và đạo đức trong tình hình hiện nay đòi hỏi nội
dung của nó phải gắn liền với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật, về sự kết
hợp giữa pháp luật và đạo đức. Không có thứ đạo đức và pháp luật chung chung, chỉ có
đạo đức và pháp luật phù hợp với chế độ chính trị của ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và pháp luật là sự đáp ứng tốt nhất cho yêu cầu đó trong hoàn cảnh đất nước có nhiều
chuyển biến căn bản, có tính chất bước ngoặt như hiện nay.
Bên cạnh đó, dù được tiến hành giáo dục pháp luật, đạo đức dưới loại hình nào, thì
cũng phải chú trọng đến chủ thể tiến hành giáo dục. Họ phải là những người có phẩm
chất đạo đức tốt, trong sáng, mẫu mực cho người khác noi theo. Không thể tuyên truyền
đạt hiệu quả khi chính người có quyền "rao giảng" đạo đức, pháp luật lại không nắm vững
pháp luật, bản thân và gia đình có hành VPPL, có lối sống xa hoa, ích kỷ, thực dụng, đi ngược
lại với "luân thường, đạo lý". Trong trường hợp này công tác giáo dục pháp luật, đạo đức sẽ
mang hiệu quả phản tác dụng.
* Về công tác tổ chức phối kết hợp: Công tác giáo dục pháp luật, đạo đức, cần có
sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các thiết chế khác trong xã hội.
Gia đình có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giáo dục pháp luật và đạo đức.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của con
người, muốn có những con người tốt thì gia đình phải hòa thuận, yên ấm, các thành viên
trong đó phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, gia đình có yên thì quốc gia mới thịnh vượng.
Vì vậy cần phải nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, hình thành
nhân cách con người, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành
mạnh của xã hội. Cha mẹ, ông bà phải thực sự là những tấm gương sáng cho con cháu
noi theo. Đây cũng chính là lý do tại sao trong Luật hôn nhân gia đình (2000), quan điểm
chủ đạo của Nhà nước khi xây dựng mô hình gia đình lại quay trở về với mô hình gia
đình truyền thống đa thế hệ thay cho mô hình gia đình hạt nhân như trong Luật hôn nhân
gia đình (1986). Đây là mô hình lý tưởng cho các thành viên trong gia đình có điều kiện
chăm sóc yêu thương và dạy bảo lẫn nhau.
Nhà trường là một thiết chế rất quan trọng trong công tác giáo dục, đạo đức, pháp
luật, bởi nó thực hiện đồng thời các chức năng: Dạy chữ, dạy nghề và dạy người. Sau gia
đình và đồng thời với gia đình, nhà trường là nơi giúp cho con người hình thành nhân
cách lối sống. Vì vậy, trong nhà trường phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức
trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, coi trọng công tác giáo dục, truyền thống lịch sử của dân
tộc. Khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" cần phải được thực hiện một cách triệt để trong
các môn ở học đường. Công tác giáo dục pháp luật trong các trường học cần phải được
chú trọng hơn. Nội dung chương trình phải phù hợp với từng cấp học, từng đối tượng
khác nhau.
Các thiết chế xã hội khác, đặc biệt là tổ chức Đảng Cộng sản, Đoàn thanh niên,
Công đoàn, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Đội thiếu
niên tiền phong... cũng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục pháp luật, đạo đức đối
với các thành viên, hội viên trong tổ chức đó nói riêng, các thành viên trong xã hội nói
chung.
Ngoài ra, cũng cần phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của các tôn
giáo, vận động các tổ chức tôn giáo tham gia tuyên truyền giáo dục pháp luật và đạo đức
trong giáo dân.
Như vậy, giáo dục pháp luật, đạo đức cho công dân là một việc làm quan trọng có
ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta hiện
nay. Thực hiện công tác này tốt chính là việc làm có hiệu quả để kết hợp pháp luật và đạo
đức trong QLNN. Tuy nhiên phải nhận thức rõ rằng: Đây là một quá trình lâu dài, khó
khăn, trách nhiệm giáo dục pháp luật, đạo đức không chỉ thuộc về Nhà nước, các tổ chức
xã hội mà trong đó phải phát huy vai trò nỗ lực của các cá nhân trong việc tự giáo dục
nâng cao hiểu biết pháp luật, hoàn thiện nhân cách sống của mình. Có như vậy hiệu quả
của công tác giáo dục mới thực sự có ý nghĩa lan rộng và bền vững.
2.2.4. Xử lý vi phạm pháp luật phải gắn liền với việc củng cố các giá trị đạo
đức truyền thống và các giá trị đạo đức mới xã hội chủ nghĩa .
Đấu tranh chống VPPL là một hoạt động trong quá trình xây dựng NNPQ, đồng
thời cũng là một khâu quan trọng trong quá trình QLNN. Bên cạnh việc tuyên truyền,
giáo dục, tổ chức cho nhân dân thực hiện pháp luật thì phải nghiêm khắc trong quá trình
xử lý vi phạm. Đây là hai vấn đề có liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau bởi chỉ giáo
dục mà không xử phạt vi phạm sẽ dẫn đến khinh nhờn phép nước, chỉ quan tâm xử phạt
mà không giáo dục, hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật thì lại càng không thu phục
lòng dân. Vì vậy, việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong phòng chống VPPL phải xuất
phát từ một nguyên tắc căn bản: xử lý hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và
phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng những giá trị đạo đức XHCN để ngăn chặn tận
gốc hành vi VPPL.
Thực tế cuộc đấu tranh chống tội phạm hiện nay cho thấy, trước đây mọi hành vi
VPPL hầu như không có chỗ dựa trong dư luận xã hội, chúng nhanh chóng bị nhân dân
với "Trăm tai, nghìn mắt" chủ động phát hiện và nhanh chóng lên án. Những vi phạm đó
thường được coi là những hành vi phá hoại sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, sự nghiệp
phấn đấu tất cả cho nền độc lập của Tổ quốc, cho công cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm. Việc tội phạm có tổ chức ít xảy ra, hiện tượng phạm tội kiểu băng đảng xã hội
đen là hiếm có. Còn hiện nay, hoàn cảnh xã hội đã khác trước. Hoàn cảnh này làm cho một
số giá trị đạo đức truyền thống mất phương hướng, thậm chí bị biến dạng trong cuộc đấu
tranh chống hành vi VPPL. Những khó khăn thường nhật khi phải tự lo cho cuộc sống, cộng
với cơ chế xin cho bao cấp chưa thể khắc phục ngay trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đã khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ dao động và từ từ đi vào con đường
tham nhũng với muôn vàn lý do "chính đáng" mà ban đầu thường là miếng cơm, manh áo.
Những hành vi vi phạm khác như vi phạm kỷ luật lao động, trật tự trị an hầu như cũng tìm
được lý do "chính đáng" nào đó về mặt xã hội, và nguy hại hơn là, xã hội có lúc hầu như mất
"phản ứng tự vệ" đối với các hành vi vi phạm và tội phạm. Sự trù dập, đe dọa, thậm chí trả
thù người khiếu nại tố cáo xảy ra phổ biến khó ngăn chặn. Ngay tại phiên tòa trừng trị băng
nhóm tội phạm sừng sỏ Năm Cam vẫn có thể nhận, thấy dư luận xã hội chưa thực sự là chỗ
dựa an toàn cho cuộc đấu tranh quyết liệt chống tội phạm. Rất nhiều nhân chứng là người
dân lao động bình thường đã thay đổi lời khai theo hướng có lợi cho kẻ phạm tội vì lo sợ bị
trả thù.
Những hiện tượng trên càng cho thấy rằng, khi ngăn chặn VPPL chỉ xử phạt để trừng
trị thôi thì không đủ, không thể loại trừ hết vi phạm nếu không dựa vào lực lượng quần
chúng nhân dân. Để động viên lực lượng này chống vi phạm pháp luật đương nhiên không
thể chỉ dựa vào những quy định của pháp luật được mà còn phải dựa vào những giá trị đạo
đức, trong đó giá trị đạo đức truyền thống có vai trò quan trọng, còn giá trị đạo đức mới
XHCN có vai trò quyết định. Muốn vậy, một mặt cần phải có biện pháp ngăn ngừa sự biến
dạng của đạo đức truyền thống, khôi phục giá trị xã hội của nó, mặt khác phải tích cực xây
dựng những giá trị đạo đức mới XHCN.
Để giải quyết vấn đề này, xuất phát từ thực trạng VPPL và các tệ nạn xã hội hiện
nay, một thực trạng đang được đánh giá chính thức là "nhức nhối”, cần phải kiên quyết
thiết lập trật tự xã hội bằng pháp luật, trừng trị không khoan nhượng hành vi phạm tội,
nhất là phạm tội có tổ chức, phạm tội kiểu xã hội đen. Phải từng bước động viên khuyến
khích nhân dân tham gia phong trào đấu tranh chống tiêu cực xã hội, phát hiện và nêu
gương "người tốt, việc tốt", đồng thời cần hết sức lưu ý việc đãi ngộ thỏa đáng về tinh
thần và vật chất đối với những người tham gia tích cực trong cuộc đấu tranh này. Không
có chỗ dựa ở chính sách xã hội thỏa đáng thì mọi hành vi tích cực sẽ chỉ là nhất thời,
nhanh chóng bị thui chột.
Hiện nay có rất nhiều gương, do dũng cảm dám đương đầu với hành vi vi
phạm và tội phạm mà tổn hại đến sức khỏe, tính mạng, song mới chỉ được hỗ trợ vật
chất mà không có danh hiệu nào về tinh thần, xét dưới góc độ Nhà nước. Sinh thời,
Hồ Chí Minh rất chú trọng công tác này qua việc chỉ đạo xuất bản sách người tốt,
việc tốt. Trong tám năm, từ năm 1959 đến năm 1966, Người đã đọc hết các báo xuất
bản ở Trung ương và địa phương, cả bản tin của Việt Nam thông tấn xã. Thấy bài
nào nêu gương người tốt, việc tốt, Người chỉ thị văn phòng phải thưởng huy hiệu
Bác Hồ, đồng thời cắt những bài báo ấy dán vào bản tin, đóng lại thành tập. Tất cả
gồm 4.300 gương người tốt, việc tốt trong 18 tập dầy. Sau này, Người giao cho Vụ
xuất bản biên tập thành sách Người tốt việc tốt [1, tr.233]. Cuốn sách này thực sự
phát động một phong trào thi đua sôi nổi trong cả nước, đã khơi dậy và kết hợp sức
mạnh cá nhân thành sức mạnh dân tộc để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang giải phóng
dân tộc, thống nhất nước nhà. Đây thực sự là một bài học kinh nghiệm quý báu cho
chúng ta về việc phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân trong phòng và chống tội
phạm, bảo vệ các giá trị đạo đức nền tảng của dân tộc. Pháp luật cần được hoàn
thiện theo hướng không chỉ trừng trị, xử lý vi phạm mà còn phải khuyến khích, nâng
đỡ và bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, khen thưởng kịp thời,
thỏa đáng những hành vi tích cực bảo vệ pháp luật, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội.
Xây dựng đạo đức không thể tách rời quá trình nêu cao vai trò pháp luật, coi xử lý vi
phạm theo pháp luật là điều kiện cần để điều kiện đủ là đạo đức phát huy vai trò
chống tận gốc đối với mọi hành
vi VPPL.
Kết luận chương 2
Đạo đức và pháp luật là hai loại quy phạm xã hội có tầm quan trọng rất lớn trong
việc điều chỉnh các QHXH, duy trì một trật tự xã hội nhất định để tạo động lực cho sự
phát triển. Đạo đức và pháp luật trong quá trình tác động lên các QHXH có mối quan hệ,
tác động qua lại mật thiết với nhau. Đời sống pháp luật mang đậm màu sắc đạo đức và
đời sống đạo đức chịu sự tác động không nhỏ của pháp luật.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đạo đức và pháp luật đang có xu
hướng biến động rất phức tạp, đang có sự đan xen giữa nhiều giá trị cũ và những giá trị
mới, giữa những cái tiến bộ và những cái lạc hậu. Do vậy, hoàn thiện pháp luật và định
hướng phát triển đạo đức là việc làm cần thiết và tất yếu trong quá trình đổi mới đất nước
ở giai đoạn hiện nay. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phải gắn liền với việc thực thi
pháp luật một cách có hiệu quả. Nhờ đó mới tạo ra được một hành lang pháp lý vừa
thông thoáng, vừa chặt chẽ để các chủ thể trong xã hội yên tâm đóng góp công sức của
mình cho công cuộc xây dựng đất nước. Việc định hướng đạo đức phải góp phần giữ gìn
bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống mới phù hợp với thời đại và hạn chế, bài trừ những tàn
dư tư tưởng lạc hậu. Có như vậy mới tạo ra một lớp người mới vừa có tài, vừa có đức để
xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Hai việc làm này không độc lập mà được tiến
hành song song với nhau. Việc hoàn thiện pháp luật sẽ góp phần định hướng đúng đắn
cho đạo đức và ngược lại việc xây dựng những phẩm chất, đạo đức tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc sẽ nâng cao hiệu quả của quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật.
Kết luận
-Pháp luật và đạo đức là những công cụ quản lý quan trọng không thể thiếu được
trong hoạt động QLNN. Để sử dụng pháp luật cũng như đạo đức một cách có hiệu quả,
trước hết đòi hỏi các cấp quản lý, các tổ chức chính trị-xã hội và mỗi công dân phải có sự
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về bản chất, vị trí, vai trò, những ưu điểm và hạn chế của
từng yếu tố cũng như sự tác động qua lại, bổ sung cho nhau giữa chúng. Đồng thời,
chúng ta phải nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phối kết hợp pháp luật
và đạo đức trong hoạt động QLNN, đặc biệt ở giai đoạn hiện nay.
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, đạo đức là cơ sở của việc xây
dựng và bảo vệ pháp luật, đồng thời nó cũng là nhân tố quan trọng đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng luôn
được xác định trên một nền tảng đạo đức nhất định, khi pháp luật không phù hợp với đạo
đức xã hội, sớm muộn nó cũng phải bị thay đổi cho phù hợp. Ngược lại, pháp luật cũng
có sự tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Nó ghi nhận, củng cố và phát huy những quan
niệm, quan điểm đạo đức của giai cấp thống trị, những quan niệm, quan điểm đạo đức
truyền thống tiến bộ, loại trừ những quan điểm đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, không phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, với lợi ích của cộng đồng dân tộc; nó góp phần
ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, nó góp phần hình thành những quan
niệm, quan điểm đạo đức mới.
-Hiến pháp 1992 tại Điều 2 khẳng định: “ Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đây là sự tiếp
nối, sự kế thừa thành quả cách mạng của dân tộc cũng như những tư tưởng, quan điểm
chỉ đạo xuyên suốt của Đảng về xây dựng một kiểu Nhà nước mới: Nhà nước do dân là
chủ và dân làm chủ từ năm 1945 đến nay.
Nói đến NNPQ là nói đến nhà nước mà trong đó, pháp luật là tối thượng, là chuẩn
mực xử sự cao nhất của mọi hành vi con người, trong nhà nước đó, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật. Đây là công cụ đảm bảo cho hoạt động QLNN được công bằng,
công khai, dân chủ. Tuy nhiên, là một Nhà nước á Đông giàu truyền thống văn hóa, coi
trọng đạo lý như Việt Nam thì phải xem xét đến vai trò điều chỉnh các QHXH bằng một
hệ thống các quy phạm đạo đức nhân bản, tiến bộ. Đảng và Nhà nước ta đã rất sáng suốt
khi xác định: Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, các quan niệm đạo đức tốt đẹp
của dân tộc. Đây chính là biểu hiện của sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại trên một nền tảng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, trong những năm
qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã được xây dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng,
đạo đức của nhân dân lao động. Để bảo vệ và phát huy các giá trị đạo đức, Nhà nước đã
luật hóa các quan niệm, quan điểm đạo đức truyền thống, đạo đức cách mạng, đã góp
phần loại bỏ nhiều quan niệm đạo đức cũ, lạc hậu, định hướng và xây dựng những giá trị
đạo đức trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xử
lý VPPL chưa thật sự nghiêm minh, nhanh chóng nên trong thời gian qua, đạo đức xã hội
có những biểu hiện xuống cấp khiến cho VPPL có chiều hướng gia tăng cả về số lượng
và mức độ nghiêm trọng. Điều này lại một lần nữa cho chúng ta nhận thấy sự cần thiết
phải kết hợp pháp luật và đạo đức trong xây dựng và thực hiện pháp luật, trong phát huy
vai trò của các tổ chức xã hội, công dân khi tố giác, đấu tranh chống lại các biểu hiện
VPPL. Một môi trường xã hội trong sạch, an toàn, các thang bảng giá trị đạo đức được
xây dựng và bảo vệ vững chắc sẽ giúp cho quá trình QLNN bằng pháp luật được nghiêm
minh, chính xác. Đó chính là nhân tố quyết định cho quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
-Trong phạm vi nghiên cứu và khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ Luật học, rất
nhiều vấn đề về kết hợp pháp luật và đạo đức trong QLNN chưa thể đặt ra và đi sâu
nghiên cứu. Chẳng hạn, kết hợp pháp luật với đạo đức trong tổ chức và hoạt động của các
tổ chức chính trị, xã hội; đạo đức và pháp luật trong hoạt động tự quản ở làng, xã; sự phối
kết hợp giữa các công cụ điều chỉnh xã hội ở nước ta hay vai trò của đạo đức trong việc
xây dựng nền văn hóa pháp lý
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà
Nội.
2. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại
hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Hoàng Xuân Châu (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước - Pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành
Trung ương Khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo (2002), Đạo đức trong nền công
vụ, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
9. Hiến pháp Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hội Luật gia Việt Nam (2000), Nhà nước và pháp luật, Tập 3, Nxb Lao động.
11. Đỗ Huy (2002), Đạo đức học - Mỹ học & đời sống văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
12. Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn (2002), Từ điển thuật ngữ hành chính, Nxb Lao
động, Hà Nội.
13. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
14. Luật Hôn nhân và gia đình (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Luật Hình sự (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Luật Dân sự (2005) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nghị định 17/2000/NĐ-CP về chính sách cứu trợ xã hội.
18. C.Mác (1960), Tư bản, quyển II, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. C.Mác - Ph.ăngghen (1960), Toàn tập, Tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. C.Mác - Ph.ăngghen (1993), Toàn tập, Tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (1993), Nhật ký trong tù, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
25. PV (2005), "Con nhà giàu... đi ăn cướp!!”, Báo người cao tuổi, (327), tr.1.
26. Hoàng Thị Kim Quế (1999), "Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo
đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7),
tr.17.
27. Hoàng Thị Kim Quế (2002), Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý
xã hội ở nước ta, Báo cáo tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
28. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Vấn đề kết hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo
dục và nâng cao đạo đức ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (12), tr.31.
29. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Xu hướng vận động và phát triển của pháp luật và đạo
đức ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (7), tr
13.
30. Quốc Triều hình luật (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
32. Vũ Xuân Thái (1998), Gốc và nghĩa từ tiếng Việt thông dụng, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
33. Thông tấn xã Việt Nam (2003), Theo những vấn đề nóng bỏng của các cấp lãnh
đạo Trung Quốc sau Đại hội XVI ( Phần 1), Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hà
Nội.
34. Vũ Tình (1998), Đạo đức học Phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
35. Trung tâm Khoa học và Xã hội nhân văn, Viện Triết học (2003), Mấy vấn đề đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận Nhà nước- pháp lý, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập 1, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Khổng Tử (2002), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
39. Nguyễn Cửu Việt (1997), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
40. Huỳnh Khắc Vinh (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá
trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Nguyễn Bình Yên (2002), ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 128_046.pdf