Cách gọi Chèo truyền thống là một thể tài bi 
hài kịch dân tộc, vì thế dễ dàng được giới Chèo cũng như công chúng Chèo hiện nay 
chấp nhận. Theo chúng tôi, dù các nhà nghiên cứu Chèo hiện đại có gọi cấu trúc này là 
kết quả của cội nguồn tư duy triết học phương Đông (tư duy cầu tính, hài hòa âm 
dương.) thì từ xa xưa, ở vào cái thời Chèo toàn thịnh, cái nguyên do trực tiếp khiến cho 
hai phẩm chất thẩm mỹ vốn đối trọng với nhau (cái bi - cái hài) lại có thể hài hòa trong 
một kết hợp thể Chèo truyền thống rất giản dị bởi không ít tiếng cười trong chèo là tiếng 
cười thật ra nước mắt. Đây cũng là đặc điểm rất đặc thù của nghệ thuật trào phúng Chèo 
so với Tuồng hài - cũng là một hình thức kịch hát dân tộc. Những khía cạnh cụ thể, luận 
văn sẽ phân tích ở các chương sau.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3499 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 
[5], tác giả Hà Văn Cầu đã chú ý đúng mức đến nội dung phê phán hiện thực xã hội trong 
thời kỳ Chèo toàn thịnh nhờ sự có mặt của các vai Hề đa dạng. ở một số trang viết về lời 
trò chèo [4, tr. 51], ông cũng đã chỉ ra một vài thủ phép gây cười dưới góc độ nghệ thuật 
tu từ trào lộng nhưng không đặt vấn đề như một trọng tâm của tác phẩm. Nhìn chung, các 
vấn đề trào phúng chèo trong thời kỳ này đều được chú trọng như là nội dung tính chiến 
đấu trên kịch hát dân tộc. Một số ý kiến phê phán lời trò trào lộng còn "tự nhiên chủ 
nghĩa" hoặc"mơ hồ hai mặt" trong một số nghiên cứu thời kỳ này, đến nay không còn 
thích hợp. Bởi vì, ngay từ năm 1685, trong bản báo cáo "Trần thuật vương quốc Đàng 
ngoài" của một khán giả - nhà buôn tên là Samuel Baron người Anh đã có đoạn nói về Hề 
chèo "Vai hề đó là người tài trí bậc nhất mà người ta có thể tìm được quanh vùng, và họ 
có đủ tài làm cho tất cả mọi người chung quanh phải bật cười về các sáng tạo và điệu bộ 
của họ [16, tr. 82]. Và có lẽ vì thế (!), năm 1630 đã có Tavernier - một nhà buôn khác 
xem Chèo đã gọi đó là hài kịch dân gian [16, tr. 82]. Mặc dù chúng ta có thể phê phán họ 
đứng trên quan điểm thực dân trong nhiều vấn đề khác. 
Kế theo, vào những năm bảy mươi, ở cả hai miền Bắc và Nam đều có những 
công trình khảo cứu quan trọng về tổng thể Chèo truyền thống được công bố (của các tác 
giả Hà Văn Cầu, Vũ Khắc Khoan và nhóm nguồn Việt). Năm 1973, Hà Văn Cầu sưu 
tầm, dẫn luận, chú thích và cho xuất bản tác phẩm "Hề Chèo". Ông tự coi là chỉ làm dẫn 
luận. ÔNg viết: Song vì thiếu tư liệu cho nên các công việc nghiên cứu, đánh giá vận 
dụng Hề chèo còn gặp nhiều khó khăn, chưa đem lại được một sự thỏa mãn cho người 
đọc. Trong tình hình chống Mỹ cứu nước, việc khai thác vốn hề xưa càng gặp nhiều khó 
khăn..." [5, tr. 12]. Nói vậy, nhưng ông đã sưu tập được gần một trăm mẫu hề. Ông đã 
bước đầu sắp xếp, chọn lọc và công bố tương đối có hệ thống để góp vào việc "vận dụng 
vào chèo mới" sao cho đúng đường lối. Tuy vậy, đây là những tư liệu rất quý mà luận 
văn này xin được kế thừa. Trong số này còn có Tuyển tập Chèo cổ, một bộ sưu tập bảy 
văn bản chèo truyền thống được thừa nhận là những vở diễn hàng đầu (Quan Âm - Thị 
Kính, Trương viên, Lưu Bình - Dương Lễ, Kim Nham, Chư Mãi Thần, Trinh Nguyên và 
Từ Thức) được biên khảo, chỉnh lý công phu. ở Việt Nam, tác giả Vũ Khắc Khoan công 
bố tác phẩm Tìm hiểu nghệ thuật Chèo. Ông đã giành ba trang bàn về "Đặc tính hài 
hước". Ông nhấn mạnh: "đặc tính hài hước đã ảnh hưởng trực tiếp vào sự cấu tạo vở 
Chèo" và "một gánh Chèo không thể đứng vững nếu không có một vài diễn viên có khả 
năng và duyên dáng để thủ vai hề", nhưng có lẽ ông đã chưa đúng khi viết rằng "dẫn đến 
một kết luận những vở chèo là những vở hài kịch" [16, tr. 215, 216, 217]. Trong khi đó, 
nhóm nguồn Việt công bố tác phẩm "Hát chèo của dân tộc Việt Nam" lại đi sâu vào "bếp 
núc" nghề chèo truyền thống và sau khi cung cấp hàng loạt tư liệu với 27 khía cạnh liên 
quan đến các hoạt động nghiên cứu, sáng tác, trình diễn, thưởng thức Chèo, sách này 
khẳng định vai trò đặc biệt của Hề với vài ba phẩm chất đặc thù [16, tr. 272]. Có điều 
chúng tôi cho là trong sách này, vì công bố được nhiều giai thoại Hề chèo nên cũng có vẻ 
cực đoan khi khẳng định "giả thiết rằng Chèo do chữ chào, trào lộng (trào lộng) mà ra, có 
thể đúng hơn cả" [16, tr. 235]. Cũng trong thời kỳ này, ở miền Bắc diễn ra hàng loạt các 
Hội diễn Chèo từ Trung ương đến địa phương. Tác giả Trần Việt Ngữ, Trần Bảng, Lộng 
Chương đã viết một số bài báo khoa học nhưng định hướng nghiên cứu của các ông thiên 
về vấn đề từ Chèo cổ đến chèo mới. 
Bước sang những năm tám mươi, đời sống sân khấu chèo đứng trước những biến 
động kịch liệt xoay quanh vấn đề đổi mới Chèo. Các nhà Chèo học giàu kinh nghiệm kêu 
gọi muốn đổi mới Chèo, trước hết phải nắm vững kiến thức và tài liệu vốn cũ truyền 
thống, bởi vì "Chèo cổ đã hình thành quy luật phát triển cho bản thân, thông qua đặc 
điểm chuyên dùng và đa dùng nghệ thuật, trên nguyên tắc hình thức phải tương ứng với 
nội dung một cách nối tiếp, không đứt đoạn" [36, tr. 158]. Xu hướng kịch hóa với Chèo 
bước đầu (tăng căng thẳng xung đột, giảm trò nhời, hạ thấp vai trò Hề truyền thống) 
nhanh chóng bị khán giả xa lánh. Sự nhầm lẫn giữa tính thời đại với tính thời sự được 
đính chính lại. Dòng chèo viết theo cấu trúc kể chuyện dần trở lại vị trí chủ lưu. Nghệ 
thuật trào phúng Chèo truyền thống được tái tạo lại ở một trình độ mới. Nhà sân khấu 
chèo tài danh Tào Mạt đã đưa lên sân khấu tác phẩm Bài ca giữ nước và Lý Nhân Tòng 
kế nghiệp nổi tiếng. Trong đó, tác giả nghiêng về trò nhời tạo dựng được những lớp Hề 
(Hề Hoạn, Chôn Hề...) đặc sắc, xem một lần nhớ mãi. Thời kỳ này, qua hai hội nghị học 
thuật về sự phát triển chèo (Thái Bình tháng 7-1986) và về đặc trưng Chèo (Hà Nội - Văn 
Miếu tháng 10-1988) cùng với hai công trình kỷ yếu hội nghị Thái Bình [64] và nghệ 
thuật chèo hôm nay [65], cùng một số bài báo... giới Chèo căn bản đã khẳng định được 
nội dung và cách thức làm chèo bảo tồn bản sắc dân tộc. Những mảnh trò hay được khai 
thác chủ yếu vẫn là từ trong nghệ thuật trào phúng. Tuy nhiên, hình như về mặt lý luận đã 
đến lúc cần đổi mới. Và yêu cầu này đến nửa đầu những năm chín mươi vẫn còn bức xúc. 
Cuối cùng, theo chúng tôi thì có thể lấy thời điểm ra đời nhà hát Chèo và Tổng 
luận nghệ thuật chèo nửa sau thế kỷ XX năm 1996 đã ghi nhận như một cái mốc. Vấn đề 
nghiên cứu Chèo truyền thống đã thật sự chuyển sang một chất lượng mới. Cái mới ở đây 
không phải ở tư liệu mà chủ yếu là ở phương pháp và quan niệm. Về quan niệm, có thể 
nói chỉ riêng sự kiện Hội diễn sân khấu Chèo truyền thống tại thành phố Hạ Long (Quảng 
Ninh) tháng 10năm 2001 với 17 vở được dàn dựng công phu đã là một minh chứng. Về 
lý luận và phương pháp trong Khái niệm về Chèo [1], tác giả Trần Bảng không khảo luận 
riêng về nghệ thuật trào phúng (hay trữ tình, tự sự) Chèo nhưng phương pháp luận giải 
của ông trong các chương sách (ví dụ: chương III về sân khấu ước lệ, chương IV về nghệ 
thuật diễn ngẫu hứng, chương V về phương pháp xây dựng và chuyển hóa mô hình) đã 
cho thấy ít nhất là ba tiền đề lý luận và phương pháp quan trọng giúp chúng ta tiếp cận 
nghiên cứu chỉnh thể bất cứ một vấn đề nghệ thuật nào thuộc về đặc trưng và thành tố cấu 
thành Chèo. Trong những vấn đề chung mà ông gọi là cách làm Chèo cổ, bao gồm nghệ 
thuật hài, ông đã lý luận hóa quan điểm diễn tả, phương tiện diễn tả và vấn đề điều độ sân 
khấu trong nghệ thuật Chèo cổ. Từ đó, tác giả Khái niệm về Chèo tiến hành mô hình hóa 
nhân vật Chèo cổ và chỉ ra những tố chất mỹ học Phôn-clo trong nghệ thuật diễn ngẫu 
hứng [1, tr. 84, 91 92, 95, 107...]. ở một phương diện khác, dưới góc độ thi pháp đích 
thực, tác giả Tất Thắng công bố các tác phẩm Những mảnh trò hay [48] và Về thi pháp 
kịch [50]. Lần đầu tiên, nhiều thuật ngữ chuyên dùng trong lĩnh vực nghệ thuật Chèo ở cả 
ba loại hoạt động sân khấu Chèo (sáng tác, trình diễn, thưởng thức) đã được định danh, 
định lượng, định tính một cách khoa học. Có thể còn vấn đề thảo luận là đương nhiên (!). 
Song ích dụng của nó và giá trị học thuật mới trong đó là không thể không đánh giá cao. 
Có thể nói thêm về một số chuyên luận trong "Sân khấu truyền thống" [51] của tác giả 
Tất Thắng vừa được công bố tháng 6-2002. Trong đó, vấn đề nghệ thuật trào phúng Chèo 
truyền thống đã được phân tích trong cấu trúc chỉnh thể hình tượng nhân vật Chèo cổ 
(Chương VI, các trang 189, 231, 232, 233...), được sự khảo tả từ chế diễu đến giáo huấn 
(Chương VIII, các trang 309,317, 327, 320, 350...) được đánh giá qua những nhân vật nổi 
loạn (Chương IX, trang 383, 387, 391...) như những điểm sáng thẩm mỹ, được viết rất 
điển quy. 
Chúng tôi hết sức trân trọng những thành tựu nói trên và xin được kế thừa, vận 
dụng vào luận văn. Bên cạnh những thành tựu đã lược điểm, chúng tôi nhận thấy còn 
phải chú ý đến các bộ giáo trình VHDG đã đề cập đến loại hình sân khấu dân gian, các 
sách chuyên luận về Tiến trình VHDG Việt Nam đã đánh giá Chèo dưới góc độ cấu trúc 
lịch sử. Tuy vậy, do mục đích học thuật, các vấn đề nghệ thuật trào phúng trong Chèo 
truyền thống ở các giáo trình và chuyên luận trong nhà trường nhìn chung cũng dừng lại 
ở mức độ giới thiệu đại cương về một thể tài, một thể loại, một loại hình. Do đó, nhìn lại 
thành tựu 50 năm lịch sử nghiên cứu Chèo truyền thống, vấn đề khảo sát và nghiên cứu 
chuyên đề nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống dưới góc độ chỉnh thể vẫn còn 
là một hướng mở. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Chèo có nguồn gốc tự sự mô phỏng trò nhại, yếu tố Hài chèo có mặt trong Chèo 
thuở sơ khai. Tuy nhiên, nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống với tư cách 
chỉnh thể được tổ hợp khá chặt chẽ quy của thì phải đến thế kỷ XV, và phát triển đến 
đỉnh cao vào thế kỷ XVIII. Mặt khác, những giá trị đó trong nhiều thế kỷ mới chỉ biểu 
hiện bằng hình thức ứng diễn, và tồn tại bằng phương thức truyền miệng, trong trí nhớ 
của các thế hệ nghệ nhân, chuyển giao từ đời này đến đời khác. Việc ghi chép lại nó dưới 
hình thức văn bản (bản trò, kịch bản) và tái hiện lại dưới hình thức văn bản (bản trò, kịch 
bản) và tái hiện lại dưới hình thức trình diễn để trở thành đối tượng nghiên cứu chỉ được 
tiến hành một cách khoa học, tỉ mỉ đối chiếu, ghim ghép công phu vào những năm đầu 
của thập kỷ sáu mươi, thế kỷ XX đến nay. Và kết quả là chúng ta mới có được 2 công 
trình sưu tập của cùng một tác giả. Đó là Tuyển tập Chèo cổ (Nxb Văn hóa, H. 1976, Nxb 
Sân khấu tái bản, H.1999, Lộng Chương giới thiệu) và Hề chèo chọn lọc (Nxb Văn hóa, 
H.1973, Tái bản 1977) đều do tác giả Hà Văn Cầu sưu tập, dẫn luận và chú thích giới 
thiệu. 
Luận văn được thực hiện bằng việc phân tích, thẩm định và đưa ra các kết luận 
khoa học chủ yếu trên cơ sở khảo sát tư liệu kịch bản trong văn bản nói trên. Theo chúng 
tôi, đây là những tài liệu nghiên cứu đáng tin cậy nhất trong thời điểm hiện nay về Chèo 
truyền thống dưới góc độ khoa học VHDG. Trong quá trình khảo sát văn chèo, chúng tôi 
có kết hợp khảo sát một số băng tiếng và băng hình tư liệu có liên quan trong phòng Lưu 
trữ của nhà hát Chèo và Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh. Đương nhiên, trong luận 
văn, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu là: Chỉnh thể nghệ thuật trào phúng trong 
Chèo truyền thống trên hai cấp độ tổng quan và những phương diện hợp thành. 
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 
Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu theo định hướng luận văn, nhiệm vụ chính 
của chúng tôi là khảo sát quy nạp và đánh giá thẩm mỹ ba vấn đề cụ thể trong Chèo 
truyền thống: 
1. Về tổng quan nghệ thuật trào phúng. 
2. Về phương diện nội dung trào phúng xã hội với các yếu tố hợp thành. 
3. Về phương diện hình thức trào phúng với các yếu tố hợp thành. 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được chúng tôi sử dụng trong luận văn này là 
phương pháp phân tích - tổng hợp. Đối với một công trình nghiên cứu chỉnh thể hệ thống 
nghĩa là phải khảo sát và đánh giá cả một thế giới nghệ thuật, thì bằng phương pháp nói 
trên, luận văn sẽ triển khai phân tích trong quá trình khảo sát để quy nạp, tổng hợp vấn đề 
là phù hợp. 
6. Những đóng góp của luận văn 
1. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu từng phương diện của nghệ thuật 
trào phúng Chèo truyền thống ở những mức độ khác nhau, luận văn sẽ tiếp tục nghiên 
cứu trên một chất lượng mới, từ đó hệ thống hóa các giá trị cơ bản hợp thành nghệ thuật 
trào phúng Chèo truyền thống như một chỉnh thể - một bức tranh toàn cảnh, toàn thể và 
biện chứng. Những kết quả nghiên cứu có trước dưới góc độ sân khấu học, qua luận văn 
sẽ được kiến giải và đánh giá thẩm mỹ dưới góc độ khoa học ngữ văn dân gian và được 
giải trình trên cơ sở những tiến bộ của khoa học VHDG hiện nay. Có thể đó là một đóng 
góp mới. 
2. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sẽ đem lại cho việc dạy và học thể loại 
Chèo trong loại hình sân khấu dân gian trong nhà trường ở mọi cấp học một tài liệu tham 
khảo đã được cấu trúc thành chuyên đề. Trong đó, vấn đề bản sắc dân tộc trường tồn qua 
chỉnh thể nghệ thuật trào phúng dân gian Chèo truyền thống trong luận văn chắc chắn sẽ 
có một ý nghĩa thực tiễn ích dụng nhất định, phù hợp với nguyện vọng đóng góp mới của 
tác giả. 
7. Bố cục của luận văn 
Ngoài phần mục lục mở đầu và Thư mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu 
trúc thành ba chương: 
Chương 1: Tổng quan về nghệ thuật trào phúng dân gian trong Chèo truyền 
thống. 
Chương 2: Nội dung trào phúng xã hội trong Chèo truyền thống 
Chương 3: Hình thức nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống 
Chương 1 
Tổng quan về nghệ thuật trào phúng dân gian trong Chèo truyền thống 
1.1. Mấy vấn đề nghệ thuật trào phúng dân gian 
1.1.1. Khái niệm trào phúng 
Chúng tôi dựa vào định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học về văn học trào 
phúng và có tham khảo bổ sung thêm một số ý kiến đã được các nhà nghiên cứu văn học 
trào phúng dân tộc đề cập. Trong mục trào phúng, sách trên viết: Một loại đặc biệt của 
sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật. Trong đó, các 
yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước... được sử 
dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng... những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời độc 
ác trong xã hội. Trào phúng theo nghĩa từ trên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười 
nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh vực văn hóa, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ 
học cái hài với cái cung bậc hài hước, u mua, châm biếm. Văn học trào phúng (VHTP) 
bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với những cung bậc cái hài khác nhau từ những truyện 
cười, truyện tiếu lâm đến tiểu thuyết (như Số đỏ), từ các vở hài kịch cho đến những bài 
thơ trào phúng, châm biếm (như thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú 
Xương...). Đó là một khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học của tiếng cười" [19, tr. 296]. 
Khái niệm "Trào phúng" theo nghĩa gần là một khái niệm được kết hợp từ hai 
khái niệm trào và phúng. Theo Từ điển từ nguyên, trào nghĩa là chọc cười, phúng nghĩa 
là không nói thẳng để châm biếm, cười nhạo. Trong Từ điển Từ hải, trào nghĩa là lời chế 
giễu. Gần đây, theo tác giả Vũ Ngọc Khánh, trong công trình Thơ ca trào phúng Việt 
Nam [23] và Hành trình vào xứ sở cười [24], khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên trong 
tác phẩm Thiên Nam ngữ lục: 
Rằng dương gian đứa Sĩ Thành 
Đọc thơ trào phúng, thiên đình dơ doi. 
(Câu 525 - 526) 
1.1.2. Như vậy, chắc là từ trước thế kỷ XVII, các bậc tiền bối của chúng ta đã 
có được một quan niệm khá cụ thể về trào phúng ở một mức độ nào đó, trên cơ sở những 
thành tựu nhất định của chủng loại văn học này và những tác động của nó vào đời sống 
hiện thực. Định hướng nghiên cứu vấn đề trào phúng trong Chèo truyền thống, không thể 
không xem xét mối quan hệ giữa Chèo với những vấn đề văn học nghệ thuật trào phúng 
trong quá trình văn học Việt Nam. Trong một công trình nghiên cứu lịch sử - thể loại 
VHDG, tác giả Đỗ Bình Trị viết về Chèo ở thời điểm cực thịnh rằng: Chèo sân đình đã 
đến thời kỳ chế biến lại hàng loạt tích gốc để mang tính thời sự: (Quan Âm Thị Kính, 
Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ...). Do hiện đại hóa thật khéo léo, sân khấu chèo vẫn ấm 
nóng hơi thở thời đại. Tính xưa truyện nay mà không sượng, không gượng. Truyện thì bi 
thảm nhưng sân khấu luôn cười. Hề chèo là những nhà "hiền triết vui vẻ" lộn trái câu 
chuyện bi thảm thành một kết cấu hài hước, đem lại cho người xem một cái nhìn tỉnh táo 
đối với sự đời bối rối đa đoan [54, tr. 157]. Chèo là nghệ thuật tổng hợp, một hình thức bi 
hài kịch dân tộc. Nghệ thuật trào phúng chèo trong chỉnh thể văn học nghệ thuật dân gian 
dân tộc là sự tiếp nhận và nâng cao tinh hoa phẩm chất trào phúng dân gian dân tộc. Để 
hiểu biết và khám phá thế giới nghệ thuật trào phúng Chèo truyền thống, phải trở lại mấy 
vấn đề nghệ thuật trào phúng trong quá trình nghệ thuật dân tộc. Về mặt nguyên tắc, sự 
ảnh hưởng văn học trào phúng thành văn đối với Chèo truyền thống là hiển nhiên nhưng 
thời điểm chắc là phải rõ nét vào thời kỳ Chèo cực thịnh cùng văn học cười. Và do khuôn 
khổ luận văn và giới hạn hiểu biết của người viết, chúng tôi chỉ đề cập đến một vài khía 
cạnh trào phúng thành văn ảnh hưởng vào Chèo cổ trong các vấn đề cụ thể. Có điều chắc 
chắn đã được khẳng định là: Nghệ thuật trào phúng dân gian với những trò diễn có tính 
chất hài hước, châm biếm đã có cảm hứng từ những gương mặt tươi sáng và nụ cười ngộ 
nghĩnh trong các tác phẩm chạm trổ và điêu khắc, từ thô mộc đến khá tinh xảo thời văn 
hóa Đông Sơn. Dưới thời Bắc thộc, những lối cười vui trong trò Trám, trò Chụt đã đan 
xen với những lối cười không vui trong trò Ngô, trò Bắc. Mặc dù chúng đều đem lại 
những chuỗi cười ào ạt "Đi xem trò Trám đủ no bụng cười". Vào cuối thế kỷ X quốc sử 
chép: Trong cung nhà vua đã có những người được giao việc làm hề để mua vui. Vào 
thời nhà Trần, tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống với những bức vẽ Hứng dừa, Đánh 
ghen, Thầy đồ Cóc, Đám cưới Chuột cùng xuất hiện với những pho tượng Phật say, Phật 
cười... đã khá phổ biến trong đời sống dân gian. Đó cũng là lúc các tài liệu văn học và sân 
khấu đã ghi lại được những tác giả khôi hài như Nguyễn Sĩ Cố, những nghệ nhân tổ sư 
chèo. Pháp loa thời Trần cũng đã đặt hội Thiên Phật (1000 phật) ở chùa Quỳnh Lâm 
trong suốt bảy ngày đêm (1325). Nhà Trần có tục đăng triều vào ngày 30 tết, vua ngồi 
giữa cửa Đoan cùng các hề tôi đều vào làm lễ, lễ rồi xem các con hát trình diễn trò Bách 
hí (Bách nghệ khôi hài). Bước sang tháng hai, vua sai làm một cái nhà gọi là Xuân Đài, 
các con hát hóa trang thành 12 vị thần hát trên đài [16, tr. 204]. Thường Chèo xuất hiện 
[16, tr. 205]. Không khí sinh hoạt vui tươi từ cung đình đến dân giã đều khá rộn ràng, nội 
dung phong phú, đậm đà tính dân tộc. Cũng ở thời kỳ này, rối nước và rối cạn trong các 
Hội thu và Hội xuân đã chuyển dần từ diễn trò sang diễn tích. Sinh hoạt du hý cung đình 
đã có tạp kỹ. Nhà nước phong kiến đặt ra các tổ chức trông nom giới xướng nhi (con hát) 
và xướng ưu (phường chèo) với đủ các dạng: Hề, lão, mụ, nam, nữ. Nhà vua tham gia 
múa hát, các quan triều như Trần Nhật Duật uyên bác cũng say mê chèo hát. Về căn bản, 
nghệ thuật trào phúng dân gian cho đến nửa đầu thế kỷ Xô Viết chủ yếu vẫn còn ở cấp độ 
tiền đề: hài hước tươi vui. Văn hóa hài hước cung đình và văn hóa hài hước dân gian 
chưa có sự tách biệt. Trong truyện cổ tích thần kỳ phồn thịnh, những ông hoàng bà chúa 
vẫn còn là những hình tượng lý tưởng hóa. 
Truyền thuyết anh hùng vẫn như nguyên âm vang bài ca địa hình nhân kiệt. Ngụ 
ngôn đã có nhưng vẫn còn như nguyên các bài học giáo hóa vừa du nhập. Sự chuyển hóa 
về chất từ nghệ thuật hài hước sang nghệ trào phúng phải gắn liền với sự xuống cấp của 
nhà nước phong kiến và cũng là khi truyện cười cùng ca dao châm biếm xuất hiện. Từ 
đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến suy cũng là lúc dân tộc có hai nền văn hóa dân tộc. 
Văn hóa dân gian trở về với những ngôi làng. Lê - Mạc giằng co. Loạn Nam Bắc triều. 
Tịnh - Nguyễn phân tranh. Nhân dân "như cá trong vạc nước sôi". Khuynh hướng đòi 
quyền sống, đòi dân sinh dân chủ trỗi dậy và thổi bùng lên bão táp nông dân khởi nghĩa. 
Hệ tư tưởng chính thống đổ vỡ. Hệ tâm lý xã hội phát triển. Sự làm chủ đời sống văn hóa 
tinh thần chuyển hẳn sang các tầng lớp bị áp bức. "Với sự khủng hoảng và suy sụp của 
chế độ phong kiến trong đời sống hàng ngày, chủ yếu ở xã hội quan phương, trước hết là 
trong môi trường quý tộc quan liêu, có những người, những việc mâu thuẫn một cách nực 
cười với những khuôn vàng thước ngọc bất di bất dịch như quân nhân, thần trung, phụ tử, 
tử hiếu... Mặt khác cùng với sự phát triển của cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại ách 
chuyên chế phong kiến, ý thức phản đối xã hội và lý trí con người tựa như dòng sông 
đóng băng bấy lâu, đột nhiên thức tỉnh, trào lên mãnh liệt. Giáo điều Nho giáo như là cơ 
sở của tư duy, như là bờ đê của mọi luồng tư tưởng bị rung chuyển, rạn vỡ. Tư tưởng 
phóng túng lan tràn, kích động hạt nổ của cái cười" [53, tr. 156]. Thế là nhân dân đứng 
trước cảnh tượng trớ trêu, oái oăm. Càng ngày, người ta càng nhận ra rằng những cái xấu 
xa, đáng khinh bỉ lại được nêu lên thành chuẩn mực, cái tốt đẹp, đáng thương yêu trân 
trọng lại bị dập vùi. Trong VHTV, hy hữu có nỗi hoài cổ của một bá huyện Thanh Quan, 
độc nhất vô nhị có tiếng cười Hồ Xuân Hương, nhưng đó là tiếng cười đánh dấu tính chất 
hợp lưu giữa hai dòng VHDG và VHTV ở vào giai đoạn bùng nổ tiếng cười trào phúng, 
còn lại là những tác phẩm khi thì như tiếng khóc òa, khi thì như nỗi đau tức tưởi, khi thì 
ngất ngưởng phóng cuồng ca. Ngược lại, trong VHDG trăm đầy tiếng cười. Những nụ 
cười hài hước, châm biếm và đả kích vốn đã nảy mầm trong tục ngữ, ca dao vui đùa và 
thơ ngụ ngôn thuần Việt bây giờ đã trở thành phong cách phổ biến của sáng tác dân gian. 
Cùng với những bức chạm trổ tinh quái hóm hỉnh trong kiến trúc đình làng về những 
"con rồng dân gian", quyền uy của các đấng quân vương mặt rồng, mũi rồng, mắt rồng bị 
hạ bệ. Truyện cổ tích xã hội xuất hiện các vai hôn quan bạo chúa trong dáng vẻ tức cười. 
Khi mà bọn kiêu binh giữa cung vua phủ chúa đã kỳ cục trung hô một ông hoàng trên 
một cái mâm thì đã đến lúc "mọi loại trữ tình, tự sự, kịch đều thấm đượm chất hài hước, 
chất châm biếm. Mỗi người là một tác giả, một diễn giả, một công chúng của loại văn học 
cười. Mỗi giờ nhóm họp của nhân dân là những chuỗi cười, những trận cười. Cả nhà 
cười, cả chợ cười và cả làng cười nữa, thành một Rừng cười [14, tr. 180]. Sự phát triển vô 
cùng mạnh mẽ của tiếng cười công luận có tính áp đảo thói xấu và tội ác xã hội trong 
khoảng từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX đã tạo nên một trong những đặc điểm lịch sử 
nổi bật trong văn học nghệ thuật dân gian thời kỳ này. Cái cười trong cổ tích sinh hoạt, 
cái cười trong tục ngữ ca dao, cái cười trong ngụ ngôn và cái trò diễn thông trụ chưa đủ. 
Truyện cười nở rộ. Đó là súng gươm trên mặt trận văn hóa nghệ thuật nhân dân làm 
"chúc nhào các thần tượng". Đó cũng là một cách tự ngã nhận thức về vai trò to lớn của 
nhân dân được thăng hoa trong các "kết cấu hài hước, đem lại cho người xem, người 
nghe một cái nhìn tỉnh táo đối với sự đời bối rối đa đoan" như chúng tôi đã một lần đề 
cập ở trên. Hệ thống truyện cười kết chuỗi kể đời các ông Trạng bình dân xâu chuỗi các 
truyện cười (như những mảnh trò) có ý nghĩa như những "ngọn roi quất đứng người" đối 
với đủ mọi loại đối tượng: Vua chúa, quan lại,kỳ hào ác bá, trưởng giả kẻ chợ, trọc phú 
kẻ quê, các loại sư sãi thày bà giả danh lố bịch. Dưới điểm nhìn trào phúng của công 
luận, toàn bộ cuộc sống dường như đã bị đảo lộn. Những giá trị tinh thần đã bị lật ngược 
và đánh giá lại Đây cũng là thời kỳ Chèo sân đình phát triển đến độ toàn thịnh. Cũng như 
các ông Trạng trong truyện cười, chú Tễu trên sân khấu rối nước, những anh Hề chèo 
chính thức được tôn vinh thành các nhà "hiền triết vui vẻ" của nhân dân. Hề trên sân khấu 
Chèo truyền thống không phải tự nhiên mà có được cái vị trí "vô cai quản bất đắc thành 
hạ" (Thả sức tung hoành, không ai bắt bẻ được) và đó là sự kết tinh tổng hợp không chỉ 
từ hình thức trào phúng dân gian, mà còn là biểu tượng của sức mạnh tư tưởng, sức mạnh 
trí tuệ của nhân dân. Từ trong nguồn mạch nghệ thuật trào phúng dân gian, nghệ thuật 
trào phúng Chèo truyền thống trở thành một loại nghệ thuật đặc thù. Để có một cái nhìn 
thấu triệt quá trình và đặc điểm loại hình sân khấu dân gian đã chèo hóa các phương diện 
nội dung và hình thức trào phúng nói chung trong văn học nghệ thuật trào phúng dân 
gian, trước hết luận văn sẽ cố gắng xem xét vấn đề từ góc độ tổng quan. 
1.2. nghệ thuật trào phúng dân gian trong chèo truyền thống 
1.2.1. Những đặc điểm loại hình 
 Quan niệm của chúng tôi cho rằng: Nghệ thuật trào phúng dân gian chỉ thật sự 
"trào phúng" khi tiếng cười dân gian cần phải thực hiện một nhiệm vụ lịch sử của nhân 
dân - những tầng lớp lao động bị áp bức - trở thành một vũ khí phê phán giai cấp thống 
trị, khi Nhà nước phong kiến đã suy vong. Đã từng có quan niệm trong giới lý luận phê 
bình văn học thế giới cho rằng: Thơ trào phúng là một dạng trữ tình đặc biệt trong đó tác 
giả thể hiện tình cảm phủ nhận những điều xấu xa" [58, tr. 26]. Về thực chất, trào phúng 
chính là trữ tình áp dụng vào một đối tượng đáng ghét, lố bịch. Nguyễn Đình Chiểu phát 
biểu điều đó bằng thơ "Bởi chưng hay ghét cũng vì hay thương". Trong tác phẩm Tiếng 
cười dân gian Việt Nam, tác giả Trương Chính khẳng định: Văn học trào phúng lấy tiếng 
cười để đả kích, châm biếm, cho nên nó phải bao hàm hai yếu tố: yếu tố phê phán và yếu 
tố hài hước. Phê phán mà không cười, hoặc cười mà không phê phán thì không còn là 
trào phúng nữa [10, tr. 21]. Tác giả Đặng Thanh Lê cũng nhấn mạnh: Trào phúng là biện 
pháp nghệ thuật dùng tiếng cười để xây dựng hình tượng phủ định [58, tr. 23]. Nghệ thuật 
tiếng cười trong Chèo truyền thống được hình thành và phát triển từ trong ngọn nguồn 
nghệ thuật tiếng cười dân gian nói chung, theo đó, là một quá trình phát triển lịch sử hợp 
quy luật. Các kết quả nghiên cứu về nguồn gốc và quá trình phát triển nghệ thuật Chèo đã 
cho chúng ta một minh chứng thật sinh động, cụ thể, sáng tỏ vấn đề: Trong giai đoạn đầu 
của sự sinh thành và phát triển Phôn-clo, cùng với cái hình thức ca và vũ trong các trò 
diễn dân gian, Chèo là hình thức sơ khai của nghệ thuật diễn trò, đồng thời cũng là hình 
thức tổng hợp tự nhiên của sự sản xuất văn hóa tinh thần nói chung. Nó cũng là một mặt 
trong toàn bộ sáng tạo văn hóa thẩm mỹ của cộng đồng. Chèo sơ khai vừa là trò diễn dân 
gian, vừa có vị trí xứng đáng cấu thành văn hóa cung đình. Các tài liệu về sự có mặt của 
các con hát và sự tham gia vào sinh hoạt chèo hát của tầng lớp quý tộc phong kiến Đinh, 
Lê, Lý, Trần chính là sự phản ánh tình trạng nguyên hợp của ý thức xã hội chưa phân hóa 
thành các hình thức riêng biệt. Trong nó tổng hòa tự nhiên của cả chức năng tư tưởng hệ 
và văn hóa khác nhau. Trong hoạt động sáng tác, hoạt động trình diễn và hoạt động 
thưởng thức của Chèo sơ khai, nhân tố hài hước hồn nhiên phản ánh một hình thái tinh 
thần tự do của dân tộc buổi đầu độc lập tự chủ. Hiện tượng một nhà vua như Lý Nhân 
Tông tài hoa, giỏi vũ nhạc, chế ra trò múa rối rùa vàng "đưa người đời lên tiên cảnh, đặt 
triệu dân vào lạc viên"; hiện tượng một bậc kỳ nữ gốc cô gái hái dâu như ỷ Lan nguyên 
phi đã tạo dựng nên cả một thời đại kiến trúc chùa chiền chốn dân gian; hiện tượng một 
võ quan Trịnh Trọng Tử nổi danh tài trí đã sáng tác ngẫu hứng vãn ca để mở lối đám rưới 
linh cữu thượng hoàng Nhân Tông; hiện tượng một Trần Nhật Duật con vua, tướng tài, 
làm quan trải bốn triều đến Thái sư, Tể Tướng, cực kỳ uyên bác và say mê chèo hát... đều 
là các chứng cứ khẳng định: Cái cười Việt Nam trong chèo hát nói riêng cũng như nghệ 
thuật tiếng cười dân gian truyền thống luận đi sát với đời sống dân tộc và hoàn cảnh xã 
hội. ở thời kỳ Chèo sơ khai và bắt đầu có quy củ, nghệ thuật tiếng cười trong Chèo là 
biểu hiện của tự do. Nói đến nghệ thuật tiếng cười trong Chèo là nói đến vai Hề gắn liền 
với trò nhại - một hình thức giải trí. "Hình thức mô phỏng cuộc sống để mua vui trong Hề 
chèo sống dai dẳng rất lâu cho mãi đến thời kỳ Lê Mạt, thời chế độ phong kiến dần dần 
thoái hóa, nó mới có sự chuyển biến về nội dung, song song với sự tiến triển của toàn bộ 
nghệ thuật chèo" [5, tr. 17]. Năm 1501, Lương Thế Vinh đã có công trình Hý phường 
phả lục chép về trò nhại - đồng hình với một hình thức diễn trò phổ biến trong các trò 
diễn khôi hài trong dân gian. 
 Nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống, theo đó có lẽ phải bắt đầu từ 
khi Nhà nước phong kiến Hậu Lê đặt ra nhã nhạc để đối trọng và thay thế Tục nhạc - vốn 
là âm nhạc cung đình có nguồn gốc dân gian. Cùng với nghệ thuật tiếng cười dân gian, 
Chèo trở về với bến nước, sân đình... Từ đây, Chèo cổ được đời sau định danh là Chèo 
sân đình. Từ đây, tiếng cười trong Chèo chuyển hóa thành cái cười - một khái niệm được 
đời sau định danh. Đối tượng cười của Chèo sân đình không còn là những hình ảnh của 
đời sống tươi vui trong lao động tự do của trò nhại "nguyên thủy", thay vào đó là cái hài - 
cũng là một khái niệm được đời sau định tính. Nói cách khác, cũng từ thời điểm này, 
nghệ thuật hài hước trong Chèo truyền thống chuyển hóa thành nghệ thuật trào phúng 
Chèo truyền thống đích thực. Tiếng cười đùa bỡn hiền hòa trong thái độ tấn công thân 
mật của Chèo buổi sơ khai hình thành đã thay thế bằng cái cười mang ý nghĩa xã hội thực 
sự to lớn. Đó là cái cười phê phán đặc biệt bằng cảm xúc và là kết quả sự phát hiện của lý 
trí bén nhọn. Cùng với sự xuất hiện và nở rộ của truyện cổ tích sinh hoạt trong đó có thể 
tài cổ tích hoạt kê, trong đó vai chính là những nhân vật tiêu cực thuộc tầng lớp kẻ sĩ, 
thương nhân, trọc phú (Mụ Lường, Chó đá đổ máu, Bà lớn đười ươi,...; cùng với sự xuất 
hiện ngày càng phong phú thơ ngụ ngôn gá gửi những tấn trò đời cô đặc và ca dao trào 
phúng, truyện cười đánh những đòn chí mạng vào giai cấp phong kiến cuối Lê - đầu 
Nguyễn, nghệ thuật trào phúng Chèo trên khắp các chiếng chèo đã dệt thêu nên những 
bức ký họa rộng lớn: 
Quan chèo còn chẳng ra gì 
Vua chèo thì có khác chi thằng hề... 
Hóm hỉnh và cay độc, trò hề ở nơi nơi. Khi nghệ thuật trào phúng dân gian nói 
chung đã giăng thành vũ khí tiếng cười mang sức mạnh có thể lật ngược mọi sự đời với 
chức năng lịch sử của sự "kết thúc vui vẻ" thì cũng là lúc Chèo toàn thịnh. Trên sân khấu 
hài chèo: Vua chúa, thần thánh, quan lại, trọc phú, cường hào chức dịch... từ cung vua 
phủ chúa đến các nơi thôn cùng xóm vắng "đã bị vần một mẻ như những thằng ngốc bất 
lực trong những câu chuyện vui vẻ đầy tinh thần bất kính, bị chôn vùi bằng sự đùa cợt 
báng bổ" [53, tr. 152]. Trong đó, các mảnh trò ngoài tích trò được ứng diễn bởi các vai hề 
áo ngắn (hề mồi, hề gậy) cùng cộng hưởng "cái cười xã hội" với các mảnh trò đa dùng 
trong tích của các vai hề áo chùng (hề tính cách) đã đem lại cho công chúng chèo nơi 
đình trung làng xã những trận cười đồng loạt. Có thể nói: Sự vận động của nghệ thuật 
trào phúng trong Chèo truyền thống dân tộc cũng như nghệ thuật trào phúng dân gian nói 
chung đã phát triển theo một quá trình hợp quy luật. Đó cũng là một minh chứng làm 
sáng tỏ cái chân lý nghệ thuật mà C.Mác đã chỉ ra trong lịch sử văn học nghệ thuật nhân 
loại: "Lịch sử hành động triệt để, và khi nó muốn đưa một hình thái đã già cỗi của cuộc 
sống đến huyệt, thì nó phải trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn cuối cùng của một hình 
thái lịch sử toàn thế giới là tấn hài kịch của nó. Các thần linh Hy Lạp sau khi bị thương 
chí mạng lần thứ nhất - dưới hình thức bi kịch - trong vở Prômêtê bị xiềng của Eschyle, 
thì lại phải chết lần thứ hai dưới hình thức hài kịch - trong vở Đối mặt của Lucien. Tại 
sao sự diễn biến của lịch sử lại xảy ra như thế. Cái đó cần để cho nhân loại rời bỏ quá 
khứ của mình một cách vui vẻ" [58, tr. 32]. 
Có điều, lịch sử xã hội Việt Nam có những đặc điểm đặc thù. Những người nông 
dân làng Việt đã từng siết chặt nắm tay thành quả đấm của đoàn quân áo vải cờ đào, phế 
truất chúa Trịnh, đánh bại hai mươi vạn quân Thanh xâm lược nhưng cũng là "những con 
người chưa có một ngọn cờ "tự do bình đẳng bác ái", mà chỉ là những con người của chủ 
nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa tự nhiên của anh thợ cày, chú thợ mộc, bác thợ thêu, chị 
hàng xén" [14, tr. 187]. Cái chết của Trạng Quỳnh chứng tỏ: Chủ nghĩa kinh nghiệm của 
dân gian và phong trào Tây Sơn chưa thể tạo ra một cuộc cách mạng thật sự. Cũng vì thế, 
nghệ thuật trào phúng Chèo truyền thống mà hiện thân của nó là các nhân vật Hề chèo 
"đại biểu cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, của tất cả những người nông dân lao khổ, 
hướng được tiếng cười mạnh mẽ vào cái chế độ đương thời (Từ cuối Lê trở đi - Đ.T.T) để 
phá nó, đồng thời tự cổ vũ mình, để tự khẳng định mình trong cuộc đấu tranh giai cấp vô 
cùng khốc liệt" [5, tr. 12] có được sức sống trường tồn trong đời sống văn hóa dân gian 
phải có những phẩm chất đặc thù. 
1.2.2. Những phẩm chất đặc thù 
 Đặc điểm chung của phẩm chất trào phúng nhân vật Hề chèo: Lần mở những 
trang Chèo truyền thống từ tính trò này đến tính trò khác, không phải ngẫu nhiên các nhà 
nghiên cứu Chèo truyền thống hầu như đều nhất trí cho rằng "Vai nam đặc biệt nhất trong 
chèo không phải là vai chính, mà là vai hề trong các màn phụ. Hề chuyên đóng những vai 
tầm thường như lính hầu, Cu Sứt, tiểu đồng, anh quán, ông Chài, Lão say... song Hề lại 
cần phải có học thức, giỏi khoa tâm lý, lịch lãm hoạt bát. Tuy dụng tâm trêu chọc người 
ta, nhưng Hề đã nghĩ câu giải thích hợp tình, phòng khi đối phương gọi đến chất vấn. 
Chủ ý của Hề là làm sao cho khán giả phải cười, cười có vẻ hồn nhiên, cười cho thật thỏa 
thuê, có khi qua sự châm chọc, mỉa mai, cạnh khóe mà chẳng ai giận được. Sự trào lộng 
của Hề cũng không được cục cằn thô bỉ, mà phải văn hoa sâu sắc đến độ người cầm chầu 
(có khi là một chức sắc nơi làng xã - Đ.T.T), người ngồi xem, dù có bị châm chọc cũng 
phải cười xòa" [16, tr. 272]. Hề giáng đòn thù mà đồng thời cũng làm sống động không 
khí của đêm diễn. Trong gia tài giai thoại về các nghệ sĩ sắm vai Hề Chèo truyền thống, 
chúng tôi nhận thấy có vô số những hồi ức hề "hiền triết vui vẻ" [16, tr. 263 -272]. Để 
sáng tạo được những vai diễn trò trào phúng mẫu mực như thế, nghệ thuật trào phúng 
chèo phải là sự tổng hợp tinh hoa nghệ thuật trào phúng dân gian đến mức thành tạo được 
một giá trị độc nhất vô nhị trong gia tài trào phúng dân gian dân tộc. Đó là chất hài Chèo 
mà về sau, đến thời đại trào phúng chèo mới, các nghệ sĩ mới bước vào thế giới nghệ 
thuật Chèo cũng phải lấy đó làm những bài học cơ bản. Cũng vì thế, trong đời sống Chèo 
trước nay đã cho thấy: một gánh Chèo sẽ không thể đứng vững nếu không có một vài 
diễn viên tài hoa và duyên dáng để nhập vai Hề. Nghệ thuật công diễn giữa thanh thiên 
bạch nhật chốn đình trung của Hề rất khác với nghệ thuật sáng tạo truyện cười và dân ca 
trào phúng không phải chỉ ở thủ pháp mà trước hết là ở hoàn cảnh sáng tạo. Tác giả 
truyện cười và ca dao trào phúng có thể mai danh ẩn tích để tránh sự đối đầu với đối 
tượng bị cười. Trò ứng tác trào phúng của Hề chèo ngược lại, nó được biểu hiện giữa 
thanh thiên bạch nhật. Sự thông minh và bản lĩnh trước búa rìu của giai cấp thống trị 
trong xã hội cũ phản ánh tập trung tài năng và nhân cách của Hề. Không có đặc điểm đó, 
Hề ngoài tính không có lý do tồn tại trên sân khấu Chèo được. Trong Chèo Quan Âm - 
Thị Kính, cái lẽ tồn tại của nhân vật Mẹ Đốp xét cho cùng là ở quyền uy trí tuệ đứng trên 
mọi quyền uy khác ở trong đời. Một mặt mẹ Đốp phải bằng điệu bộ, giọng nói, giọng hát, 
nét mặt, nghĩa là phải sử dụng mọi yếu tố của nghệ thuật diễn xuất với mọi sắc thái dí 
dỏm chua ngoa đanh đá, gây được tiếng cười trong công chúng tập thể khán giả; mặt 
khác nhân vật này còn phải một mình đương đầu đối phó trực diện với tất cả sức mạnh 
quyền uy có thật của Lý trưởng và Hội đồng kỳ mục tai to mặt lớn trong làng. Rút cuộc, 
mẹ Đốp thủ thắng. Giới chức sắc trong làng đã bị một nhân vật tiêu biểu cho "chúng 
dưới" thuộc hạng thấp mũi - bé miệng, thấp cổ - bé họng, đầu chày - đít thớt "vần" cho 
một mẻ đến trở thành thụ động lố bịch. Tất nhiên, bên trong cái trí tuệ hài hước của mẹ 
Đốp, cái chua ngoa đanh đá của mẹ Đốp vẫn ẩn chứa một cái gì đó tràn đầy nữ tính, vẫn 
tiềm tàng một cái gì đó chứa chan tình nghĩa giữa khung cảnh nông thôn nhỏ bé của tích 
truyện, của làng quê Việt đầy tinh thần cộng cảm, khiến cho người xem phải ngơ ngác 
phân vân - trong đó có cả kẻ đối diện với mẹ Đốp trên cùng một chiếu chèo. Đây cũng là 
một nét đặc thù. 
 Đặc điểm chung của cơ cấu bên trong hình thức trào phúng hề chèo: Đương 
nhiên, đối tượng phê phán (cười không phê phán không phải là chất lượng đích thực trào 
phúng - Đ.T.T) của Hề chèo cũng như của nghệ thuật trào phúng nói chung phải là cái 
Hài. Cái Hài được khoa Mỹ học Mác-xít định nghĩa như sau: "Một hiện tượng xã hội nào 
được coi là lỗi thời theo quan điểm triết học, là đê tiện theo quan điểm đạo đức, là phản 
động theo quan điểm chính trị thì theo quan điểm mỹ học, nó được coi là có tính hài 
kịch" [70, tr. 439]. Nhiều nhà nghiên cứu mỹ học cái hài còn chỉ rõ: Khi cái xấu tìm cách 
làm ra vẻ nó không phải là xấu, thì nó gợi lên cái cười, do những tham vọng ngu ngốc và 
nhưng mưu toan bất lực của nó. Nói cách khác: cái hài kịch là sự trống rỗng và tính hoàn 
toàn vô nghĩa ở bên trong, nhưng lại tự che đậy dưới một bề ngoài đầy tham vọng, tự gán 
ghép cho nó một nội dung và một ý nghĩa có thật. Như vậy, hiển nhiên cái hài chính là 
cái xấu, cái đáng cười nhạo. Song trong thực tế, không phải tự nó tạo nên tiếng cười. 
Trước cái xấu, dường như phản ứng của người đời thường là khinh bỉ, căm ghét. Tiếng 
cười chỉ xuất hiện khi nó - cái chứa đầy mâu thuẫn - được hài hóa. Vốn dĩ nó thường ẩn 
khuất trong cuộc sống đời thường ở những trạng thái này hay trạng thái khác. Nó phải 
được trí tuệ của vốn sống và sự nhạy cảm đời thường phát hiện ra nó, và đưa nó vào một 
cái bẫy lôgíc. Cách làm như thế có cả trong văn chương bác học (ví dụ như Số đỏ của Vũ 
Trọng Phụng, Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan...) song từ trong cội nguồn, đó 
là sáng tạo của tài trí dân gian. Trong đó, đối tượng châm biếm đả kích phải được chọn 
lựa ở mặt mâu thuẫn đặc biệt (có sự che giấu chứa đầy sự trớ trêu) và được đưa vào một 
hoàn cảnh đặc biệt (cái thật và cái giả, cái thực chất và cái giả vờ có song song tồn tại 
giằng co). Khi đó trạng huống hài kịch cứ theo từng khoảnh khắc dâng đầy, từng khoảnh 
khắc buộc tư duy phải phân tích, phán đoán. Và đến một thời điểm bất chợt nào đó, tư 
duy nhanh như tia chớp thâm nhập vào bản chất đối tượng, lật lên và làm trung hê cái bộ 
mặt thật của nó qua sự đối chiếu đột ngột, bất ngờ, tạo nên cảm xúc kinh ngạc làm bùng 
nổ tiếng cười, đem lại cho "tất cả" một niềm khoái cảm chân chính của lý trí sáng suốt. 
Nhìn chung, cách làm trên đã được thể hiện trước mọi văn tài nghệ sĩ cầm bút, được bộc 
lộ trong cổ tích hoạt kê, trong truyện cười đơn lẻ cũng như truyện cười kết chuỗi. Và ở 
chừng mực nào đó, có lẽ khung cách ấy đã được nảy mầm từ trong cấu trúc của vô số tứ 
ca dao trào phúng. Song cách làm trên (chúng tôi gọi theo kiểu nói trong nghề chèo: Làm 
chèo - Đ.T.T) đã và chỉ đạt đến độ điêu luyện và đỉnh cao nhất trong hình thức trào 
phúng Chèo truyền thống thông qua các mô thức nhân vật Hề chèo. Đó cũng chính là một 
đặc điểm đặc thù. Cái lý do để nghệ thuật trào phúng Chèo truyền thống đạt được như 
thế, trước hết chính là "kịch tính" được cô đặc trong tự sự Hề chèo. Không phải ngẫu 
nhiên, nghệ thuật trào phúng trong các truyện cười đặc sắc nhất như: Nam mô boong, 
Vừa buồn cười vừa sợ, Tam đại gàn, Sợ vợ chết cứng... được đánh giá là tràn đầy kịch 
tính. Chúng tôi quan niệm đây cũng là một nét đặc thù trong nghệ thuật trào phúng truyền 
thống. Những khía cạnh cụ thể sẽ được luận văn giải trình ở các chương sau. 
 Sự chi phối của nghệ thuật trào phúng vào cấu trúc bản trò Chèo: Khi nghe kể 
cũng như được xem một vở chèo truyền thống như Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, 
Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Trinh Nguyên, Từ Thức, Chu Mãi Thần... khán giả 
chèo sẽ nhận ra sự khác nhau giữa "thân trò' thì có vẻ hoàn toàn là bi kịch nhưng trên sân 
khấu, lại dường như đó là những vở hài kịch (?). Thậm chí, đã có một nhà nghiên cứu 
chèo cự phách như Vũ Khắc Khoan có dịp đã từng cho rằng Chèo là hài kịch [16, tr. 
217]. Chúng ta có thể tóm tắt cốt truyện tự sự trong vở Quan Âm Thị Kính: 
Ông Mãng có con gái là Thị Kính đến tuổi lấy chồng. Thiện sĩ, học trò dòng dõi 
thi thư, đến xin làm rể. Ông Mãng bằng lòng cho họ nên vợ nên chồng. ở nhà chồng đã 
thành lệ, ngày đêm Thiện sĩ ngồi học bài, cạnh đó, Thị Kính kim chỉ vá may. Một đêm 
khuya, chàng mệt, ngả lưng yên giấc. Nhìn cằm chồng, thấy chiếc râu mọc ngược, sẵn 
dao bén, nàng định xén đi. Bất ngờ, Thiện Sĩ bừng tỉnh thấy vậy, gạt tay vợ, kêu lên thất 
thần. Mẹ Thiện Sĩ là Sùng bà chạy vào, nghe con trai kể, tưởng là con dâu giết chồng. 
Sẵn định kiến về dòng dõi tự phong, Sùng bà mắng Thị Kính thậm tệ rồi đuổi nàng về 
nhà cha mẹ đẻ. Thị Kính thương thân xót phận, đành thay dạng nam nhi, xin vào chùa đi 
tu, được Sư cụ nhận và cho hiệu là Kính Tâm. Trong làng, có Thị Màu con gái Phú ông, 
thấy Kính Tâm đẹp người đẹp nết liền tìm mọi cách dụ tiểu Kính xiêu lòng. Bị cự tuyệt 
dửng dưng, thị Màu thất tình về nhà mình dan díu với anh lực điền làm công tên là Nô. 
Phú ông bắt gặp, sợ mang tiếng với làng, cho tiền Nô và đuổi anh ta đi khỏi làng. Thị 
Màu mang thai, bị làng ngả vạ. Xã trưởng gọi mõ đi rao. Hắn thấy mẹ Đốp (vợ mõ) thay 
việc chồng, giở trò tán tỉnh, bị mụ Đốp mắng khéo. Mõ mời từ cụ Đồ điếc, đến ông 
Hương câm, ông Thày mù lần lượt ra đình ăn khoán. Xã trưởng sai Tuần gọi Thị Màu tra 
hỏi. Thị chối quanh, nói bừa, sau rồi đổ vấy cho Thị Kính. Tuần mời Sư cụ và Tiểu Kính 
đối chất. Tiểu Kính một mực kêu oan, còn Thị Màu không chịu. Xã trưởng sai Tuần đánh 
đòn Tiểu Kính. Sư cụ không đành lòng, nộp khoán rồi cho Tiểu Kính ra ở mái tam quan. 
Thị Màu sinh con, đem trả nhà Chùa. Tiểu Kính nhớ lời Phật dạy "Cứu nhất nhân đắc kỳ 
vạn phúc", nên ẵm về nuôi. Hàng ngày, Tiểu Kính bồng đứa trẻ đi giáo sữa. Ròng rã ba 
năm trời, sức cùng lực kiệt, Tiểu Kính viết thư để lại cho cha mẹ, rồi hóa. Sau đó mọi 
người mới hay Tiểu Kính Tân là gái. Nhà chùa lập đàn giải oan cho nàng siêu sinh tịnh 
độ. 
Để minh chứng nội dung thân trò tràn đầy tính bi kịch, có thể dẫn thêm cốt 
truyện tự sự trong Chèo Kim Nham: 
Kim Nham tự xưng là "con nhà dòng dõi thi thư". Chàng nghe nói Huyện Tể có 
người con gái đẹp, bèn sang xin làm rể. Huyện Tể gọi con trai là Cả Sứt ra hỏi. Cả Sứt 
rắp tâm độc chiếm gia tài, nên gả phắt em gái Súy Vân cho Kim Nham. Họ làm lễ tơ 
hồng. Trong cảnh gia đình chưa lâu, Kim Nham nghĩ tủi thân phải nhờ vợ, quyết chí đi 
học thành tài. Súy Vân than thở không muốn xa chồng nhưng nàng không ngăn được 
Kim Nham. Vừa lúc ấy, lại có Trần Phương nhà giàu, quê ở Đông Ngàn, cùng thằng Hề 
ra thành thị cầu danh. ở quán trọ, Trần Phương được mụ Quán mách mối, bắt cặp với Súy 
Vân. Hắn thả lời đường mật, làm cho nàng xiêu dạ, nghe hắn bày mưu, về nhà giả dại, 
đòi chồng rời bỏ. Thế rồi Súy Vân giả điên, suốt ngày hát xuôi, múa ngược. Người nhà lo 
ngại viết thư báo tin dữ cho Kim Nham. Vừa về đến nhà, chưa kịp rõ sự tình, chàng đã bị 
Súy Vân tới tấp xỉa xói, dở điên dở dại đòi bỏ, bằng không nàng dọa sẽ liều mình. Kim lo 
thuốc thang cho vợ không khỏi, phải cho mời Phù Thủy đến lập đàn. Phù Thủy cùng cô 
Đồng dắt díu nhau đến thư hương bứat quyết trừ tà. Súy Vân cầm cành cây xô vào vụt 
đánh họ, làm cả hai người bỏ chạy. Hết đường cứu chữa, Kim Nham đành làm giấy cắt 
đứt với Súy Vân. Nàng mừng rõ cầm giấy, chạy bổ đi tìm Trần Phương nhưng Trần đã 
biệt tăm. Phần Kim Nham, chàng vẫn nén lòng quyết chí, rồi sau thi đỗ, được bổ nhiệm 
chức Tri Phủ. Đúng vào hôm quan Phủ mới làm tiệc khao thì có kẻ ăn mày bước vào xin. 
Kim nhận ra đó chính là người vợ cũ. Kim sai lính đem vàng nhét vào nắm cơm cho kẻ 
ăn mày. Súy Vân bẻ cơm ăn, biết chuyện, nàng xấu hổ nhảy xuống sông tự vẫn. Được tin, 
Kim Nham cho lính tìm vớt xác Súy Vân, rồi cho mai táng chu đáo. Súy Vân lìa trần 
ngay đúng như lời thể của nàng và ngay trên dòng sông mà Trần Phương đã hứa mang 
thuyền hoa đến đón nàng. 
Nếu chúng ta tóm tắt lược đồ cốt truyện các vở chèo cổ khuyết danh khác, cũng 
sẽ thấy tình hình tương tự, cho dù có kết thúc có hậu hoặc không. Các thân trò (cốt tự sự 
chèo) hầu như đều được sáng tác dựa theo các truyện Nôm khuyết danh, một loại tác 
phẩm văn học được coi là dấu nối giữa văn học dân gian với văn học thành văn, song hầu 
hết cốt truyện đều phỏng theo cổ tích. Đương nhiên xét bản trò với tư cách văn chèo, một 
thể tài kịch hát dân tộc thì nó phải là một thể tổng hợp của ba yếu tố tự sự, trữ tình và 
kịch. Chúng hòa nhập với nhau thành một thể hữu cơ. Trong đó, các nhà nghiên cứu kịch 
hát dân tộc đều nhất trí cho rằng Chèo là một loại tự sự tổng hợp [1, tr. 49]. Do đó, tự sự 
trong Chèo phải giữ vai trò chủ đạo, và có liên quan chặt chẽ với nền văn chương tự sự 
Việt Nam, chủ yếu là truyện Nôm. Trong đó, hầu như mọi truyện nôm đều đã được 
chứng minh của các Nho sĩ thân dân, muốn hòa vào cuộc sống bình dân. Dầu vậy, nho sĩ 
vẫn là nho sĩ, những người đã ít nhiều theo đòi sân Trình cửa Khổng và ảnh hưởng hệ tư 
tưởng phong kiến. Những Nho sĩ tham gia làm chèo thì có phức tạp hơn, bởi vì dù muốn 
hay không thì chèo trên sân khấu là một sáng tạo có tính tập thể. Căn cứ vào thân trò với 
phần lời văn chủ yếu là thứ văn chương bác học, chứa nhiều từ Hán Việt nghiêm trang và 
điển cố chuẩn mực, lại có nội dung thường là giáo huấn người phụ nữ khôn theo phép tắc 
phong kiến hoặc giáo lý nhà Phật trừng ác khuyến thiện, có thể thấy đây là phần sáng tác 
chủ yếu của các Nho sĩ kế tiếp nhau sáng tạo. Và điều này cũng đúng như đã được Quách 
Nội Phu ghi trong lời tựa sách Hí phường phả lục của Lương Thế Vinh [16, tr. 54]. Trên 
sân khấu Chèo cổ, ngoài hai nghịch nữ "lệch" là Súy Vân (Kim Nham) và Thiệt Thê 
(Chu Mãi Thần) theo quan điểm thể hiện trong tích cổ, các vai nữ "chín" như Thị Kính 
(Quan Âm Thị Kính), Thị Phương (Trương Viên), Châu Long (Lưu Bình Dương Lễ), 
Trinh Nguyên (Tôn Mạnh Tôn Trọng)... đều là những vai chính và là những gương sáng 
soi chung. Cứ như thế thì chắc hẳn tích trò chèo mang đầy tính chất trữ tình, và phẩm 
chất trữ tình chèo chủ yếu mang màu sắc bi kịch. Tuy vậy, cho dù thân trò có là cái cốt 
lõi, cái xương sống của tích chèo, là trục trung tâm của trò diễn thì vấn đề cấu trúc bản 
trò (kịch bản Chèo - chỉ được hoàn thiện trên sàn diễn - Đ.T.T) lại khác. Bởi lẽ người 
nghệ nhân chèo lại thuần túy bình dân và chủ yếu, họ là nông dân. Tác giả Trần Bảng gọi 
họ là người nông dân - nghệ sĩ. Kết quả là lời trò trên sàn diễn là bên cạnh thân trò trang 
nghiêm bác học, người nông dân nghệ sĩ "vẫn tiếp tục đi trong cuộc đời với hành trang 
truyền thống là trí khôn ngoan dân dã (Sagessepopulaire). Và một ý thức mới nảy sinh, ý 
thức dân chủ khát khao một cuộc sống tự do hơn, dân chủ hơn [1, tr. 12]. Lợi thế của họ 
là nắm giữ vai trò chủ đạo trong sự sáng tạo trò diễu. Thị Mầu trong truyện thơ Nôm 
Quan Âm Thị Kính chỉ vẻn vẹn được nhắc đến bằng hai câu lục bát hàm ý chế giễu. Thị 
Màu trên sàn diễn vừa hát vừa múa có lời trò khoảng hơn năm mươi dòng và chủ yếu là 
ca dao trữ tình được sáng tạo lại. Thị Màu trong trò diễn lên chùa trở thành một hình 
tượng đẹp, khát khao, say đắm, hừng hực bốc lửa. Người xem chèo chủ yếu cũng là nông 
dân, dù thuận lý họ vẫn gọi cô là "lẳng" nhưng "cái cười" vào Thị Màu thì lại không còn 
thuận lý thân trò. Mảnh trò xử Thị Kính cũng biến thành một ngọn roi quất đứng người 
nhằm vào cái "bộ sức mạnh" nơi làng xã đã ngả màu xôi thịt, được ngụy trang bằng 
quyền uy đã đến độ tự nó cũng đủ thành rữa nát. Theo cách làm Chèo trên trò diễn, các 
nghệ sĩ nông dân giỏi nhất như các "bác thơ" cũng chỉ đạt đến trình độ khóa sinh giữa đời 
thường dân gian, lẽ tự nhiên theo yêu cầu của khán giả nông dân giàu tài năng phát lộ 
trong tiềm thức [55, tr. 77], họ đã hồi quy về với nghệ thuật ứng diễn truyền thống trong 
quá trình "xếp tích", "ghim ghép trò", "bổ vai" mà sáng tác bổ sung. Kết quả là những 
miếng trò hay chủ yếu lại nằm ở phần diễn trò ngẫu hứng trong tích hoặc ngoài tích trên 
cơ sở thân hóa các mảng miếng hài hước, châm biếm, đả kích có sẵn trong gia tài nghệ 
thuật trào phúng dân gian. Thế là Nho sĩ và những người nghệ sĩ nông dân trở thành 
những lực lượng đồng sáng tạo. Cấu trúc thân trò (cốt truyện tự sự đồng thời cũng là kịch 
bản nguyên phát của Chèo) do Nho sĩ sáng tạo vốn mang phẩm chất bi thời kỳ đầu hình 
thành đã bị/được phá vỡ bởi phần sáng tạo ngoài tích sắc nhọn đầy kịch tính và mang 
phẩm chất hài cân bằng trở lại, thấm dần vào cốt lõi, tạo thành tổ hợp bản trò (kịch bản 
truyền miệng được ghi chép lại) với một cấu trúc chỉnh thể mà ngày nay chúng ta gọi là 
kịch bản Chèo truyền thống đã định hình. Đặc điểm đặc thù này của nghệ thuật trào 
phúng trong Chèo truyền thống (nhìn từ góc độ tổng quan) đã khiến cho các nhà sáng tác 
Chèo mới những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX phải nếm trải những "thất bại" 
khi họ muốn kịch hóa chèo, B.Brếch hóa hoặc Xta-nhi-láp-xki Chèo. Vì làm Chèo như 
thế, vở diễn đã chuyển loại, không còn mang đặc trưng Chèo - một sáng tạo có tính bản 
sắc nghệ thuật sân khấu dân gian dân tộc. Cách gọi Chèo truyền thống là một thể tài bi 
hài kịch dân tộc, vì thế dễ dàng được giới Chèo cũng như công chúng Chèo hiện nay 
chấp nhận. Theo chúng tôi, dù các nhà nghiên cứu Chèo hiện đại có gọi cấu trúc này là 
kết quả của cội nguồn tư duy triết học phương Đông (tư duy cầu tính, hài hòa âm 
dương...) thì từ xa xưa, ở vào cái thời Chèo toàn thịnh, cái nguyên do trực tiếp khiến cho 
hai phẩm chất thẩm mỹ vốn đối trọng với nhau (cái bi - cái hài) lại có thể hài hòa trong 
một kết hợp thể Chèo truyền thống rất giản dị bởi không ít tiếng cười trong chèo là tiếng 
cười thật ra nước mắt. Đây cũng là đặc điểm rất đặc thù của nghệ thuật trào phúng Chèo 
so với Tuồng hài - cũng là một hình thức kịch hát dân tộc. Những khía cạnh cụ thể, luận 
văn sẽ phân tích ở các chương sau. Trên góc độ tổng quan, chúng tôi trích dẫn sau đây 
một nhận xét của người xem Chèo ở nước ngoài. Một chuyên gia sân khấu Đức khi xem 
Đoàn sân khấu dân tộc Việt Nam diễn Chèo (năm 1984) đã phát biểu rằng ông đặc biệt 
chú ý ngay đến hiện tượng bi hài này trong Chèo. Và theo ông, cười trong Chèo là cái 
cưới trí tuệ, có chức năng gián cách, ngăn khán giả sa đà vào sự bi ai, giữ được sự tỉnh 
táo để nhìn ra xã hội cái bi [1, tr. 28]. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống.pdf LUẬN VĂN- Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật trào phúng trong Chèo truyền thống.pdf