Phong cách Nguyễn Tuân qua tuỳ bút kháng chiến (1946 - 1954)

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn. Ông lớn vì nhân cách của một nhà văn chân chính và lớn vì ở ông có một phong cách sáng tạo độc đáo. Cả cuộc đời lao động bền bỉ, hiến mình cho nghệ thuật, NguyễnTuân đã góp cho đời một thứ hương sắc riêng. Đó chính là những văn phẩm đầy tài hoa. Đặc biệt là những trang tuỳ bút hết sức độc đáo thể hiện rõ “ chất Nguyễn Tuân ”. Sáng tác văn học của Nguyễn Tuân là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam hiện đại . Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tuân đã trải qua nhiều bước thăng trầm, từng được yêu, từng bị ghét, thậm chí là phê phán gay gắt, nhưng rồi cuối cùng vẫn trở về v à sống mãi trong lòng bạn đọc.

pdf95 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3514 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phong cách Nguyễn Tuân qua tuỳ bút kháng chiến (1946 - 1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghĩa về người nghệ sĩ”, thì trước hết, phẩm chất nghệ sĩ ấy bộc lộ ở việc sáng tạo ngôn từ. Không bằng lòng với những con đường mà nhiều người đã đi ngày hôm qua, ông trăn trở với việc tìm ra cái mới của chữ nghĩa. Cá tính muốn vượt thoát khiến từ ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân luôn đi theo nguyên tắc lạ hoá. Ông phải tạo ra nhiều phương thức ngôn từ mới đặc sắc, kì lạ để giảm bớt sự nhàm chán, đồng thời gây ấn tượng khác thường cho người đọc. Văn tuỳ bút dễ rơi vào đơn điệu, bởi ở thể loại này số nhân vật không nhiều, tình tiết ít, người ta không thể tìm thấy ở đó những vấn đề rộng lớn của hiện thực cho nên cái hay của tuỳ bút là cái hay của văn, của ngôn từ được chọn lọc, được gọt rũa một cách bóng bẩy, hoa mĩ, mới lạ nghĩa là phải có cái độc đáo mà thể loại khác không có. 3.3. Câu văn và giọng điệu nghệ thuật 3.3.1.Câu văn nghệ thuật 3.3.1.1.Quan niệm về câu văn và đặc điểm chung của câu văn Nguyễn Tuân Nguyễn Tuân có những quan điểm độc đáo về câu văn. Ông cho rằng: “Người làm nghề viết văn phải tạo ra những câu văn có khớp xương biết co duỗi nhịp nhàng chứ đừng bắt người đọc của mình những câu tê thấp” (Quá trình bồi dưỡng nghề viết văn của tôi). Theo ông, câu văn trong tác phẩm văn học nó phải như hơi thở của cuộc sống. Nghĩa là lúc thì rất nhanh, dồn dập; lúc lại nhẹ nhàng, êm ái. Khi ngắn, khi dài, khi co, khi duỗi, khi dàn trải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 mênh mông. Lúc đi thẳng hướng, khi rẽ ngang, rẽ dọc, biến hoá theo nhịp liên tưởng của lối văn tuỳ bút dài dòng, lê thê đầy ngẫu hứng. Với quan niệm như vậy, Nguyễn Tuân đã tạo được những câu văn mang sắc thái độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu, bạn đọc rất thích những “câu văn điêu khắc”, “vừa rất qui tắc lại vừa rất phá cách” của Nguyễn Tuân. Có người lại rất mê những cách hành văn đặc biệt của ông. Hoài Thanh gọi đó là những “câu rất luyện”. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có nhận xét xác đáng về văn Nguyễn Tuân: “Câu văn Nguyễn Tuân có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng. Ông là nghệ sĩ ngôn từ biết chú trọng đến âm điệu, nhịp điệu của câu văn xuôi” [21; tr.54]. Phan Ngọc còn phát hiện thêm một số đặc điểm thú vị khác trong câu văn Nguyễn Tuân: “Người ta sẽ nhắc tới một nhà văn tài hoa có cái nhìn sắc sảo, một cách hành văn mới mẻ ở đó thể hiện một sự giao thoa giữa quá khứ và hiện tại, đặc điểm của mọi nhà văn lớn” [30; tr.198]. Văn là người, câu văn Nguyễn Tuân chính là con người ông: tài hoa, đa dạng, phức tạp và độc đáo. Nguyễn Tuân sáng tạo cho mình một lối văn riêng. Ông không bao giờ khép mình vào một công thức ngữ pháp hay một quy định, quy tắc nào mà luôn tìm cách phá vỡ cấu trúc câu kiểu mẫu ban đầu để tạo nên những kiểu câu có cách biểu hiện độc đáo hơn. Bởi vậy, đọc văn Nguyễn Tuân, ta luôn bị lôi cuốn bởi những kiểu câu khác lạ, đa dạng, phong phú, những câu văn trùng điệp, phức cú; những kiểu câu có khớp xương biết co duỗi nhịp nhàng. Và đặc biệt là những câu văn giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh, giàu nhạc điệu, chất thơ... Những kiểu câu thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Nguyễn Tuân quan niệm về câu văn nghệ thuật rất phóng túng. Văn Nguyễn Tuân “không nghiêng hẳn về lối viết nào”. Câu văn Nguyễn Tuân cũng luôn luôn khác người, mang dấu ấn phong cách và cá tính của ông. Nó có kiểu cấu trúc vừa đơn giản, vừa phức tạp. Ông là bậc thầy của ngôn từ Tiếng Việt, luôn biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của câu văn xuôi. Ông cũng đòi hỏi trong văn phải có chất nhạc, chất thơ, chất trữ tình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Câu văn Nguyễn Tuân sở dĩ co duỗi là do phải đi sát với trí tưởng tượng phóng túng của nhà văn. Nó diễn tả rất rõ những gì ông cảm giác được, tri giác được, những gì ông liên tưởng, tưởng tượng một cách lạ lùng, khác người. Nghĩa là câu văn ấy đi theo dòng suy tưởng, theo nhịp độ suy cảm của nhà văn. Những nỗi xúc động, đau khổ, chán chường hay niềm vui sướng đều được biểu hiện trong câu văn mà ông lựa chọn. Câu văn cũng theo nhịp điệu của phong cách tuỳ bút, nó chậm rãi, lê thê, dài dòng miên man. Nó rẽ ngang, rẽ dọc và biến hoá bất ngờ theo mạch liên tưởng tự do không phụ thuộc vào công thức nào... vì sức liên tưởng rộng và tính chất nhàn tản, chậm rãi của tuỳ bút mà câu văn thường dài dòng, phức hợp có nhiều thành phần phụ, cấu trúc trùng điệp... tất cả đã tạo ra một vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại vừa phức tạp. Đọc văn Nguyễn Tuân, người ta thấy nhà văn cứ như đang thủng thẳng, gặm nhấm từng câu chữ, nhẩn nha gọt tỉa từng từ... Những câu văn ấy cũng chính là thể hiện cá tính của nhà văn và chịu sự chi phối của thể loại tuỳ bút. Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại nhưng tuỳ bút luôn luôn lấn át các thể loại khác, do đó câu văn của ông luôn thể hiện nhịp độ chậm của sự thong thả, suy cảm chủ quan nhiều hơn là phản ánh chính xác hiện thực khách quan. Tóm lại, khảo sát văn Nguyễn Tuân chúng tôi thấy ông có đủ các kiểu câu, nhưng trong phạm vi của đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu ba loại câu chính theo chức năng nghệ thuật sau: Câu văn trùng điệp, câu văn linh hoạt uyển chuyển, câu văn giàu hình ảnh và chất thơ. 3.3.1.2.Câu văn trùng điệp Câu văn trùng điệp là một đặc điểm nổi bật của văn Nguyễn Tuân. Để diễn tả những quan hệ phức tạp của hiện thực trong đời sống và tâm trạng của chính mình, Nguyễn Tuân đã viết nhiều câu mang dáng vẻ mới, cấu trúc lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, lợi thế của câu văn trùng điệp, phức cú từ trước cách mạng vẫn được Nguyễn Tuân tiếp tục phát huy để diễn tả những hình ảnh mới của cuộc sống kháng chiến. Đọc Đường vui và Tình chiến dịch ta bắt gặp những câu văn trùng điệp như: Khi nói về “những vị huấn đạo” với công việc và cuộc sống ở vùng kháng chiến Nguyễn Tuân đã viết: “Ngoài những giờ truyền cái đạo Quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 Ngữ, chốn bể xanh rừng đỏ, những vị huấn đạo 1947, lại làm bạn với phong lan chỗ chân chim bóng đá khỉ ho cò gáy, lại làm bạn với mảnh sò vỏ hến của thuỷ triều ven cát mà không bao giờ nghĩ rằng công mình chỉ là việc dã tràng”[43; tr.200,201]. Việc dạy học của họ diễn ra ở khắp mọi chốn: “Họ dạy trong đình làng, ngoài ruộng cỏ, trên mặt nước (lớp học của anh em các vạn chài) trong đò dọc, đò ngang, trên hang núi vùng thượng du (lớp học của anh em dân tộc thiểu số) và ở trong hẩm trú ẩn (lớp học anh em đội viên) [43; tr.201]. Những câu văn với cấu trúc trùng điệp như vậy gợi cho người đọc dễ dàng nhận ra cuộc sống của những con người kháng chiến, những nhiệm vụ thiết thực phục vụ kháng chiến ở mọi lúc mọi nơi. Song, điều quan trọng là nhà văn đã cho chúng ta thấy hình ảnh của “lá bài đẹp nhất” về những “vị huấn đạo” thời kháng chiến, nó khác xa với hình ảnh vốn đã quen thuộc về nghề dạy học. Những người thầy giáo của những lớp học bình dân học vụ thời kháng chiến là như thế. Chỉ có đi, sống và gần gũi với hiện thực kháng chiến thì mới hiểu được những công việc hết sức bình dị nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao của những con người đang ngày đêm đem sức lực nhỏ bé của mình góp phần vào công cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc. Trong Chân trời Việt Bắc, Nguyễn Tuân nói đến niềm “khát khao chân trời” của lòng mình - con người luôn “thèm” đi, luôn luôn muốn bước trên đường: “... Nguyễn không nhìn thấy chân giời - cái thứ chân giời cụ thể gọi được ra trước nhãn giới mình. Một ngày không chân giời là một ngày thèm khát. Thèm khát hơn cả kẻ tội tù ngóng trông ánh sáng.(...)Nguyễn vẫn không thoát được núi rừng. muốn di chuyển mấy, muốn xê dịch mấy, chàng vẫn là một người tù của thung lũng lúng túng bé nhỏ trong những lòng chảo ruộng bậc thang. Mặt trời chỉ còn mọc và lặn trong thói quen của kí ức Nguyễn”[43; tr.215]. Đọc đoạn văn trên, với hàng loạt câu văn có kiểu kết cấu trùng điệp này ta lại bắt gặp con người cá tính của Nguyễn Tuân với “chủ nghĩa xê dịch” vốn đã trở thành niềm yêu thích của nhà văn mà suốt đời ông khao khát được đi, được tìm hiểu, được khám phá, được “săn tìm” những điều mới lạ. Khi nói về bọn đầu cơ buôn bán kiếm lời ở bài Nấm miền xuôi ông cũng viết những câu văn có dạng cấu trúc này: “Họ tích cực đếm tiền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Họ phổ biến trong giới họ cái khẩu hiệu cứng ngắc: sống để đếm tiền. Thà họ chết chứ không chịu sống mà không được đếm tiền. Mồm họ là một thứ đài phát thanh vô liêm sỉ liến thoắng vị kỉ, tay họ là một sự đong đưa tham ô hết đếm tiền khô thì lại hơ tiền ướt trên lửa, hết giấu hàng lậu thì lại dấm dúi hàng chợ đen. Họ đếm đêm, họ đếm ngày. Giữa lúc tàu bay khủng bố, họ vẫn tiếp tục đếm, họ đếm ở trong ruột hầm trú ẩn gia đình, ở miệng lỗ hầm cá nhân” [43; tr242]. Kết cấu trùng điệp cùng với nhịp điệu của câu văn đã tạo cho người đọc ấn tượng về bọn đầu cơ tham tiền mọc lên như “nấm” trong kháng chiến. Chỉ với việc miêu tả hành động “đếm tiền”, nhà văn đã phơi bày bản chất tham lam, hám tiền của một bọn người có lối sống ích kỉ chỉ biết vun vén cho cuộc sống của cá nhân mình mà không vì lợi ích chung của dân tộc. Nói như nhà văn Nam Cao thì đó chính là cái hạng người “chẳng yêu một cái gì, chẳng làm gì” chỉ biết có hám tiền và “chỉ tài chửi đổng”. Khi miêu tả một cuộc họp giữa lòng kháng chiến với đầy đủ các thành phần quần chúng kháng chiến, nhà văn viết: “Nhà sàn lục đục người kéo đến. Các ông ké sù sì, các bà ké khô gầy, các em thiếu nhi, các thanh niên lanh lợi và các chị phụ nữ đơn giản. Tất cả ngồi xuống thành một vòng tròn áo chàm”[43;tr.286]. Hình ảnh cuộc sống của đồng bào bị tan hoang sau mỗi trận càn của giặc “Bản buồn quá. Tre cụt đầu vì trận bom tháng trước. Nhà xiêu vẹo, sàn hoang bếp lạnh, phên, cột, gỗ sàn chỗ nào cũng có vết đạn 12,7 tước sơ thớ gỗ, thớ vầu, chiều đạn xuyên đủ các phía. Dân chúng phân tán chạy vào các lán, chiều chiều một vài gia đình phái người về cắm mấy nén hương lên bàn thờ giữa nhà” [43; tr.289]. Trong đoạn kết nói về cái chết của Trần Đăng, Nguyễn Tuân viết như một lời điếu văn, một lời hứa, lời khóc thương chân thành xuất phát từ trong thẳm sâu đáy lòng của một người đồng chí, một người đồng nghiệp, một người thân yêu, nhà văn cũng dùng kiểu cấu trúc câu này: “Anh Trần Đăng chết ở mặt trận, bởi một viên đạn, bởi một tràng đạn của kẻ thù. Chúng ta nhớ tiếc và đau giận. Nhưng không nên khóc suông như đa số đám ma thời đã qua. Khóc Trần Đăng cho xứng đáng, chúng ta sẽ xây dựng nên những nhân vật, những con người anh phải bỏ dở. Những con người không phải là muôn thuở nhưng là những con người muôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 mặt. Những con người bạn, những con người thù. Có biết thù ghét một thứ người nào thì rồi chúng ta mới biết yêu quý những con người nào! Những con người, những nhân vật ấy là của chung, của tất cả trong kho báu tài liệu nhân sinh hiện đại”[43; tr.319]. Khi đến trước Ải Khẩu - Nam Quan, Nguyễn Tuân đã thể hiện tài quan sát và lối miêu tả cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết về các loại hàng hoá đặc biệt là đoạn miêu tả đồ ăn thức uống của đất nước láng giềng. Ông đã dùng câu văn trùng điệp để miêu tả khiến cho người ta cảm nhận được màu sắc và mùi vị ẩm thực của các món ăn đang dâng lên ngồn ngộn: “óc đậu đổ thành khuôn, mịn nhuyễn, trắng phau như tào phở, mỗi khuôn dày dặn bằng một cuốn truyện dài ngoại quốc. Trông nghiêng cái bàn bìa đậu thấy trắng trẻo sắc gọn như một chồng sách mới xén. Hàng bên cạnh, bóng loáng màu vàng cánh gián của bánh mật rán mỡ nóng. Trông những tảng đường phèn rộng bằng khổ tuần báo, càng bồi hồi nghĩ đến những kì vây cứ điểm Pháp mà mỗi người có được một góc mà nhấm dần thì dẻo dai biết mấy! Thế rồi hằng thúng lạc khô vỏ tía cánh sen, thúng nào cũng cao vút ngọn tháp. Đỗ xanh hạt mẩy bằng hạt bắp. Hồng không hạt, lê, sấu, táo tươi to bằng quả đấm, chuồi khỏi tay người chọn vội lăn lông lốc trên nền đất nhà hàng. Lấn cả ra mặt đường đá những xâu ngó sen già sù sì một chất bùn và bệt xuống hè biết bao nhiêu là củ đậu to lớn không kém những âu trầu. Những cây cải thìa trắng, những sọt cải xanh, cuống to bằng ngón chân cái...”[43; tr.323,324]. Còn khi đặt chân lên Tam Đảo Nguyễn Tuân đã ghi lại cảm nhận được “chạm mình” vào Tam Đảo cũng bằng một câu với kết cấu trùng điệp như thế: “Chân tôi miết vào dốc Tam Đảo, ngực tôi phồng lên khí lành Tam Đảo, tay tôi khua động trong mây Tam Đảo”[43; tr.207]. Qua những dẫn chứng tiêu biểu trên, có thể khẳng định, hệ thống câu văn trùng điệp là một đặc trưng nổi bật trong sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân. Nó thể hiện những hành động gấp gáp, dồn dập, những sự việc diễn ra nhanh chóng cùng những suy tư ngẫm nghĩ, những cảm giác dàn trải, những khát khao ước vọng cùng những đúng sai của lẽ đời. Ở giai đoạn sáng tác trước cách mạng, do chưa tìm thấy niềm tin ở cuộc sống nên những dòng cảm xúc của ông chất chứa nhiều nỗi buồn, diễn tả những ước muốn không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 thành, những nỗi niềm thất vọng, những xa vắng mênh mông, mang nặng cảm quan của một con người trong cô đơn, bế tắc. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân vẫn tiếp tục sáng tạo kiểu câu này. Tuy nhiên, chúng đã vượt ra khỏi những cảm giác nội tâm khép kín để đến cuộc kháng chiến của nhân dân trong một nguồn cảm hứng mới, một “phong hội mới”. Đọc tuỳ bút kháng chiến, ta vẫn thấy những câu văn trùng điệp lan toả trên từng trang văn, nhưng giờ đây nó không còn mang nặng dòng cảm xúc mệt mỏi, buồn nản, chán chường nữa mà là những nguồn cảm xúc sôi nổi, niềm vui tin lạc quan trào dâng của cuộc sống chiến đấu và xây dựng. 3.3.1.3.Câu văn linh hoạt uyển chuyển Khi bàn về câu văn Nguyễn Tuân, nhiều người hay nhấn mạnh đến lời văn cầu kì, kênh kiệu miên man như đưa ngưòi đọc vào „mê trận” của ông. Thật ra câu văn Nguyễn Tuân không chỉ có thế, cũng không phải phần lớn là thế. Và ngay cả những câu phức hợp, trùng điệp, nhiều vế...cũng đều có lí do nghệ thuật của nó; hơn nữa, không phải cứ trúc trắc, khó hiểu là kém giá trị mà bên cạnh những cái đó thì câu văn Nguyễn Tuân còn có một đặc điểm nổi bật nữa đó là tính chất linh hoạt, uyển chuyển trong những lời văn của ông. Sự linh hoạt trong câu văn Nguyễn Tuân biểu hiện ở nhiều góc độ, trong từng hình ảnh miêu tả khác nhau: có trường hợp thật cổ kính, phảng phất hơi biền ngẫu trong văn cổ, ví dụ như một đêm trăng vào vụ mùa nằm giữa khu Năm ông đã viết: “Mùa trúng. Trăng tháng mười đẹp như dịp trung thu, rót bạc xuống những câu hát đạp lúa. Tảng Ngọc Năm Kháng chiến II đang điểm rọi vào những vàng cốm của quảng đại dân cày ”[43; tr.177,178]. Rõ ràng, đọc câu văn kiểu này ta có cảm nhận cái hơi hướng của Vang bóng một thời, tuy không rõ nét nhưng cũng đủ cho ta cảm thấy hơi văn cổ kính man mác một nỗi lòng. Có trường hợp cấu trúc hiện đại thậm chí gần như “trực dịch văn Tây”. Chẳng hạn là những câu văn miêu tả hết sức ngắn gọn “Cảnh khoẻ và đẹp” [43; tr.175], hay “Cảnh khô và ác”[43; tr.314]; những câu văn mang chất hiện đại phương Tây: “Có ba thằng Tây thất thểu lem luốc rời khỏi cổng đồn: Những tù binh ” [43; tr.353]; “Ở đây khô sáng, ròn rã, vàng tươi” [43; tr.231]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 Có những câu văn sang trọng, súc tích như của một học giả khiến người đọc phải ngẫm nghĩ, suy xét kĩ mới vỡ ý của nhà văn, chẳng hạn như câu kết trong bài Lửa sinh nhật Nguyễn Tuân viết: “Nước sông đỏ bóng. Người Pháp gọi là Fleuve-Rouge”[43; tr.357], lại có những câu khẩu ngữ bình dân, đôi khi mang giọng bỗ bã cố tình như đấm vào tai. Chẳng hạn, nhà văn không nói theo cái cách người thường vẫn nói “mẹ của bác thợ cắt tóc” mà ông lại viết: “Bà cụ đẻ ra bác thợ cắt tóc”[43; tr.388]. Từ ngữ không có gì đặc biệt, nhưng cách nói lại có vẻ rất “không bình thường” nghe nó ngang tai. Đọc những trang tuỳ bút sau cách mạng của Nguyễn Tuân ta còn tìm thấy ở đó cả những câu thơ truyền miệng của người kháng chiến: “Vợ con tha thẩn bên rừng/ Thương con nhớ vợ xin đừng theo Tây” [43; tr.373]. Bên cạnh những câu ngắn, là những câu phức ghép nhiều vế nhiều tầng. Ví dụ câu văn sau: “Tôi trèo lên quả đồi Anh- tăng- đăng thăm anh em du kíc Ba Bể, xem kho đạn của Pháp Đề lao trên đồn, màu sặc sụa cái mùi nộng lợm khăn khẳn của tất cả những đồn Pháp, cao su, mùi sơn vải bạt, mùi kê-din, mùi mồ hôi tù uất cộng với mùi nhựa đồ hộp” [43; tr.390]. Những loại câu này, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân đều được trau chuốt, gọt rũa một cách thuần thục, thoải mái “cả Tung lẫn Hoành”. Tuy nhiên sự linh hoạt ấy còn phụ thuộc vào ý hướng và thái độ thể hiện của nhà văn. Cái tôi phức hợp và cá tính mạnh mẽ của Nguyễn Tuân đã in dấu đậm nét và phả hồn vào mọi thủ pháp nghệ thuật của ông. Bút pháp Nguyễn Tuân vì thế thật linh hoạt, không bó hẹp ở một khuôn khổ, cách thức nhất định nào. Từ phương pháp thể hiện đến kết cấu mạch văn, câu văn. Chính vì vậy mà đọc Nguyễn Tuân, có những lúc người đọc như vừa bị lôi cuốn đến mê hoặc bởi sức hút không cưỡng nổi của một ngòi bút điêu luyện, lại vừa cảm thấy đôi chút hoài nghi như một lực đẩy khó cắt nghĩa. Đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét “ông vừa có sức hút người ta vào lại vừa như đẩy người ta ra”. Đúng là khi đọc văn ông, người ta phục tài nhưng lại vẫn có gì “nhoi nhói” trong cảm thức, trong tiếp nhận: Hình như bậc thầy ngôn từ này dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 công lộ quá! “nghề” quá, đôi khi lại tỉnh táo quá, lí trí quá, làm dáng rõ quá... điều ấy không có sự giải thích nào xác đáng hơn là ở chính tài năng văn chương và cá tính con người Nguyễn Tuân. 3.3.1.4. Câu văn giàu hình ảnh và chất thơ Văn Nguyễn Tuân là điệu tâm hồn Nguyễn Tuân, vừa nghệ sĩ, vừa uyên bác trí tuệ. Nhà văn có thể dùng câu trữ tình để miêu tả cảnh thiên nhiên và cũng nhiều khi dùng câu trữ tình để diễn tả thế giới tinh thần, tâm hồn phong phú, phức tạp của con người. Trong đó có thể nói, Nguyễn Tuân luôn có ý thức tạo nên những câu văn giàu chất tạo hình, rực rỡ sắc màu và vang động những thanh âm, chất thơ của cuộc sống. Ông thường chú ý đem đến cho những trang tuỳ bút của mình những hình ảnh, màu sắc, âm thanh khác lạ, độc đáo nhằm góp phần đắc lực vào việc thể hiện những quan điểm nghệ thuật của ông. Trước Cách mạng tháng Tám, câu văn Nguyễn Tuân tràn đầy âm thanh của cuộc sống, của mưa, của gió, của con người... nhưng những thanh âm, những hình ảnh, những sắc màu được ông sử dụng hầu hết là những gam trầm, thể hiện tâm trạng buồn, nó thường gợi nên cho người đọc trạng thái u sầu, ngậm ngùi, man mác. Tuy buồn nhưng rất đẹp (có người đã gọi đó là cái vẻ diễm lệ của một nàng công chúa bị cấm cung!). Vẻ đẹp đó mang những nét vừa đậm đà, vừa hư ảo, thoáng cái dáng vẻ siêu hình về một cuộc sống không phải là hiện thực như tác giả đã và đang sống. Sau cách mạng, sự độc đáo, tài hoa của Nguyễn Tuân đã phát huy được đắc dụng trong cuộc sống mới. Sự thăng hoa của ngôn ngữ nghệ thuật đã tạo nên những câu văn tràn đầy hình ảnh, màu sắc âm thanh cùng chất thơ của cuộc sống tươi đẹp. Phải thừa nhận rằng, càng về sau này, tài năng ngôn ngữ của ông càng chín. Những hình ảnh ông tạo ra trở nên đẹp đẽ, thơ mộng nhiều sức sống hơn, khả năng phối màu, pha âm càng điêu luyện, tài ba. Và ông đã tạc, đã khắc lên những trang văn đẹp như gấm thêu, vung những nét bút như phượng múa rồng bay để dệt nên những tấm thảm ngôn ngữ tuyệt tác. Đọc trong Đường vui và Tình chiến dịch ta có thể bắt gặp rất nhiều kiểu câu này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Có thể nói đây cũng chính là một kiểu câu được tác giả sử dụng khá nhiều trong tuỳ bút kháng chiến. Không chỉ là những câu văn giàu chất thơ mà cả những hình ảnh so sánh cũng hết sức độc đáo và bất ngờ: Chỉ là một hương vị cà phê bất chợt ngửi thấy giữa chiến trường mà Nguyễn Tuân lại có cái cảm nhận “hương vị đặc biệt như cái hơi da thịt quen thuộc ở người tình nhân”[43; tr.172] thì cũng đến lạ! Dường như cái gì thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn cũng đều được ông miêu tả với những cấp độ liên tưởng bằng những hình ảnh so sánh ít có ai ngờ. Trong một đoạn văn khác, khi đi qua đoạn đường hoang vắng nhà văn cũng có cảm nhận về hương vị cà phê “Chiều xuân lữ thứ, ở những thôn xóm hẻo lánh, cô đơn cũng bốc mùi cà phê của bâng khuâng ”[43; tr.181]. Thế mới biết, chất tài tử nghệ sĩ lúc nào cũng luôn ẩn hiện trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Chỉ là chút hương vị cà phê của chốn thị thành mà nó có sức mạnh ám ảnh đến từng câu văn của ông trên những bước đường kháng chiến, dù cho chỉ là sự thoáng qua nhưng rõ là vẫn thấy được nét phong lưu, phóng túng của một kẻ lãng du tài hoa, hơn người. Tuy nhiên, hình ảnh và chất thơ trong văn Nguyễn Tuân bây giờ cũng không còn hoàn toàn là vẻ đẹp của của chủ nghĩa duy mĩ mà nhà văn đã lồng vào đó hình ảnh của những con người kháng chiến và những cảnh sắc mang đầy sức sống mới. Ví dụ như khi miêu tả nét rạng ngời trên khuôn mặt của con người nhà văn đã viết: “Mạ xanh vụ chiêm tới, tràn dần vào lòng con đường cắt. Trở về qua đường cũ, người công binh phá hoại níu một anh liên lạc, chỉ cái sức sống xanh rờn sắp mặt nước lấn đường kia mà cười. Điệu hát đi cấy ngày cũ, cô thôn nữ lom khom phân phát mạ xanh dưới kia đang đổi thành một khúc ca mới đăng báo khoảng năm nay thôi ” [43; tr.183]. Chất thơ trong văn Nguyễn Tuân ở tuỳ bút kháng chiến cũng vậy, nó được nhà văn miêu tả ở những hình ảnh hết sức giản dị và đáng yêu, như là hình ảnh của một trẻ mục đồng trong những câu văn sau: “Ấy là một trẻ mục đồng đưa trâu qua ụ đất. Cô bé để trái đào, mặc váy nâu, ,ngồi trên sống trâu, tay cầm cuốn sách Tập đọc lấm đất. ”[43; tr.184]; hình ảnh của “Vai đê Đại Hà cỏ dầm sương mai nũng nịu một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 chất tuyết của nhung tơ” [43; tr.262], cái hình ảnh non tơ của vạt cỏ ấy sau này ta lại bắt gặp trong áng văn Sông Đà : “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ”. Hay chỉ là một câu văn duy nhất nói về giấc ngủ mà đã khiến cho ta thèm biết bao nhiêu một giấc ngủ bình an ngay giữa vùng kháng chiến trước giờ xuất kích tiêu diệt đồn giặc. “Nhiều đội viên đã lăn ra ngủ. Giấc ngủ ngoan như giấc nhi đồng” [43; tr.344]. Đọc những câu văn giàu hình ảnh và chất trữ tình của Nguyễn Tuân, ta thấy nhà văn đã tái hiện không chỉ là nhịp sống mà còn là nhịp điệu tâm hồn của chính tác giả. Những câu văn như thế đã gây được ấn tượng và khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc. Đó thường là những câu cảm giác, cho nên khi được người đọc tiếp nhận nó truyền cảm xúc mãnh liệt và găm vào trí nhớ của độc giả. Phải công nhận rằng những người viết được những câu văn như thế phải là người có khiếu quan sát, trí tưởng tượng và óc liên tưởng thẩm mỹ phong phú độc đáo. Nếu như chỉ miêu tả theo lối kể đơn thuần chắc chắn sẽ không thể tạo nên những lời văn vừa giàu chất thơ, lại vừa đa dạng về hình ảnh đến như thế. Ngôn từ nghệ thuật của nhà văn không chỉ xuất phát từ vốn ngôn ngữ giàu có của họ mà trên thực tế nó còn được hình thành trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật. Quá trình đó cũng không thể tách rời với ngữ cảnh của đời sống xã hội, chính trị, văn hoá, truyền thống và gắn liền với cá tính sáng tạo, sự lựa chọn từ ngữ để hình thành nên thế giới nghệ thuật của nhà văn. 3.3.2.Giọng điệu nghệ thuật Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 hiếu của tác giả và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu khó có thể nhận ra một nhà văn. Nhưng cần phân biệt giọng điệu nghệ thuật với ngữ điệu. (là phương tiện biểu hiện của lời nói, thể hiện qua cách lên giọng xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu...). Đối với Nguyễn Tuân, khi sáng tác văn chương ông thường sử dụng các giọng điệu sau: 3.3.2.1.Giọng điệu trữ tình Trữ tình là một giọng điệu nghệ thuật cơ bản được Nguyễn Tuân sử dụng trong suốt quá trình sáng tác với đủ các sắc diện. Trong những năm đầu của cuộc đời cầm bút, cũng như các nhà văn, nhà thơ cùng thời, Nguyễn Tuân phải sống trong một môi trường chật hẹp, tù túng với bao nhiêu phẫn uất, bức bối xen lẫn khổ đau, thất vọng. Để biểu hiện những trạng huống tình cảm, cảm xúc đó, ông đã tìm tới phương thức trữ tình với những câu văn lắng đọng biết bao cảm xúc, suy tư, những buồn thương day dứt. Giọng điệu trữ tình ấy chỉ thực sự tràn đầy sức sống, niềm tin yêu lạc quan khi nhà văn đến với kháng chiến và cuộc sống mới. Dường như nguồn cảm hứng mà cách mạng mang đến đã làm thay đổi không chỉ quan niệm nghệ thuật, hình ảnh, mà còn làm thay đổi cả giọng văn của Nguyễn Tuân. Chất trữ tình trong giọng văn của ông bây giờ là cái thiết tha với đất nước, với nhân dân và cuộc kháng chiến. Trong Đường vui và Tình chiến dịch ta cũng có thể nhận thấy rõ sự chuyển biến này. Chất trữ tình trong văn ông giờ đây vừa chân tình vừa ấm áp, nó ánh lên tình yêu đất nước, yêu cuộc sống thiết tha và niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Chẳng hạn khi bất ngờ được mời làm giám khảo “một buổi thi chính trị” nhà văn đã thốt lên: “Thật là một điều mới mẻ cho đời tôi! Một người vốn nửa đời chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi nổi bên dòng liễu nhàn và thích những vừng mây xa quá tầm với của tay mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế, nay nhất đán phải đứng trước chỗ “ba quân” để đố thách những người quân nhân cách mạng! ”[43; tr.161,162]. Đặc biệt là trong những câu văn tả cảnh, bao giờ chúng cũng luôn mang giọng điệu trữ tình, chuyển tải chất tình đằm sâu của nhà văn say sưa với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 cảnh và người trên những con đường kháng chiến, dù có thể đó không phải là cảnh vui mà là cảnh hoang vắng u buồn. “Đồng lúa chín tắt tiếng đạn, lại càng thăm thẳm hơn. Cái mênh mông vàng nẫu của đồng lúa chín không bóng dáng lom khom của dân cày, trông còn cô quạnh bằng mấy mươi cái tịch liêu xanh lè của rừng”[43; tr.231], “Ở đây xa vắng quá, trơ lạ quá ” [43; tr.231]. Nỗi nhớ nhà chợt đến qua hình ảnh của một món ăn hiện ra ngay trước mắt trên đất bạn cũng được Nguyễn Tuân viết bằng giọng điệu trữ tình của một nỗi lòng sầu xứ. “Thấy nhớ nhà qua hình ảnh miếng chín nơi tha phương. Thấy nhớ những buổi chiều trước kháng chiến ở phố Hàng Buồm thủ đô, phố Hàng Cháo Hải Phòng và phố chợ cũ Sài Gòn” [43; tr.323]. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều câu văn miêu tả mang giọng điệu trữ tình, vừa đẫm chất thơ, vừa thấm chất tình của tâm hồn nhà văn. Có lẽ Nguyễn Tuân là một người thường tả rất hay về những dòng sông chăng? Người đọc bị ám ảnh nhiều bởi vẻ đẹp của con sông Đà trong sáng tác của ông, đó là hình ảnh một dòng sông mà nước sông thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh màu ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về ”. Ở tuỳ bút kháng chiến ta cũng bắt gặp hình ảnh của dòng sông Thao cũng được miêu tả bằng chất giọng trữ tình mượt mà như thế: “Dưới chân phố, nước sông Thao lừng khừng một màu nâu non, càng vẩn ngầu lên những bột canh cua đồng chờ lửa bếp”[43; tr.359]. Hình ảnh “cái tha ma xinh bé bên sông đã rào quây lại và vòng hoa đã chắc lại như vòng hoa cườm” [43; tr.363] không làm cho người đọc ghê lạnh mà lại dấy lên một niềm tiếc thương đối với những người lính đã hi sinh trong trận Đại Bục giờ họ đang nằm lại bên bờ sông Thao. Dòng sông đã gắn bó chảy giữa đôi bờ của cuộc kháng chiến, nó gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh của dòng sông Mã và cái chết của những người lính Tây Tiến trong thơ Quang Dũng. Những hình ảnh ấy đã gợi lên chất bi tráng, hào hùng về sự hi sinh anh dũng của bao người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 chiến sĩ đã quên mình vì Tổ quốc, họ đã nằm lại ngay giữa chiến trường nơi mà họ đã chiến đấu và ngã xuống trong sự tiếc thương không chỉ của đồng đội, của những người đang sống mà trong cả tiếng khóc lớn của thiên nhiên, của núi rừng, của những cánh rừng, dòng sông, con suối... Bây giờ văn Nguyễn Tuân vẫn ca ngợi cái đẹp, song ý vị câu văn đã khác trước, nó giản dị hơn. Nhìn vào giọng điệu trữ tình ta đã thấy được quá trình vận động trong tư tưởng của Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ trân trọng cuộc sống, yêu quý vô cùng sự sống, biểu dương cuộc sống mới. Sống trong xã hội cũ, Nguyễn Tuân không thể có giọng văn chan chứa yêu thương, tin tưởng như thế. 3.3.2.2. Giọng điệu trần thuật Tác phẩm văn học là những câu chuyện, những vấn đề về cuộc đời, nên câu văn tự sự là câu văn kể lại sự kiện, hành động. Trần thuật là một trong những biện pháp nghệ thuật cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Trước đây, trong nghiên cứu, người ta chỉ coi trọng miêu tả, coi nhẹ trần thuật. Nhưng bây giờ người ta thấy, trong trần thuật nhà văn đã thể hiện quan điểm chung của mình đối với tổng thể: Đối với nhân vật, sự kiện, bối cảnh thời gian. Tất cả sự trần thuật đó thể hiện thái độ, tư tưởng, cách nhìn và phong cách của nhà văn. Chính cách nhìn trong trần thuật thể hiện giá trị thẩm mĩ của lời văn. Văn Nguyễn Tuân là văn xuôi tự sự cho nên giọng điệu trần thuật cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện phong cách ngôn ngữ của nhà văn. Giọng điệu trần thuật là giọng kể của nhà văn về các sự kiện, những vấn đề mà nhà văn ghi lại trong sáng tác của mình. Giọng điệu trần thuật trong tuỳ bút Nguyễn Tuân cũng mang dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. Đọc tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, ta cũng phát hiện ra giọng điệu trần thuật trong mỗi bài viết, mỗi sự kiện mà nhà văn đã ghi lại trong hai tập Đường vui và Tình chiến dịch. Thường mở đầu mỗi bài tuỳ bút bao giờ nhà văn cũng đưa người đọc vào một hoàn cảnh cụ thể của sự việc sẽ ông nói đến. Ví dụ trong Đường vui mở đầu nhà văn viết: “Sau toàn quốc kháng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 chiến, trong vô số hình ảnh quanh ta thì hình ảnh con đường, những con đường đập mạnh vào mắt ta, tâm óc ta nhiều nhất.” [43; tr.142], hay trong bài Khu Năm - Khu Bốn ông lại viết: “1946. Trước ngày toàn quốc kháng chiến một tháng. Núi Buôn Ma Thiêng. Thật là một địa danh gợi cảm cho người phương xa và để lại trong lòng người đến đây một vết kỉ niệm khó mà nhoè nhạt.” [43; tr.166]. Có khi là giọng kể hết sức tỉ mỉ, thể hiện sự chăm chú quan sát trong hồi hộp, chờ đợi: “Anh D quỳ xuống, một đầu gối sát mặt đất, một vế đùi làm cỡ cho cùi tay trái, và để khẩu súng lên vai” [43; tr191]. Cũng có khi nhà văn lại sử dụng cả so sánh trong giọng trần thuật, ví dụ như ở đoạn văn nói về sự xuất hiện của hoa đào. “Năm ngoái thấy đào nở giữa giời, có người hờn mát với Tạo Vật, cho rằng Tạo Vật là một giống chúa vô tình với nhân sự. Vui gì mà phô phang màu sắc trước cái đau thương tự vệ của dân tộc(...)Năm nay, trông đào dật dờ trước gió hiên, người ta không còn nghiêm khắc nữa, không gọi việc ấy là vô lý là manh động, không cần bắt Tự Nhiên phải thông cảm với con người” [43; tr.184]. Đọc câu văn mang giọng điệu kiểu này ta có thể cảm nhận được sự suy ngẫm, nhìn nhận đánh giá một vấn đề khách quan trong cuộc sống đời thường của nhà văn. Có khi ông nói về những biến đổi của tự nhiên với giọng kể thật ấn tượng “Gió Lào về chiều, về tối càng thốc lửa lên những ngôi sao đúng hẹn” [43; tr.382]; có khi lại là giọng kể êm đềm, chan chứa chất thơ: “Thuyền tôi qua Cầu Bầu, thuyền tôi qua Quán Bóng, thuyền tôi trôi xuống Đồng Quan. Tôi là một người khách lạc điệu giữa một chuyến đò đông”[43; tr.239]. Như vậy, có thể thấy giọng điệu trần thuật trong tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân có sự biến đổi khá linh hoạt, trước mỗi một sự kiện, một tình huống, nhà văn lại có những giọng kể khác nhau phù hợp với hiện thực được miêu tả cũng như cảm xúc của chính lòng mình. 3.3.2.3.Giọng điệu trào phúng, khinh bạc Trước cách mạng, trào phúng và khinh bạc là một giọng điệu nghệ thuật cơ bản trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Nó nảy sinh từ sự bất đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 quan điểm sống giữa ông và xã hội đương thời, hay nói đúng hơn là sự bất mãn trước hiện thực cuộc đời. Là một con người tài hoa, ông mong muốn đem cái tài của mình ra phục vụ cuộc đời, góp phần xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Đó là một quan điểm tích cực, nói như người xưa là: “nhập thế cứu đời”. Nhưng cái hiện thực xã hội đương thời ấy đã làm cho ông khinh bỉ bởi đâu đâu cũng chỉ là những lọc lừa xảo trá, con người đã đánh mất “thiên lương”, đối xử với nhau không phải bằng tình người mà bằng thủ đoạn, bằng sự “quay quắt”, “tàn nhẫn”. Những giá trị tốt đẹp ngàn đời của dân tộc bị chôn vùi nếu có chăng thì chỉ còn là một thời vang bóng trong quá khứ, thay vào đó là những chuẩn mực đạo đức, những tư tưởng mới mang đầy màu sắc thực dụng, hãnh tiến của xã hội thực dân phong kiến. Là người tri thức khát khao một cuộc sống tốt đẹp chân thực, Nguyễn Tuân căm ghét cái xã hội ngu muội, tàn bạo ấy và luôn bày tỏ thái độ bất đồng, bất hợp tác, không dung hoà. Ông luôn nguyền rủa nó, phủ định nó trong cả cuộc đời lẫn văn chương nghệ thuật. Điều đó giải thích tại sao mà trước cách mạng Nguyễn Tuân luôn luôn quay lưng, ngoảnh mặt với đời, chống lại thiết chế xã hội bằng giọng văn đầy khinh bạc và cả sự mỉa mai trào phúng. Sau cách mạng tháng Tám, trong văn chương Nguyễn Tuân vẫn xuất hiện giọng điệu này nhưng chủ yếu nhà văn dùng nó để nói về những mặt tiêu cực của xã hội và để nói về kẻ địch. Như trong bài Nấm miền xuôi ông nói về những con buôn với giọng đầy mai mỉa: “Trong khoảng đó, nhiều đèn pin cũng bắt đầu sáng chói. Người ta thò tay xuống dòng cọ đôi dép cao su con Hổ con Nhạn con Bướm vừa gỡ ở chân ra. Tôi thừa biết rằng những cái pin đang cháy ở trên bờ kia và trong khoảng này, đôi dép cao su đang kì cọ kia, người ta sẽ bán cho người khác sau khi dùng giả vờ một hồi để che mắt thuế quan ”[43; tr.239]. Thậm chí, nhà văn còn miêu tả cảnh mua bán quần áo, xống váy ngay trên thân thể của cả người bán lẫn người mua. “khoang đò chật thế mà cũng có người cố cởi được cái váy ra để bán luôn cho người khác vừa ăn giá xong” [43; tr.239], đó là những cảnh buôn bán Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 chớp nhoáng nhà văn chỉ miêu tả thoáng nhanh như đúng những gì mình nhìn thấy song đủ cho thấy sự “nhầy nhụa” của đồng tiền và lũ cơ hội tranh thủ kiếm tiền mà ở thời nào cũng có. Trong một đoạn văn khác ông còn nói: “Hãy tới đây sau một đêm đò thúng để mà chán sự đời để mà mạt sát sự sống. Gian nào cũng tô hô ra mặt phố; mặt giời rọi ngang vào cái lộ liễu của những giấc ngủ nặng nề co rúm của sau những tối đếm, tính, điều tra lừa đảo ” [43; tr.240], hay “Ở những nơi quần tụ tứ chiếng chung chạ này - nó mọc lại, hiện ra, rồi tàn lụi chuyển lên đi xuống theo cái đà của chiến sự lan tràn - ở những thị trấn nấm, ở những phố cao su ở những chợ cóc nhảy này, tha hồ cho chúng ta cọ chạm với nhiều thứ tâm lý tiêu cực của thời đại ” [43; tr.241]. Đồng thời khi nói về đám con buôn này Nguyễn Tuân cũng dùng đúng những từ thuộc “chuyên môn” của chúng. Những là “phất lên” nhờ chăn len Úc, “kiếm khối tiền” nhờ việc “cho thuê cái bản thân” “lúc vào, nó đóng khố, lúc ra nó quấn hàng may sẵn vào vào đầy người ” [43; tr.243], điều đó chứng tỏ nhà văn không lạ gì những thủ đoạn làm ăn của đám này, thậm chí có những tên từ lâu đã có “thâm niên” trong nghề từ trước cách mạng đến giờ. Đọc văn cũng như tiếp xúc riêng với Nguyễn Tuân người ta biết rằng ông ghét cay ghét đắng việc buôn bán và ông từng định nghĩa nghệ thuật là một công việc “mà những con buôn quen sống với đổi chác hàng họ và buôn Tần bán Sở đều gọi là vô ích” [23; tr.133] cho nên có thể hiểu vì sao khi nói về bọn “nấm miền xuôi” nhà văn đã sử dụng giọng điệu này. Nhất là ở những đoạn văn nói về quân địch, thấy cảnh Pháp đang lúng túng rút quân “Dakota và Junker tiếp tế của nó hổn hển trong mù sương của ngày mưa ẩm, mình thấy khoái trong lòng mặc dầu thời tiết có dằn vặt mình trên những con đường lầy trơn như tráng mỡ nước ” [43;tr.249], dường như nhà văn rất lấy làm vui trước những gì mình đang chứng kiến vậy. Đối với kẻ địch nhà văn không tiếc lời nguyền rủa bọn chúng là: “tất cả đám da trắng, da đen và cả bọn lính da vàng mà tâm hồn, thân thể đã cầm cố cho quỉ sứ cướp giặc và vua chúa u tối.” [43; tr.295], hay “nhưng chúng mày chịu gì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 được kham khổ. Chúng mày luôn tự hỏi chúng mày là gian khổ để làm gì? Theo lời bác sĩ cho biết thì những thằng da đen to xác như thế nhưng mà sức khoẻ và số mệnh cũng mỏng manh lắm. ,Không kham nổi thuỷ thổ Việt Bắc nó chết bệnh rừng cũng nhiều” [43; tr.301]. Ngay đến cả cách miêu tả những âm thanh di chuyển của giặc nhà văn cũng hết sức mai mỉa “ tiếng nó đi nghe đặc biệt lắm. Nó như tiếng rú của hổ, khỉ, lợn lòi, chó sói. Tiếng ga cơ giới rú, tiếng ọc ạch của xe tăng chuyển xích. Trên giời hàng chục khu trục cổ ngỗng hồng hộc nhào lên, nhào xuống trông không khác gì cú vọ đi tìm gà con” [43; tr.301]. Khi tả về cái sa bàn Nguyễn Tuân cũng liên tưởng đến hình ảnh “Bàu cát đúng là một bàn mổ trên đó sõng sượt một cơ thể Pháp chờ giải phẫu”[43; tr.336]. Đó là giọng chễ giễu pha chút hài hước châm biếm của nhà văn. Đây cũng chính là “cái duyên” vốn sẵn có trong phong cách giao tiếp của con người tài tử này và nó cũng để lại dấu ấn nhất định trong văn chương của ông. Giọng điệu khinh bạc trào phúng trong văn Nguyễn Tuân ở tuỳ bút kháng chiến chủ yếu tập trung vào kẻ địch. Nói về khẩu đại bác, một thứ vũ khí chuẩn bị cho “đêm hội lửa” công kích đồn địch đón mừng sinh nhật Bác mà nhà văn như nói về một người thân với tất cả lòng ngưỡng mộ và khâm phục “có anh đi thì xôm trò và Tây thì vô khối là tan cửa nát nhà” [43; tr.345]. Nhà văn như nhìn thấy trước thảm hoạ của quân địch một khi “Anh Cả” đã “yên chỗ mà lên giọng thì khối đứa dưới cái quả đồi mu rùa kia ôm nhau mà khóc trong hội lửa” [43; tr.345]. Nhất là cảnh trại giặc tan hoang, bọn giặc thua chạy loạn xạ “tiếng ơi ới của đám vợ giặc vẳng vào rừng nứa. Nghe lạ tai lắm”, “giặc mặc quần đùi chạy như vịt”, “Đám khố đỏ dưới đồn kêu chí choé ”[43; tr.344,351] “Cả bấy nhiêu thằng giặc bị tung hê lên. Trần lô cốt sập. Chúng nó rụng rời nổ đốt, tay nhả súng, lao từ trên mặt chòi xuống ngã quay cu lơ. Rụng như thị mõm, rơi như khỉ giật mình. Có thằng lom khom mới tụt xuống nhưng nấc mạnh lên, vọt lên như tia nước, uốn ván rồi cắm ngửa xuống dưới hàng rào lông dím. Nó lại giồng cây chuối, múa ngược chân lên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Ai đùa với nó kia chứ! Alê, lưỡi kiếm xung kích beng luôn cái đầu củ chuối” [43; tr.352]. Cả một đoạn văn dài nhà văn miêu tả cảnh thất bại của giặc bằng cái giọng đầy say mê, hào hứng khoái chí, vì chính ông đã được tận mắt chứng kiến trận đánh ấy. Giống như một cổ động viên nhiệt tình, Nguyễn Tuân vui sướng trước sự thất bại của đối thủ. Ông không ngừng hô hào, cổ động cho những đòn đánh mạnh của quân ta “Choét! Choét! Ùng! Các ông 60, các ông 80 làm việc đều tay (...)Badôca hay quá sẹt! Này một cái chớp thụt hậu, này một cái chớp nữa phọt thẳng vào tường đất. Thế là bỏ mẹ những thằng trong lô cốt (...) Bấm điện đi! Sẹt! Oàng!” [43; tr.352]. Nguyễn Tuân có giọng văn trào phúng rất đặc biệt, thường là ông phô diễn một cách nói khôi hài, một kiểu châm chọc có duyên. Đôi khi lại kết hợp với giọng trào lộng mỉa mai khinh bạc để nhằm tới kẻ thù. Với bản chất nghệ sĩ, Nguyễn Tuân ghét cái xấu, cái tầm thường. Đồng thời, nhà văn cũng nhận thức rất rõ cái xấu, cái cần phải phê phán đả kích chính là kẻ thù ngay trước mắt, là đối tượng đả kích trực diện. Dù chưa thể nói rằng nhà văn dùng ngòi bút để làm vũ khí đấu tranh cách mạng nhưng với tấm lòng yêu nước của một người nghệ sĩ chân chính, rõ ràng Nguyễn Tuân đã đứng về phía nhân dân kháng chiến, đấu tranh chống những mặt tiêu cực trong xã hội và chống lại kẻ thù bằng chính giọng điệu nghệ thuật trong sáng tác văn chương của mình. Đây cũng là một trong những biểu hiện của sự chuyển biến phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân sau cách mạng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 KẾT LUẬN 1. Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn. Ông lớn vì nhân cách của một nhà văn chân chính và lớn vì ở ông có một phong cách sáng tạo độc đáo. Cả cuộc đời lao động bền bỉ, hiến mình cho nghệ thuật, NguyễnTuân đã góp cho đời một thứ hương sắc riêng. Đó chính là những văn phẩm đầy tài hoa. Đặc biệt là những trang tuỳ bút hết sức độc đáo thể hiện rõ “chất Nguyễn Tuân”. Sáng tác văn học của Nguyễn Tuân là một thành tựu lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Tuân đã trải qua nhiều bước thăng trầm, từng được yêu, từng bị ghét, thậm chí là phê phán gay gắt, nhưng rồi cuối cùng vẫn trở về và sống mãi trong lòng bạn đọc. 2. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến “nhà tuỳ bút số một”- người đã đứng vững trên văn đàn với thể loại tuỳ bút. Với thể loại này, Nguyễn Tuân đã bộc lộ hết tài năng và để lại dấu ấn rõ nét về phong cách nghệ thuật của mình. Qua tuỳ bút Kháng chiến, thấy hiện lên rất rõ hình ảnh của nhà văn trong một sự chuyển biến mới, ở một giai đoạn sáng tác mới. Nhà văn đã thoát ra khỏi cái Tôi cá nhân nhỏ bé, tù túng chật hẹp, bế tắc để đến với cái Ta rộng lớn: một con người hăng say đi vào kháng chiến, hoà mình vào bộ đội và quần chúng nhân dân. Vẫn là một cách cảm nhận đời sống độc đáo đầy cá tính trong cách nhìn và cách thể hiện, nhưng người đọc có thể nhận ra những thay đổi lớn trong tuỳ bút Nguyễn Tuân sau cách mạng nói chung và trong Tuỳ bút kháng chiến nói riêng. 3. Đọc tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm này cho ta thấy rõ hơn sự phong phú của các biện pháp nghệ thuật mới lạ, thấu hiểu tài nghệ phi thường, cá tính mãnh liệt cũng như bản lĩnh của một ngòi bút, không dễ bị mài mòn theo thời cuộc. Với tình yêu tiếng Việt tha thiết, Nguyễn Tuân thực sự đã làm giàu cho ngôn ngữ dân tộc. Ông là người có công lớn trong việc mở đường, bồi đắp và phát triển tiếng Việt hiện đại. Trong sáng tác của mình, nhà văn luôn chú ý khai thác những cách biểu đạt còn tiềm ẩn, đồng thời đã sử dụng chúng một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 cách linh hoạt tài tình như một nghệ sĩ bậc thầy. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đã chứng minh phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ. Thứ nhất là việc lựa chọn từ ngữ của nhà văn trong miêu tả. Nguyễn Tuân là nhà văn có ý thức nghệ thuật sâu sắc, ông chủ trương thận trọng và kỹ lưỡng trong việc lựa chọn từ ngữ trong miêu tả. Do vậy, các từ ngữ thường độc đáo nhưng không quá xa lạ với người đọc. Tuy vậy, điều mà Nguyễn Tuân hay được độc giả nhắc tới đó là sự cầu kì, đôi khi đến khó hiểu trong cách dùng từ của ông. Thứ hai, Nguyễn Tuân cũng là nhà văn có quan niệm sâu sắc về nghệ thuật ngôn từ, xem nghề văn là nghề của “Chữ” cho nên ông luôn có ý thức đầy đủ trong sáng tạo ngôn từ theo qui luật lạ hoá của nghệ thuật. Đó là thủ pháp làm lạ hoá những hình ảnh, sự vật quen thuộc bằng cách tạo cho nó một hình thức mới, hoặc sử dụng các từ đồng nghĩa làm cho câu văn trở nên sinh động, phong phú và hấp dẫn hơn. Thứ ba, câu văn của Nguyễn Tuân cũng thể hiện hết sức phong phú trong tuỳ bút kháng chiến, tạo được dấu ấn của cá tính và để lại được phong cách riêng. Đó là những câu văn trùng điệp, phức cú; câu văn linh hoạt uyển chuyển và câu văn giàu hình ảnh chất thơ. Thứ tư, trong tuỳ bút kháng chiến, chúng tôi cũng tìm thấy các giọng điệu đan xen trong văn Nguyễn Tuân, đó là giọng điệu trữ tình, trầm lắng thiết tha; giọng trào phúng, khinh bạc; giọng trần thuật với lối kể độc đáo... Tất cả những biểu hiện đó đã làm nên một Nguyễn Tuân - nhà ngôn ngữ xuất chúng, nhà tuỳ bút số một với phong cách nghệ thuật độc đáo khó ai có thể vượt qua. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 THƢ MỤC THAM KHẢO 1. Hoài Anh (1997), Nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa. In trong “Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp”. Hoàng Xuân tuyển soạn, NXB Văn học, Hà Nội. 2. Vũ Tuấn Anh (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, Tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội. 4. Vũ Bằng (1991), Quên làm sao được. In trong “Nhà văn Nguyễn Tuân - con người và văn nghiệp” của Ngọc Trai, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 5. Hoàng Kim Đáng: Nhà văn Nguyễn Tuân sống mãi. Báo Người Hà Nội, số 50, ngày 15-8-1987. 6. Nguyễn Xuân Đào (2000) (Con trai nhà văn Nguyễn Tuân): Cha tôi - nhà văn Nguyễn Tuân. Báo Văn nghệ, số 28, ngày 8-7-2000. 7. Hà văn Đức(1994), Nguyễn Tuân và cái đẹp, Tạp chí Khoa học số 5, (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn) 8. Hà văn Đức (1991), Nguyễn Tuân - một bậc thầy về ngôn ngữ. Tạp chí Khoa học, số 4, (ĐH Khoa học xã hội và nhân văn) 9. Hà văn Đức (1992), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án Phó tiến sĩ. 10. Hà văn Đức (1996), Tuỳ bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám, (một số đặc điểm thể loại) In trong “50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám”. NXB ĐH Quốc gia, Hà Nội. 11. Trần Thanh Hà (2007), Tam diện tuỳ bút, NXB Tri thức, Hà Nội. 12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999) (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13. Phong Lê (1977), Nguyễn Tuân trong tuỳ bút, Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 14. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, NXB Thanh niên, Hà Nội. 15. Tôn Phương Lan(1999), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Đặng Lưu (2001), Phép lạ hoá trong lời văn Nguyễn Tuân. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7 (69). 17. Đặng Lưu Nguyễn Tuân dùng từ Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3 (190). 18. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Đăng Mạnh (1981), Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập1, NXB Văn học, Hà Nội. 20. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, NXB Văn học, Hà Nội. 21. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác gia văn học trong tiến trình Văn học hiện đại Việt Nam, Tập 1, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội. 22. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác gia văn học, Trường ĐHSP Hà Nội 1, Hà Nội. 23. Tôn Thảo Miên (1997), Về khái niệm phong cách cá nhân của nhà văn, Tạp chí Văn học, số 1, Hà Nội. 24. Tôn Thảo Miên (2001), Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 25. Tôn Thảo Miên (2005), Vấn đề tiếp nhận và thực tiễn nghiên cứu phong cách nhà văn, In trong “Lí luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Tôn Thảo Miên (2006), Nguyễn Tuân - Dấu ấn của cá tính sáng tạo, Tạp chí Văn học, số 2, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 27. Tôn Thảo Miên (2006), Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách, Tạp chí Văn học, số 5, Hà Nội. 28. Nguyễn Thị Thanh Minh(2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội. 29. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, (chuyên luận), NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 30. Lê Thị Mai Ngân (1999), Danh từ đồng nghĩa trong văn chương Nguyễn Tuân, Đề tài sinh viên NCKH Trường ĐHSP Thái Nguyên. 31. Phương Ngân (2000), Nguyễn Tuân - cây tuỳ bút tài hoa và độc đáo, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 32. Phan Ngọc (2000), Nguyễn Tuân - quá trình chuyển biến của một phong cách, In trong “Thử xét văn hoá, văn học bằng ngôn ngữ học”, NXB Thanh niên, Hà Nội. 33. Vương Trí Nhàn (1988), Nhà văn Nguyễn Tuân, Tạp chí Sông Hương, số 31, tháng 5, 6. 34. Vương Trí Nhàn (2001): Nguyễn Tuân và sự độc đáo trong văn chương. In trong “Chuyện cũ văn chương”, NXB Văn học, Hà Nội. 35. Nguyễn Thị Ninh (2004), Ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ Văn, ĐHSP Hà Nội. 36. Vũ Đức Phúc (1980), Nghệ thuật Nguyễn Tuân. Tạp chí Văn học, số 6, Hà Nội. 37. Trần Đăng Suyền (2003), Nhà văn, hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo. NXB Văn học, Hà Nội. 38. Trần Đình Sử (2000), Nguyễn Tuân toàn tập và di sản văn học của nhà văn. Báo Văn nghệ số 3, 4, 5, Hà Nội. 39. Ngô Thảo (2000), Đã có một người mang tên Nguyễn Tuân. In trong “Đời người - đời văn” (Phê bình và tiểu luận), NXB Hội nhà văn, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 40. Ngọc Trai (1991), Nhà văn Nguyễn Tuân - con người và văn nghiệp. NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 41. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập1) NXB Văn học, Hà Nội. 42. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 2) NXB Văn học, Hà Nội. 43. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 3) NXB Văn học, Hà Nội. 44. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 4) NXB Văn học, Hà Nội. 45. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập (tập 5) NXB Văn học, Hà Nội. 46. Hoàng Xuân (1997) tuyển soạn, Nguyễn Tuân - Người đi tìm cái đẹp, NXB Văn học, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphong_cach_nguyen_tuan_qua_tuy_but_khang_chien_1946_1954__135.pdf
Luận văn liên quan