Bước sang trung gian để chuy ển sang tự do hoá lãi suất là cần phải điều
hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương. Hiện
nay lãi su ất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi suất cho vay. Tuy nhiên
vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển dần sang
cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi su ất cơ bản theo thông lệ quốc tế.
Cụ thể:
Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát d ự kiến + Lãi thực của người gửi tiền
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức
khống chế lãi su ất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ th ể phù
hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là Ngân hàng
Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi su ất
cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi su ất
tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.
41 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2158 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lãi suất và tự do hóa lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính sách trong hệ thống tài chính quốc gia.
Những chính sách kiềm chế tài chính bao gồm: quy định trần lãi suất dưới mức lãi
suất thị trường, xác định hạn mức tín dụng, quyđịnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và
quản lý vốn để ngăn chặn các đồng tiền ra. Mc Kinnon và Shaw còn giải thích
những động cơ để thực hiện các chính sách này là: khuyến khích đầu tư vào khu
vực ưu tiên cũng như làm giảm các chi phí tài trợ cho thâm hụt ngân sách.
Biểu hiện của một nền kinh tế có cơ chế kiềm chế tài chính là: huy đọng vốn
chủ yếu và sự thiếu hụt vốn; phân bổ vốn không hiệu quả, sự tồn tại của thị trường
tài chính phi chính thức. Khi kết luận Shaw nhấn mạnh:” khu vực tài chính của
một nền kinh tế có vai trò trong phát triển kinh tế. Nếu nó bị kiềm chế và bó méo,
nó có thể ngăn cản và phá hoại những động lực cho sự phát triển.
Như vậy những hạn chế của cơ chế tài chính bị kiềm chế tạo ra những cơ sở
cho sự phát triển của cơ chế tài chính mang tính tự do hơn. Tự do hoá cho phép hệ
thống ngân hàng tự chủ hơn và điều đó dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao
hơn. Những thay đổi như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh
nghiệp và các hộ gia đình, khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đàu tư của mình
theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ
tiết kiệm nội địa, thay thế được nguồn vốn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư.
Nguồn vốn tiết kiệm được truyền tải qua hệ thống tải qua hệ thống tài chính ngân
hàng chính thức , mà không phải qua thị trường tiền tệ không chính thức. Tiết
kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao làm mở rộng đầu tư và tăng hiệu
quả đầu tư.Kết quả tạo ra một tỷ lệ tăng trưởng rộng hơn.
Trang 16
Quan điểm tự do hoá lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa ở trên
còn rất nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau.Trong khi đó vai trò của tự do hoá lãi
suất mang lại sự cải thiện việc phan bổ tín dụng và cải thiện hiệu quả đầu tư lại
được thống nhất cao. Điều này là rất cơ bản để đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưỏng bền vững.
2. Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát triển
Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia
đang phát triển việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác - tự
do là một việc làm không khả thi. Tự do hoá lãi suất cần có một trình tự bước đi
hợp lý , nếu không sẽ gây ra những đổ vỡ to lớn cho nền kinh tế.
Nguyên nhân của việc cần có một bước trung gian là:
Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản , nhưng
cũng tồn tại những trường hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không được thực hiện tốt
vai trò của mình, như:
(1) Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính còn kém
phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính , các sản
phẩm tài chính. Do đó để tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của mình
thì thị trường tài chính cần được củng cố và phát triển. Hơn nữa trong nền
kinh tế, thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng đủ nhanh để điều
chỉnh cân bằng cung cầu thị trường khi điều kiện thay đổi, và tình trạng
mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên kinh tế đang phát triển.
(2) Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá
nhiều các mục tiêu quốc gia. ở các nước đang phát triển những chính sách
ưu đãi và tạo điều kiện lại luôn cần phải.
Thứ hai, các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như lãi suất tái triết khấu còn
chưa có để thay thế cho vai trò cuả lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Do đó, công cụ kiểm soát lãi suất vẫn được coi là một công cụ duy nhất và khả thi
để thực hiện chính sách tiền tệ.
Thứ ba, các nước đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững
chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng có thể
Trang 17
làm mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy giảm
tăng trưởng kinh tế.
III. KINH NGHIỆM THẾ GIỚI TRONG VIỆC THỰC HIỆN TỰ DO
HOÁ LÃI SUẤT.
Sự ra đời của lý thuyết tự do hoá tài chính mà một trong những nội dung cơ
bản là tự do hoá lãi suất đã tạo ra trào lưu tự do hoá lãi suất trên thế giới. Bên cạnh
một số nước đã thực hiện thành công như Đài Loan, Singapore, lại có hàng loạt
nước đã rơi vào khủng hoảng như Phillipine, Chille, Achentina.....Tuy nhiên, tự
do hoá lãi suất vẫn là mục tiêu cần đạt tới, không chỉ vì những ưu điểm lý thuyết
của nó, mà là tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường phát triển ở đó lãi suất
dược tự do hoá .
Kiểm soát lãi suất rất phổ biến ở hầu hết các nước châu á trước những năm 80.
Những hạn chế thường áp đặt dưới dạng quy định trần lãi suất đối với tiền gửi và
cho vay của các ngân hàng thương mại ;các tổ chức tài chính phi ngân hàng ít chịu
các hạn chế này hơn. Việc áp đặt này là nhằm mục đích cung cấp vốn với chi phí
thấp để khuyến khích đầu tư, đặc biệt là những lĩnh vực ưu tiên và để tránh tình
trạng lãi suất tăng quá mức, điều được coi là rất khó chấp nhận về mặt chính trị và
xã hội.
Tuy nhiên, việc kiểm soát như vậy đã làm giảm vai trò trung gian tài chính của
các ngân hàng khi những người tiết kiệm và những nhà đầu tư tìm cách khác
ngoài thị trường tài chính chính thức. Do vậy, thị trường ngoài kiểm soát và trung
gian phi ngân hàng phát triển mạnh dẫn đến sự kém hiệu quả trong kiểm soát tiền
tệ của Ngân hàng Trung ương. Cơ chế kiềm chế này hạn chế việc chuyển tải vốn
tới các hoạt động có hiệu quả nhất, làm méo mó và ngăn cản sự phát triển của thị
trường tài chính.
Trong những năm 80-90, các nước châu Á đã thực hiện sự thay đổi quan trọng,
bắt đầu thi hành chính sách tự do hoá lãi suất trong chính sách tiền tệ. Tuy vậy,
mức độ thành công của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau thậm chí gây
hiệu quả tiêu cực. Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Đến lượt
mình, cách thức và tiến trình tự do hoá lại phụ thuộc vào xuất phát điểm của mỗi
Trang 18
nước (mức độ kiểm soát tài chính , đặc điểm và tính chất hệ thống tài chính , khả
năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vĩ mô...) , vào điều kiện quốc tế trong
tưng giai đoạn tự do hoá ( xu hướng chung về cải cách tài chính, quyền lợi và mâu
thuẫn của các cường quốc tài chính , trạng thái tài chính quốc tế như khủng hoảng,
suy thoái hay đang phát triển ).
Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi tự do hoá lãi suất trong một môi
trường không có kiểm soát cùng với một thị trường tài chính không hoàn hảo và
độc quyền, lãi suất thực đã tăng lên mức rất cao. Sự tăng lên như vậy không những
không khuyến khích đầu tư và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn dẫn
đến phá sản của hàng loạt doanh nghiệp, sau đó gây ra khủng hoảng trong hệ thống
tài chính, và làm trầm trọng hơn tình trạng bất ổn vĩ mô. Đồng thời việc loại bỏ
kiểm soát cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn lại làm cho lãi suất tăng
lên hơn nữa do có những dự đoán tiếp tục phá giá bản tệ. Giảm giá mạnh bản tệ
làm cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều hơn, làm tăng áp lực lạm phát và
làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ.
Cho nên, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá tài chính
phải rất thận trọng, bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này sang cực kia đều dẫn tới
khủng hoảng và tình trạng vô chính phủ. Tự do hoá phải tiến hành từng bước, gắn
liền với đổi mới kinh tế , với tự do hoá các lĩnh vực khác, với củng cố hành lang
pháp lý, nhận thức của nhân dân , trình độ quản lý nền kinh tế và cả với thói quen
và truyền thống của dân tộc.
Trang 19
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM
I. BỐI CẢNH CHUNG
Năm 1988 là năm mở đầu thời kì chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Với cơ chế kinh
tế mới, tất cả các tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất, kinh doanh và
tung ra hoạt động theo cơ chế thị trường.
Phối hợp với xu hướng của hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi.
Đặc trưng của quá trình này là: Tách hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
- Ngân hàng nhà nước ( NHNN ): Thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý
vĩ mô hoạt động ngân hàng.
- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1988 – 1990 song chưa có những chuyển biến rõ
nét, vẫn mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này, sự đổ vỡ
hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những tổn thất lớn.
Nhưng cũng từ đó chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm quý báu và tiếp tục
kiên trì con đường đôỉ mới.
Từ năm 1990 đến nay là giai doạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân
hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hoà nhập nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong năm 1990, hai pháp lệnh hoạt động
ngân hàng được ban hành trong đó khẳng định:
- Vị trí chức năng của ngân hàng nhà nước: Là ngân hàng trung ương, cơ
quan ngang bộ thuộc chính phủ, thay mặt nhà nước thực thi chính sách tiền tệ;
làm nhiệm vụ quản lý hành chính đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Xác lập
rõ quan hệ giữa ngân hàng nhà nước và ngân sách là quan hệ vay trả chứ không
phải là quan hệ cấp phát.
Trang 20
- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh tiền tệ và tương đối độc lập với
ngân hàng nhà nước trong hoạt động kinh doanh.
Chính sách tiền tệ bắt đầu được hình thành:
Trong thời kì bao cấp, lượng tiền phát hành là bao nhiêu, phục vụ mục đích
gì đều do chính phủ quyết định. Nhưng do suy thoái kinh tế, ngân sách quốc gia bị
thâm hụt. Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước tăng lượng
tiền phát hành vào lưu thông dẫn đến nạn lạm phát phi mã, nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng. Do vậy không thể duy trì cơ chế này.
Năm 1991 ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính sách
tiền tệ với mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc xác
định lượng tiền cung ứng hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng tiền
cung ứng đủ, vừa đảm bảo phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc vừa
kiềm chế lạm phát.
Kết quả được minh hoạ qua bảng sau :
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994
Chỉ số lạm phát 34.7% 67.5% 68% 17.5% 5.2% 14.4%
Chỉ số phát triển
kinh tế
6.8% 5.1% 6% 8.3% 8% 8.5-9%
Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển đa thành phần theo pháp lệnh ngân
hàng và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng thương mại QD
đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh
tiền tệ, vàng bạc đá quý ngày càng được mở rộng.
Sau khi tổng kết và đánh giá đến tháng 10/1998, hai pháp lệnh ngân hàng cũ
đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng mới. Luật ngân hàng nhà nước và luật
các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa hai pháp
lệnh và phản ánh kịp thời những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
Trang 21
i. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
:
1. Trước tháng 3/1989:
Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm
Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do
lạm phát phi mã, lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực :
- Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm bớt áp lực
của tiền đối với giá của hàng hoá bị hạn chế nhiều.
- Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho các doanh
nghiệp.
- Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân
hàng, ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị
trường.
- Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ
thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu vốn,
lợi nhuận thấp nên không có khả năng cho vay ra nền kinh tế.
Năm 1986 1987
Lãi suất thực - 6,6% - 5,8%
2. Từ tháng 3/1989:
Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất
âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được lạm phát,
tránh bao cấp qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên một
mức rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kì hạn 9%/tháng –
tức là 109%/năm ; Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là 144%/năm).
Nhờ vậy đã :
Trang 22
- Thu hút một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, gỉm
lạm phát, kích thích tăng trưởng phát triển.
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát,
lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền
người vay vốn và tổ chức tín dụng.
- Hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay: Đối
với ngành kinh tế (công, nông, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng ; Đối với
các thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) còn phân biệt lãi suất.
- Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 –
17,9%) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thông và
làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
3. Từ 1/10/1993:
Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất
thoả thuận.
a) Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài quốc doanh
2,1%/tháng.
b) Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo
lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng
lãi suất thoả thuận.
Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thoả thuận mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân
với lãi suất 2,3-3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đủ tự do
hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất cứng đi đôi với một
biên độ dao động nhất định.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã cho
vay theo lãi suất khá cao với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân. Điều
đó cũng nói lên một tất yếu khách quan la lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nông thôn
Trang 23
lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao thì lãi suất cho vay sẽ cao
hơn các khu vực khác.
Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức chênh
lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 – 1%/tháng,
cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các
doanh nghiệp và hộ nông dân lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này,
quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế
doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng.
Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho
vay thoả thuận từ 01/01/1996.
4. Từ 01/01/1996:
a) Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng,
nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần
lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại
chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận
thay cho việc quy định các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho
vay thoả thuận. Chính sách điều hành lãi suất vừa quy định trần lãi suất vừa
khống chế chênh lệch 0,35%/tháng nên có quan điểm cho rằng thực chất của nó
là vừa quy định trần vừa quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất phát từ
đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau,
cung cầu vốn khác nhau, quy, mô khác nhau và do đó chi phí khác nhau, nên quy
định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau, lúc đầu có 4 trần :
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : Là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực
thành thị.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn : Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một
chút do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.
Trang 24
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn và
trung dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành
thị.
- Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên : Là trần lãi suất cao nhất
do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ lẻ, chi phí hoạt động cao.
Ưu điểm:
- Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của các tổ chức tín dụng không ngừng giảm
theo cùng sự giảm về tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng tương đối so với lãi suất ngắn
hạn, tăng dần và dẫn đến cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa, phù
hợp dần với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung.
- Các quyết đinh đảm bảo được cả 3 lợi ích : Nền kinh tế quốc dân, tổ chức tín
dụng và người gửi tiền.
- Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh
tranh trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ thể như
trước đây, ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho
vay bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín dụng được tự chủ
trong việc ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể.
- Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
Hạn chế:
- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt động
của ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này là hầu
như không có.
- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các ngân
hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực hiện
chính sách ưu đãi nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp phát triển.
b) Từ 21/01/1998 đến 08/2000:
Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh
lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa
Trang 25
thành thị và nông thôn, ngân hàng nhà nước với quyết định số
39/1998_QĐ_NHNH1, quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3
trần và khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước.
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng.
Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau:
- Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hoá ấn định mức lãi suất
cho vay tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện điều
kiện kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hoá lãi suất.
- Phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng ở các vùng khác nhau.
- Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt
quá xa mức lãi suất do ngân hàng nhà nước quy định.
- Có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay, tổ chức tín dụng và người gửi
tiền.
- Đảm bảo vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước về lãi suất trong giai đoạn
đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
- Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do.
Tuy nhiên, quản lý theo trần lãi suất là cách quản lý hành chính trong giai đoạn
nền kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết mặt tích cực, nhạy cảm
của nó. Lợi dụng mức khống chế "cứng" nhiều tổ chức tín dụng cho vayngay theo
mức tối đa, đụng trần lãi suất để tối đa hoá lợi nhuận. Nó ít linh hoạt, không được
điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn thuận lợi của từng
vùng.
5. Từ 8/2000 đến nay :
Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi suất cơ bản.
Ngày 02/08/2000 thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành các quyết định
về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành từ ngày 05/08/2000.
- Quyết định số 241/2000_QĐ_NHNH1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi
suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Trang 26
- Quyết định số 242/2000_QĐ_NHNH1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối voứi
khách hàng.
- Quyết định số 243/2000_QĐ_NHNH1 công bố biên độ lãi suất đô la Mỹ làm
cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ.
- Quyết định số 244/2000_QĐ_NHNH1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về
lãi suất của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước.
Đây chính là giai đoạn cụ thể hoá những quyết sách chiến lược đã được nêu ra
trong trong luật ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định "lãi suất cơ bản là
lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định
làm lãi suất kinh doanh" ; Điều 18 quy định "ngân hàng nhà nước xác định và công
bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn".
Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần đã
trở thành một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối với nền
kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thực hiện tự do hoá lãi
suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là bước chuyển giao
từ việc điều hành hành chính sang việc để thị trường xác định và nhà nước chỉ tác
động qua các công cụ kinh tế.
Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới :
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với
bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ ;
từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước,
đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực điều
hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong mối quan hệ với
lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể là:
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi bỏ
quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, chuyển sang
xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %, dựa trên việc tham khảo lãi
suất cho vay ngắn hạn thông thường các ngân hàng thương mại áp dụng với khách
hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp.
Trang 27
Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản.
Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %.
Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp cần thiết ngân
hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay là:
- Lãi suất cơ bản là 0,73%/tháng.
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng.
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.
Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi suất đã và
đang được hình thành trên thị trường nông thôn và thầnh thị hiện nay, không tác
động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý về việc ngân hàng nhà
nước Việt Nam tăng trần lãi suất.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :
- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của ngân
hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt phù
hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà nước, cụ thể là
lãi suất cho vay ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt quá mức SIBOR
(lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kì hạn 3 tháng + 1%/năm
; lãi suất cho vay dài hạn ( từ 1 năm trở lên ) không vượt quá mức SIBOR kì
hạn 6 tháng + 2,5%/năm.
- Cho vay bằng ngoại tệ khác : Do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi
và tín dụng trên thị trường nên cho phép các ngân hàng thương mại tự xem xét
quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở
lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ ở
trong nước.
Việc cung cấp thông tin tham khảo của các ngân hàng thương mại cho ngân
hàng nhà nước về lãi suất, bao gồm: ngân hàng ngoại thương Việt Nam, ngân hàng
công thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn, ngân hàng thương mại cổ phần á châu, ngân hàng thương mại
Trang 28
và cổ phần quân đội, ngân hàng ANZ, ngân hàng HSBC và ngân hàng VID
PUBLIC.
Để xác định đúng đắn mức lãi suất cơ bản, quá trình xác định cần phải quán
triệt các yêu cầu:
- Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của nhà
nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến
trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong
nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường
tiền tệ thế giới.
- Phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quỗc tế, lãi suất
trong nước cần theo sát lãi suất thị trường quốc tế, nghiên cứu và tiếp thu có
chọn lọc quá trình tự do hoá lãi suất của các nước từ đó áp dụng cho phù hợp
với điều kiện của Việt Nam.
Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số ưu
việt sau:
- Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản .
- Môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được
mở rộng tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng lãi suất.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả
thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có lợi cho
các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho vay trung
và dài hạn.
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn,
phản ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho ngân hàng
nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.
Tuy đã có yếu tố thị trường, song lãi suất cơ bản là mức lãi suất được ngân
hàng nhà nước ổn định một cách hành chính. Do vậy, chuyển sang cơ chế tự do
hoá lãi suất là một mục tiêu cần tích cực nỗ lực để đạt tới.
III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
THỜI GIAN QUA :
Trang 29
Từ năm 1986 đến nay, ngân hàng nhà nước đã có những bước thay đổi về điều
hành lãi suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kì.
Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền kinh
tế đã có nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị trường, cụ thể:
- Chuyển từ lãi suất qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.
- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn
theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ phù
hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.
- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần lãi
suất đã thực hiện ở một mức độ nhất định ( so với trần ) sự tự do hoá lãi suất
tiền gửi và tiền vay.
Nhờ những quyết sách đúng đắn về điều hành lãi suất, mối quan hệ 3 bên giữa
người gửi, người vay, tổ chức tín dụng được giải quyết hài hoà. Nguồn vốn huy
động được ngày càng tăng trưởng, lạm phát kiềm chế ở mức thấp, hoạt động tín
dụng ngân hàng diễn ra nhộn nhịp hơn.
Tuy nhiên, trong điều hành chính sách lãi suất cũng bộc lộ nhiều tồn tại, cụ thể
là:
- Có thời kỳ mức lãi suất dương phi thực tế đã khiến các doanh nghiệp phải lao
đao vì khoản nợ ngân hàng.
- Việc quy định mức chênh lệch 0,35%/tháng tạo nên sự gò bó, cứng nhắc trong
hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Ngoài những tồn tại trên ứng với mỗi giai đoạn cụ thể, còn có những tồn tại
xuyên suốt cả quá trình điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước:
1. áp đặt mệnh lệnh hành chính để điều hành các tổ chức tín dụng, không phù hợp
với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
2. Việc xác định mức trần lãi suất chưa được tiến hành một cách khoa học:
- Cơ sở xác định mức trần lãi suất không đủ: Chỉ căn cứ vào lãi suất huy động và
dự kiến mức phí của các tổ chức tín dụng.
- Liên tục điều chỉnh mức trần lãi suất.
Trang 30
- Mối liên hệ giữa lạm phát, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Lợi nhuận bình quân
của khách hàng không hợp lý.
Đáng lẽ mối quan hệ phải đảm bảo:
Lạm phát < lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn <lợi nhuận bình quân.
Thì với cách điều hành chính sách lãi suất hiện nay, mối quan hệ này có xu
hướng:
Lạm phát < lợi nhuận bình quân <lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Trang 31
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM CHUYỂN SANG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT
NAM
I. NHỮNG CẢN TRỞ CHƯA CHO PHÉP VIỆT NAM TỰ DO HOÁ LÃI
SUẤT:
Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất
tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam
phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do
hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau:
Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ chế
thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh nghiệm của các
nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là những khó khăn cơ bản
nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa cho phép nếu chúng ta thực hiện
tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt
Nam còn có những khó khăn đặc thù riêng.
Thứ hai, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ của
khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính thụ động
của hệ thống Ngân hàng đối với môi trường kinh tế còn ở mức cao trong một cơ
chế lãi suất mở – chỉ có trần lãi suất tín dụng – nhưng hầu như các tổ chức tín dụng
vẫn không tự điều chỉnh lãi suất kinh doanh theo diễn biến giảm phát liên tục của
nền kinh tế năm 1999, mà thường chỉ điều chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can
thiệp và hầu như cho vay ở mức kịch trần, thậm chí còn vượt trần bằng cách tăng
các chi phí lãi suất. Trong khi đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất
hướng tới tự do hoá có khuynh hướng làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến
luồng vốn quốc tế đổ vào. Đồng nội tệ bị lên giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ
gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp và khu vực Ngân hàng và sự chạy trốn
của các luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá trình này nếu sự tự do hoá tài
khoản vốn được thực hiện.
Trang 32
Thứ ba, thị trường tài chính của nước ta – nơi mà từ đó lãi suất thị trường
được hình thành và là nơi điều tiết vốn – còn kém phát triển. Thị trường tiền tệ vẫn
trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một số tài liệu của
IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam ( giai đoạn 2 ) qua mấy năm
đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu tài chính ( Financial deeping ) của Việt Nam
vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình
quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn
cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có
nghĩa là trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều quyết định
kích cỡ thị trường tiền tệ ) còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao
dịch vốn, tiền tệ ( liên quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền tệ, các công cụ tiền tệ ngắn
hạn ... ) còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro
tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu
vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường.
Thị trường vốn, mới hình thành một trung tâm giao dịch chứng khoán ở
thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2000. lưu lượng vốn giao dịch theo thống kê
đến tháng 1 năm 2001 mới có 40 tỷ đồng Việt Nam. Tình trạng đóng băng của
trung tâm này thời gian gần đây cùng với sự nghèo nàn hàng hoá niêm yết chưa
cho phép nó trở thành một cửa ngõ quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy
động được vốn.
Chúng ta đã có thị trường Liên Ngân hàng, tuy nhiên hoạt động của thị
trường này hiện nay đang ở trình độ thấp, quy mô nhỏ.
Và một số tồn tại sau đang cản trở những bước hội nhập trong tiến trình tự
do hoá:
- Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn chưa ổn định: nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn (
lạm phát tăng từ 3,6% năm 1991 lên 9,2% năm 1999 ); ngân sách vẫn còn căng
thẳng: tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào vốn
đầu tư nước ngoài ( đến 50%).
- Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp.
- Khu vực sản xuất ( nhất là khu vực nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang
trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá ...
Trang 33
- Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn
khác để thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, chiết khấu chưa được phổ biến.
Luật thương mại đã có những điều khoản quy định về thương phiếu song lại
thiếu những văn bản hướng dẫn thực hiện cho nên từ đó đến nay chưa có sự sử
dụng thương phiếu để thanh toán. Nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàngnhà
nước chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất
cho vay trực tiếp, chưa thể thực hiện được tinh thần “người cho vay cuối cùng”.
Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị
trường.
- Nghiệp vụ thị trường mới chưa ra đời cũng gây khó khăn cho việc điều tiết
cung ứng tiền và lãi suất.
- Hệ thống Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần
vẫn còn yếu kém: vốn nhỏ, trình độ quản lý, đội ngũ cán bộ còn bất cập so
vớiđòi hỏi khách quan.
- Tình hình kinh tế, tài chính các nước trong khu vực và trên thế giới, sau cuộc
khủng hoảng tài chính – kinh tế năm 1997 đang phải đối đầu với nhiều khó
khăn thách thức.
- Trình độ quản lý nền kinh tế của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có
nhiều bước tiến khá dài, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng
ngay được.
Tóm lại, để tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là chưa có đủ điều kiện. Đó
là một quá trình cần có một sự chuẩn bị cân nhắc cẩn thận trình tự từng bước đi,
sao cho có thể tự do hoá được dần dần đạt tới và hạn chế những tác động ngược
mà nó có thể gây ra.
II. GIẢI PHÁP CHUYỂN SANG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT:
1. Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ:
1.1/ Dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức
và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc thông qua
việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả kỳ. Ngân hàng
Trang 34
Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và loại tài sản nợ cũng như
loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc.
Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được giảm
thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ bắt buộc vượt
quá mức nhất định.
1.2/ Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn:
Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất
cho vay tái cấp vốn duy nhất. Thường cần có một thể thức chiết khấu chung để
cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn biến động quá mức của lãi
suất ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng thống
nhất với mọi ngân hàng và cho phép được vay tự động với các quy tắc và hạn mức
quy định trước.
Đối với thể thức tái chiết khấu, biến số chủ chốt là lãi suất chiết khấu. Nếu
không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể quy định lãi suất này theo cách
hành chính. Một số Ngân hàng Trung ương tổ chức đấu giá tín dụng của Ngân
hàng Trung ương để xác định lãi suất chiết khấu. Quy tắc căn bản là phải luôn giữ
lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để buộc các Ngân hàng phải huy động
tiền gửi trước khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Ngay khi có thể, cần đặt lãi
suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu tiêu chuẩn của thị trường tiền tệ.
1.3/ Nghiệp vụ thị trường mở:
Hoạt động thị trường mở đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối lượng
giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả Ngân hàng Trung ương và Ngân
hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu. Nếu không có
thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, thì trên thực tế, các Ngân hàng Trung
ương sẽ bị hạn chế và khả năng sử dụng thị trường mở một cách có hiệu quả trên
thị trường sơ cấp. Điển hình là các nghiệp vụ đó bao gồm đấu thầu chứng khoán
được phát hành mới để thu hút tiền dự trữ hoặc đấu thầu tín dụng của Ngân hàng
Trung ương để cung ứng tiền dự trữ. Để thu hút lượng vốn thanh khoản dư thừa,
Trang 35
thì thị trường mở được sử dụng phổ biến là phát hành chứng khoán mới của Ngân
hàng Trung ương hoặc của Kho bạc.
2. Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn:
Điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, tự do hoá lãi suất
đòi hỏi phải có thị trường tiền tệ hoặc thị trường liên ngân hàng tốt để truyền tải
những biến số chính sách và lãi suất. Do vậy, cần phải thiết lập những thị trường
này có khả năng hình thành nên lãi suất thị trường, cho phép Ngân hàng Trung
ương can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và Ngân hàng thương mại có cơ chế
quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích cực.
Phát triển thị trường Liên ngân hàng theo hướng để các Ngân hàng thương
mại đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường tự do giao dịch, trao đổi tiền Trung ương với
nhau. Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp với tư cách người cho vay cuối cùng và
lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào điều kiện thị trường,
dần dần hình thành cặp lãi suất chỉ đạo gồm lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay
lưu phiếu ( thế chấp tín phiếu, hối phiếu ... ).
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng thoả thuận với kho bạc
Nhà nước tổ chức ngay việc đấu giá tín phiếu kho bạc theo hình thức ghi sổ, để các
Ngân hàng thương mại có công cụ trao đổi, thế chấp nhằm phát triển các hoạt động
thị trường của họ và từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể xây dựng thị trường tiền tệ
và sử dụng tín phiếu kho bạc trong nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết thị trường.
Mặt khác, chúng ta cần củng cố các Ngân hàng thương mại, nhất là các
Ngân hàng thương mại quốc doanh để chúng trở thành những đối tác tin cậy trên
thị trường tiền tệ, trên cơ sở đó các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng do các
Ngân hàng phát hành mới có tính chuyển nhượng cao và trở thành công cụ được
giao dịch trên thị trường.
Muốn mở rộng quy mô và tính sôi động của thị trường tiền tệ cần phải có
mức độ tiền tệ hoá ( Monetization) cao. Chúng ta chỉ thực hiện được điều này khi
kiểm soát được lạm phát, nâng cao chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính
(Financial deeping) bằng cách tăng chỉ số M2/GDP và giảm chỉ số Mo/Tiền gửi
Ngân hàng.
Trang 36
Đa dạng hoá chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ trên thị
trường tiền tệ. Ban hành những văn bản hướng dẫn thanh toán qua thương phiếu
được quy định trong luật thương mại. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tái chiết khấu
các giấy tờ thương mại có giá ngắn hạn theo thông lệ quốc tế.
Sự có mặt của thị trường tiền tệ sẽ đóng góp hữu ích vào việc xây dựng và
củng cố bầu không khí lành mạnh và an toàn hoạt động của các Ngân hàng. Mối lo
âu thường xuyên của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng về khả năng thanh khoản
của mình sẽ được giải toả, các nguồn tiền sẽ được sử dụng đúng mức và hiệu quả
hơn. Kết quả là các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được cung cấp nhiều vốn
với “giá” phải chăng hơn trước đây.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn trung hạn
và dài hạn lớn. Với phương châm dựa vào nguồn vốn nội lực là chính, thị trường
chứng khoán ra đời tạo thêm một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế.
Để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần thiết ban hành những văn bản pháp
quy phù hợp, triển khai hệ thống thông tin điện tử hiện đại bảo đảm các giao dịch
được kịp thời. Vấn đề tạo hàng hoá và chủ thể tham gia thị trường này gắn liền với
tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong những năm tới, số lượng các doanh
nghiệp cần cổ phần hoá lên tới 2000 – 3000 doanh nghiệp. Song càng về sau quá
trình này diễn ra chậm chạp hơn do quy mô các doanh nghiệp lớn hơn. Nhà nước
nên có những ưu đãi ban đầu đối với những doanh nghiệp vừa tiến hành cổ phần.
3. Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng:
Ngân hàng Trung ương phải tiếp tục củng cố và phát huy vai trò điều hành
chính sách tiền tệ của mình. Với việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị trường để
can thiệp, Ngân hàng Trung ương cần phải có được thông tin cập nhật và tiếp xúc
thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi trong phương
thức hoạt động của Ngân hàng Trung ương, chuyển từ theo dõi thụ động và định kì
việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một cách tích cực và thường
xuyên. Việc theo dõi hàng ngày các diễn biến và tỉ giá, lãi suất và vốn khả dụng
trên thị trường tiền tệ sẽ cho biết thời điểm có sự căng thẳng trên thị trường và
mức độ can thiệp. Ngân hàng Trung ương có thể can thiệp khi cần thiết trên thị
Trang 37
trường tiền tệ hoặc ngoại hối một cách công khai hoặc gián tiếp thông qua các đại
lý.
Cần có sự phân chia quyền lực hợp lý giữa các bộ phận ra quyết định, cơ
cấu lại tổ chức của Ngân hàng Trung ương - đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa
các vụ chuyên môn. Hệ thống kế toán cũng cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá để
cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục chủ
yếu trên bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương.
Ngoài Ngân hàng Trung ương, cũng cần phải có những thay đổi trong hệ
thống Ngân hàng nói chung. Điểm xuất phát để cải tổ hệ thống Ngân hàng là phải
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng và việc
gia tăng các yếu tố vật chất chỉ được thực hiện trên cơ sở chất lượng quản trị.
Đồng thời, việc quản lý hệ thống ngân hàng phải theo hướng hỗ trợ các ngành kinh
doanh có hiệu quả, không phải theo hướng nuôi dưỡng các ngân hàng yếu kém.
Trước hết của việc cải tổ là phải bắt đầu từ nhân sự, tức là các nhà quản trị
ngân hàng. Để có những nhà quản trị giỏi, trước hết phải có cơ chế lựa chọn và đào
thải. Tiêu chuẩn trước hết để lựa chọn một nhà quản trị ngân hàng là chất lượng
công việc và tính sáng tạo, đương nhiên phải trên cơ sở đạo đức nghề nghiệp. Mặt
khác, cần có cơ chế sàng lọc bao gồm: thay thế người có năng lực hơn, thay đổi vị
trí đánh giá lại. Một nhà quản trị có thể bị thay thế trong các trường hợp sau: năng
lực quản trị yếu, phạm những sai lầm nghiêm trọng trong quản trị và cạn kiệt các ý
tưởng mới trong quản trị làm ảnh hưởng đến sự phát triển ngân hàng.
Mở rộng quyền tự chủ của ngân hàng trong kinh doanh phải gắn liền với hệ
thống kiểm soát chặt chẽ. Chính sách của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại cần tập trung vào các lĩnh vực có ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô và
hệ thống Ngân hàng, không can thiệp quá sâu vào kỹ thuật nghiệp vụ – lĩnh vực
cần phải tự chủ trong cạnh tranh. Tập trung thanh tra và kiểm soát chặt chẽ các
khâu trọng yếu và các địa bàn trọng điểm, đặc biệt là các trung tâm tài chính.
Thành lập Ngân hàng chính sách hoặc có biện pháp tách rời hoạt động có
tính chính sách trong các Ngân hàng thương mại để tạo ranh giới rõ ràng hơn giữa
chức năng kinh doanh của Ngân hàng thương mại với chức năng cơ quan thực hiện
các chính sách của Nhà nước.
Trang 38
Tiến hành cổ phần hoá hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm
tạo điều kiện tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo hướng cắt giảm chi phí hoạt
động, nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như chuẩn bị cho tiến trình hội nhập với
khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng nên Nhà nước
chỉ cần giữ quyền kiểm soát với trên 50% vốn là đủ.
4. Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi:
Bước sang trung gian để chuyển sang tự do hoá lãi suất là cần phải điều
hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương. Hiện
nay lãi suất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi suất cho vay. Tuy nhiên
vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển dần sang
cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản theo thông lệ quốc tế.
Cụ thể:
Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát dự kiến + Lãi thực của người gửi tiền
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù
hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là Ngân hàng
Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất
cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất
tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong
chính sách lãi suất tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn ( là tự do hoá lãi suất
cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa ), là cơ chế lãi suất linh hoạt
theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo
ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà
nước bằng mệnh lệnh hành chính.
Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng
huy động vốn với bất kì lãi suất nào chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới
bù đắp bù đắp nợ cũ. đảm bảo an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của người
gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì hình thành nhiều khu vực lãi suất
theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau.
Trang 39
- Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng cao hoặc hạ lãi
suất tiền gửi tối đa tương ứng.
- Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ
tác động vào khối lương vốn trên thị trường như : ngân hàng mua bán các loại
giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng ...
Vì vậy, khi ngân hàng trung ương xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ,
chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ trực tiếp sang kết hợp điều
chỉnh bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở
vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng,
thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng; Củng cố kiểm soát
thị trường liên ngân hàng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài
khoản cá nhân, để trên cơ sở đó một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần
lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của
nhà nước bằng cả trực tiếp lẫn gián tiếp.
Và sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối
đa thì ta sẽ tiến hành thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có
và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về
kinh tế và tiền tệ ổn định.
Trang 40
KẾT LUẬN
Việc chuyển đổi chính sách điều hành lãi suất sang cơ chế tự do hoá lãi suất là
một su thế tất yếu. Song cách thức chuyển đổi có hiệu quả nhằm hạn chế những
tiêu cực, kích thích nền kinh tế phát triển, huy động tích tụ tập trung vốn cho công
phát triển bền vững lại không có một khuôn mẫu đồng nhất. Tuỳ theo điều kiện
đặc thù của mỗi quốc gia, nền tảng kinh tế vĩ mô, mức độ mở cửa tập quán tiêu
dùng, tiết kiệm, đầu tư mà lộ trình tự do hoá lãi suất phải có thích ứng phù hợp.
Tuy nhiên để vận dụng lãi suất thị trường, yếu tố chung cho cải cách ở mỗi
quốc gia là phải phát triển được thị trường,. Trên cơ sở thị trường lãi suất được
hình thành và tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô khác. các công cụ điều hành
chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng phải được chuyển từ trực tiếp
sang các công cụ gián tiếp mang tính thị trường. Thông qua các công cụ định
hướng thị trường điều hành diễn biến lãi suất nhằm đạt các mục tiêu tổng thể của
nền kinh tế. Muốn có một thị trường phát triển, có các công cụ thị trường hữu hiệu
phải có sự chuẩn bị kĩ càng về cơ sở vật chất và con người. Hệ thống ngân hàng
cần được tiếp tục cải tổ, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín
dụng nhằm làm giảm chi phí và tăng hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế mới chuyển đổi của nước ta
đang đứng trước nhiều cơ hội và nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và
hội nhập. Duy trì chính sách lãi suất bị kiểm soát thời gian qua ngày càng tỏ ra
kém hiệu quả : vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các biện pháp kích cầu qua lãi
suất không đạt hiệu quả mong muốn. Hơn mười năm sau đổi mới, những cải cách
mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, trong điều hành chính sách tiền tệ và thu chi
ngân sách đã tạo ra những tiền đề vững chắc cho quá trình tự do hoá lãi suất.
Vì nhiều lí do hạn chế về kiến thức và khả năng thu thập số liệu liên quan tôi
mong các bạn có nhiệt tâm đóng góp, bổ xung, sửa chữa cho chuyên đề của tôi.
Trang 41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Vấn đề đổi mới chính sách tiền tệ , kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
và kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nxb Chính trị quốc gia, 1995
2, Frederic. S.Mishkin Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
Nxb Khoa học kỹ thuật, 1994
3, N.Gregory.Mankiw Kinh tế vĩ mô
Nxb Thống kê, 1999
4,Một số tạp chí chuyên ngành các năm 1997, 1998, 1999, 2000
-Tạp chí Ngân hàng
-Tạp chí Tài chính
-Tạp chí Thị trường tiền tệ
-Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieutonghop_1971.pdf