Có ý kiến cho rằng năm 1989 bội chi ngân sách rất lớn, phát hành thêm một
khối lượng tiền mặt khá to mà giá cả ít biến động, chứng tỏ bội chi ngân sách và
phát hành không liên quan gì đến lạm phát. Đó là một quan niệm hết sức nguy
hiểm. Chính những nguyên nhân nói trên đã nhất thời giảm nhẹ tác hại của bội chi
ngân sách, xoá dịu cơn sốt lạm phát.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lạm phát và một số biện pháp khắc phục lạm phát trên thế giới và ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h gây lên lạm phát cao. Thực tế lạm phát ở Châu Mỹ Latinh là đa dạng: một số
nước Châu Mỹ Latinh như Hondura, có tỷ lệ lạm phát bình quân năm dưới 10%
trong thời kỳ đó, trong khi tại các nước khác như Argentine, Brazin, Peru, tỷ lệ lạm
phát là trên 200%. Tỷ lệ lạm phát ở các nước Châu Mỹ Latinh đổi lại với mức tăng
trưởng cung tiền tệ cho thấy là những nước có tỷ lệ lạm phát rất cao cũng có tỷ lệ
tăng trưởng cao nhất. Chứng cứ về các nước Châu Mỹ Latinh cũng như các nước
khác trên thế giới dường như bảo vệ cho ý kiến rằng: lạm phát cực kỳ cao là kết
quả của tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Tuy nhiên cũng lưu ý rằng ta đang nhìn vào
một chứng cứ rút gọn, nó chỉ nhằm vào mối tương quan giữa hai biến số: tăng
trưởng tiền tệ và tỷ lệ lạm phát. Lạm phát gây nên tăng trưởng cung tiền tệ hoặc
một nhân tố thứ ba thúc đẩy cả tăng trưởng tiền tệ và lạm phát.
Ta có thể nhìn vào những giai đoạn lịch sử mà lúc đó mức tăng trưởng tiền tệ
tăng lên thể hiện là một sự kiện ngoại sinh, do vậy một tỷ lệ lạm phát cho một thời
kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức tăng của tăng trưởng tiền tệ sẽ cho ta biết tăng
trưởng tiền tệ cao là một động lực đằng sau lạm phát.
2. Siêu lạm phát của Đức 1921 - 1923:
Đức đã thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, kinh tế bị tàn phá nặng
lề với mức sản lượng thấp và nguồn thu thấp từ thuế, đã gia tăng thêm bởi những
khoản bồi thường mà Đức phải nộp cho các nước thắng trận. Lạm phát đã bùng ra
ngay sau khi chiến tranh chấm dứt. Rồi đến quân đội Pháp chiếm đóng vùng Ruhr
(3-1923) làm nảy ra cuộc "kháng cự thụ động" cũng là yếu tố làm cho đồng tiền
của Đức mất giá nhanh. Chỉ trong vài tháng đồng Mác của Đức đã mất toàn bộ giá
trị trên thị trường hối đoái.
Từ 1921 đồng Mác không còn được dùng làm tiền dự trữ có giá trị, cuối năm
1922 mở ra giai đoạn 2. Đồng Mác không còn là đơn vị đo lường giá trị, đồng Đôla
đang dần chiếm vị trí của đồng Mác trước đây. Đồng Mác chỉ còn giữ lại phần nào
chức năng tối thiểu làm trung gian trong việc trao đổi.
Cuối cùng năm 1922 người ta không tính bằng đồng Mác mà căn cứ vào số
lượng vật chất của hàng hoá, đến tháng 8-1923 chẳng còn ai nghĩ đến chuyện đầu
tư góp vốn, nạn thất nghiệp tràn lan. Thực tế ngày 5-11-1923, 1 đồng Đôla Mỹ trị
giá 42.109 Mác, tốc độ lưu hành nhanh đến mức tiền lưu thông tính bằng Mác -
25
vàng trở thành con số không, từ 6 tỷ Mác vàng năm 1913 đến tháng 10 năm 1923
chỉ còn là 0,3 tỷ.
Ta có thể biểu diễn tình hình lạm phát của Đức bằng biểu sau:
Hình 4
Nguồn: số liệu trích từ CIH Die Deutsche 1914 - 1923 Walterde Gruyter-1980
Chính phủ Đức có thể tăng thu để chi trả cho chi tiêu tăng lên đó bằng cách
tăng thuế nhưng biện pháp này như thường thấy, về mặt chính trị là không hợp
lòng dân và đòi hỏi nhiều thời gian để thực hiện. Chính phủ cũng có thể vay của
công chúng để trang trải cho chi tiêu đó nhưng số tiền cần vay vượt quá khả năng
cho vay. Chỉ còn lại con đường duy nhất đó là máy in tiền, Chính phủ có thể trang
trải cho những chi tiêu của mình một cách đơn giản bằng cách in thêm được nhiều
tiền giấy (tăng cung tiền tệ) và dùng tiền đó để trả cho các cá nhân hoặc công ty đã
cung cấp cho Chính phủ hàng hoá và dịch vụ.
Cuối năm 1921, cung tiền tệ bắt đầu tăng nhanh và mức giá cả cũng vậy. Năm
1923 tình hình ngân sách của Chính phủ Đức lại càng xấu đi hơn nữa. Đó là nhân
quả ngược rất vô lý và rất khó mà hình dung được một nhân tố thứ ba có thể có
một động lực thúc đẩy đằng sau lạm phát và sự bùng nổ cung tiền tệ.
26
3. Lạm phát ở các nước thuộc khối OCED:
Nửa sau thế kỷ XX thì lạm phát lại xảy ra ở các nước thuộc khối OCED, ở
các nước này lạm phát đều ở dưới hai con số, ở tỷ lệ thấp. Nguyên nhân hầu hết
của các cuộc lạm phát ở giai đoạn đỉnh điểm (những năm cuối thập kỷ 70) là đều
do giá dầu mỏ tăng cao. Dưới đây là bảng lạm phát trong một số nước chủ yếu
thuộc khối OCED (1953 - 1991).
Các
nước
1953-
1959
1960-
1968
1968-
1973
1973-
1979
1979-
1983
1983-
1986 1987 1988 1989 1990 1991
Mỹ 2,1 2,4 5,1 7,6 7,5 3,4 3,1 3,3 4,1 4,2 4,5
Nhật 3,4 5,2 6,9 7,8 1,9 1,3 -0,3 0,6 1,5 2,7 2,6
Đức 1,8 3,1 6,3 4,7 4,1 2,6 2,0 1,5 2,5 3,0 3,4
Pháp 4,8 4,0 6,4 10,5 11,6 6,7 2,8 3,0 3,4 3,3 2,8
Anh 3,4 3,7 7,5 16,0 10,8 4,6 5,0 6,5 6,7 4,9 5,6
Italia 2,4 4,3 7,2 17,0 18,0 10,6 6,1 6,1 6,3 5,9 5,5
Canada 1,6 2,6 5,3 10,1 9,4 3,6 4,1 4,1 4,8 4,1 4,2
Chung 2,7 3,1 5,9 8,6 7,6 3,8 2,9 2,9 3,7 3,8 3,9
Nguồn: - Tài liệu gốc - OCED tạp chí kinh tế tháng 1 - 1983.
- Viễn cảnh kinh tế của OCED, 5-1986, 12-1987, 6-1990.
4. Lạm phát ở các nước Châu Á:
Các nước ở Châu Á thuộc nhóm các nước ASEAN đã áp dụng các biện pháp
tài chính tín dụng mềm dẻo, linh hoạt đã góp phần hạn chế tốc độ lạm phát; nhờ
vậy nền kinh tế ở các nước này đang dần đi vào ổn định và phát triển. Lạm phát ở
Thái Lan năm 1980 là 20%, đến năm 1981 là 12,7%, năm 1983 là 3,8%, năm 1995
là 5,4% và theo dự đoán đến năm 1996 là 5,3%.
Lạm phát ở Inđônêsia năm 1967 là 650% giảm xuống còn 9% năm 1990;
9,25% năm 1995, dự đoán 8,45% năm 1996.
Lạm phát ở Philipin năm 1990 là 12,5%; 8,55 năm 1995; dự đoán 7,8% năm
1996.
Lạm phát ở Singapor là 2,4% năm 1990, dự đoán vẫn giữ mức lạm phát 2,4%
năm 1996.
Có thể tự hào với sự ổn định của mức lạm phát của các nước trong nhóm
ASEAN, đó là nhờ các nước này áp dụng rất nhiều các biện pháp hòng đẩy lùi lạm
phát như Malaysia đề ra biện pháp chống lạm phát: tăng tỷ lệ lãi suất tiền gửi và
tiền cho vay ngân hàng, ấn định số lượng tiền mặt dự trữ, giới hạn tín dụng cao
27
nhất đối với các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính, khuyến khích hạn
chế tiêu dùng,... Còn ở Thái Lan năm 1990 đề ra giải pháp là ngân hàng trung ương
yêu cầu các ngân hàng thương mại giảm mức cho vay ngân hàng, lãi suất chiết
khấu lên tới 12% và tiếp tục tăng lãi suất trần lên 16,5%. Đó cũng là những giải
pháp hay mà Việt Nam cần nghiên cứu và học tập.
5. Lạm phát ở Pháp:
Do thiếu thốn sau lạm phát ngay sau chiến tranh, sự căng thẳng của giá
nguyên liệu do chiến tranh Triều Tiên gây lên làm lạm phát tăng vọt 1951-1952.
Tiền lương danh nghĩa tăng tiếp tục với một nhịp điệu nhanh ở Pháp vào năm 1982
(khoảng 15% trung bình trong thập niên 1973-1982). Lãi hiệu suất vẫn kém vào
đầu những năm 80, giá đơn vị nhân công tắc khoảng 12% năm 1982, tức bằng
khoảng 2 lần ở Mỹ, 3 lần ở Đức, trong lúc đó ở Nhật giảm.
Nhưng từ năm 1983 thay đổi chính sách kinh tế "theo đường lối cứng rắn" của
Chính phủ cánh tả theo đuổi, sẽ giảm đáng kể việc tăng lương khoảng 3,5% năm
1989-1990 so với gần 15% giữa 1973 và 1982. Trong trường hợp nước Pháp,
người ta thấy rằng giảm lạm phát được giải thích hầu như chỉ bằng hai biến lượng
này (bằng 91% tổng chi phí sản xuất).
6. Lạm phát ở Mỹ:
Dẫn chứng về tình hình lạm phát tăng năm 1960-1980. Đầu thời kỳ thì tỷ lệ
lạm phát là 1%, còn vào những năm cuối 1970 thì trung bình vào khoảng 8%.
Những tư tưởng của các "nhà kinh tế cung ứng" như Laffer, Feldstein, Boskin ở
thời chính sách tổng thống Reagan:
- Lạm phát là do một sự tăng lên không ngừng của thâm hụt công cộng, dẫn
đến phát hành tiền tệ quá nhiều và sự tăng dần thuế khoá. Nhưng việc này sẽ làm
giảm khả năng cung ứng sẵn có. Thật vậy, những người cung cấp các yếu tố sản
xuất sẽ kém hứng thú sản xuất nếu họ phải đóng thuế nhiều hơn, đặc biệt những
người làm công ăn lương thích nhàn rỗi hoặc làm việc nhà hơn. Hơn nữa, chính
sách thuế đụng chạm đến tiền lãi tiết kiệm, điều này sẽ làm cho người ta rút tiền ra
tiêu ngay và do đó làm cho lượng tiền để dành sẵn có giảm đi. Vì vậy, việc cấp vốn
cho đầu tư sản xuất sẽ trở nên khó khăn và đắt đỏ hơn.
- Sự phình chi tiêu của Nhà nước do chuyển một phần của cải vào những công
việc không sinh lợi hoặc ít sinh lợi (chỉ tiêu hành chính, chuyển dịch xã hội, cứu tế,
tài trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn) mà phần này cứ tăng dần lên. Nếu Nhà
28
nước không áp dụng những biện pháp thu bắt buộc để cấp vốn cho những việc đó
thì người ta sẽ tìm đến những khu vực cạnh tranh tư nhân để được cung ứng những
hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn cho mọi người.
- Việc giảm thuế không những chỉ giảm chi phí sản xuất của các doanh
nghiệp; nó cũng tạo ra một trạng thái tâm lý mới trong những gia đình ít được cứu
tế; họ biết rằng từ nay, mức sống của họ phụ thuộc trực tiếp hơn vào lượng lao
động họ bỏ ra và vào chính sự năng động của họ: khả năng tự đào tạo, quay vòng,
thay đổi hoạt động hoặc thay đổi vùng.
7. Lạm phát ở Việt Nam:
Lạm phát ở Việt Nam là lạm phát "ngầm", nghĩa là tuy chỉ số giá cả do Nhà
nước ấn định tăng không nhiều nhưng chỉ số giá cả thị trường tự do tăng khá cao.
Đó là do đất nước phát triển theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp,
giá cả được phân phối theo tem phiếu; Vì vậy, lạm phát hầu như không bộc lộ
trong thời gian 1976-1980 giá tổng sản lượng tính theo giá năm 1982 là 58%, thu
nhập quốc dân tăng 262 lần, mức tăng giá đã vượt quá xa mức tăng giá trị tổng sản
lượng cũng như thu nhập quốc dân.
Thời kỳ sau năm 1980 lạm phát bắt đầu bộc lộ rõ, cho thấy mức lạm phát
"ngầm" của nước ta ở mức rất cao, chúng bộc lộ ở mức phi mã tới mức ba con số,
để thấy rõ mức tăng lạm phát trong giai đoạn này, ta xem xét chỉ số bán lẻ sau đây:
Năm Thị trường Nhà nước kiểm soát Thị trường tự
do
1981 202,0 147,4
1982 207,2 156,0
1983 142,8 157,7
1984 155,8 176,3
1985 210,9 154,7
1986 557,4 682,3
1987 389,9 429,2
1988 313,2 400,0
Giá cả thị trường ở đây do Nhà nước quy định, thị trường do Nhà nước quản
lý đã tồn tại ở nước ta từ lâu ở một số mặt hàng. Theo bảng số liệu này ta thấy từ
29
năm 1981-1988 lạm phát ở nước ta luôn đạt ở mức ba con số, mới chỉ là một mức
lạm phát phi mã nhưng xét về tác hại của chúng không kém gì siêu lạm phát.
+ Thứ nhất: lạm phát của ta luôn cao hơn 100%
+ Thứ hai: mức tăng giảm thất thường, năm 1981 là 202,0%, 1983 là 143%,
năm 1986 là 113,2%.
Đây là một dạng lạm phát đáng sợ nó làm mất lòng tin của dân vào giá trị của
đồng tiền, bản thân đồng tiền bị mất giá; tốc độ lưu thông tiền mặt tăng lên, tiền
lương thực tế của dân cự bị giảm mạnh ở Việt Nam năm 1988 trong khi mức giá
vẫn cứ tăng hàng năm. Trước năm 1985 mức giá tăng do Nhà nước quy định
không lớn tuy mức giá ở thị trường tự do cao hơn, Nhà nước lại không bù giá vào
lương lên tiền lương thực tế bù vào giá càng giảm. Còn từ 1986 Nhà nước lại
không kiểm soát được giá cả trên thị trường tự do, nó luôn tăng cao hơn mức giá
mà Nhà nước bù giá. Hơn nữa Nhà nước lại không cung cấp đủ hàng hoá theo giá
Nhà nước, chính vì vậy nhân dân phải mua chúng trên thị trường với giá cao hơn.
Còn việc bù giá vào lương chỉ giải quyết được cho những người làm việc Nhà
nước, còn số đông dân cư không được bù giá như vậy.
Còn với những người đi vay tiền và những người gửi tiền thì chịu tác động
của lạm phát ra sao? Ở nước ta thì lạm phát tăng nhanh không ổn định nên với
những gửi tiền hay có tiền cho vay đều bị tước đoạt vì lãi suất thực tế luôn thấp
hơn lạm phát.
Ta có thể tham khảo bảng sau:
Lãi suất trung bình qua các năm tính bằng %
(Theo niên giám thống kê - NXB Hà Nội, 1990)
Lãi suất vay vốn lưu động
Năm Trong kế hoạch
Ngoài kế
hoạch
Thương
nghiệp
Lãi suất ký
gửi
Lãi suất
tiết kiệm
Lạm phát
mức tăng giá
1983 5,2 6,7 7,0 2,1 14-24 142,8
1984 5,2 6,7 7,0 2,1 24-36 155,8
1985 5,7 6,7 7,0 2,1 29-36 210,9
1986 16,6 18,0 18,0 8,9 96 557,4
1987 23,2 34,8 27,7 10,8 96 389,9
30
Ta nhận thấy lãi suất trước 1985 là lãi suất cố định mặc dù giá cả, mức lạm
phát vẫn tăng lên, sau 1985 lãi suất đã được điều chỉnh nhưng mức tăng của lãi
suất danh nghĩa thấp hơn mức tăng của lạm phát rất nhiều. Năm 1985-1986 lãi suất
tăng từ 5,7% - 16,6% trong khi lạm phát tăng từ 210,9%-557,4%. Vì vậy người ta
tính rằng nếu một người gửi tiền vào ngân hàng hay giữ tiền 1.000đ vào năm 1987
sau một năm chỉ còn giá trị là 318đ. Như vậy những người cho vay phải chịu thiệt
thòi nhất, Nhà nước là chủ nợ lớn nhất nên phải gánh chịu thiệt hại nhất. Còn
những người đi vay lại rất có lợi, và các xí nghiệp lại là con nợ lớn nhất nên lợi
nhất nhưng họ lại bị thua lỗ nên suốt ngày xin Nhà nước cấp vốn.
Còn các yếu tố về thị trường Việt Nam bị thổi phồng, bóp méo. Do giá cả Nhà
nước đưa ra không phải là giá cả của thị trường, luôn bị thấp hơn giá cả tự do, lại
tăng theo từng chu kỳ lên thực chất nó có tác dụng kích thích việc đầu tư tích luỹ
hàng hoá để kiếm lợi, không cần sản xuất, nhận tích trữ các nhu yếu phẩm hàng
hoá, giá cả tăng lên từng ngày. Bức tranh kinh tế thật là ảm đạm, các xí nghiệp
kinh doanh luôn ở tình trạng lãi giả, lỗ thật, Nhà nước liên tục phải bội chi ngân
sách để bù lỗ và lạm phát tiếp tục tăng cao.
Trên đây là bức tranh kinh tế từ những năm 1988 về trước, còn những năm
1988-1993 tình hình lạm phát ở nước ta diễn ra như thế nào?
Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
(Theo niên giám thống kê 1992 và tạp chí thống kê 1993)
Năm Cả năm Bình quân một tháng
1988 396,8 14,2
1989 34,7 2,5
1990 67,4 4,4
1991 67,6 4,4
1992 17,6 1,3
1993 5,2 0,45
Bước sang năm 1989 cùng với công cuộc sửa đổi cơ cấu Nhà nước xã hội,
trong đó nhờ thực hiện một số biện pháp kiềm chế lạm phát bước đầu đã có hiệu
quả lạm phát từ ở mức phi mã (>200%) giảm xuống còn hai con số một năm và
giảm xuống từ 2-1 con số một tháng. Đời sống của nhân dân được cải thiện từng
bước. Và cũng bắt đầu tư đây, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Trong năm
1989 giá cả thị trường đã tăng bình quân hàng tháng là 2,5% so với mức 15% bình
31
quân tháng trong năm 1988, đó là một bước tiến bộ nổi bật. Có thể thấy mức tăng
giá hàng tháng của năm 1988 trong 6 tháng đầu luôn ở mức 2 con số (tháng 1 là
18,3% - tháng 6 là 16,8%) còn năm 1989 đã giảm chỉ còn 1 con số trong cả năm
thậm trí còn đạt ở mức tăng âm (tháng 5 là -0,2%, tháng 6 là -2,9% -1,5%) từ
tháng 8 trở đi mức giá tăng dần. Kể từ quí II năm 1989 mức giá ở thị trường Việt
Nam đã đi vào ổn định chưa từng có, nó chỉ dao động từ khoảng -1,5%3%. Năm
1989 cũng là năm đầu tiên Việt Nam không phải nhập khẩu lương thực và còn xuất
khẩu được 1,4 triệu tấn lương thực đồng thời trên thị trường hiện tượng khan hiếm
hàng hoá không còn nữa, cung vượt cầu đã làm thay đổi bộ mặt của người dân Việt
Nam không còn cảnh tem phiếu chen lấn xếp hàng,... mà ở đây khách hàng thực sự
là "thượng đế".
Bước sang năm 1990-1991: do biến động về chính trị ở Đông Âu và Liên Xô
cũ tạo nên những thị trường lớn của nước ta không còn nữa, lúc đó lạm phát ở
nước ta lại có nguy cơ lại gia tăng,...
Cuối quí II đầu quí III năm 1990 do những biến động của các nước XHCN giá
cả phần lớn các vật tư đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản xuất kinh doanh ở
nước ta buộc phải kinh doanh theo mức giá thị trường quốc tế với mức bình quân
gấp đôi trước đây tính theo đồng rup chuyển nhượng, đẩy mặt bằng giá của thị
trường tăng lên.
Từ quí III năm 1990: lúc này thị trường thế giới giá cả biến động, nhất là sự
tăng giá của dầu mỏ do chiến tranh vùng Vịnh, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng giá
dầu mỏ tăng ảnh hưởng đến dây chuyền giá điện, cước phí vận tải và giá các loại
hàng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thêm vào đó những sơ hở trong thể chế
kinh tế nói chung chậm khắc phục, nhiều cái buông trôi nhất là tầm quản lý kinh tế
vĩ mô, khi tình hình trở lên nguy ngập thì lại dùng các biện pháp cũ để đối phó
theo lối chữa cháy làm cho cung và cầu nhiều loại sản phẩm trên thị trường xã hội
vốn đã căng thẳng nay lại càng trở lên mất cân đối nghiêm trọng,... Tình hình trên
cộng thêm sự bất hợp lý trong tổ chức hệ thống lưu thông vật tư - Hàng hoá cũng
như trong chính sách thuế mới bắt đầu thi hành từ tháng 1-1990 đã góp phần đẩy
giá một số mặt hàng tăng vọt. Dẫn đến kết quả lạm phát lạigia tăng nhanh. Giá
trung bình hàng tháng tăng từ 2,4% vào quí II năm 1990 lên 4,5% trong quí III -
1990 tới 7,5% trong quí IV - 1990 và dừng ở mức này. Đến quí I năm 1991 giá
tăng lên 13,2% vào tháng 1 và tụt xuống còn 0,5% vào tháng 3, sang tháng 4 giá lại
tăng tới 2,4% và tiếp tục tăng vào các tháng sau. Trung bình 1 tháng % CPI tăng
32
lên năm 1991 là 4,4%, giá vàng và USD tăng lên tới đỉnh cao, 645.000VNĐ/chỉ;
14.300VNĐ/1USD.
Năm 1992: với những cố gắng sử dụng các giải pháp hữu hiệu để chống lạm
phát ta đã giảm lạm phát đi 50% từ 67,7% năm 1991 còn lại 17,6% năm 1992.
Nhưng tổng sản lượng trong nước GDP đạt mức tăng cao nhất từ trước đến thời
điểm đó là 8,1% hoàn toàn trái ngược với lý thuết của Okun, đời sống nhân dân ổn
định dần.
Năm 1993: mặc dù chúng ta chỉ dự kiến giảm lạm phát xuống dưới 15%
nhưng thực tế chúng ta đã đạt kỷ lục: lần đầu tiên giảm lạm phát xuống hàng 1 con
số 5,2% so với mức CPI tăng trung bình hàng tháng 0,45%. Tỷ lệ lạm phát tính
theo CPI trong năm 1993 giữa các vùng, các thành phố trong cả nước không còn
chênh lệch so với các năm trước.
Năm Cả nước Hà Nội TP. Hồ Chí Minh
1992 117,2 114,06 123,46
1993 105,2 105,7 105,9
Điều này chứng tỏ nền kinh tế của nước ta đang có những bước phát triển về
lĩnh vực đầu tư, giao lưu thông tin, kinh tế trong cả nước, tạo khối kinh tế thống
nhất trong cả nước. Từ đó đã tạo ra tâm lý giữ vàng và USD nhờ một phương tiện
cất giữ được giải toả nhiều. Giá vàng trong nước được tiếp cận thị trường quốc tế
do có sự biến động của giá vàng được xem như diễn biến bình thường của thị
trường không gây tâm lý đầu cơ thành những cơn sốt vàng như trước. Năm 1992
đánh dấu thời điểm Nhà nước chấm dứt dùng tiền để bù cho bội chi ngân sách.
Điều hành ngân sách Nhà nước trên đã chuyển biến tích cực như mức huy động
vốn vào ngân sách Nhà nước khoảng 21-22% GDP, nguồn thu Nhà nước đáp ứng
đủ chi thường xuyên ở mức độ tăng hơn năm trước 71,1%. Ngoài ra còn dùng chỉ
cho phát triển 4,8%. Mức độ bội chi ngân sách giảm 3,6% so với dự kiến. Tỷ lệ
vay dần để trang trải bội chi ngân sách năm 1993 tăng hơn hai lần so với năm
trước. Tổng số vốn đầu tư năm 1993 khoảng 32.000 tỷ đồng, vốn đầu tư của nhân
dân và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 13.000 tỷ đồng, còn lại là vốn
nước ngoài.
(Một số ý kiến về định hướng kinh tế xã hội hai năm 1994-1995 - tin KTXH
số 4 trang 9).
33
Tỷ lệ giao dịch tiền tài khoản trong chu chuyển kinh tế tăng lên đáng kể nhờ
sự năng động trong hoạt động ngân hàng. Các loại séc thanh toán, dịch vụ chuyển
tiền được sử dụng rộng rãi, hoạt động nhanh hơn. Nhiều công nghệ ngân hàng hiện
nay đang được sử dụng ở hệ thống ngân hàng nước ta như làm đầu mối thanh toán
cho các tổ chức Việt Nam tiếp nhận thanh toán các loại thư tín do ngân hàng nước
ngoài phát hành (Visa, Card, Master card,...) và bắt đầu phát hành thể thanh toán
bằng đồng Việt Nam của ngân hàng ngoại thương nước ta: VCB card. Đồng thời
kết hợp kiểm soát nghiêm ngặt hệ thống ngân hàng với việc cung ứng tiền và vẫn
kiên quyết mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế nhằm giúp cho việc phát triển sản
xuất giao lưu hàng hoá thuận tiện hơn.
Bước sang năm 1994 trên đà phát triển năm 1993, chúng ta vẫn giữ vững được tỷ
lệ lạm phát tương đối ổn định ở mức 10% nhưng đến quí 4/1994 và đầu 1995 do thiên
tai và một số nguyên nhân khác đã dẫn tới tình hình lạm phát bắt đầu gia tăng.
Sang năm 1995 nền kinh tế và xã hội nước ta có nhiều biến đổi, sự mở rộng
ngoại giao với Mỹ, xoá bỏ cấm vận nước ta giúp cho việc đầu tư, sản xuất ở nước
ta có nhiều thay đổi, tuy nhiên lạm phát có tăng lên một chút là 12,7%.
Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng năm 1995 (tháng 12 năm 1994 là 100).
Nói chung giá trị hầu hết các mặt hàng tăng lên trong đó giá hàng hoá và dịch vụ
là tăng hơn cả và có xu hướng tăng dần, quí I là 3,8% đến quí II là 12,7%, còn giá vàng
và USD tăng không đáng kể và còn có xu hướng giảm vào nửa cuối của năm.
Năm 1995 chúng ta được mùa lúa sản lượng lương thực đạt 27,5 triệu tấn,
mức cao nhất trong vòng 6 năm trở lại đây. Tuy được mùa nhưng giá lương thực
vẫn tăng 20,6% trong năm 1995 đạt mức cao nhất so với tất cả các mặt hàng và
nhóm hàng khác, chúng ta đã giữ được lạm phát dưới 15% và nền kinh tế đang có
bước tiến bộ rõ rệt đó là điều đáng mừng cho Nhà nước ta.
Năm 1996: Ngay từ những tháng đầu 1996 giá cả lương thực thực phẩm đã có
xu hướng gia tăng và tăng khá cao vào giai đoạn tháng 5,6 nhất là giá gạo và giá
đường. Hiện nay giá cả đã có xu hướng giảm xuống quay trở lại mức giá ở tháng
2,3. Theo dự báo lạm phát cuối năm 1996 ở nước ta vào khoảng 8-10%. Có thể nói
đến nay chúng ta đã đẩy lùi lạm phát. Biểu đồ dưới đây thể hiện tốc độ lạm phát
trong những năm gần đây: Hình 5:
200
150
100
50
0
1991 1992 1993 1994 1995 1996
160,76%
112,6%
105,2%
112,7% 108%
34
Tốc độ lạm phát (chỉ số bán lẻ tháng 12 trước = 100) cho thấy tốc độ lạm phát
ở nước ta đang ổn định dần, tuy nhiên việc chống và ngăn chặn lạm phát phát sinh
mạnh mẽ vẫn là vấn đề đặt ra đối với nước ta.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT ĐÃ THỰC HIỆN Ở MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1. Thái Lan:
Vì phải đối phó với tình trạng quá căng thẳng về ngoại tệ cũng đồng thời đối
phó với lạm phát, Chính phủ đã thi hành chính sách kiểm soát tiền tệ chặt chẽ
(Bảng sau).
Bảng: Lãi suất trong nước (%)
Lãi suất ngân hàng
Năm
Loại 1 Loại 2
Lãi suất cho vay tối đa
1980 13,5 15,0 18,0
1981 14,5 16,0 19,0
1982 12,5 14,0 19,0
1983 13,0 14,5 17,5
1984 12,0 13,5 17,5-19
1985 11,5 12,0 15,5-17,5
1986 8,0 - 15,0
1987 8,0 - 15,0
1988 8,0 - 15,0
Lãi suất nội tệ quá cao, nên đã không thu hút được đầu tư nước ngoài, cho dù
là khu vực xuất khẩu của Thái Lan. Hiện nay tình trạng này vẫn chưa được khắc
phục. Điều này ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của Thái Lan.
Do đồng Bạt cao hơn 15% so với giá thực tế của đồng bảng Anh, Mác, Tây
Đức, Yên Nhật, Đôla Hồng Kông,... đã làm cho hàng xuất khẩu của Thái Lan, đặc
biệt là hàng nông sản rất cao giá khi tính bằng Đôla Mỹ, khó cạnh tranh trên thị
35
trường quốc tế. Trong khi đó thu nhập xuất khẩu tính ra đồng Bạt thực tế lại rất
thấp, làm thiệt hại đến các ngành xuất khẩu, đặc biệt là nông nghiệp.
Giá thành hàng ngoại quy ra nội tệ thấp, còn giá thành hàng nội cao nếu quy
ra ngoại tệ. Sự chênh lệch này đã kích thích nhập khẩu hàng hoá tăng mạnh ngoài
sự kiểm soát của Nhà nước, đồng thời phá hoại sản xuất trong nước.
Đến 5-11-1984, Thái Lan buộc phải công bố phá giá đồng Bạt (xem bảng),
bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều phía. Nhưng đến năm 1986, nền kinh tế
Thái được phục hồi, xuất khẩu tăng, hạn chế nhập khẩu và tăng đầu tư nước ngoài.
2. Nhật Bản:
Để chống lạm phát, đặc biệt từ tháng 3-1991 Nhật Bản thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ bằng cách duy trì lãi suất cao. Điều này làm cho đồng Yên lên giá,
dẫn đến tình trạng các xí nghiệp Nhật Bản thích nhập khẩu hàng hoá (tư liệu tiêu
dùng và sản xuất). Thực hiện cái gọi là "cung ứng từ bên ngoài", phá vỡ cơ cấu tự
cung tự cấp của Nhật.
3. Mỹ:
Từ 1979, Mỹ chấp nhận hạn chế lạm phát bằng việc nâng cao lãi suất đồng
Đôla và chấp nhận tăng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Thậm chí năm 1981 đã tăng lãi
suất đồng Đôla nên 20%, gây ra cuộc chiến tranh lãi suất. Đã kìm được lạm phát ở
mức thấp nhất năm 1986.
Mỹ thực hiện các chính sách tiền tệ như phá giá, thả nổi đồng Đôla,... nghĩa là
chính sách lợi tức đồng Đôla để kìm hãm lạm phát.
4. Bốn con rồng Châu Á:
Tăng trưởng kinh tế nhanh thì tỷ lệ lạm phát tương đối thông thường cũng sẽ
khá cao và ngược lại tăng trưởng kinh tế thấp, tỷ lệ lạm phát tương đối cũng sẽ
thấp. Nhưng trong thực tế, ở một số nước tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà vẫn có
thể duy trì mức lạm phát thích hợp hoặc tương đối thấp. Đó là trường hợp của
"Bốn con rồng Châu Á". Trong suốt 31 năm qua, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapore có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng tỷ lệ lạm phát vẫn còn
giữ ở mức thấp hoặc tương đối thấp. Singapore từ năm 1964 đến năm 1992, tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 8,3%/năm, nhưng tốc độ lạm phát chỉ có 3,6%. Đài
loan chỉ trừ có thập kỷ 70 tỷ lệ lạm phát tương đối cao (10,42%), còn các thập kỷ
60 và 80 bình quân chỉ có 4% trở lại. Hồng Kông từ năm 1961 đến 1990, tỷ lệ lạm
36
phát bình quân 6,1%/năm. Hàn Quốc tuy có mức lạm phát cao. Từ 1961 đến 1980
là 15,5%. Từ năm 1981 đến nay tỷ lệ lạm phát của Hàn Quốc chỉ còn bình quân
5,6%/năm, nhưng tăng trưởng kinh tế cao.
Vậy "Bốn con rồng Châu Á" đã dựa vào yếu tố gì để đồng thời thực hiện được
sự tăng trưởng kinh tế cao mà vẫn bảo đảm mức lạm phát tương đối thấp?
Có thể nêu 6 biện pháp mà Chính phủ đã thực hiện chủ yếu sau đây:
a. Lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn; nắm chắc tình hình
trong nước và quốc tế để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp:
Chiến lược phát triển kinh tế có quan hệ mật thiết với lạm phát. Trong điều
kiện thực hiện chiến lược kinh tế theo mô hình hướng nội thì quan hệ cung cầu chủ
yếu là quyết định ở sự gia tăng những nhu cầu và khả năng cung cấp nội bộ, sức
mua có hạn không dễ gì gây nên lạm phát được. Sự phát triển khép kín, cách ly
tương đối với bên ngoài đã tránh được sự xung đột giá cả hàng hoá trong nước với
giá cả thị trường quốc tế, đồng thời cũng khó gây nên lạm phát, làm cho giá hàng
hoá trong nước tự điều chỉnh thành một hệ thống nên nếu có biến động thì biến
động trong trật tự và có trật tự. Nói một cách khác, thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế hướng ngoại thường phải chịu những ảnh hưởng của yếu tố sản xuất quốc
tế, những thay đổi cung cầu thị trường quốc tế, thay đổi giá cả hàng hoá, thay đổi
tỷ giá hối đoái,... cho nên dễ gây lạm phát. Đứng trước tình hình đó ngoài Hồng
Kông "Ba con rồng" khác đều đã thực hiện chiến lược hướng nội phát triển nhập
khẩu để thay thế, trong thời gian ngắn đã tạo điều kiện tốt làm cơ sở cho chuyển
hướng chiến lược hướng ngoại sau này. Nhưng dù thực hiện chiến lược nào thì
"Bốn con rồng" vẫn kiên trì nguyên tắc giữ vững ổn định để phát triển, phát triển
trong ổn định, coi ổn định là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế. Để đề
phòng lạm phát cao, sẽ mang lại những tổn thất cho kinh tế xã hội của quốc gia và
khu vực. "Bốn con rồng" rất thận trọng và dè dặt, trong bất kỳ chính sách quan
trọng nào họ cũng đều đưa ra thương lượng chung giữa các quan chức của Chính
phủ, của chủ công ty xí nghiệp lớn, các nhà kinh tế học và các nhà chiến lược, rồi
mới đi đến quyết định.
b. Nghiêm khắc khống chế giá cả bảo vệ lợi ích của người sản xuất và
người tiêu dùng.
Giá cả cơ bản là tự do hình thành. Nhưng nói như vậy không phải là tự do tuỳ
tiện lộn xộn, Chính phủ đã dùng nhiều công cụ trong tay - cả hữu hình và vô hình -
để phát huy tác dụng quan trọng trong việc hình thành giá cả làm cho sự hình thành
giá về cơ bản là do 3 đối tác tạo nên. Đó là: giá cả do Chính phủ can thiệp, giá do
37
các tổ chức đồng nghiệp hiệp thương tạo nên và giá do các xí nghiệp quy định.
Những biến động giá cả của những hàng hoá này là tuỳ thuộc vào những biến động
của tình trạng cung cầu và của những người có mức thu nhập bình quân cao do
Nhà nước quy định. Mục đích chủ yếu của nó là bảo đảm những nhu cầu tiêu hao
cơ bản của nhân dân và an toàn xã hội. Giá cả đề ra của các tổ chức đồng nghiệp
giữa những ngành nghề giống nhau là nhằm tránh ép giá hoặc tăng giá gây thiệt hại
cho người sản xuất, bảo đảm một tỷ lệ lợi nhuận bình quân nhất định mà Hội hiệp
thương thống nhất và tôn trọng một giá nhất định nào đó.
c. Bảo đảm cân bằng thu chi tài chính, sử dụng biện pháp tài chính ngân
hàng để khống chế lạm phát.
Về mặt này, cách làm của "Bốn con rồng" rất khác nhau. Hàn Quốc, đầu thập
kỷ 60 đã lấy phương thức bội chi tài chính để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao. Tình hình tương tự cũng xảy ra ở Đài Loan. Trong thời gian đó, ở Hồng Kông
và Singapore thu chi tài chính tương đối ổn định. Singapore thực thi một chính
sách tích trữ vàng mang từ cấp Trung ương đã tạo điều kiện tốt cho thu chi tài
chính được thăng bằng. Chính phủ quy định: tất cả các xí nghiệp (bao gồm chủ,
thợ và viên chức) hàng tháng đều phải trích một tỷ lệ lương nhất định nộp cho
Trung ương để làm quỹ tiết kiệm cho cá nhân. Một phần quỹ này được trích ra đưa
vào quỹ dưỡng lão, quỹ mua nhà ở, y tế và giáo dục,.... Nhờ làm như vậy, đã giảm
nhẹ gánh nặng chi phí phúc lợi của Chính phủ, mặt khác lại điều tiết được tốc độ
tăng trưởng về nhu cầu tiêu dùng cá nhân, tăng trưởng to lớn khả năng đầu tư vào
xây dựng và sản xuất của Nhà nước. Hiệu quả đầu tư cao lại giúp Nhà nước tăng
thu nhập tài chính. Ở Singapore vòng tuần hoàn kín tích luỹ cao - đầu tư cao - hiệu
quả cao - tăng trưởng cao - thu nhập cao. Cục tài chính và Chính phủ Hồng Kông
trực tiếp khống chế quản lý quỹ ngoại tệ, có tác dụng tác nhân tài khoản cuối cùng.
Kiểu tổ chức này, ngăn ngừa được việc phát hành lượng tiền vượt quá mức cho
phép mỗi khi nhu cầu xã hội tăng lên, đồng thời khống chế hiện tượng bội chi tài
chính ở ngay trong cơ quan tài chính.
d. Tăng cường quản lý ngoại hối, khống chế lạm phát.
"Bốn con rồng" là những quốc gia và khu vực hướng ngoại cao độ và mậu
dịch lớn của thế giới, cho nên việc điều chỉnh giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp
đến lạm phát. Trước thập kỷ 60, họ đã áp dụng một chiến lược dựa vào xuất khẩu
để thúc đẩy kinh tế phát triển. Để mở rộng xuất khẩu, trước tiên họ đã tự đánh tụt
tỷ giá đồng tiền của mình; khi thực lực nền kinh tế mạnh lên, nhu cầu nguồn
nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, linh kiện bên ngoài tăng mạnh thì họ lại điều
38
chỉnh tỷ giá hối đoái làm giá trị tiền trong nước tăng lên có lợi cho nhập khẩu.
Đương nhiên, việc gì cũng có hai mặt của nó, giá trị đồng tiền trong nước quá cao
hoặc quá thấp đều bất lợi cho nền kinh tế. Do đó, cơ quan quản lý ngoại hối làm
sao để nắm được độ thích hợp là vấn đề cực kỳ quyết định.
e. Sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài.
Trong sự lưu chuyển trên phạm vi quốc tế, tư bản sẽ thúc đẩy quá trình nhất
thể hoá nền kinh tế toàn cầu. Nguồn tư bản lưu chuyển chủ yếu là ở các nước tư
bản phát triển và tương đối phát triển. Mục đích của chúng là tìm kiếm lợi nhuận
cao hơn ở chính quốc và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Người tiếp thu nguồn tư
bản chủ yếu là các nước đang phát triển do nguồn vốn phát triển thiếu và kỹ thuật
sản xuất lạc hậu, nên phải mượn vốn nước ngoài để bù đắp và rút ngắn khoảng
cách kỹ thuật. Nguồn vốn chảy vào nhiều sẽ tạo nên và thúc đẩy lạm phát của các
nước đang phát triển. Đã có nhiều nước thấm thía bài học cay đắng này. Trước
kinh nghiệm đó "Bốn con rồng" Châu Á đã dựa vào nhu cầu của các giai đoạn phát
triển khác nhau để định rõ chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Họ đã khá
thành công trong việc động viên, hạn chế, hướng dẫn vốn đầu tư nước ngoài.
Singapore đã lấy các ngành lọc dầu, đóng tầu và cơ khí chế tạo làm ngành công
nghiệp ưu tiên phát triển của đất nước. Đến giữa thập kỷ 60, thì họ đặt mô hình
hướng ngoại phát triển kinh tế xuất khẩu làm mục tiêu của công nghiệp hoá và hiện
đại hoá. Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu, Chính phủ đã công bố "Pháp lệnh
khen thưởng phát triển kinh tế", đặt ra những điều kiện ưu đãi như miễn giảm
thuế,... nhằm động viên sự đầu tư vào những lĩnh vực của ngành ngoại thương,
ngược lại hạn chế nghiêm ngặt đầu tư đối với các ngành ngân hàng, thương nghiệp
và dịch vụ. Khi kinh tế phát triển đến một giai đoạn nhất định, thị trường trong
nước đã tiếp cận được với thị trường quốc tế, trình độ và kỹ xảo quản lý kinh tế,...
đã có thể chống đỡ được với sức mạnh bên ngoài, Chính phủ Singapore lại chuyển
hướng trọng tâm phát triển vào các ngân hàng, thương nghiệp và dịch vụ. Để xây
dựng Singapore trở thành trung tâm tài chính quốc tế, du lịch và hội nghị quốc tế
hiện đại, Chính phủ lại đưa ra hàng loạt chính sách ưu tiên để thu hút ngày càng
nhiều các nhà đầu tư nước ngoài. Tóm lại, Singapore sử dụng đầu tư nước ngoài là
cả một quá trình tuần tự, tiện cận; không ồ ạt, có mục đích, có kế hoạch xác định,
nhờ đó đã loại trừ được những mặt tiêu cực do đầu tư nước ngoài mang lại.
39
f. Quy định những hành vi của xí nghiệp và thương nhân phối hợp chặt
chẽ với Chính phủ.
Trong nhiều trường hợp, lạm phát lại liên quan mật thiết với những hoạt động
lộn xộn, bất chính của các xí nghiệp và thương nhân. Một khi xuất hiện lạm phát
nghiêm trọng, Chính phủ tìm cách để khống chế nhưng thường không đưa lại kết
quả mong muốn. Một trong những nguyên nhân quan trọng là sự bất hợp tác của xí
nghiệp và thương nhân. Chính phủ "Bốn con rồng" Châu Á đã sử dụng cơ chế
thưởng phạt để quy định những hành vi của xí nghiệp và thương nhân, làm cho xí
nghiệp và thương nhân phối hợp chặt chẽ với Chính phủ để bảo đảm cho các chính
sách của Chính phủ được quán triệt và thực hiện thuận lợi. Ngành thuế vụ của Hàn
Quốc thường xuyên điều tra chặt chẽ hoá đơn nộp thuế của các xí nghiệp, có lúc
kiểm tra liên tục nhiều tháng. Đối với những xí nghiệp không phối hợp chặt chẽ
với Chính phủ (tức không nộp thuế nghiêm túc) sẽ bị kỷ luật nghiêm khắc: nhẹ thì
phạt, nặng thì cho phá sản. Họ quan niệm kinh tế thị trường là kinh tế pháp chế,
cho nền khi chế độ pháp luật chưa kiện toàn thì biện pháp can thiệp hành chính là
thích hợp. Chính phủ còn thường xuyên áp dụng những biện pháp như cắt nước,
cúp điện, không cho sử dụng hệ thống thông tin, hệ thống đường bộ,... để trừng
phạt những xí nghiệp, và thương nhân nào không chấp hành quyết định của Chính
phủ. Những chế độ trừng phạt nghiêm khắc đó, dần dần làm cho các xí nghiệp và
thương nhân hiểu ra rằng: xí nghiệp, thương nhân cần tồn tại và phát triển thì tốt
nhất là phải tôn trọng pháp lệnh của Chính phủ. Đương nhiên, khi yêu cầu xí
nghiệp, thương nhân tôn trọng nghiêm túc quyết định của chính phủ, thì tính chính
xác và tính khả thi của những quy định đó là hết sức quan trọng. Điều đó đòi hỏi
người ta quyết định và thực hiện phải thường xuyên nghiêm túc, hiểu rõ và giảm
đến mức tối thiểu những sai sót của các quyết định.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM - NHỮNG
THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
1. Một số biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam:
Căn bệnh lạm phát là bệnh song hành của nền kinh tế thị trường. Từ thế kỷ 13
đến nay, chưa lúc nào ở nước Anh lại không có lạm phát. Đó là nước tư bản chủ
nghĩa lâu đời nhất. Còn ở Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn cũ lạm phát
đến mức tiền mất giá 500 lần, miền Bắc XHCN cũng bị lạm phát 2-3% có lúc 13%
năm, cho dù 20 năm chống Mỹ miền Bắc XHCN được bao cấp và viện trợ hoàn
toàn.
40
Từ sau 1975 đến nay, căn bệnh lạm phát đã đặt chúng ta vào vòng xoáy giá -
lương - tiền siêu tốc độ và làm sâu sắc sự khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do vậy,
chống lạm phát luôn là nhiệm vụ hàng đầu kể từ khi thống nhất đất nước đến nay.
Chúng ta đã thể nghiệm nhiều giải pháp chống lạm phát, đã đến lúc cần tổng kết
thành công và cái giá chống lạm phát.
Có thể phác hoạ sơ lược các biện pháp chống lạm phát và hiệu ứng của nó mà
chúng ta đã được thể nghiệm và trải qua.
a. Giảm lượng tiền giấy trong lưu thông.
Năm 1984 tỷ lệ lạm phát đã lên tới 64,9%, sang năm 1985 tỷ lệ này là 91,6%,
cho nên tháng 9/1985 tiến hành đổi tiền với tỷ lệ 1:10 (một đồng tiền mới bằng 10
đồng tiền cũ). Nhưng ngay sau đó lạm phát vẫn gia tăng với siêu tốc độ gần 500%
trong năm 1986 và 300% năm 1987.
Cuộc tổng điều chỉnh lượng tiền giấy 1985 đã cho một bài học thực tế rằng:
lạm phát đâu phải chỉ do "bội thực" tiền giấy.
Thật vậy, năm 1991 không phát hành tiền để chi ngân sách, thế nhưng vẫn
lạm phát siêu tốc.
b. Thiết lập một giá hàng hoá vật phẩm và tiền lệ hoá lương.
Thực hiện một giá hàng hoá vật phẩm và bù giá vào lương là hai biện pháp
quan trọng của cuộc cải cách giá - lương - tiền năm 1985 nhằm chống lạm phát.
Kết quả cuộc cải cách năm 1985 đã nêu trên cho thấy sự bất lực của hai biện pháp
này trước sức bùng nổ của lạm phát. Trái với ý muốn của cuộc cải cách năm 1985,
hai biện pháp này lại tiếp sức đẩy lạm phát cao hơn. Như thế chữa cháy xăng bằng
nước đã làm cho đám cháy cao và lan rộng hơn.
Thật đúng vậy, cho dù lúc đó nước ta là siêu thị đi nữa thì lạm phát tất vẫn
xảy ra. Bởi bao nhiêu hàng hoá, vàng và ngoại tệ mạnh cho đủ đáp ứng nhu cầu
không chỉ tiêu dùng mà còn để tích trữ, đầu cơ của triệu triệu gia đình và hàng vạn
cơ sở doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh. Chỉ vì nội tệ chưa có giá, giá nội tệ
còn thấp nên tâm lý chối bỏ nội tệ để bảo tồn vốn vẫn tồn tại. Chính vì vậy lạm
phát vẫn tăng siêu tốc. Hơn nữa, nếu cho rằng 1 giá hàng hoá vật phẩm, tiền tệ hoá
lương và cung đáp ứng cầu sẽ chống được lạm phát, thì sao lạm phát vẫn là căn
bệnh kinh niên của CNTB bấy lâu nay.
Còn bao cấp giá nội tệ: giá mua và bán nội tệ quá thấp so với thị trường, còn
chênh lệch giá ắt có sự mua đi bán lại nội tệ. Nội - ngoại tệ Nhà nước được moi ra
41
bằng mọi cách hợp pháp cho dù Nhà nước có đề ra bao nhiêu quy định chặt chẽ đi
chăng nữa. "Bởi thị trường có giá trị hơn luật pháp" trong việc điều chỉnh kinh tế -
xã hội - môi trường.
Trong khi giá thị trường mua và bán nội tệ (lãi suất) từ 9%-15%/1 tháng, thậm
chí còn lên đến 30%, thì giá của Nhà nước từ 0,1%-6,9%/1 tháng. Ngay trong khu
vực Nhà nước cũng tồn tài quá nhiều giá nội tệ. Đây chính là cơ sở kinh tế của tiêu
cực xã hội. Đáy là chưa kể sự trượt giá do lạm phát mà lãi suất bao cấp của Nhà
nước hầu như không thay đổi kể từ 1979 đến 1988. Còn giá thị trường nội tệ luôn
dân cao hơn mức lạm phát. Điều này làm cho sự chênh lệch giá nội tệ ngày càng
cao.
Dù thất bại và thực tế phản lại những ý đồ tốt đẹp của cuộc cải cách 1985,
nhưng một điều không thể phủ định được là nếu không có 1985 thì không thể có
1989. Đó là cuộc tổng diễn tập cần phải có khi bước vào nền kinh tế hàng hoá. Đó là
cái giá phải trả khi tiếp cận chân lý. Một khi chưa nắm được bản chất và qui luật của
hiện tượng, thì mọi cố gắng khó có thể thành công thậm chí còn phản tác dụng. Ở
thời điểm đó, chúng ta chưa mở cửa với thế giới ngoài XHCN, nên không đủ thông
tin về lạm phát và chống lạm phát bấy lâu nay của các nước TBCN.
c. Thiết lập một giá nội tệ: lãi suất thị trường.
Cuộc cải cách 1989 thực hiện một giá nội tệ, đó là lãi suất thị trường và phải
là lãi suất dương, theo nguyên tắc:
Tốc độ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay
Tốc độ lạm phát < Giá mua nội tệ < Giá bán nội tệ
Chỉ sau hai tháng thực hiện lãi suất dương lạm phát được chặn đứng, nội tệ
được phục hồi và có giá. Vào thời điểm tháng 6 và 7/1989 giá vàng 98% hạ xuống
còn 160.000đ/1 chỉ và 3.200đ/ 1 USD. Nhưng giảm lạm phát làm cho hàng loạt cơ
sở kinh tế quốc doanh phá sản và thất nghiệp gia tăng. Do không có khách hàng
vay, tiền huy động của dân được cất trong két. Đây chính là sức ép làm cho cuộc
cải cách giá nội tệ 1989 phải dừng lại, để rồi sau đó phải trở lại bao cấp giá nội tệ -
bao cấp tín dụng, lãi suất Nhà nước càng hạ, lạm phát càng dâng cao, nội tệ bị chối
bỏ, nhu cầu bảo tồn vốn bằng vàng và ngoại tệ tăng mạnh. Chúng ta lại rơi vào
vòng xoáy giá - lương - tiền siêu tốc độ.
42
d. Tăng thu giảm chi - thực hành tiết kiệm
Sau 1989, chúng ta hy vọng chống lạm phát bằng "tăng thu - giảm chi" ngân
sách. Giảm tối thiểu các khoản chi ngân sách, tăng tối đa các khoản thu. Nhưng
cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhu cầu chi ắt phải tăng theo, nên chăng thay vì
giảm chi bằng chi hiệu quả cao.
Không thể chống lạm phát bằng biện pháp chủ yếu là thực hành tiết kiệm
nghiêm ngặt, bởi lạm phát tồn tại do còn chênh lệch giá nội tệ. Đây chính là cơ sở
kinh tế để sinh ra tham nhũng lạm chi ngân sách và các loại tiêu cực triền miên.
Tháng 3/1989 do thi hành lãi suất dương đã đột ngột giảm nhu cầu vốn bất tận
của cơ sở, đã thu hút được 1/2 tổng số tiền trong lưu thông vào quỹ tiền tệ của
ngân hàng. Đó là thành tựu tiết kiệm cao nhất từ trước đến nay do lãi suất dương
tạo ra.
Thật vậy, chống thất thu ngân sách không chỉ bằng khẩu hiệu và kêu gọi đạo
đức của nhân viên thu thuế, bởi còn tồn tại hệ thống tổ chức thu thuế hiện hành còn
thất thu thuế. Cho dù mức thuế rất thấp. Trang bị công nghệ vi tính, cải cách hệ
thống tổ chức và nâng cấp hành chính thu thuế mới là biện pháp hữu hiệu chống
thất thu thuế (đến tháng 10-1991 thất thu 600 tỷ đồng tiền thuế).
e. Chống lạm phát bằng tăng trưởng kinh tế.
Nhiều ý kiến cho rằng phải khôi phục và tạo điều kiện hơn nữa cho khu vực
kinh tế quốc doanh hoạt động hiệu quả. Điều này rất đúng nhưng không trúng với
lạm phát.
Bởi giải quyết những vấn đề của kinh tế quốc doanh là nan giải và lâu dài.
Ngay cả nước tư bản phát triển cũng phải mất hàng chục năm mới vực được một số
ngành then chốt của kinh tế quốc doanh. Cứ cho là chúng ta có phép thần làm cho
kinh tế quốc doanh trở nên hiệu quả ngay tức khắc, thì mức tăng trưởng kinh tế
cũng chỉ đạt tối đa 9%-12%/năm. Quốc gia phát triển nhất cũng chỉ đạt đến thế mà
thôi. Nhưng với tốc độ lạm phát của chúng ta thì sự tăng trưởng kinh tế mới đem
lại mức giảm lạm phát có 9%-12%/năm. Sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ con rùa,
còn lạm phát thì siêu tốc và cao tốc. Đó là chưa nói trong tình hình lạm phát siêu
tốc, nền kinh tế khó có thể tồn tại do sự huỷ hoại của lạm phát với bất cứ giá nào.
Khi lạm phát phi mã thì kinh doanh tiền tệ phát triển để bảo tồn vốn. Kinh
doanh vốn giảm mạnh, bởi đầu tư vào sản xuất - kinh doanh cũng có nghĩa là đánh
mất vốn do lạm phát. Tình trạng lạm phát cao là mối quan tâm đáng lo ngại của các
nhà đầu tư nước ngoài.
43
Trong xu thế quốc tế hoá mạnh mẽ, sự ổn định kinh tế -xã hội của một quốc
gia không còn duy nhất theo lối nghĩ "tự lực cánh sinh, tự cung tự tiêu" mà là quốc
sách huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả cao nhờ phát huy những lợi thế của
mình để cạnh tranh và tồn tại được trên thương trường quốc tế. Đó là cách nghĩ
thực tế hợp thời để nhanh chóng chớp được những cơ may kinh tế trong diễn biến
quốc tế đang đầy tính ngẫu hứng. Thời gian và tỉnh táo đang là vốn tiềm năng đầy
hứa hẹn với chúng ta.
Nên chăng, thay vì cách nghĩa tăng trưởng tối đa kinh tế để chống lạm phát
bằng việc giảm tối thiểu lạm phát để nâng tối đa sự tăng trưởng kinh tế. Đó là sự
đổi vế trong cách nghĩ.
2. Những thành tựu đạt được:
a. Những thắng lợi ban đầu của việc chống lạm phát ở nước ta thời gian qua
Việc chống lạm phát ở nước ta thời gian qua đã thu được những thắng lợi to
lớn, nổi bật là những nét sau đây:
- Giá cả tương đối ổn định đã góp phần ổn định đời sống của những người
hưởng lương và cải thiện rõ rệt mức sống của nhiều tầng lớp xã hội khác.
- Sức mua của đồng tiền ít biến động đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc hạch
toán của các đơn vị kinh tế.
- Lãi suất ngân hàng cao đã thu hút được nguồn tiền gửi lớn, giảm tình trạng
căng thẳng về tiền mặt.
- Giải toả được những khoản dự trữ bất hợp lý về vật tư và hàng tiêu dùng của
các xí nghiệp và các gia đình xoá nhu cầu giả tạo, giảm đầu cơ chờ giá lên, nhờ đó
làm dịu bớt sự mất cân đối hàng - tiền.
b. Những nguyên nhân chủ yếu của thắng lợi nói trên.
Đạt được những thắng lợi nói trên là do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là:
- Nâng lãi suất cao nên tăng nguồn tiền gửi vào ngân hàng và các quỹ tín
dụng, giảm bao cấp qua tín dụng, hạn chế việc vay vốn từ ngân hàng.
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các cơ cấu đầu tư, đình hoãn nhiều công trình
xây dựng qui mô lớn chưa cấp thiết.
- Tính tỷ giá hối đoái sát tỷ giá thị trường dẫn đến tăng thu từ hàng nhập khẩu,
giảm bù lỗ xuất khẩu, thu hút được nhiều kiều hối và mua vào được nhiều ngoại tệ
của khách nước ngoài đến nước ta.
44
- Hàng ngoại tràn vào nhiều do mở cửa biên giới và vàng nhập khẩu tăng lên
từ nhiều nguồn do vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế.
- Khuyến khích kinh tế nhiều thành phần, nhiều người bỏ vàng dự trữ ra kinh
doanh. Nguyên nhân này cùng với nguyên nhân trên góp phần ổn định giá vàng,
làm tăng tín nhiệm vào tiền tệ.
- Được mùa lương thực, mua bán lương thực theo giá thị trường, giảm bớt bù
lỗ cho việc kinh doanh lương thực, tăng xuất khẩu gạo để thu ngoại tệ.
- Bước đầu thu hẹp việc mua bán dùng tiền mặt, tăng thanh toán chuyển
khoản do khôi phục được phần nào lòng tin vào sức mua của đồng tiền.
c. Căn nguyên của lạm phát chưa được xoá bỏ thắng lợi của chống lạm
phát chưa vững.
Chúng ta mới kiềm chế được tốc độ của lạm phát (từ 14,8%/tháng xuống
2,8%/tháng) chứ chưa phải đã chặn đứng và đẩy lùi được lạm phát, như một số cơ
quan ngôn luận đã nhận định, lạm phát năm 1999 là 0,1% là một dẫn chứng. Sở dĩ
như vậy là vì căn nguyên của lạm phát là bội chi ngân sách vẫn tồn tại và có chiều
hướng tăng lên. Những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi ban đầu của lạm phát chỉ là
tạm thời và không vững chắc. Việc nâng lãi suất quá cao chỉ có thể chấp nhận
trong tình thế cấp bách, không thể duy trì lâu dài. Quy mô đầu tư xây dựng cơ bản
vẫn còn quá sức chịu đựng của nền kinh tế. Lượng kiều hối và ngoại tệ mua vào
trong tương lai cũng không thể tăng nhiều và nhanh như khi mới điều chỉnh tý giá
hối đoái. Hàng ngoại tràn vào là do xuất khẩu ồ ạt những mặt hàng (như đồng, chì,
nhôm, kẽm, gạo,...) mà nguồn của chúng rất có hạn, không thể tiếp diễn lâu dài.
Nguồn vốn dự trữ trong nhân dân không phải là vô tận, việc xuất khẩu lương thực
cũng có giới hạn. Hệ thống tín dụng vẫn chưa được khôi phục, chưa đi vào nền
nếp.
Có ý kiến cho rằng năm 1989 bội chi ngân sách rất lớn, phát hành thêm một
khối lượng tiền mặt khá to mà giá cả ít biến động, chứng tỏ bội chi ngân sách và
phát hành không liên quan gì đến lạm phát. Đó là một quan niệm hết sức nguy
hiểm. Chính những nguyên nhân nói trên đã nhất thời giảm nhẹ tác hại của bội chi
ngân sách, xoá dịu cơn sốt lạm phát. Nhưng những nhân tố làm tăng bội chi ngân
sách vẫn tiếp tục tiến triển, nếu không có biện pháp hữu hiệu để khắc phục thì đến
một lúc nào đó cơn sốt lại tái phát dữ dội hơn.
Thứ nhất, các nguồn thu rất hạn hẹp, chủ yếu thu trong khâu lưu thông (thuế
xuất, nhập khẩu, ,...). Thu từ sản xuất chiếm phần nhỏ và không đạt kế hoạch; với
45
lãi suất ngân hàng quá cao khó có xí nghiệp sản xuất nào chịu đựng nổi. Ngay với
lãi suất ưu tiên (3,75%/tháng, tức là trên 40%/năm) cũng vượt quá tỷ suất lợi
nhuận của những đơn vị kinh doanh giỏi trong lĩnh vực sản xuất của cải vật chất.
Nhiều xí nghiệp thiếu vốn không dám vay. Như vậy không đạt được mục tiêu
chống lạm phát để phát huy mọi lực lượng sản xuất.
Thứ hai, với lãi suất như hiện nay (dù đã giảm xuống nhiều lần) ngân hàng
không thể chuyển qua kinh doanh thực sự. Nguồn vốn huy động tăng nhưng cho
vay khó khăn.
Thứ ba, các khoản nhập siêu, từ 1991 sẽ giảm nhiều, các nguồn vay nước
ngoài hoặc tiếp nhận vốn đầu tư tăng chưa đáng kể, sẽ làm cho ngân sách thêm
thâm hụt.
Thứ tư, khả năng giảm chi rất hạn chế, ngược lại yêu cầu tăng chi trước mắt
rất gay gắt. Thí dụ: việc giảm bớt lực lượng vũ trang và biên chế Nhà nước sẽ dẫn
tới giảm chi trong tương lai, nhưng lại đòi tăng chi ngay tức thì (phụ cấp về hưu,
mất sức). Nhiều khoản chi xã hội (xoá nạn mù chữ, cải tiến giáo dục,...) cũng rất
bức bách, không thể trì hoãn.
d. Một số kiến nghị về biện pháp phát huy thành quả chống lạm phát.
Để phát huy thành quả chống lạm phát cần áp dụng nhiều biện pháp một cách
đồng bộ, mà trước hết là:
- Nghiên cứu sâu thêm việc bảo đảm tiền gửi ngân hàng bằng vàng hoặc tiền
chuẩn qui ước để người gửi không lo mất vốn, rồi giảm dần lãi suất nhận gửi xuống
nữa.
- Tìm mọi cách để tăng vay nợ dài hạn từ các Chính phủ của các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển và các tổ chức quốc tế để bù vào các khoản giảm nhập siêu và
tăng đầu tư cho xuất khẩu (kể cả xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu).
- Chống thất thu thuế, tăng hoạt động bảo hiểm, phát hành công trái, phát
hành cổ phiếu của những xí nghiệp quốc doanh có khả năng kinh doanh.
- Chấn chỉnh hoạt động của ngân hàng đúng nguyên tắc (thí dụ: vay phải có
bảo đảm bằng hối phiếu, hoá đơn gửi hàng trong kho cảng hoặc tài sản thế chấp,...)
khôi phục các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt một cách thuận tiện và có
bảm đảm. Muốn vậy, phải sớm ban hành Luật Ngân hàng và nghiêm trị kịp thời
các hành vi phạm pháp trong lĩnh vực này.
- Quy định tỷ giá hối đoái sát với tỷ giá thị trường, củng cố và hoàn thiện việc
kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ để tập trung quản lý ngoại hối. Tuy vậy, nên nghiên
cứu áp dụng tỷ giá ưu tiên cho một số mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu, coi
như một khoản trợ cấp.
46
KẾT LUẬN
Lạm phát là vấn đề rất lớn của nền kinh tế thị trường, lạm phát như ta thấy nó
tác động tới rất nhiều vấn đề như thu nhập thực tế của người dân, tác động đến lãi
suất thị trường, phân phối thu nhập giữa những người lao động,... Vì vậy hạn chế
những tác động của lạm phát được coi là vấn đề của các nước trên thế giới nói
chung và của Việt Nam ta nói riêng. Việc khống chế lạm phát ở một mức như thế
nào thì nền kinh tế phát triển đó là một vấn đề cần giải quyết của mỗi quốc gia. Bởi
vậy bất cứ giải pháp nào có lợi cho sự phát triển kinh tế cũng cần phải đi kèm với
những giải pháp nhằm tránh những cú sốc cho kích thích mạnh lạm phát thái quá
gây bất lợi cho nền kinh tế. Việc tập hợp được những bài học kinh nghiệm qua việc
chống lạm phát của một số nước là một vấn đề được đề tài quan tâm nhiều để từ đó
nó sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta.
47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí thị trường giá cả
Số 3 - 1996
Số 5 - 1997
Số 2 - 1999
Số 5 - 1999
Số 7 -1999
2. Tạp chí phát triển kinh tế
Số 77 năm 97
3. Tạp chí thị trường, tài chính, tiền tệ
Tháng 4- 1998
Tháng 8 - 1998
4. Tạp chí tài chính tháng 9 - 1999
5. Thời báo kinh tế số 87 - 1999
6. Kinh tế kinh tế học Samulson
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn Lạm phát và một số biện pháp khắc phục lạm phát trên thế giới và ở Việt Nam.pdf