Luận văn Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật CBCC nhằm xây dựng một hệ thống VBQPPL thống nhất, ổn định có hiệu lực pháp lý cao tương xứng với các nội dung cần được điều chỉnh. Hoàn thiện pháp luật CBCC đòi hỏi phải nâng pháp lệnh CBCC lên thành luật CBCC và phải theo hướng chuyên biệt hoá đối với từng đối tượng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Quy định chế độ tiền lương, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, đề bạt, điều động hợp lý để tạo điều kiện khuyến khích, thu hút nhân tài từ khu vực tư nhân, tổ chức xã hội vào khu vực nhà nước. Hoàn thiện pháp luật CBCC là một nhu cầu, đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực thi nhiệm vụ, công vụ của CBCC đồng thời là phương tiện để nhà nước kiểm soát, quản lý, sử dụng đội ngũ CBCC theo đúng pháp luật, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

pdf115 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đội ngũ CBCC và làm giảm tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của BMNN. 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế Trước hết phải khẳng với sự ra đời của pháp lệnh CBCC năm 1998 có ý nghĩa lớn lao trong lịch sử pháp luật CBCC nhà nước ở nước ta. Sau quy chế công chức năm 1950 do Hồ Chủ tịch ký thì đây là văn bản có hiệu lực pháp lý cao điều chỉnh những vấn đề cơ bản của CBCC cùng với hệ thống các VBQPPL khác tạo thành một hệ thống pháp luật CBCC khá đồng bộ, tuy nhiên vẫn còn những khiếm khuyết tồn tại như đã phân tích. Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân sau: * Nguyên nhân khách quan: Trải qua hơn 60 năm xây dựng và bảo vệ đất nước từ năm 1945 đến nay chúng ta phải đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài. Do vậy, trong một thời gian khá dài chúng ta phải dồn mọi nguồn nhân lực, vật lực tập trung cho công cuộc bảo vệ đất nước. Thời kỳ này việc xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về CBCC nói riêng chưa được quan tâm đúng mức điều này ảnh hưởng đến việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC hiện nay. Nước ta trải qua một thời kỳ dài sử dụng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và hành chính mệnh lệnh, tình trạng này kéo dài dẫn đến những tác động tiêu cực cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Năng suất lao động nước ta còn thấp, vẫn là nước nghèo nền kinh tế lạc hậu, nguồn nhân sách nhà nước đang còn hạn hẹp, đây cũng là nguyên nhân gây nên những hạn chế của pháp luật CBCC. Tình trạng nền kinh tế chậm phát triển là nguồn gốc cơ sở duy trì tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém năng động, cơ hội, cục bộ ảnh hưởng tới công tác xây dựng quản lý phát triển đội ngũ CBCC. Đất nước còn trong diện nghèo nên không cho phép có một nền tài, chính ngân sách dồi dào để thực hiện các biện pháp như: tăng mức tiền lương thích hợp, cùng với chế độ đãi ngộ khen thưởng đối với CBCC, khó dùng các biện pháp kinh tế trong xây dựng pháp luật để khuyến khích CBCC tận tâm với công việc và thu hút nhân tài cho nền công vụ. Vì điều kiện đó, chủ trương tiết kiệm tiêu dùng để đầu tư nhằm tối đa hoá việc làm và tăng vốn tích luỹ để nâng cao tốc độ phát triển kinh tế dẫn đến duy trì và thực hiện một chính sách tiền lương thấp chưa phải là một biện pháp thượng sách. Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các yếu tố của thị trường, những cơ chế, cung cách mới được đặt ra biến đổi nhanh chóng đòi hỏi người CBCC buộc phải thích ứng. Trong khi đó, các nhà làm luật không lường hết được các tình huống, cho nên pháp luật vẫn còn nhiều kẽ hở để một bộ phận không nhỏ CBCC nhất là những người có chức có quyền lợi dụng để vi phạm pháp luật. * Nguyên nhân chủ quan: Trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về CBCC cơ quan soạn thảo chưa chú trọng tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật CBCC đã và đang có hiệu lực để củng cố và nâng cao nhận thức về thực tiễn quản lý đội ngũ CBCC hiện hành. Trình độ của đội ngũ CBCC làm công tác soạn thảo chưa đổi mới về tư duy trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo yêu cầu của cơ chế quản lý mới, vẫn giữ nếp nghĩ và cách làm cũ trong khi dự thảo các VBQPPL về CBCC. Năng lực của đội ngũ CBCC làm công tác xây dựng, soạn thảo các VBQPPL về CBCC còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng ban hành VBQPPL. Trong quá trình soạn thảo chưa đầu tư thời gian, công sức cũng như kinh phí cho công tác xây dựng dự thảo các VBQPPL như: Chưa dành thời gian thoả đáng để thảo luận kỹ các vấn đề; kinh phí dành cho hoạt động xây dựng các VBQPPL về CBCC còn hạn chế, chưa tương xứng với công sức trí tuệ của những người có trách nhiệm soạn thảo cũng như các nhà khoa học; chưa có quy định trả thù lao xứng đáng đối với những tổ chức cá nhân có những ý kiến đóng góp có giá trị vào các dự thảo VBQPPL. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế của pháp luật CBCC. Trong công tác xây dựng và ban hành chưa động viên được mọi tổ chức, cơ quan và cá nhân trong việc góp ý đối với các VBQPPL CBCC. Bởi vì, để nâng cao giá trị pháp lý của việc thẩm định, thẩm tra dự thảo các VBQPPL phải bảo đảm tính khách quan mang tầm trí tuệ và tính tập thể cao thì phải tổ chức huy động lấy ý kiến của các tổ chức cá nhân là đối tượng chịu sự điều chỉnh của các dự thảo VBQPPPL. Trong điều kiện công khai, minh bạch hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước thì việc thông tin rộng rãi về các dự thảo VBQPPL CBCC là rất cần thiết. Công tác này nhiều khi được tổ chức nhưng rất hình thức cho nên CBCC là đối tượng chịu sự điều chỉnh của các dự thảo khó có điều kiện góp ý trước khi các dự thảo VBQPPL được Chính phủ xem xét thông qua để trình Quốc hội, UBTVQH. Chưa có cơ chế thu hút mạnh mẽ sự tham gia của nhân dân, của các tổ chức, các nhà khoa học, nhà quản lý vào việc đóng góp ý kiến cho các dự thảo VBQPPL CBCC. Việc góp ý của nhân dân, tổ chức, các nhà khoa học, nhà quản lý vào các dự thảo đã được pháp luật quy định nhưng việc này chưa được tổ chức thực hiện có hiệu quả hoặc hình thức, phương pháp chưa khoa học. Các cơ quan soạn thảo và ban hành VBQPPL về CBCC không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của luật ban hành VBQPPL như: Không xin ý kiến đầy đủ của các đối tượng là CBCC thuộc sự điều chỉnh của dự thảo; hoặc có xin ý kiến thì cũng là hình thức dẫn đến nội dung của pháp luật CBCC chưa đáp ứng được các tiêu chí về tính toàn diện, tính đồng bộ, tính khoa học và khách quan; công tác thẩm định còn phiến diện, xuôi chiều, giá trị thẩm định, thẩm tra chưa cao dẫn đến chất lượng của hệ thống pháp luật CBCC vẫn còn nhiều điểm hạn chế như đã phân tích. 2.3. quan điểm và phương hướng, giảI pháp hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 2.3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật cán bộ công chức Quá trình phát triển của pháp luật CBCC qua hơn 60 năm, đó là một quá trình phát triển và hoàn thiện dần cùng với thời gian và thực tiễn cuộc sống. Pháp lệnh CBCC và các VBQPPL hiện hành tuy đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc quản lý đội ngũ CBCC của nhà nước nhưng so với yêu cầu của việc tăng cường cải cách nền hành chính và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay thì pháp luật CBCC còn nhiều bất cập, hạn chế như đã phân tích. Tình trạng cái mới còn đan xen với cái cũ, cái cũ đã tỏ ra không còn phù hợp với tình hình, điều kiện mới nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung vì thế pháp luật vẫn thiếu tính đồng bộ và kịp thời. Cho nên, pháp luật CBCC ở nước ta vẫn cần phải tiếp tục được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC chính quy hiện đại. Từng bước xác lập chế độ CBCC Việt Nam ổn định, phát triển bền vững đáp ứng nhiệm vụ của Nhà nước trong tình hình mới. Để đạt được mục đích nói trên, việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật CBCC phải quán triệt các quan điểm sau đây: Một là: Hoàn thiện pháp luật CBCC phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Điều 4 pháp lệnh CBCC năm 2003 quy định: "Công tác cán bộ, công chức đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị". Ngay sau cách mạng tháng 8 - 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò của Đảng đối với việc hoàn thiện hệ thống công chức từ Trung ương xuống địa phương. Người nói: Đảng cầm quyền, một mặt tiếp tục lãnh đạo quần chúng nhân dân hoà thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến lên CNXH, mặt khác bên cạnh phương thức lãnh đạo, giáo dục, thuyết phục, tổ chức vận động quần chúng còn sử dụng bộ máy nhà nước (trong đó có đội ngũ công chức) để thực hiện quyền lực nhân dân... [20, tr.75]. Nước ta, ĐCSVN lãnh đạo thống nhất toàn xã hội thông qua vai trò quản lý của Nhà nước. Thông qua Nhà nước trong đó đội ngũ CBCC là một bộ phận quan trọng mà mọi chủ trương, đường lối của Đảng được tổ chức thực hiện. Một đội ngũ CBCC mạnh, có kỷ cương tạo ra nền hành chính mạnh, nhà nước mạnh và Đảng mạnh trong một thể thống nhất. Vì vậy, đổi mới và hoàn thiện pháp luật CBCC nhà nước ở nước ta không thể tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội đã được thực tế kiểm định. Trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, bên cạnh việc đề ra đường lối, chiến lược phát triển một công tác hết sức quan trọng khác đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là công tác cán bộ. Khi nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật CBCC phải tuyệt đối quán triệt quan điểm này. Phải quán triệt đầy đủ, đúng đắn các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ, và tư tưởng cơ bản của công tác hành chính nhân sự trong việc xây dựng các chế định pháp luật về việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển và quản lý CBCC. Hoàn thiện pháp luật CBCC không thể nằm ngoài hoặc khác biệt với những chủ trương, chính sách của Đảng, có như vậy mới đề cao được sự lãnh đạo và uy tín của Đảng. Đồng thời việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh tạo điều kiện cho việc xây dựng hoàn thiện pháp luật CBCC, góp phần xây dựng đội ngũ CBCC vững mạnh, tận tuỵ phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. Hai là: Xây dựng hoàn thiện pháp luật CBCC nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu về cải cách nền hành chính nhà nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: Cải cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước trong những năm trước mắt. Công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: Cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính [13, tr.131]. Bộ máy hành chính của nước ta hiện nay đang trong quá trình cải cách về tổ chức và cơ chế vận hành. Chức trách nhiệm vụ, yêu cầu về tiêu chuẩn, chuyên môn nghiệp vụ đối với từng loại CBCC chưa được chuẩn hoá, gây nhiều khó khăn cho việc quy hoạch, đào tạo đội ngũ CBCC tương xứng với yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại. Tệ quan liêu, tham nhũng, thoái hoá về phẩm chất đạo đức của một bộ phận CBCC phản ánh sự yếu kém của bộ máy hành chính. Vì vậy, nội dung yêu cầu của cải cách thể chế hành chính là thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành chính cả về thể chế và tổ chức thực hiện để loại bỏ những khâu bất hợp lý và phiền hà ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, vi phạm pháp luật, CBCC là người trực tiếp tổ chức thực hiện các thể chế của nền HCNN cho nên vấn đề hoàn thiện pháp luật CBCC phải xác định được các tiêu chuẩn như: trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của CBCC để cho phù hợp với từng loại công vụ trong nền hành chính. Đặc biệt coi trọng vấn đề trách nhiệm của CBCC trong quá trình giải quyết các công việc hành chính cũng như nội bộ tổ chức triển khai thi hành pháp luật. Như vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật CBCC phải gắn liền với hoàn thiện pháp luật về công vụ và cải cách thủ tục hành chính. Xây dựng hoàn thiện pháp luật CBCC phải trên cơ sở đổi mới về quan điểm, nhận thức đối với việc xây dựng đội ngũ CBCC chính quy, hiện đại, chuyên nghiệp, bảo đảm hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Cải cách hành chính là chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt động của bộ máy hành chính các cấp từ trung ương đến địa phương. Việc chấn chỉnh tổ chức, bộ máy đặt ra yêu cầu là nâng cao chất lượng và tăng cường trách nhiệm của đội ngũ CBCC, xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng hoạt động của BMNN. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật CBCC phải luôn gắn liền với việc hoàn thiện pháp luật về bộ máy và thể chế hành chính. Ngược lại, xây dựng được đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực thì mới vận hành bộ máy hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và bảo đảm thực hiện đúng đắn các thủ tục hành chính. Ba là: Xây dựng, hoàn thiện pháp luật CBCC nhà nước nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCC. Đội ngũ CBCC là những người được Nhà nước uỷ thác quyền lực để tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Do đó, cùng với việc xây dựng hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy HCNN, thì việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đó là nhân tố bảo đảm cho BMNN vận hành thông suốt có hiệu quả. Do vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật CBCC phải nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, để tạo ra một đội ngũ CBCC vững mạnh, chính quy, hiện đại và chuyên nghiệp. Xuất phát từ đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do đó đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ CBCC đông đảo hơn về số lượng nhưng lại vững vàng về chất lượng. Do đó, yêu cầu đặt ra với việc hoàn thiện pháp luật CBCC theo xu hướng này là phải tạo ra một cơ chế pháp lý hữu hiệu (đặc biệt là cơ chế tuyển dụng) nhằm lựa chọn cho BMNN một đội ngũ CBCC có khả năng hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, những quy định pháp lý về CBCC phải tạo được cơ chế mới trong tổ chức nhân sự theo hướng tinh gọn, đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội, phù hợp với thời đại khoa học và công nghệ hiện nay. Bốn là: Hoàn thiện pháp luật CBCC trên cơ sở quán triệt đầy đủ các nguyên tắc của chế độ CBCC. Pháp luật CBCC quy định các điều kiện phát sinh thay đổi, chấm dứt quan hệ chức vụ của CBCC... Những quy định này có liên quan đến lợi ích của nhà nước, của công dân, quyền và lợi ích của bản thân người CBCC. Do đó pháp luật CBCC phải tuân theo các nguyên tắc sau: * Nguyên tắc công khai bình đẳng Nghĩa là trong pháp luật CBCC tất cả những vấn đề gì có liên quan đến CBCC như: thi tuyển, kiểm tra, sát hạch, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ nói chung phải được công khai hoá kể cả việc thực hiện. Đồng thời, phải đảm bảo cho mọi CBCC được hưởng những điều kiện bình đẳng cả về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. * Nguyên tắc ổn định: Đòi hỏi pháp luật phải bảo đảm cho CBCC được ổn định về mặt nghề nghiệp, bảo đảm tính liên tục của công việc. Nên việc thuyên chuyển, điều động, miễn nhiệm, cho thôi việc phải được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật để ngăn ngừa tình trạng tuỳ tiện. Nguyên tắc ổn định không có nghĩa là chuyên môn hoá một cách tuyệt đối, ổn định suốt đời mà đòi hỏi phải điều động, luân chuyển một cách hợp lý để cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt. * Nguyên tắc bảo đảm về mặt vật chất: Việc bảo đảm vật chất cho CBCC bao gồm các chế độ như lương, các khoản phụ cấp, các ưu đãi và các bảo đảm vật chất khác đối với CBCC trong quá trình thực thi công vụ và trong các ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ hưu... Bảo đảo về mặt vật chất là yếu tố rất quan trọng trong công tác quản lý CBCC. Nó là động lực, yếu tố giúp cho họ yên tâm, gắn bó tận tuỵ với công việc. Vấn đề bảo đảm về mặt vật chất đối với CBCC phải phù hợp với thực tiễn của đất nước và tương xứng với sự đóng góp của CBCC, tương xứng với thu nhập bình quân của xã hội. Năm là: Hoàn thiện pháp luật CBCC xuất phát từ thực tiễn nước ta và xu hướng phát triển chung của thời đại. Pháp luật nói chung cũng như pháp luật về CBCC nói riêng đều bị chi phối bởi thực tiễn của đất nước. Do đó, vấn đề hoàn thiện pháp luật CBCC ở nước ta cũng phải căn cứ vào các điều kiện, tình hình cụ thể của đất nước. Pháp luật CBCC phải thể hiện được bản chất của Nhà nước ta và nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN do đó đòi hỏi đội ngũ CBCC phải có sự thay đổi về số lượng, chất lượng và trách nhiệm mới có thể đáp ứng được yêu cầu của nền công vụ hiện đại. Pháp luật phải xác định rõ cơ chế, chính sách bảo đảm cho CBCC thi hành công vụ một cách khách quan, vô tư, được nhà nước và nhân dân bảo vệ, được hưởng các chế độ, điều kiện làm việc một cách hợp lý. Hoàn thiện pháp luật CBCC phải được tiến hành đồng bộ, toàn diện có lộ trình thích hợp bảo đảm từng bước xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống các VBQPPL về CBCC và tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực. Quá trình hoàn thiện phải kế thừa những ưu điểm của chế độ CBCC truyền thống đồng thời nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và những thành tựu khoa học trong việc quản lý nhân sự của các nước trên thế giới. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, hội nhập quốc tế và khu vực là một trong những nhân tố quan trọng, chi phối sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong quá trình tiếp tục hoàn thiện chúng ta phải chú ý là không áp dụng kinh nghiệm nước ngoài một cách máy móc mà phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, phù hợp với đặc điểm, truyền thống, tính cách và bản sắc Việt Nam như quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: "Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hoà bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật". 2.3.2. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay 2.3.2.1. Tiến hành hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật cán bộ công chức Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi xây dựng được một hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật CBCC nói riêng thống nhất và đồng bộ. Muốn xây dựng được một đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải đổi mới cơ chế, chính sách pháp luật trong quản lý đội ngũ CBCC. Để hoàn thiện hệ thống VBQPPL về CBCC và tiến tới ban hành luật CBCC phải tiến hành tổng rà soát toàn bộ hệ thống VBQPPL đã được ban hành từ năm 1945 đến nay. Những năm đầu tiên của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hoà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp ký một số sắc lệnh điều chỉnh về lĩnh vực CBCC, có thể coi đó là nền móng đầu tiên của hệ thống pháp luật CBCC ở nước ta. Cùng với thời gian pháp lệnh CBCC hiện nay là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính chất định khung. Pháp luật CBCC đã hình thành và từng bước hoàn thiện dần, đưa công tác quản lý CBCC vào nề nếp góp phần nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của BMNN, và phát triển đội ngũ CBCC theo yêu cầu đổi mới. Tuy nhiên hệ thống pháp luật CBCC ở nước ta vẫn chưa đồng bộ, còn chồng chéo, thiếu sự thống nhất, còn nhiều vấn đề liên quan đến CBCC chưa được đề cập đến. Để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật CBCC chúng ta cần phải tiến hành tổng rà soát hệ thống hoá tất cả các VBQPPL CBCC từ năm 1945 đến nay. Mục đích của công tác này là bãi bỏ các văn bản đã hết hiệu lực, hoặc có nội dung không còn phù hợp với yêu cầu quản lý CBCC trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc hệ thống hoá chúng ta có thể rút được những kinh nghiệm, từ việc xây dựng các VBQPPL đã hết hiệu lực nhưng vẫn còn giá trị. Thông qua công tác hệ thống hoá sửa đổi, bổ sung kịp thời những nội dung sai sót, bất hợp lý không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện nay. Pháp luật CBCC ở nước ta có đặc điểm là có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ, nhiều văn bản chồng chéo khó vận dụng, hiệu lực pháp lý và tính khả thi không cao. Những văn bản VBQPPL mới ban hành chưa đầy đủ, nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực quản lý CBCC chưa được pháp luật điều chỉnh. Sau khi tiến hành tổng rà soát phải tập hợp hoá những văn bản đang được áp dụng. Căn cứ vào nhu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với CBCC trong giai đoạn hiện nay, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC phù hợp với thời kỳ đổi mới CNH, HĐH và thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới. Đối với việc xây dựng các VBQPPL mới phải được thực hiện theo kế hoạch, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm điều chỉnh pháp luật có hệ thống, đồng bộ, cho phép khắc phục được tính tản mạn chồng chéo hoặc những "lỗ hổng" của pháp luật để tiến tới hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật CBCC phù hợp với thực tiễn hiện nay. Một hệ thống pháp luật CBCC rõ ràng và đầy đủ là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, vững mạnh. 2.3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cán bộ, công chức hiện hành và ban hành luật cán bộ công chức Trên cơ sở pháp lệnh CBCC hiện hành 2003 chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng ban hành các nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện để định ra cơ chế hữu hiệu và các chính sách phù hợp đối với đội ngũ CBCC theo từng loại: CBCC hành chính, cán bộ viên chức sự nghiệp, CBCC cơ sở... Chúng ta cần có thời gian thi hành các nghị định của Chính phủ và các văn bản khác trên cơ sở pháp lệnh CBCC năm 2003 để đúc rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho việc ban hành luật CBCC. Tiếp tục điều chỉnh cơ chế quản lý thích ứng đối với từng loại CBCC ở các vấn đề như: tuyển dụng, nâng ngạch, bổ nhiệm, đề bạt và bố trí, sử dụng, luân chuyển, biệt phái CBCC; phân cấp quản lý theo từng cấp hành chính. Qua đó nhằm tuyển chọn được những người xuất sắc bổ sung vào đội ngũ CBCC nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Sửa đổi quy chế đánh giá CBCC theo các tiêu chí phù hợp với yêu cầu đổi mới công tác đánh giá CBCC. Tiếp tục hoàn chỉnh và xây dựng một số văn bản của Chính phủ về việc nâng ngạch trước thời hạn đối với CBCC hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; Nghị định của Chính phủ quy định cơ cấu CBCC trong các tổ chức, cơ quan nhà nước; Nghị định của Chính phủ ban hành một số chính sách đối với CBCC khi được điều động luân chuyển; Nghị định của Chính phủ quy định xử lý trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo quản lý để xảy ra các vụ tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan, đơn vị mà mình quản lý. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh các ngạch CBCC trên cơ sở sửa đổi những tiêu chuẩn, chức danh không còn phù hợp với yêu cầu tình hình thực tiễn xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC. Tiêu chuẩn các chức danh nghiệp vụ CBCC mới phải đảm bảo tính khoa học, hiện đại trên cơ sở đó để xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, ổn định. Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực hiện pháp luật CBCC hiện nay và những yêu cầu đặt ra trong thời gian tới phải tiến tới xây dựng và ban hành luật CBCC. Chúng ta đang trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đặc trưng quan trọng của Nhà nước pháp quyền là tôn trọng tính tối cao của luật. Điều đó đòi hỏi tư duy về pháp luật nói chung và pháp luật CBCC phải được đổi mới trên cái nền chung của cả đất nước. Đội ngũ CBCC của nước ta làm việc trong BMNN, trong cả hệ thống chính trị, thực hiện các hoạt động quản lý nói chung vì vai trò quan trọng như vậy nên phải được điều chỉnh bằng một văn bản có hiệulực pháp lý cao là luật. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã xác định: "Ban hành luật về công chức công vụ". ở nước ta hiện nay văn bản có tính chất định khung, có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh tổng thể các vấn đề về CBCC là pháp lệnh 2003, nhưng cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện, nâng giá trị pháp lý của văn bản này lên thành luật. Luật CBCC phải xác định rõ phạm vi, đối tượng điều chỉnh để xác định địa vị pháp lý của từng loại. Luật phải phân biệt được các đối tượng là: cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng làm việc trong các cơ quan tổ chức đơn vị khác trong hệ thống chính trị để khắc phục được các nhược điểm còn quá chung chung của pháp luật hiện hành. Trên cơ sở các quy định của pháp lệnh CBCC 2003 luật CBCC cần đưa ra khái niệm công chức một cách đầy đủ, ngắn gon, dễ hiểu. Để xác định các đối tượng là CBCC phải xem xét tính chất công việc để phân biệt với hoạt động của các đối tượng khác trong hệ thống chính trị. Việc phân biệt CBCC trong các cơ quan nhà nước với CBCC trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước thực chất là phân biệt giữa công chức nhà nước với viên chức nhà nước. Điều này phù hợp với xu hướng cải cách hành chính nhà nước là phân biệt giữa hành chính công quyền với đơn vị sự nghiệp. Hoạt động của CBCC trong các cơ quan nhà nước luôn gắn với quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện quyền lực nhà nước hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Hoạt động của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước thuần tuý mang tính chuyên môn, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu do chính các đơn vị sự nghiệp tạo nên. Xuất phát từ đặc thù của hệ thống chính trị và điều kiện lịch sử đất nước, CBCC không chỉ ở trong các cơ quan hành chính nhà nước, trong các cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà còn bao gồm CBCC thuộc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. 2.3.2.3. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn chức danh các ngạch của cán bộ công chức về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức Trong giai đoạn hiện nay, khi chưa ban hành luật CBCC cần cụ thể hoá các tiêu chuẩn mang tính định tính như: phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp, tuân thủ pháp luật, trung thực trong khi thực thi công vụ... bằng việc xây dựng và ban hành luật đạo đức CBCC thay cho các quy định phẩm chất đạo đức chung chung như hiện nay. Cần sớm ban hành quy chế hoạt động công vụ nhằm quy định chế độ trách nhiệm của CBCC trong quá trình thực thi công vụ, thông qua đó giải quyết tốt mối quan hệ trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) xác định tiêu chuẩn đội ngũ CBCC là: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm [17, tr.192]. Hệ thống tiêu chuẩn các chức danh nghiệp vụ công tác mới phải đảm bảo tính khoa học, hiện đại, phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, tạo cơ sở quy hoạch xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, ổn định. Cần khắc phục hạn chế của pháp lệnh 2003 quy định tiêu chuẩn cán bộ một cách chung chung. Cho nên cần rà soát đánh giá lại hệ thống tiêu chuẩn chức danh CBCC đã ban hành để sửa đổi những tiêu chuẩn chức danh không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Sửa đổi, bổ sung một số tiêu chuẩn của các ngạch công chức đã ban hành như tiêu chuẩn về ngoại ngữ, tin học, chuyên môn, nghiệp vụ. Cần xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ chuyên trách ở cơ sở gồm các chức danh cán bộ chuyên trách về chuyên môn của UBND xã, phường, thị trấn. Xây dựng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức mới. Trong điều kiện cải cách hành chính hiện nay công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC cần phải hoàn thiện từ khâu đánh giá phương thức xác định nhu cầu đào tạo của các loại CBCC. Trên cơ sở xác định nhu cầu để lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hợp lý theo các tiêu chuẩn chức danh CBCC đã đề ra. Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác cán bộ cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kinh nghiệm trong thực tiễn thông qua luân chuyển, đề bạt CBCC để CBCC pháp huy tính chủ động, sáng tạo. Bởi vì, đào tạo, bồi dưỡng CBCC qua thực tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, điều động, luân chuyển là một phương thức rèn luyện, thử thách tạo sự trưởng thành cho CBCC. Xem xét đánh giá lại chương trình đào tạo, bồi dưỡng đang được thực hiện để cắt giảm các nội dung trùng lắp, đưa vào những nội dung mới thiết thực, phù hợp. Cải tiến phương thức đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn hệ thống đào tạo, và đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng phù hợp với từng loại CBCC, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài. Tăng cường triển khai kiểm tra công tác đào tạo, bồi dưỡng ở các đơn vị quản lý đào tạo và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Xây dựng hệ thống tiêu chí kiểm tra đánh giá chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng làm cơ sở thống nhất xem xét đánh giá về hiệu quả của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng CBCC. 2.3.2.4. Hoàn thiện các quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ công chức Để xây dựng được một đội ngũ CBCC tận tuỵ, đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đòi hỏi chính sách tiền lương phải phù hợp để khuyến khích CBCC làm việc có hiệu quả. Bởi vì, tiền lương là động lực của sự phát triển, là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương, điều chỉnh tiền lương bảo đảm mức sống tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội. Hệ thống thang bậc lương bảo đảm tương quan hợp lý, khuyến khích người giỏi, lao động có năng suất cao... Thông qua cải cách chế độ tiền lương thúc đẩy việc tinh giản biên chế trong bộ máy công quyền [14, tr.212]. Hoàn thiện chế độ chính sách đối với CBCC phải giải quyết cơ bản vấn đề tiền lương. Tiền lương phải phản ánh được trình độ năng lực và khả năng đóng góp của CBCC, tiền lương không thể chi trả theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Muốn thực hiện được điều đó đòi hỏi phải quán triệt nguyên tắc chung trong chính sách tiền lương và thiết kế thang, bảng lương là: tiền lương bằng nhau cho các công việc như nhau được thực hiện trong điều kiện giống nhau; mức lương khác nhau nếu công việc khác nhau, trách nhiệm được giao và những phẩm chất năng lực mà công việc đòi hỏi. Chính sách tiền lương phải được xem xét, điều chỉnh bảo đảm thu nhập thực tế và mức sống chung của toàn xã hội. Cùng với các quy định về chế độ tiền lương, phải có chế độ, chính sách khác nhằm tôn vinh những người có cống hiến và có thành tích xuất sắc trong hoạt động công vụ. Đây là điều kiện rất quan trọng để thu hút, bổ sung nhân tài cho đội ngũ CBCC. Ngoài ra, cần có những chính sách khuyến khích vật chất đặc biệt nhằm động viên những người tình nguyện phục vụ, công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; những người đang làm việc trong các điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; cần có quy định chế độ chính sách đối với CBCC cấp cơ sở. Chế độ, chính sách đối với CBCC còn được thể hiện trong các quy định về quyền lợi và khen thưởng. Cho nên các quy định này phải cụ thể, rõ ràng tạo ra chế độ chính sách chung của pháp luật CBCC, tránh hiện tượng chồng chéo, trùng lắp không cần thiết với các quy định khác trong hệ thống pháp luật nói chung. Về khen thưởng, ngày 26/11/1003 Quốc hội khoá XI đã thông qua luật thi đua khen thưởng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 2.3.2.5. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý đội ngũ cán bộ công chức Cùng với sự phát triển của xã hội, đội ngũ CBCC ngày càng tăng, nội dung, tính chất công vụ ngày càng phức tạp đòi hỏi vai trò lãnh đạo của cả hệ thống chính trị. Cán bộ, công chức phải được quản lý thống nhất và có sự phân cấp rõ ràng bảo đảm cho pháp luật CBCC được thực hiện nghiêm minh, nhất quán trong phạm vi cả nước. Quản lý CBCC là một công việc rất khó khăn phức tạp, biểu hiện mối quan hệ tổng hợp về nhiều mặt: kinh tế, tổ chức hành chính, chính trị, pháp lý, tâm lý xã hội... đòi hỏi cả tính khoa học và nghệ thuật. Do đó cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý đội ngũ CBCC. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng, quản lý đội ngũ CBCC nhằm đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với mỗi loại. Ban hành văn bản về phân cấp quản lý CBCC để quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan từ Trung ương đến địa phương. Phân định rõ việc quản lý CBCC giữa cơ quan Đảng và chính quyền; giữa các cấp ủy Đảng (cấp uỷ Đảng cấp trên, cấp uỷ Đảng cơ sở nơi CBCC công tác, cấp uỷ Đảng nơi CBCC cư trú). Xây dựng hoàn thiện khung pháp lý quản lý CBCC bằng pháp luật. Thiết lập khuôn khổ pháp lý chặt chẽ, tổ chức quản lý khoa học và bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện quản lý hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CBCC. Ban hành quy chế quản lý hồ sơ CBCC thống nhất trong hệ thống các cơ quan HCNN, trong các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Cần có cơ chế mở rộng dân chủ thu hút cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân tham gia quản lý CBCC. Nâng cao chất lượng của việc thực hiện quy chế dân chủ xã, phường, thị trấn và trong các cơ quan để mọi CBCC trong cơ quan và nhân dân địa phương được phê bình, kiểm tra và giám sát CBCC. Đồng thời có cơ chế bảo vệ cán bộ, nhân dân tham gia tố giác các hành vi vi phạm pháp luật của CBCC. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác quản lý cán bộ, đảng viên, khắc phục bệnh quan liêu, chủ quan, cá nhân. Thực hiện tốt biện pháp này mới có thể thu nhận được thông tin nhiều chiều, tạo điều kiện để quản lý CBCC thiết thực, hiệu quả, phòng chống được các hiện tượng tiêu cực. Có cơ chế pháp lý để kiện toàn, củng cố cơ quan, bộ phận làm công tác tổ chức cán bộ để sớm có chế độ làm việc ổn định, nề nếp, chú trọng nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn, tham mưu đề xuất trực tiếp với cấp uỷ và lãnh đạo cơ quan những vấn đề về xây dựng, quy hoạch đội ngũ CBCC, đánh giá, sử dụng, quản lý CBCC một cách chính xác, đầy đủ và thường xuyên. Tạo cơ sở pháp lý cũng như đầu tư để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ làm công tác quản lý CBCC về các kỹ năng quản lý hiện đại như: sử dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý hồ sơ cán bộ, ; xây dựng và ban hành các văn bản quyết định theo yêu cầu. Nâng cao phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, tuyển chọn những người có kinh nghiệm làm công tác quản lý CBCC. Quán triệt những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN trong việc xây dựng thể chế quản lý CBCC phải phù hợp với các bảo đảm của Hiến pháp, tôn trọng các quy tắc bình đẳng và xứng đáng trong tuyển dụng và đãi ngộ CBCC. Các quy định đó phải được thể chế hoá bằng hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước nhằm điều chỉnh nội dung cũng như phương thức hoạt động của mọi CBCC cũng như cá nhân, tổ chức có trách nhiệm quản lý CBCC. Các quy tắc đó phải được công bố công khai và được áp dụng cho tất cả các cấp của hệ thống chính trị. Xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm và quy trình công việc của CBCC. Thực hiện cơ chế thanh tra công vụ để quản lý chặt chẽ đội ngũ CBCC. Thanh tra công vụ vừa góp phần giáo dục CBCC vừa là cơ sở đánh giá khách quan, chính xác kết quả thực thi công việc. Cần sớm xây dựng để ban hành luật công vụ. Tăng cường sự phối hợp giữa thanh tra và kiểm tra, xác định rõ tính chất, chức danh, nhiệm vụ của thanh tra công vụ để từ đó hình thành tổ chức thanh tra công vụ để bảo đảm tính đồng bộ trong cả hệ thống theo pháp luật thanh tra hiện hành. 2.3.2.6. Nâng cao trình độ, năng lực những người được phân công soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức Xây dựng pháp luật là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước nói chung và cải tiến công tác xây dựng ban hành pháp luật là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Đại đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Đổi mới quy trình lập pháp, lập quy. Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật. Tăng cường hơn nữa công tác lập quy của Chính phủ nhằm cụ thể hoá và triển khai luật được nhanh chóng hiệu quả”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng khẳng định: “Tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và hướng dẫn thi hành luật”. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật CBCC theo phương hướng chung như trên cần phải nâng cao trình độ, năng lực những người được phân công soạn thảo, ban hành các VBQPPL về CBCC. Phải chú trọng và nâng cao chất lượng CBCC làm công tác xây dựng VBQPPL từ Trung ương đến địa phương để xây dựng được đội ngũ CBCC có trình độ cao trong việc soạn thảo, ban hành các VBQPPL về CBCC. Cần phải nâng cao năng lực của CBCC ở Bộ nội vụ nói chung và Vụ pháp chế của Bộ nội vụ nói riêng trong công tác xây dựng, soạn thảo, biên tập các dự thảo VBQPPL. Các chuyên gia này phải được đào tạo cơ bản, chuyên sâu về kiến thức pháp luật, nâng cao năng lực phân tích chính sách về CBCC của Đảng và nhà nước đồng thời phải nâng cao kỹ năng lập pháp, lập quy, phải tạo điều kiện cho đội ngũ này được học hỏi kinh nghiệm lập pháp của các nước có nền công vụ, pháp luật CBCC tiên tiến và hiện đại. Phải có sự đầu tư thích đáng về thời gian cũng như kinh phí, cơ sở vật chất cho các đại biểu, CBCC tham gia soạn thảo, ban hành các văn bản về CBCC. Đầu tư kinh phí để huy động sức lao động trí tuệ của các nhà khoa học, có thù lao xứng đáng cho những tổ chức cá nhân có đóng góp giá trị khi xây dựng các văn bản pháp luật về CBCC. Công tác xây dựng pháp luật nói chung cũng như pháp luật CBCC nói riêng đòi hỏi phải có kiến thức toàn diện. Vì vậy, cần có một chiến lược đào tạo phát triển đội ngũ này một cách nhanh chóng bằng nhiều hình thức trên cơ sở xây dựng pháp luật sau hơn 20 năm đổi mới và tiếp thu có chọn lọc kiến thức, kỹ năng soạn thảo, ban hành pháp luật tiên tiến trên thế giới. Bộ nội vụ cần lựa chọn các CBCC có khả năng về chuyên môn và ngoại ngữ tham gia các khoá đào tạo trong và ngoài nước về kỹ thuật xây dựng pháp luật, hoặc định chính sách về CBCC. Bộ cũng cần mở các khoá bồi dưỡng cho các CBCC về kỹ thuât lập pháp như phân tích chính sách, kỹ thuật trình bày và thể thức văn bản. Kết luận chương 2 Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về CBCC ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay chúng ta thấy pháp luật CBCC đã được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển và đi lên của đất nước. Bắt đầu từ những ngày mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay đã trải qua một chặng đường khá dài, trong đó có những giai đoạn đánh dấu bước đột phá về việc xây dựng và ban hành pháp luật CBCC. Pháp lệnh CBCC (26/2/1998 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật CBCC nhà nước ở nước ta kể từ sau Sắc lệnh số 76/SL ngày 25/5/1950 của Hồ Chủ tịch ban hành quy chế công chức Việt Nam. Tuy đã qua hai lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung để nâng lên thành luật mới đảm nhận được vai trò là tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, ổn định tạo tiền đề cho việc xây dựng một đội ngũ CBCC vừa hồng vừa chuyên. Để hoàn thiện pháp luật CBCC chúng ta phải bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Để trên cơ sở các định hướng và quan điểm đó xây dựng các giải pháp để đưa hệ thống pháp luật lên một tầm cao mới tiến tới bắt kịp các nước có nền công vụ tiên tiến. Hoàn thiện pháp luật CBCC là nhằm xây dựng hệ thống VBQPPL thống nhất và ổn định, có hiệu lực pháp lý cao nhằm xây dựng một đội ngũ CBCC có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ, trong sạch, liêm khiết, chí công và vô tư. kết luận Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu pháp luật CBCC qua các thời kỳ lịch sử chúng ta thấy pháp luật CBCC đã phần nào đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn lịch sử nào nó cũng là hành lang pháp lý, là cơ sở cho hoạt động của đội ngũ CBCC. Pháp luật CBCC đã cụ thể hoá được các chủ trương, đường lối, chính sách do ĐCSVN đề ra trong mỗi giai đoạn. Từ năm 1945 đến nay, pháp luật CBCC nhà nước ở nước ta đã được xây dựng và từng bước phát triển cùng với sự phát triển của đất nước. Pháp luật CBCC được xây dựng từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đã phát huy được hiệu quả to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhưng bước vào thời kỳ hoà bình, xây dựng CNXH do chậm được đổi mới nên đã bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế. Hiện nay pháp lệnh CBCC sửa đổi năm 2003 và các VBQPPL đã từng bước đưa công tác quản lý đội ngũ CBCC vào nề nếp góp phần củng cố, hoàn thiện BMNN phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên hiện nay vẫn tồn tại những khó khăn vướng mắc về chủ trương, chính sách cũng như công tác triển khai thực hiện. Hệ thống các VBQPPL về CBCC còn thiếu tính đồng bộ phân tán, có tính thống nhất không cao đó là: chưa có sự tách bạch giữa đội ngũ CBCC hành chính nhà nước có đặc điểm hoạt động công vụ có tính chuyên môn, thường xuyên liên tục và ổn định với các đối tượng khác. Do đó, chưa xây dựng được một khung pháp lý riêng cho đội ngũ này. Hệ thống ngạch, bậc và các tiêu chuẩn, nghiệp vụ chức danh công chức còn chưa hoàn thiện, thiếu cơ sở khoa học, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Mặt khác còn nhiều vấn đề khá phức tạp mới nảy sinh như việc tuyển dụng và chế độ đối với công chức dự bị, việc phân biệt cán bộ và công chức ở cấp cơ sở và thực hiện chính sách đối với từng loại... đang đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để hoàn thiện. Hoàn thiện pháp luật CBCC nhằm xây dựng một hệ thống VBQPPL thống nhất, ổn định có hiệu lực pháp lý cao tương xứng với các nội dung cần được điều chỉnh. Hoàn thiện pháp luật CBCC đòi hỏi phải nâng pháp lệnh CBCC lên thành luật CBCC và phải theo hướng chuyên biệt hoá đối với từng đối tượng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Quy định chế độ tiền lương, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, đề bạt, điều động hợp lý để tạo điều kiện khuyến khích, thu hút nhân tài từ khu vực tư nhân, tổ chức xã hội vào khu vực nhà nước. Hoàn thiện pháp luật CBCC là một nhu cầu, đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực thi nhiệm vụ, công vụ của CBCC đồng thời là phương tiện để nhà nước kiểm soát, quản lý, sử dụng đội ngũ CBCC theo đúng pháp luật, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 14 của BCHTW Đảng và nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. 2. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (2002), "Kết quả thực hiện 3 Nghị quyết Trung ương về công tác tổ chức và cán bộ", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (7), tr.22-27. 3. Nguyễn Thị Bình (2001), "Tìm giải pháp đẩy nhanh cải cách hành chính", Công tác tư tưởng, (3). 4. Bộ Nội vụ (2003), Pháp luật cán bộ công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ (2003), Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và các văn bản triển khai. 6. Bộ Nội vụ (2004), Các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức, biên chế và chính quyền địa phương, Nxb Thống kê, Hà Nội. 7. Ngô Thành Can (2002), "Công tác kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (12), tr.16. 8. Chế độ công chức và luật công chức của các nước trên thế giới (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Chế độ nhân sự các nước (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Những quy định pháp luật đối với cán bộ công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Trọng Điền (1996), Vài suy nghĩ về xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước - về nền hành chính nhà nước Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 19. Nguyễn Thị Thu Hà, "Những điểm mới của pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh CBCC", Tạp chí Quản lý nhà nước, (5), tr.47-49. 20. Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đào Thanh Hải (2004), Tìm hiểu các quy định mới về quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công chức và người lao động, Nxb Lao động, Hà Nội. 22. Hệ thống công cụ một số nước ASEAN và Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Hiến pháp Việt Nam 1959 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Mai Lan Hương (1999), Hoàn thiện pháp luật công chức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Hành chính quốc gia. 28. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 khoá VIII (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình Nhà nước và pháp luật đại cương. 30. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 31. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Nguyễn Thị Kim Oanh (2005), Pháp luật về công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nhà nước và pháp luật. 36. Pháp lệnh cán bộ, công chức (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Pháp lệnh cán bộ công chức sửa đổi bổ sung năm 2003. 38. Thang Văn Phúc (1995), "Thực hiện chế độ công vụ, công chức mới một nhiệm vụ cấp bách, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (1), tr.14. 39. Thang Văn Phúc (2003), "Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (22+23), tr.70-73. 40. Thang Văn Phúc - Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Nguyễn Minh Phương (1/2006), "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN", Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr.37-42. 43. Nguyễn Minh Phương, "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", Tạp chí Quản lý nhà nước, tr.8. 44. Nguyễn Văn Phương (2002), "Nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo - quản lý trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí Tâm lý học, (4), tr.40-44. 45. Prosperwel (1996), Luật hành chính, Nxb Thế giới, Hà Nội. 46. Sắc lệnh số 77 ngày 22/5/1950 ban hành chế độ công nhân giúp việc Chính phủ. 47. Hoàng Tâm Sơn (2004), "Một vài suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công tác đào tạo và sử dụng cán bộ", Tạp chí Khoa học xã hội, (2), tr.13-15. 48. Điệp Văn Sơn (9/1995), "Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập và chăm lo xây dựng nhà nước kiểu mới", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (1). 49. Nguyễn Văn Tâm (1997), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức nhà nước ở nước ta, Luận án Phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 50. Chu Văn Thành - Hà Quang Ngọc (2003), "Những quan điểm cơ bản xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.31-34. 51. Phạm Hồng Thái (2004), Công cụ, công chức nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 52. Thái Vĩnh Thắng (2005), "Hoàn thiện pháp luật về công cụ công chức và trách nhiệm pháp lý của công chức", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (2), tr.31-34. 53. Tất Văn Thu (2004), "Về đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (10). 54. Đàm Hoàng Thụ (2003), "Nâng cao chất lượng quản lý cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, góp phần chống tham nhũng, xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (8), tr.29. 55. Trịnh Xuân Toản (1997), Đổi mới và hoàn thiện chế độ công chức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật. 56. Phạm Minh Triết (2003), Hoàn thiện về pháp luật công chức hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 57. Đỗ Quang Trung (2003), "Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức theo pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của pháp lệnh cán bộ, công chức", Tạp chí Tổ chức nhà nước, (5), tr.4. 58. Đỗ Quang Trung (2004), "Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính", Tạp chí Quản lý nhà nước, (2), tr.4. 59. Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Thuý (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12), tr.3-10. 60. Đoàn Trọng Tuyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 62. Nguyễn Văn Vinh (2002), "Đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta", Tạp chí Hoạt động khoa học, (4), tr.5-7.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf153_7562.pdf
Luận văn liên quan