Luận văn Lý luận của Lê-Nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam

Qua thực tiễn thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga-Xô Viết những năm đầu khi giai vô sản giành được chính quyền, và bây giờ là Việt Nam cho thấy rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước xuất hiện là một điều tất yếu khách quan. Đối với các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa thì chỉ có việc “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước mới có thể xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Vì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ liên doanh, liên kết các thể làm ăn nhỏ lẻ trong nền kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó mà tạo ra mọi điều kiện vật chất kỹ thuật, chính trị, xã hôi để tạo đà cho các nước đó lên chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên các nước “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ ở một mức độ nào đó, đồng thời nó phải chịu sự điều tiêt và quản lý chặt chẽ của chính quyền nhà nước vô sản, nhằm thiết lập nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.

pdf46 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2768 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận của Lê-Nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện ngay lập tức đời sống của nông dân, lôi cuốn các nhà tri thức tham gia xây dựng kinh tế… Từ đó ta đưa ra các nhận xét sau: _Thứ nhất là trong hoàn cảnh dù gay go quyết liệt nhất vẫn có khả năng thực hiện chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước. Con đường đi xuyên vòng qua chủ nghĩa tư bản để đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan đối với nước ta.Sự tất yếu này được đề cập tới ngay trong cuộc đấu tranh hết sức gay go, gian khổ giữa một bên là chính quyền còn non yếu với một bên là tư bản đế quốc đang là một lực lượng mạnh toàn thế giới, đang nắm trong tay toàn bộ kỹ thuật, phương tiện vận tải và hải quân… _Thứ hai là thời kỳ quá độ là một thời kỳ khá lâu dài, nhất là đối với những nước tiểu nông. Bản thân chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước đã tự nói lên điều này. Để có thể khẳng định tính tất yếu lâu dài của chủ nghĩa tư bản nhà nước đối với nước ta, cần phân tích và tìm hiểu một số luận điểm của Lê- nin có liên quan : +Luận điểm thứ nhất: “Chúng ta đã lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước” Trong hoàn cảnh thực tế của chúng ta bây giờ, chúng ta không thể trực tiếp chuyển ngay lên chủ nghĩa Cộng sản được, không thể tấn công trực diện được vì làm như thế sẽ gây bất bình trong nhân dân. Vì vậy Lê-nin đã thực hiện một bước lùi so với trước đây, từ vội vàng trở về với những bước đi thận trọng. Thực chất sự “lùi” này là sự từ bỏ những quan niệm sách vở về chủ nghĩa xã hội để trở về với thực tiễn và sáng tạo, từ bỏ chủ nghĩa duy ý chí để trở về với tính khách quan của quy luật… +Luận điểm thứ hai: “Hiện nay đã có những triệu chứng cho thấy rằng cuộc lùi bước ấy sắp chấm dứt; rằng chúng ta sẽ có thể chấm dứt cuộc lùi bước ấy trong một tương lai không xa lắm nữa”. Luận điểm này nói lên rằng: có thể do chủ trương thi hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước đã không được chủ nghĩa tư bản quốc tế trả lời có thiện chí, mà còn đi ngược lại nên buộc phải chấm dứt. Có thể luận điểm này nêu lên vấn đề cần có sự thay đổi căn bản quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Cũng có thể luận điểm này của Lê-nin là sự phản ánh quan niệm phần nào đơn giản về chủ nghĩa xã hội do bị hạn chế của điều kiện lịch sử, đặc biệt là trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thấp hồi ấy, luận điểm còn gắn với sự tự phát triển của chủ nghĩa đế quốc, về sức sống khá mãnh liệt của chủ nghĩa tư bản ở thời đại đế quốc chủ nghĩa. Hơn thế nữa, vào nửa cuối thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ diễn ra như vũ bão. Chính các nước tư bản phát triển đã kích thích và tận dụng được cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ đó, cùng những điều kiện khác về kinh tế –xã hội đã giúp chủ nghĩa tư bản nhà nước đang còn sức phát triển. Trong khi đó chủ nghĩa xã hội lại có một số khuyết tật nghiêm trọng, vì vậy mà thời kỳ quá độ vẫn còn diễn ra lâu dài. Như vậy, điều không thể phủ định được rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không thể nào khác ngoài con đường phát triển kinh tế hàng hoá, dung nạp, du nhập chủ nghĩa tư bản và hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước. 2.Khả năng thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nước tư bản ở nước ta: a.Những đặc điểm của thời đại hiện nay: Vào khoảng cuối thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã mở ra những chân trời vô cùng rộng lớn cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nó có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới nền sản xuất công nghiệp toàn cầu, làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế và chính trị thế giới hiện đại. Loài người đã bước vào một thời đại phát triển mới, chuyển từ nền văn minh máy móc, hoá chất,dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông tin, nền kinh tế thế giới đang bước vào một nền kinh tế được nhiều người gọi là nền kinh tế trí tuệ. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới được thể hiện ở một số điểm lớn sau: Tốc độ phát triển kinh tế thế giới ngày càng cao.Tốc độ phát triển tổng sản phẩm xã hội thế giới từ 1%/năm trong thế kỷ XVIII lên 2%/năm trong thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai là 5%.Cuối thế kỷ XVIII, để công nghiệp hoá một nước cần gần 100 năm, ở thế kỷ XIX là gần 50 năm, đầu thế kỷ XX là 30 năm, từ những năm 70 đến những năm 80 là 20 năm nhưng trong những thập kỷ 90 thời gian chỉ cần là khoảng 10 năm. Vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế ngày càng mạnh,và vai trò điều tiết này không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà nó có sự điều chuyển phối hợp siêu quốc gia. Hiện nay còn có dấu hiệu xuất hiện một thứ chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế. Các tổ chức xuyên quốc gia này ngày càng phát triển và có ảnh hưởng chi phối các quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế của nhiều quốc gia. Hiện nay có khoảng 2000 công ty xuyên quốc gia với 33 triệu lao động làm thuê, kiểm soát 40% sản lượng công nghiệp thế tư bản, 60% ngoại thương, 80% đến 85% kỹ thuật mới của thế giới tư bản. Không chỉ các nước phát triển mới có các công ty xuyên quốc gia, mà các nước đang phát triển cũng có các công ty này như: ấn Độ có 193 công ty, Nam Triều Tiên có 140 công ty đặt ở 44 nước… Các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đặc biệt là các nước Bắc Âu hiện đang giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, trợ cấp thất nghiệp, giáo dục phổ cập, bảo vệ môi trường…trên cơ sở bảo đảm lợi ích phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong quan hệ với các nước kém phát triển, các nước tư bản đang chuyển từ chính sách tước đoạt, cướp bóc, kiềm chế các nước này trong vùng lạc hậu sang chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa phụ thuộc ở các nước này, tạo ra một thị trường rộng lớn, một hệ thống công nghệ phụ thuộc, một môi trường kinh doanh có lợi cho họ. ở các nước đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa đều tiến hành những cải tổ với các mật độ khác nhau. Khuynh hướng mở cửa nền kinh tế đang phát triển, thực hiện chính sách thu hẹp khu vực kinh tế quốc doanh, mở rộng kinh doanh tư nhân tuy vẫn giữ vẫn giữ quyền điều tiết và kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động kinh tế, tiến hành cuộc đấu tranh thành lập các khu vực phi hạt nhân, phi căn cứ quân sự nước ngoài, mở rộng cuộc đấu tranh cho một trật tự kinh tế quốc tế mới. Tóm lại, đặc trưng bao quát nhất của thời đại hiện nay là: thế giới đang ở bước ngoặt,bước quá độ từ cục diện cũ sang cục diện mới chạy đua toàn cầu về kinh tế, một cuộc “đấu tranh mềm” trong cục diện vừa đấu tranh vừa hợp tác,trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau; “vừa có diễn biến hoà bình” vừa có chống “diễn biến hoà bình”, cục diện một thế giới với tính độc lập gần 200 nước trên thế giới với các trào lưu toàn cầu hoá, dân chủ hoá, hoà bình và phát triển.Sức mạnh của thời đại sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội thuận lợi cho nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta nhiều khó khăn thách thức. Chúng ta phải biết nắm bắt những cơ hội và vượt qua mọi khó khăn thách thức đó. b.Đặc điểm nước ta cùng thời cơ và thách thức: Hiện nay nước ta có một số đặc điểm nổi bật và tạo ra những thời cơ, thách thức với nước ta như: Việt Nam là một nước đang phát triển, còn nghèo nàn và lạc hậu, đa số dân cư làm nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao. Chúng ta quả là đang ở vào một vị trí xuất phát không thuận lợi lắm trong cuộc chạy đua kinh tế. Trong mấy năm gần đây mức tăng trưởng ngày một cao hơn nhưng vẫn chưa vẫn chưa cao vì tăng trưởng trên một nền tảng thấp: năm 1992 là 8,3%; năm 1993 là 7,5%; năm 1994 là 8,8% và năm 2002 là 7,04%. Nếu so sánh tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người năm 1987 thì nước ta kém Thái Lan hơn 06 lần, kém Philipin hơn 4 lần, kém Malaysia hơn 13 lần, kém Indonexia gần 4 lần. Nhìn chung,năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả ở trong nước và nước ngoài, một phần do thiếu sức cạnh tranh. Gần 80% dân số làm nông nghiệp nhưng nông nghiệp chưa được đầu tư hợp lý và thích đáng, công nghiệp trong nông nghiệp chưa phát triển, nông dân vẫn còn lao động với những dụng cụ thô sơ, ít máy móc. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao, đang là vấn đề nổi cộm của xã. Phân hoá giàu nghèo ở nước ta đang tăng trong nền kinh tế thị trường, nhiều nơi trầm trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu, trình độ quản lý còn thấp và có nhiều thiếu sót. Đào tạo chưa gắn với sử dụng, gây lãng phí. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất cả những điều đó đã làm cho chúng ta gặp không ít những khó khăn thách thức với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện nay trong công việc thực hành chế độ chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước. Khi đó nếu chúng ta không tranh thủ được cơ hội và khắc phục những yếu kém thì sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ còn làm cho quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ dân trí cao để tiếp nhận các dây truyền sản xuất hiện đại, trong khi đó trình độ dân trí của ta còn thấp nên việc lựa chọn việc tiếp nhận các dây chuyền sản xuát từ các nước khác gặp nhiều khó khăn, gây ra lãng phí và đẩy nước ta trở thành bãi thải các khoa học công nghệ lạc hậu, và điều này được thể hiện ở sự tác động của các công ty xuyên quốc gia, đó là sự phân công chuyên môn hoá hẹp kiểu công trường thủ công kết hợp các loại kỹ thuật. Trong sự phân công ấy những thao tác, quy trình công nghệ cần nhiều lao động giản đơn thì đều “nhường” cho các nước kém phát triển như nước ta vì tiền công rẻ. Như vậy nước ta sẽ buộc phải lao vào ngành kỹ thuật cao nhưng vấp phải vấn đề vốn và đội ngũ khoa học, kỹ thuật không có hoặc yếu kém. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ cũng đem đến cho nước ta những thời cơ lớn, giúp chúng ta thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước một cách dễ dàng để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước một cách nhanh chóng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đã đem lại cho nước ta những đảo lộn lớn lao trong cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc thượng tầng, trong thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, trong quan hệ quốc tế , trong kết cấu giai cấp và xã hội…, nó có thể đưa nền kinh tế nước ta cất cánh lên một cách nhẹ nhàng nếu chúng ta biết nắm bắt những thời cơ đó. Chính vì thế chúng ta chấp nhậ lùi một bước về chủ nghĩa tư bản nhà nước để nắm bắt được những cơ hội mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ mang lại cho chúng ta, nắm bắt được cái mà thiên hạ cần ta để có chính sách thoả đáng, biến cái thiên hạ cần ta thành hiện thực. Không chỉ thế, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ còn đem lại cho ta những phương thức sản xuất tiên tiến và hiện đại, một nguồn vốn lớn từ nước ngoài vào nước ta nhưng chúng ta phải tiếp nhận một cách chọn lọc thì sẽ thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Một điều thuận lợi nữa của nước ta là: nước ta có được một hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ giữa nước ta với các nước lâu nay là thù địch, thuận lợi cho việc mở rộng mối quan hệ quốc tế. Bởi lẽ xu hướng trên thế giới hiện nay là toàn cầu hóa đã lôi cuốn các nước và Việt Nam ta không nằm ngoài vòng xoáy đó, nó vừa thúc đẩy sự hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế để cùng phát triển trên tiêu chí “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” đã trở nên quen thuộc, đặc biệt Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ, mở rộng quan hệ với Nhật, EU…trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật…Việc bình thường hoá quan hệ với quỹ tiền tệ thế giới (IMF), ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển Châu á (ADB)…đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển nền kinh tế của mình. Sự kiện nổi bật là tháng 6-1995 Việt Nam gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á(ASEAN), cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA)…Việc mở rộng các mối quan hệ quốc tế như vậy sẽ giúp ta phát triển ngày càng nhanh, trở thành một đối tác kinh tế xã hội và ngày càng được chú ý trong cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực. Không chỉ thế, nước ta còn có một vị trí địa lý rất thuậ lợi, nằm ngay trong khu vực phát triển năng động nhất của thế giới ngày nay nên thu hút được vốn nước ngoài dưới những hình thức khác của chủ nghĩa tư bản nhà nước, đó là khu vực Châu á-Thái Bình Dương, trong đó Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn. Do đó mà ta không thể không lưu ý mở rộng ảnh hưởng và tìm những nguồn đầu tư mới ở vùng này bằng cách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với chính sách quốc tế mềm dẻo: Luật đầu tư nước ngoài được ban hành rất sớm (tháng 12-1987) và được sửa đổi bổ xung nhiều lần cho đến nay, đã thu hút được một tỷ lệ vốn lớn (khoảng 8%GDP), nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã trở thành một nhân tố phát triển quan trọng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Có nhiều doanh nghiệp thực hiện liên doanh với nước ngoài trong nhiều lĩnh vực. Tổng kim ngạch xã hội 5 năm (1995-2000) đạt trên 51,6 tỷ USD, trong đó năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 186 USD/một người. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Hơn thế nữa, nước ta còn có lợi thế là có nhiều tài nguyên quý giá (dầu khí,kim loại quý, rừng với nhiều gỗ quý), đó là một thị trường không phải nhỏ với gần 80 triệu dân với sức tiêu dùng khổng lồ, đặc biệt là sự ổn định chính trị (nước ta được đánh giá là nước có tình hình chính trị ổn định nhất thế giới) đã thu hút được đầu tư lâu dài của người nước ngoài, các tổ chức.tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Trong 5 năm (1996-2000) tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ xung đạt 24,6 tỷ USD, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 nên 85% năm 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU), ASEAN có chiều hướng tăng cao, riêng các nước thuộc EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng. Tính trong 5 năm(1996- 2000) nguồn vốn ODA đưa vào thực hiện khoảng 6,1 tỷ USD, tập trung hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, phát triển nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục và đào tạo…Vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội và kết cấu hạ tầng. Nhưng chúng ta lại vấp phải một điều khó khăn là thiếu tri thức và đội ngũ kinh doanh hiện đại, khoa học công nghệ lạc hậu làm mất đi đáng kể sự đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Trình độ dân trí trên mặt bằng xã hội còn thấp so với thế giới, số người có trình độ đại học và trên đại học còn thấp so với tổng số dân, đội ngũ kinh doanh kém nhanh nhạy trong việc nắm bắt tình hình kinh tế thế giới và trong nước, hiện nay có nguy cơ giảm sút xuống cấp, nếu không có những cải cách mạnh mẽ và đúng đắn trên những lĩnh vực này thì có thể dẫn tới sự lạc hậu về trí tuệ, sự giảm sút về thể lực…làm cho nguồn nhân lực trong tương lai của chúng ta sẽ kém chất lượng. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ, sẽ không thay đổi được những công nghệ lạc hậu, thô sơ. Từ đó mà kềm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội nước ta. Hiện nay trên thế giới nước ta là một trong số ít những nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội nên gặp phải sự chống phá của các thế lực trong và ngoài nước trên con đường đi lên chr nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch và phản động đã hân hoan cuồng nhiệt khi chế xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô cũ bị sụp đổ. Chúng hy vọng rằng Việt Nam không thể đứng vững nổi trước một tình thế hết sức khó khăn. Nhưng trái lại Việt Nam vẫn ổn định, vẫn đứng vững và vượt lên phía trước. Vì vậy, bọn chúng luôn nuôi dưỡng mưu toan “diễn biến hoà bình” và hướng công cuộc đổi mới cuả nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa bằng những thủ đoạn đê hèn tuyên truyền làm giảm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước, mua chuộc những phần tử phản cách mạng trong nước cấu kết với bọn chống phá ngoài nước…Bọn chúng tìm mọi cách đó là đồng nhất sự khủng hoảng hiện nay ở các nước xã hội chủ nghĩa với sự khủng hoảng của chính học thuyết của Lênin về chủ nghĩa xã hội để làm cho ta xa rời và từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đến với một loại học thuyết của chủ nghĩa tư bản, là hệ tư tưởng tư sản, để cho chúng ta từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa để chyển sang định hướng tư bản chủ nghĩa . Những đặc điểm trên của nước ta đã cho phép chúng ta có đầy đủ những điều kiện thuận lợi để thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước. Từ đó làm nền tảng xây dựng cơ sở vật chất kinh tế để công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. c. Một số quan điểm về thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta. Khi thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta thì có nhiều quan điểm khác nhau nhưng có một số quan điểm chiến lược thống nhất sau: *Phải phát triển và xây dựng một thị trường văn minh, tức là một thị trường phải có sự điều tiết chín chắn của nhà nước dựa vào sự tham gia dân chủ của đông đảo quần chúng. ý tưởng về chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính cách là bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ nhận thức rằng không thể chuyển tiếp lên chủ nghĩa cộng sản từ một nước chưa tạo ra được nền móng kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà phải thông qua con đường gián tiếp, qua trao đổi hàng hoá. Hiện nay, thống nhất quan điểm tính chất của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là hàng hoá, cần xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng lên chủ nghĩa xã hội có sự điều tiết của nhà nước một cách kịp thời. Nhìn chung, yếu tố quan trọng nhất để nhận thức và thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta là phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Tiến bộ kinh tế của thế kỷ XX hoàn toàn khẳng định chỉ có nền kinh tế thị trường mới có khả năng bảo đảm hiệu quả cao trong nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế thị trường đã dẫn tới sự tác động, thâm nhập lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế, tạo sự đan xen các hình thức sở hữu, các phương thức tổ chức quản lý, các phương thức phân phối lợi ích phù hợp với yêu cầu của quan hệ sản xuất mới có tác dụng thúc đẩy của lực lượng sản xuất ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thực tiễn thì thị trường ở các nước rất khác nhau, tuỳ thuộc trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế xã hội đã hình thành…, do đó kết quả của hoạt động thị trường ở các nước xã hội khác nhau thì hoàn toàn không giống nhau. ở Việt Nam-một nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì thị trường được hình thành dưới sự của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng các thị trường của Mỹ, Nhật, các nước Tây Âu thì hình thành một cách tự phát ở một mức độ nhất định nào đó trong trong khuôn khổ của lập pháp nhà nước. Cần làm rõ tính đặc thù của nền kinh tế nước ta trong quá trình chuyển đổi và đề phòng những khuynh hướng, những quan hệ thị trường không lành mạnh có thể diễn ra và dẫn tới một loại hình chủ nghĩa tư bản mất định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần với 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể-tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế quốc doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do có nhiều thành phần kinh tế như vậy mà chúng ta càng phải đề phòng hơn để tránh chệch hướng xã hội chủ nghĩa-một trong bốn nguy cơ của nước ta mà Đại hội Đảng IX đã đề ra. Hiện nay, nước ta chuyển sang phát triển kinh tế thị trường và hoà nhập vào thị trường từ một kết cấu kinh tế tiểu nông,từ một nền kinh tế như vậy chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại thì chúng ta vội vàng, nhanh chóng được, mà chúng ta phải từng bước theo tiến triển chuyển hoá lịch sử nhất định. Tức là phải trải qua hai bước chuyển hoá của chủ nghĩa tư bản là sự chuyển hoá nền kinh tế tự nhiên của người trực tiếp sản xuất thành nền kinh tế hàng hoá và sự chuyển hoá nền kinh tế hàng hóa thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đồng thời phải có thêm lịch sử chuyển hoá nữa đối với nước ta là: từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa(hoặc còn mang nặng dấu ấn tư bản chủ nghĩa) sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa(hoặc định hướng lên xã hội chủ nghĩa). Để có chuyển hoá thứ nhất thì chúng ta phải phát triển sự phân công xã hội trong nhà nước,phải có sự chuyên môn hoá những người sản xuất cá thể riêng lẻ. Để có bước chuyển hoá thứ hai những người sản xuất riêng lẻ phải ở vào các quan hệ cạnh tranh với nhau. Trong quá trình chuyển hoá nêu trên tạo ra quan hệ sản thị trường phức tạp, rối ren, thậm chí có thể diễn ra đầy bệnh hoạn. Những mâu thuẫn ấy nảy sinh làm cho các thành phần kinh tế thị trường phát triển theo chiều hướng khác nhau, có thị trường què quặt, không đồng loại. Các nước mạnh thì hướng về quan hệ kinh tế đối ngoại chủ yếu theo thị trường thế giới, tăng nhanh lĩnh vực dịch vụ hướng về xuất khẩu, sự cạnh tranh không chỉ dựa vào công nghệ và phương pháp quản lý mới nhất mà còn dựa vào giá nhân công rẻ và tàn phá tài nguyên. Còn ở các nước đang phát triển như nước ta thì quá trình phân ra kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên còn chưa kết thúc, điều đó đã làm diễn ra những quan hệ thị trường đầy bệnh hoạn, chính vì thế mà ở đây có nhà nước có vai trò hết sức phong phú trong việc hình thành các quan hệ thị trường, có chức năng nhà nước trực tiếp nắm và cũng có những chức năng lại giao cho cho các thành phần kinh tế khác . Và qua thực tiễn cho thấy rằng ở các nước này đã hình thành thị trường đầu cơ-trục lợi, đó là quan hệ thị trường chỉ bao quát chủ yếu lĩnh vực lĩnh vực phân phối lại, vì vậy mà hình thành nên một số quan hệ thị trường không lành mạnh như tệ quan liêu,tham nhũng… Quy luật thị trường chỉ chỉ tác động trong phạm vi hẹp đến sản xuất trong nước và không phải là đòn bẩy chủ yếu điều tiết các nguồn đầu tư, không làm được mấy chức năng hình thành cơ cấu. Chính vì những điều đó mà chúng ta không nên xem thường khuynh hướng thị trường hoá một cách phiến diện, tức là coi nhẹ cơ chế kế hoạch hoá. Nếu làm như vậy thì vai trò điều tiết của nhà nước và việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế chưa mạnh nên không hạn chế được tính tự phát của thị trường. Từ đó dẫn tới tình trạng vô chính phủ và hỗn loạn trong đời sống kinh tế-xã hội dẫn đến những hiện tượng rối loạn nghiêm trọng, thị trường trong nước bị chia cắt, chất lượng hàng hoá không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Không chỉ thế nước ta còn xuất hiện khuynh hướng giảm đến mức tối thiểu sự điều tiết của nhà nước, làm suy yếu pháp luật, kích thích xu hướng ly khai, mà nếu không có pháp luật thì không thể có thị trường văn minh được. Tóm lại, để thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện nước ta, trước hết cần phát triển mạnh kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm xuất phát của nước ta và theo khuynh hướng một thị trường văn minh,nghĩa là phải có sự điều tiết chính chắn của nhà nước dựa vào sự tham gia dân chủ của đông đảo quần chúng. *Phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần kinh tế. Xuất phát từ thực trạng kinh tế- xã hội của nước ta và từ việc tạo ra những tiền đề khoa học-xã hội cho sự chuyển hoá từ một cơ cấu kinh tế tiểu nông là chủ yếu sang nền kinh tế hàng hoá định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Sản xuất không thể ra đời nếu không có sự phát triển của phân công xã hội và chuyên môn hoá sản xuất đến một trình độ nhất định. Trình độ phân công và chuyên môn hoá sản xuất là kết quả và là biểu hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tiềm năng của nền kinh tế nước ta hiện nay chính là tiềm năng của các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân, do đó chính sách của chúng ta phải khai thác, phát huy được mọi tiềm năng kinh tế và chỉ khi đó chúng ta mới có tiền đề phát triển sản xuất mạnh mẽ.Cạnh tranh vì lợi nhuận cao là động cơ mạnh mẽ nhất của người sản xuất trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào, kể cả nền kinh tế hàng hóa định hướng lên chủ nghĩa xã hội như ở nước ta. Chúng ta biết đặc điểm từng thành phần kinh tế và biết kết hợp lợi ích của các tầng lớp xa hội khác là điều then chốt, quyết định. Nếu làm được như vậy thì lực lượng sản xuất sẽ phát triển, quá trình phân rã kinh tế tự nhiên sớm kết thúc hình thành những tổ chức sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn, và chủ nghĩa tư bản nhà nước được coi là phương tiện để xúc tiến chủ nghĩa xã hội. +Trong phạm vi chế độ sở hữu thuộc hữu toàn dân,thuộc nhà nước(gồm hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân) thì luôn phải giữ vững vai trò chủ đạo của chúng trong nền kinh tế, định hướng và dẫn dắt thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển theo. +Thành phần kinh tế tư nhân có vị trí đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay. Kinh tế tư nhân là nền kinh tế mà các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất, kinh doanh vì lợi ích trực tiếp của cá nhân mình dù tư liệu sản xuất thuộc quyền sở của ai, dù có hay không thuê lao động. Như vậy kinh tế tư nhân là nền thành phần kinh tế rất đa dạng. +Kinh tế cá thể, tiểu chủ: hiện nay về thực chất là những đơn vị kinh tế kinh doanh trên cơ sở đất thuê, tư liệu sản xuất của toàn dân, có thể nói là một của kinh tế tư nhân, việc có thuê lao động hay không là tuỳ theo diễn biến của quá trình phát triển. +Kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư nhân không phải họ chưa phải là tư bản chủ nghĩa, nhưng sự vận động của kinh tế tư nhân có thể dẫn đến quan hệ tư bản chủ nghĩa. Chính cái xu hướng này là tiền đề khách quan cho sự thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước không phải chỉ là sự liên kết trực tiếp giữa tư bản tư nhân và kinh tế quốc doanh, mà là sự liên kết giữa nhà nước với những cơ sở kinh tế tư nhân nào đó. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhà nước có những tiềm năng vô cùng lớn trong nó, chúng ta phải biết phát huy chúng, kết hợp chúng lại với nhau để chúng trở thành sức mạnh tổng hợp chung của dân tộc. Do đó, nhà nước ta cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho nền kinh tế ấy phát triển, tuy nhiên cũng có mật độ và giới hạn của nó. +Nhà nước cần tạo ra những động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động kinh tế, đó chính lợi ích cá nhân(gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần). Về lợi ích vật chất, nhà nước cần phải coi trọng và đảm bảo bằng pháp luật và chính sách của mình, sao cho nó có tác dụng khuyến khích những người có vốn, có tài năng tham gia vào các hoạt động kinh tế. Đồng thời cũng phải coi trọng lợi ích tinh thần như muốn được mọi nguời kính trọng, muốn tự khẳng định mình, lòng tự trọng danh dự… Nếu nhà nước có những biện pháp tạo điều kiện cho họ vượt qua những trở ngại về mặt tâm lý xã hội tham gia làm việc. Như vậy, nhà nước cần có chính sách coi trọng cả về mặt vật chất cũng như tinh thần bằng pháp và dư luận xã hội chọn những người hoạt động kinh tế trong mọi thành phần, đó cũng sẽ là một động lực thúc đẩy mọi người tham gia vào các hoạt động kinh doanh. +Nhà nước cần có chương trình đào tạo về quản lý kinh doanh bởi phần lớn các chủ doanh nghiệp tư nhân chưa có kiến thức cơ bản về kinh doanh. Đồng thời nhà nước cũng cần phải có những chính sách thu hút những người có trình độ quản lý tham gia vào mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Giúp cho họ có được những hình thức nhất định về hoạt động kinh doanh, về quản lý kinh tế,về môi trường- xã hội trong nước và quốc tế, về luật pháp… +Nhà nước ta có những chính sách nhằm tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh thực sự. Tuy các doanh nghiệp quốc doanh vẫn cần có những quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, của nhà nước nhưng không vì thế mà tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh. Tuy nhiên việc phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế cũng ngặp một số khó khăn là: xét về tiềm lực kinh tế tư nhân, kể cả tư nhân tư bản nhà nước ở nước ta là không đáng kể: vốn không nhiều, cơ sở kinh tế không đáng kể, nghệ thuật kinh doanh hiện đại hầu như không có, mối quan hệ quốc tế không rộng và chưa có hiệu quả. Họ chưa có động lực thúc đẩy tham gia các hoạt động kinh tế; tình trạng phổ biến là các chủ doanh nghiệp tư nhân trưởng thành từ thực tiễn, và chủ yếu cũng không phải từ thực tiễn sản xuất kinh doanh hiện đại mà từ kinh doanh thương nghiệp, làm giàu bằng các thủ đoạn đầu tư tích trữ, phần lớn kinh doanh vẫn dựa vào trực giác, còn sự phân tích khoa học để ra định hưóng đúng đắn còn yếu kém. Như vậy, nhà nước cần phải có các chính sách khuyến khích nền kinh tế nhiều thành phần phát triển, từ sự phát triển ấy mà xuất hiện nhiều khả năng thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước, đồng thời chúng ta cũng ngăn ngừa được sự gia tăng không lành mạnh của kinh tế tư nhân. Nhà nước hướng dẫn sự phát triển của kinh tế nhà nước, đặc biệt là tư nhân tư bản chủ nghĩa thông qua rất nhiều hình thức kinh tế tư bản nhà nước. *Phải biết học tập chủ nghĩa tư bản. Như chúng ta đã biết chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn lịch sử cực kỳ quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thành tựu của nhân loại chứ không phải tự nhiên mà có, không có chủ nghĩa tư bản thì sẽ không có chủ nghĩa xã hội bởi chủ nghĩa tư bản và việc giải quyết những mâu thuẫn cực kỳ gay gắt trong nó làm nảy sinh ý tưởng về chủ nghĩa xã hội. Bất cứ chế độ xã hội nào với tính cách là một nấc thang tất yếu lịch sử của sự tiến hoá đều chứa đựng những giá trị mang tính nhân loại. Nó thúc đẩy xã hội loài người tiến lên không ngừng và hoàn thiện. Chủ nghĩa tư bản cũng không nằm ngoài nấc thang đó. Đối với những nước kinh tế lạc hậu thì chỉ bằng con đường lợi dụng chủ nghĩa tư bản ,một cách đúng đắn, biết hịc tập chủ nghĩa tư bản mới có thể làm cho đất nước phồn vinh, giàu mạnh. Để quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển mậu dịch đối ngoại,tranh thủ vốn nước ngoài, thu hút kinh tế sản xuất tiên tiến… Lợi dụng chủ nghĩa tư bản bàng cách thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chính trị mới, đó là học tập chủ nghĩa tư bản cái chung, cái phổ biến của nền kinh tế hàng hoá mà chủ nghĩa là nguời đi trước, dày dặn kinh nghiệm. Chủ nghĩa xã hội phải được dựa trên cơ sở tất cả các bài học kinh nghiệm mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được. *Xác định bước đi hiện thực có hiệu quả. Việc xác định những bước đi cũng là một quan điểm chiến lược. Bước đi đúng hay sai có quan hệ mật thiết đến hiệu quả ít hay nhiều của việc thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước. Cũng có thể coi đây là chiến lược kinh doanh để từ đó xác định cái được cái mất của việc thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước qua các giai đoạn khác. Hiện nay, xu hướng kinh tế khách quan là sự phân công lao động quốc tế trong một nền sản xuất ngày càng quốc tế hoá, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng chặt chẽ, vì vậy chúng ta phải nhanh chóng tìm được chỗ đững của mình trong trào lưu phát triển kinh tế thế giới. Cho đến nay, việc xác định bước đithích hợp của các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hầu như chưa có trong lịch sử mà mới chỉ có lkinh nghiệm đầu tiên của nước này hay nước khác, do đó cần phải tham khảo những kịnh nghiệm đó để có thể rút ra những bài học phù hợp với mình. Kinh nghiệm bao trùm và cũng là vấn đề đầu tiên phải giải quyết là làm thế nào để xác định địa vị cạnh tranh có hiệu quả của các nước. Có 4 yếu tố có thể quyết định vị trí cạnh tranh của mỗi nước là: kỹ thuật, khả năng tài chính, kiến thức quản lý sản xuất, nghệ thuật tiếp cận thị trường. Để có 4 yếu tố này cần phải có bước đi hiện thực để từng bước chuyển hoá, xác lập và nâng dần địa vị của họ trên trường kinh doanh quốc tế. Những nước xuất phát từ tình trạng kinh tế yếu kém về nhiều mặt(vốn, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, kiến thức quản lý kinh doanh thiếu, nghệ thuật tiếp thị kém hoặc chưa có) thì khả năng cạnh tranh thấp, sản phẩm khó có thể đi vào thị trường quốc tế. Tình hình đó buộc họ phải “theo sau” các công ty độc quyền xuyên quốc gia dưới những hình thức công ty sở hữu toàn phần của các nước ngoài và sở hữu “hỗn hợp” nhưng sản xuất và tiêu thụ hoàn toàn trông cậy vào các công ty nước ngoài. Với hình thức này, các công ty tư nhân của ta buộc phải mua kỹ thuật của các công ty nước ngoài, rồi sản xuất cùng loại sản phẩm, đóng nhãn hiệu của họ và đưa ra tiêu thụ. Lúc này các doanh nghiệp đều tập trung vốn đầu tư công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng vì nó có quay vòng nhanh, tốn ít vốn, cần nhiều lao động nên đẩy nhanh được tiến độ tích luỹ và khai thác được lợi thế về lao động. Tổ chức sản xuất chủ yếu là qui mô nhỏ. Khi nền sản xuất trong nước đã trưởng thành ở mức độ nhất định thì sản xuất không chỉ dừng lại ở việc chế tạo cùng loại sản phẩm, mà bắt đầu có tham vọng đuổi kịp các công ty nước ngoài. Các hoạt động nghiên cứu triển khai được chú ý đầu tư để có thể chế tạo thêm một số chi tiết, nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc mượn nhãn hiệu nước ngoài để tiêu thụ sản phẩm dần dần không cần thiết nữa và đã dùng nhãn hiệu riêng. Hình thức hợp đồng chế tạo, mua giấy phép chế tạo…vẫn được duy trì. Hiện nay, các nước đó đã có thể nắm bắt được một số kỹ thuật cao, tự nghiên cứu triển khai một số công nghệ mới thuộc những ngành tiêu biểu cho cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Các bước chuyển hoá trên nhằm mục tiêu san bằng hố ngăn cách về kỹ thuật, sản xuất, quản lý và hoạt động tiếp thị với các công ty liên, xuyên quốc gia. Từ thực tế của một số nước công nghiệp mới ở Châu á có thể thấy được khả năng rút ngắn sự chênh lệch giữa một bên là các nước kinh tế kém phát triển và một bên là các nước phát triển nhất. Nếu biết lợi dụng ưu thế được gọi là lợi thế của sự phát triển sau. Qua kinh nghiệm thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước cho thấy những hình thức kinh tế tuỳ thuộc vào thế và lực của bản thân, mục tiêu kinh tế- xã hội cần đạt tới trong từng giai đoạn cụ thể. 3.Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam. Chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính cách là những hình thức kinh tế cơ bản cụ thể nhưng trong những điều kiện lịch sử cụ thể thì mỗi hình thức cơ bản đó lại trở nên phong phú và đa dạng hơn nhiều. Trong điều kiện nước ta hiện nay có những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước sau: a.Hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà nước với các chủ sở hữu ngoài quốc doanh ở trong nước hoặc với các chủ sở hữu ở các nước tư bản chủ nghĩa. Sự liên doanh, liên kết được các nhà kinh tế, kể cả tư bản chủ nghĩa hiện đại, coi là “một ý tưởng tuyệt vời”. Sự khai thác triệt để tư tưởng về chủ nghĩa tư bản nhà nước đòi hỏi phải mở rộng khái niệm liên doanh liên kết. Không chỉ liên doanh, liên kết với chủ nghĩa từ bên ngoài mà cả với chủ nghĩa tư bản nội địa, với các cơ sở thuộc thành phần kinh tế tư nhân, kể cả hợp tác xã tư nhân. Thông qua sự liên doanh, liên kết này mà nhà nước có thể huy động vốn được nhiều, đổi mới kỹ thuật và quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm… Đồng thời nhà nước cũng thực hiện được thuận lợi chức năng kiểm kê, kiểm soát…để thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản phẩm sao cho nó phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế. Sự liên doanh, liên kết giữa các nước với nhau đang là xu hướng phát triển kinh tế chung của thế giới. Những nước đã có nền kinh tế phát triển (Mỹ, Nhật, Anh…) cũng đang mở rộng sự liên doanh với nhau thì Việt Nam và các nước đang phát triển càng phải đẩy mạnh, tích cực mở rộng sự liên doanh, liên kết này. Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty liên doanh với nước ngoài trong nhiều lĩnh vực: giầy dép, xe máy, ô tô, may mặc… Các nước trên thế giới hiện nay đều đang trên con đường tìm kiếm hình thức liên doanh kinh tế có lợi nhất, nó đang làm phá vỡ quan niệm độc quyền liên doanh. Để liên doanh đạt kết quả kinh tế, chính trị, xa hội cần phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như liên doanh để sản xuất cái gì, thị trường tiêu thụ ra sao… Khi hợp tác liên doanh, liên kết thì cần phải xác định rõ việc lựa chọn bạn hàng, không nên tự giới hạn lựa chọn bạn hàng trong số các công ty mà tự họ đề nghị hợp tác, phải tích cực và chủ động tìm bạn hàng, đặt quan hệ với nhiều hãng đặc biệt là với các tập đoàn xuyên quốc gia. Bởi vì, những tập đoàn xuyên quốc gia rất linh hoạt, quan hệ bền chặt với nhiều nước, bộ máy tiêu thụ của họ được sắp đặt rất hoàn hảo. Không chỉ thế, việc lựa chọn cơ sở trong nước để liên doanh vói nước ngoài cũng là vấn đề phải xem xét, phải chọn những cơ sở có nhiều nhà quản lý giỏi, kinh doanh dạt chất lượng cao, nhờ đó mà giành được sự tín nhiệm. b.Công ty cổ phần với tính cách là hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa và “cổ phần hoá” xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản nhà nước. Công ty cổ phần với tính cách là hình thức kinh tế tư bản nhà nước tư bản chủ nghĩa cũng đã tồn tại từ lâu. Đế hiểu vấn đề cần có những nhận thức về chúng. Công ty cổ phần là hình thức phổ biến nhất của xí nghiệp lớn trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tư bản của các xí nghiệp đó được hình thành do bán cổ phần và trái khoán . Người đóng cổ phần gọi là cổ đông, mỗi cổ phần được thể hiện bằng một tờ phiếu gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu xác nhận sự tham gia bỏ vốn vào công ty cổ phần và quyền nhận một phần trong lợi nhuận hàng năm của công ty gọi là lợi tức cổ phần hay cổ tức. Công ty cổ phần xuất hiện là một tất yếu khách quan, do yêu cầu tập trung tư bản và có vai trò rất lớn trong việc phát triển tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện của công ty cổ phần và tính chất phổ biến của các công ty này đánh dấu bước chuyển từ hình thức cá thể của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sang hình thức tập thể của sở hữu tư bản, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền hiện đại, hình thức sở hữu này ngày càng phát triển mà những cổ đông không phải chỉ là các nhà tư bản, còn có cả nhân dân lao động. Công ty cổ phần xuất hiện dưới nhiều dạng, xét theo khả năng chuyển nhượng cổ phiếu, mức qui định vốn pháp định tối thiểu, người ta chia các công ty cổ phần làm 2 loại là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty vô danh. +Công ty trách nhiệm hữu hạn: vốn pháp định tối thiểu được qui định trong luật thương mại của mỗi nước,phần góp vốn thể hiện dưới hình thức chứng khoán không chuyển nhượng hay bị hạn chế . Vấn đề phát triển vốn bằng cách thu hút thêm vốn cũng bị hạn chế vì vốn chỉ được huy động trong các thành viên của công ty. +Công ty vô danh: không bị ràng buộc bởi mức qui định vốn pháp định tối thiểu. Vốn được thu hút bằng cách phát hành cổ phiếu và cổ phiếu có thể chuyển nhượng. Quan trọng hơn hết là việc phân loại công ty cổ phần xét theo quan hệ chính trị, xã hội. Cho đến nay nhiều kiểu công ty cổ phần với tính cách là hình thức tập thể của sở hữu tư nhân tư bản nhà nước; lầ hình thức sở hữu tập thể về hình thức, còn về thực chất dướic sự khống chế của một chủ thể; là hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội; là công ty cổ phần được quản lý theo hình thức quản lý công nghiệp quốc doanh. Khi có sự tham gia của tư bản tư nhân vào thì hầu hết các công ty đều mang tính cách là hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Ngoài ra người ta còn có thể phân loại công ty công cổ phần căn cứ từ xuất xứ hình thành có: công ty hình thành do nhu cầu thực tế sản xuất, kinh doanh, mọi việc ban đầu từ việc bán cổ phiếu và thu hút vốn; và các công ty hình thành do đòi hỏi thực tế sản xuất, kinh doanh cần có hiệu quả hơn, cần vốn đầu tư lớn hơn. Trong điều kiện hiện nay, trong nền kinh tế nhiều thành phần, công ty cổ phần được xem là một tất yếu kinh tế. Sự tồn tại của nó không những chỉ là kết quả của quá trình tích tụ vốn, mà còn là nhu cầu khách quan của việc củng cố tính khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, quốc doanh nói riêng. ở các nước xã hội chủ nghĩa ngày nay thì hình thức tổ chức công ty cổ phần ngày càng trở thành trở thành phổ biến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công ty cổ phần còn được thành lập trên cơ sở các xí nghiệp quốc doanh thực hiện “cổ phần hoá xí nghiệp”, nhằm chuyển từ sở hữu nhà nước thành sở hữu tập thể, hỗn hợp. Nó là giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ, thất thoát tài sản, lãng phí dưới nhiều hình thức của các xí nghiệp quốc doanh. Như vậy, trong thực hành “cổ phần hoá” xí nghiệp nhà nước, chấp nhận tồn tại hình thức công ty cổ phần, đã tạo ra những hình thức kinh tế tư bản nhà nước, tạo ra hình thức kinh tế hỗn hợp sở hữu được gọi là kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta. c.Đặc khu kinh tế. Đặc khu kinh tế là một vùng lãnh thổ quốc gia mà trên đó người ta áp dụng chế độ đặc biệt với các hoạt động kinh tế đối ngoại, nó được coi là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Mục tiêu của các đặc khu kinh tế là tăng cường khả năng cạnh tranh của nền sản xuất, tăng cường khả năng xuất khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, đẩy nhanh các quá trình khai thác công nghệ, kỹ thuật mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới. Đặc khu kinh tế là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế đối ngoại, mang tính chất mới của nền kinh tế thế giới với vai trò quan trọng là “cầu nối” nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới. Đặc khu kinh tế không chỉ xuất hiệno ở các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn xuất hiện ở các nước có chế độ chính trị khác, thậm chí ngay ở các nước tư bản phát triển (Mỹ, Anh..). Việc lựa chọn thành lập các đặc khu kinh tế phải dựa vào vị trí địa lý kinh tế của mỗi quốc gia, nó thường là những trung tâm hoặc các địa điểm nằm trên các trục giao thông đường bộ, đường biển và đường sông thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa với nước ngoài. Không chỉ thế, tại các đặc khu kinh tế phải có được môi trường kinh doanh thuận lợi (càng gần với điều kiện và trình độ bên ngoài càng tốt) thì mới thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài. Môi trường đó là kết cấu hạ tầng, quan hệ kinh doanh, quản lý, môi trường luật hành chính… Cần thiết lập ở các đặc khu kinh tế hệ thống tài chính ngân hàng có hiệu lực, một yếu tố làm cho hoạt động kinh doanh nhộn nhịp. Sự kết hợp một cách thoả đáng các lợi ích giữa nước chủ nhà vùng sở tại và người nước ngoài bỏ vốn đầu tư là yếu tố quyết định nhất đối với sự ra đời và phát triển của các đặc khu kinh tế. Sự ổn định chính trị- xã hội cũng là một yếu tố quyết định để nước ngoài yên tâm bỏ vốn đầu tư ở đặc khu kinh tế. Các sản phẩm được sản xuất ra ở các đặc khu kinh tế thường có đặc điểm: giá thành sản phẩm thấp, sức cạnh tranh cao, xuất khẩu có lợi, nhưng chính điều đó làm cho giá trị xuất khẩu không tương ứng với tỷ lệ đầu tư so với cả nước. Tuy nhiên việc hình thành các đặc khu kinh tế cũng có những mặt trái của nó: do được ưu đãi nên đã tạo ra sự mất cân đối về lãnh thổ và phần nào làm tăng xu hướng ly tâm, giảm vai trò điều tiết của nhà nước, khó cải tạo được cơ cấu kinh tế. Việc trao cho các đặc khu kinh tế nhiều đặc quyền trong các hoạt đọng kinh tế đối ngoại đã làm diễn ra tình trạng đặc lợi, chêng lệch quá mức về thu nhập. d.Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (khu chế xuất). Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu là khu công nghiệp được quy định chuyên môn sản xuất chủ yếu cho xuất khẩu, trong đó người ta áp dụng quy chế tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Hiện nay nước ta dã có một số khu công nghiệp khá phát triển và đóng góp nhiều cho nền kinh tế quốc dân như khu chế xuất ở Tân Thuận (thành phố Hồ Chí Minh), khu công nghiệp Sài Đồng(Gia Lâm-Hà Nội). e.Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân. Đây cũng là một hình thức kinh tế tư bản nhà nước được Lê-nin rất coi trọng. Vì ruộng đất là thuộc sở hữu toàn dân, cho nên các hộ nông dân vói tính cách là đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp hiện nay chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu ruọng đất, tức là chủ hộ kinh doanh trên mảnh đất thuộc sở hữu toàn dân thực chất là thuê đất của nhà nước-một hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong nông nghiệp. Như vậy trong kinh tế nông nghiệp của chúng ta đã và sẽ còn tồn tại các chế độ kinh doanh khác nhau trên cùng một cơ sở tư liệu sản xuất cơ bản là ruọng đất thuộc sơ hữu toàn dân, trong đó chế độ kinh doanh của nhà nước là trực tiếp, còn các chế độ khác (của tập thể, từng hộ…) coi là những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước, chúng sẽ hết sức đa dạng và có vai trò rất lớn. Nước ta cũng cần và có thể phát triển hình thức liên doanh, liên kết rông rãi không chỉ trong nước mà cả ngoài nước. Cần mở rộng việc cho thuê đất với quy mô hạn định về rừng, đồi trọc, thềm lục địa…Khuyến khích phát triển những hộ kinh doanh độc lập trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, kinh tế vườn… Việc sử dụng hình thức này được coi là “cần thiết, có lợi và đáng mong đợi”. Đó là con đường hữu hiệu nhất để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, chuyển nền sản xuất từ phân tán đến tập trung, từ nền nông nghiệp nửa tự nhiên, tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá. g.Các tổ chức hợp tác liên doanh với tính cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Chế độ hợp tác là một trong những biến dạng của chủ nghĩa tư bản nhà nước, nó hoàn toàn thích ứng với hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh. Hợp tác xã chưa phải là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa nhưng nó lại là tất cả những cái cần thiết và đầy đủ để tiến hành công việc xây dựng đó. Từ thực tiễn thấy rằng hợp tác xã trong sản xuất và kinh doanh là xu thế tất yếu của những người sản xuất riêng lẻ, phạm vi hoạt động của các hợp tác xã không có giới hạn, vốn của nó cũng rất đa dạng (vốn không chỉ có tiền mà bao gồm cả chất xám), số lượng người tham gia khong hạn chế. ở Việt Nam, những hợp tác xã được tổ chức theo những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa thì chúng thuộc thành phần kinh tế tập thể. Mấy năm gần đây, xuất hiện các tổ chức hợp tác tương tự như kinh doanh liên hộ, tổ hợp dịch vụ, chế biến, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…Những tổ chức hợp tác liên doanh này mà có sử dụng đất đai thuộc sở hữu toàn dân, có vay vốn của nhà nước, có sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước cũng đều là hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, ta cần phải nắm lấy để phát triển nền kinh tế quốc dân. Kết luận Qua thực tiễn thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước Nga-Xô Viết những năm đầu khi giai vô sản giành được chính quyền, và bây giờ là Việt Nam cho thấy rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước xuất hiện là một điều tất yếu khách quan. Đối với các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa thì chỉ có việc “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước mới có thể xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa. Vì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ liên doanh, liên kết các thể làm ăn nhỏ lẻ trong nền kinh tế, tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó mà tạo ra mọi điều kiện vật chất kỹ thuật, chính trị, xã hôi để tạo đà cho các nước đó lên chủ nghĩa xã hội.Tuy nhiên các nước “du nhập” chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ ở một mức độ nào đó, đồng thời nó phải chịu sự điều tiêt và quản lý chặt chẽ của chính quyền nhà nước vô sản, nhằm thiết lập nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính quyền phải tìm cách làm cho chủ nghĩa tư bản nhà nước trong các nước vô sản không thể và không giám vượt qua khuôn khổ và điều kiện do giai cấp tư sản quy định cho nó, không thể và không giám vuợt ra khỏi những điều kiện có lợi cho giai cấp vô sản. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc vận dụng sáng tạo các lý luận của Lê-nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung và chủ nghĩa tư bản nhà nước nói riêng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Các lý luận này cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ làm kim chỉ nam cho Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới đất nước tạo tiền đề vững chắc tiến lên chủ nghĩa xã hội-con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn. Tài liệu tham khảo 1.Trần Ngọc Hiên. Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước. NXB Chính trị quốc gia năm 2002. 2.Vũ Ngọc Long. Một cuộc cải cách kinh tế của Lê-nin. 3.Vũ Hữu Ngoạn-Khổng Doãn Hợi. Mâý vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà nước. NXB Chính trị quốc gia năm1993. 4.Lê-nin toàn tập-tập 43. NXB Tiến bộ. 5.Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. NXB Sự thật. 6.Lê nin nói về chủ nghĩa tư bản nhà nước. NXB Sự thật. 7.Chủ nghĩa Lê-nin và công cuộc đổi mới trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa nước ta. NXB Thông tin lý luận. 8.Văn kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia. 9.Tư tưởng của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống chính sách kinh tế mới. Tạp chí cộng sản số 7/1996 Mục lục Lời mở đầu Nội dung chínhI.Lý luận của Lê-nin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1.Khái niệm về chủ nghĩa tư bản nhà nước 2.Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản nhà nước 3.ý nghĩa, các hình thức và kết quả của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong nhà nước vô sản 4.Bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản II.Thực hành chế độ chủ nghĩa tư bản ở nước ta 1.Tính cấp thiết 2.Khả năng thực hành chế độ chủ nghĩa nhà nước tư bản ở nước ta 3.Những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf60451_8875.pdf
Luận văn liên quan