Qua lý luận về mâu thuẫn biện chứng việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của 
KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam cho thấy phát triển KTTT theo định hướng 
XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật chung và thực tế ở 
Việt Nam, phù hợp với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn là quyết tâm xây 
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh và mục đích là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ 
và văn minh.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 22 trang
22 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4273 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với 
việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của 
kinh tế thị trường theo định hướng 
XHCN ở Việt Nam 
mở đầu 
Qua nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn biện chứng trong triết học cho thấy: Muốn 
phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích được mâu 
thuẫn vốn có của sự vật tự đó, giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết vấn đề động lực 
của sự phát triển. 
Vận dụng vào nước ta hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng 
sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế đã chuyển mình từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu 
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa (XHCN). Trong quá trình phát triển của cơ chế thị trường ở Việt Nam đã gặp những 
thuận lợi đáng kể song cũng không ít những khó khăn, trở ngại. Do đó việc phát hiện các 
cơ hội và thách thức, thuận lợi và nguy cơ là trung tâm điểm của việc phát hiện và giải 
quyết mâu thuẫn, thực hiện chiến lược phát triển đất nước. Trong đó việc phát hiện và giải 
quyết hàng loạt các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo 
định hướng XHCN cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách 
kinh tế xã hội. 
đề tài nghiên cứu: "Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ 
thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam". 
I. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 
1. Khái niệm về mâu thuẫn 
Trong lịch sử triết học đã có nhiều nhà triết học đề cập tới mâu thuẫn của các sự 
vật, của thế giới như: 
- Thuyết Âm dương - Ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các mâu thuẫn Âm 
Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ. 
- Nhà triết học Hy Lạp cổ đại là Hêraclit cũng nhấn mạnh mâu thuẫn của các hiện 
tượng, quá trình khách quan. 
- Nhà triết học cổ điển Đức là Ikant cũng đề cập tới Antinômi (ông đã nêu ra 4 loại 
Antinômi). 
- Hêghen cũng đã đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. 
Về cơ bản, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa 
làm rõ được sự chuyển hóa biện chứng của các mặt đối lập, do vậy khái niệm mâu thuẫn 
còn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập. Đến 
triết học Mác - Lênin quan niệm về mâu thuẫn mới thể hiện rõ nội dung biện chứng. 
Quan niệm triết học Mác - Lênin về mâu thuẫn: Mâu thuẫn là sự thống nhất của 
các mặt đối lập. Trong đó cần lưu ý: Không phải mọi cái đối lập đều tạo nên mâu thuẫn mà 
chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của nhau mới tạo thành mâu thuẫn. 
Như vậy có 2 điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: 
+ Các xu hướng đối lập nhau. 
+ Các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. 
2. Khái niệm thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 
- Thống nhất của các mặt đối lập nói lên quá trình cùng tồn tại và điều kiện tồn tại 
của các mặt đối lập. 
- Đấu tranh của các mặt đối lập nói lên quá trình bài trừ của các mặt đối lập. Từ 
đây rút ra kết luận là: 
+ Trong thống nhất có sự đấu tranh của các mặt đối lập. 
+ Trong đấu tranh có sự thống nhất của các mặt đối lập. 
Đây là cách hiểu biện chứng về thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập theo 
phép biện chứng duy vật. 
3. Khái niệm chuyển hóa của các mặt đối lập 
Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong tính thống nhất của nó tất yếu dẫn đến sự 
chuyển hóa của chúng. 
Phương thức chuyển hóa của các mặt đối lập phụ thuộc hai điều kiện cơ bản: 
- Bản chất của sự vật. 
- Những điều kiện môi trường của sự chuyển hóa. Tức phụ thuộc vào những điều 
kiện lịch sử cụ thể. 
Các hình thức chuyển hóa: 
+ Sự chuyển đổi vị trí của các mặt đối lập, đồng thời tính chất của mỗi mặt đối lập 
đều có sự thay đổi. 
+ Các mặt đối lập thủ tiêu lẫn nhau trong quá trình chuyển hóa và xác lập mặt đối 
lập mới. 
+ Các mặt đối lập thâm nhập chuyển hóa lẫn nhau và cùng phát triển. 
4. Vai trò của quá trình đấu tranh các mặt đối lập 
Quá trình đấu tranh trong tính thống nhất của các mặt đối lập tất yếu dẫn tới sự 
chuyển hóa của chúng. Nhờ đó, cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Chính vì vậy nhờ quá trình 
đấu tranh của các mặt đối lập mà có sự phát triển. Ví dụ như: Đấu tranh sinh tồn là động 
lực phát triển của các giống loài sinh vật, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã 
hội, cạnh tranh kinh tế là động lực phát triển kinh tế. 
Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là động lực của mọi sự phát triển mà mở 
rộng ra còn là động lực của mọi sự vận động nói chung. 
5. Tính đa dạng của các mâu thuẫn: Đây là phần có ý nghĩa thực tiễn trong việc 
giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển. Mâu thuẫn có các loại sau: 
 Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: 
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật nhất định. 
Ví dụ như: Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và Quan hệ sản xuất (QHSX) 
trong một phương thức sản xuất nhất định. 
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập 
của sự vật khác. Ví dụ như mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng của quốc gia này với bọn 
phản cách mạng trong một quốc gia khác. 
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và 
phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. 
 Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản 
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát 
triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sự vật sinh ra 
cho đến khi sự vật kết thúc. 
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của 
sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. 
Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật. Trong quá trình 
phát triển của mình, mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác 
trong sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Còn mâu 
thuẫn không cơ bản thì tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản. 
 Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: 
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của 
mọi sự vật. Nó tác dụng quyết định đến các mâu thuẫn khác tồn tại trong cùng sự vật ở giai 
đoạn đó. 
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình 
phát triển của sự vật. 
 Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng 
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn người, 
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. 
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã 
hội mà lợi ích về cơ bản là nhất trí với nhau. 
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan 
trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn đối kháng theo 
nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu 
thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển đặc thù của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn 
này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng 
phương pháp hòa bình. 
6. Vấn đề phương pháp luận tổng quát của quy luật này 
Có thể nhấn mạnh hai nguyên tắc phương pháp luận sau đây: 
- Muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích 
được mâu thuẫn vốn có của sự vật. Muốn vậy, cần phải xác định được những xu hướng 
vận động đối lập của mỗi sự vật mà ta phân tích, đồng thời phân tích xu hướng đối lập ấy 
trong tính thống nhất biện chứng của nó. 
- Giải quyết mâu thuẫn chính là giải quyết vấn đề động lực của sự phát triển. 
Về nguyên tắc, chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn thông qua sự đấu tranh của các mặt đối 
lập. Tuy nhiên, biện pháp giải quyết rất đa dạng. điều đó phụ thuộc vào bản chất của sự 
vật và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. 
Như vậy, nguyên tắc tổng quát là: Phát hiện và giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc 
đẩy sự vận động phát triển. 
II. Kinh tế thị trường ở Việt Nam và những mâu thuẫn phát sinh trong kinh 
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ góc độ lý luận mâu 
thuẫn biện chứng của triết học Mác - Lênin 
1. Tất yếu khách quan và đặc trưng kinh tế thị trường ở Việt Nam 
a) Kinh tế thị trường 
Về lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã trải qua hai 
kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển LLSX và phân công lao động xã hội 
đó là: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa, khi kinh tế hàng hóa phát triển giai đoạn cao là 
kinh tế thị trường. 
Kinh tế tự nhiên: Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, sản phẩm được sản xuất ra để tiêu 
dùng trực tiếp cho chính bản thân người sản xuất ra nó. 
Kinh tế hàng hóa: Là kiểu tổ chức kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm được sản xuất 
ra dùng để bán, để trao đổi trên thị trường. Kinh tế hàng hóa ra đời đã phá vỡ và đẩy lùi 
kinh tế tự nhiên với những ưu điểm của nó là: kích thích sản xuất phát triển, chuyên môn 
hóa lao động, thỏa mãn mọi nhu cầu đa dạng của xã hội. 
Sự phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với thị trường. Thị trường là quá trình 
trong đó có sự tác động giữa người mua và người bán thông qua đó để xác định giá cả và 
số lượng hàng hóa. 
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng 
suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hóa, dịch vụ được mở rộng 
và coi như hàng hóa thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị 
trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết, tự cân 
bằng do sự tác động của quan hệ cung cầu, tự điều chỉnh của "bàn tay vô hình", mọi nhà 
sản xuất đều tìm mọi cách tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí tối thiểu để có lợi 
nhuận tối đa. Cơ chế thị trường mang lại hiệu quả cao, song thị trường lại có những khuyết 
tật: Do mục đích theo đuổi lợi nhuận - doanh nghiệp vi phạm pháp luật, hủy hoại môi 
trường cạnh tranh dẫn đến độc quyền làm cho kinh tế phát triển kém hiệu quả, kinh tế thị 
trường gắn liền với thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, kinh tế thị trường còn dẫn đến sự 
phân hóa trong xã hội ngày càng sâu sắc. Để khắc phục những khuyết tật này thì phải có sự 
điều tiết của Nhà nước, đó là "bàn tay hữu hình". 
b) Tất yếu khách quan để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo định 
hướng XHCN ở Việt Nam 
- Xuất phát từ thực trạng nước ta từ một nền kinh tế kém phát triển, quá độ tiến 
thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (TBCN), 
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, phân tán mang nặng tính tự nhiên, cơ sở vật chất 
kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu trong nhiều năm nền kinh tế tồn tại theo cơ chế kế hoạch tập 
trung bao cấp nên đã tích tụ những yếu tố dẫn đến khủng hoảng kinh tế, mà thực tế khủng 
hoảng kinh tế đã diễn ra kéo dài đặc biệt là vào những năm 1980 - 1985 làm cho đời sống 
rất khó khăn. Trong nền kinh tế nước ta LLSX xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành 
phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở 
hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó, việc trao đổi sản 
phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là 
nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, 
sản phẩm phải trở thành hàng hóa. Các thành phần kinh tế cùng tham gia vào thị trường 
thống nhất vì vậy chúng liên hệ với nhau, vừa cạnh tranh với nhau. 
- Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ LLSX thì phải xã hội 
hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong 
một nền kinh tế hàng hóa mà phát triển cao là kinh tế thị trường. Thị trường là môi trường, 
điều kiện thực hiện tái sản xuất vì trao đổi là một giai đoạn tái sản xuất, các quan hệ kinh 
tế được giải quyết thông qua thị trường xoay quanh ba vấn đề là sản xuất cái gì? như thế 
nào? sản xuất cho ai? Phân phối ra sao? Các chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn tự do 
mua bán, tự do giá cả và phải cạnh tranh. Cạnh tranh tạo ra động lực và làm tăng hiệu quả 
kinh tế. Thị trường phát triển thúc đẩy sản xuất và phát triển mở rộng quan hệ kinh tế, nối 
liền các miền, các vùng kinh tế trong nước và mở rộng liên hệ với thị trường quốc tế. 
Trong lịch sử kinh tế phát triển tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị 
trường, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự 
phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, đa 
dạng hóa các hình thức sở hữu, đồng thời là động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. 
Như vậy, phát triển nền kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, 
một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, 
hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển 
LLSX, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa (CNH, HĐH). Tuy nhiên kinh tế thị trường có những khuyết tật nên Nhà nước 
phải can thiệp, điều tiết nền kinh tế để hạn chế, chính vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác 
định phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là nền kinh tế có sự quản 
lý của Nhà nước. 
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị 
trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác 
được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, phát triển LLSX. 
Sau hơn 10 năm đã giành được những thành tựu bước đầu là thoát khỏi những khủng 
hoảng, ổn định kinh tế, bước đầu có tăng trưởng nên Đại hội Đảng VIII khẳng định đẩy 
mạnh đổi mới và đến Đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất 
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo 
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền 
kinh tế thị trường định hướng XHCN. 
c) Đặc trưng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam 
- Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng 
sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng 
cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan 
hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. 
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành 
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế 
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. 
- Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được 
xác lập và sẽ chiếm hữu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. 
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định 
hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực 
hiện công bằng xã hội. 
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta 
là Nhà nước XHCN, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, 
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản 
lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích 
cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân 
lao động, của toàn thể nhân dân. 
- Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng 
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và 
thông qua phúc lợi xã hội. 
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong 
từng bước phát triển. 
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn 
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, 
giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. 
- Mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, đa dạng, đa phương, chủ động hội 
nhập, phát huy lợi thế so sánh tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 
2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường 
theo định hướng XHCN ở Việt Nam 
a) Mâu thuẫn giữa lược lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản suất (QHSX) 
Theo lý luận của Các Mác. Trong sản xuất có hai mặt không thể tách rời nhau, một 
mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa con người với con 
người; trong hai mặt đó một mặt là LLSX, mặt kia là QHSX. Như vậy: LLSX biểu hiện 
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất còn QHSX là toàn bộ 
mối quan hệ lẫn nhau giữa người với người trong quá trình sản xuất. LLSX bao gồm người 
lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. 
QHSX có 3 mặt: Quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản 
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Do vậy đã có quy luật về sự phù hợp của 
QHSX với trình độ phát triển của LLSX, LLSX và QHSX thống nhất chặt chẽ với nhau trong 
quá trình sản xuất tạo thành phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là cách thức con 
người tiến hành sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Trong mối quan hệ giữa 
LLSX và QHSX thì LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, LLSX 
quyết định QHSX, QHSX phải phù hợp với LLSX và tác động tích cực trở lại LLSX. 
Khi một phương thức mới ra đời thì khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển 
của LLSX và nó là hình thức phát triển của LLSX. Sự phát triển của LLSX đến một trình 
độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp thành không phù hợp với trình độ phát triển 
của LLSX, khi đó QHSX trở thành kìm hãm LLSX phát triển. Chính vì vậy Mác viết "tới 
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu 
thuẫn với những QHSX hiện có... Trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ 
chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, QHSX ấy trở thành những xiềng xích của các 
LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội". 
Thực tại ở Việt Nam khi phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN 
cũng là xác lập một phương thức sản xuất mới, khi đó LLSX phát triển bằng cuộc cách 
mạng trong CNH, HĐH do Đảng lãnh đạo. Với công nghệ, lao động đang biến đổi theo xu 
hướng ngày càng trí tuệ hóa, sự thống nhất giữa khoa học và công nghệ là đặc trưng của 
LLSX hiện đại. Khi đó QHSX cũ còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển do QHSX trở nên 
lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của LLSX. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải 
thay đổi QHSX cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Do đó trong nội dung CNH, 
HĐH Đảng ta đã chỉ rõ: Xây dựng hoàn thiện QHSX theo định hướng XHCN, phát triển 
LLSX trên cơ sở đó từng bước xây dựng, hoàn thiện QHSX trong đó thành phần kinh tế nhà 
nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế 
theo mục tiêu CNXH. 
b) Mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội 
nhất định, còn kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, 
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với các thiết chế tương ứng như nhà nước, 
đảng phái, giáo hội, các tổ chức xã hội khác... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất 
định. 
- Giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau, cơ 
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội. Trong đó cơ sở hạ tầng 
quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng. 
C.Mác viết "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng đảo 
lộn ít nhiều nhanh chóng". Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng 
diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế 
khách quan, thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, nếu kiến 
trúc thượng tầng tác động không phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thì nó sẽ kìm hãm kinh 
tế phát triển, và tuy nhiên nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm 
hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, tiến 
bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển. 
ở Việt Nam trong phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, khi QHSX 
XHCN được xác lập thì dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có 
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng, phù hợp với sự thay đổi của 
cơ sở hạ tầng. Song có những yếu tố thay đổi chậm hoặc thay đổi chưa phù hợp, kìm hãm 
sự phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX có nêu về những yếu kém, khuyết điểm 
qua 5 năm đổi mới của nước ta là: Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm 
được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát 
triển; Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa 
được thông suốt ở các cấp, các ngành, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên 
quyết, hiệu quả thấp... Để giải quyết tồn tại này, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai 
đoạn mới tiếp theo Đảng ta đã chỉ rõ... "tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, 
hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...". 
c) Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong kinh tế thị trường định hướng 
XHCN 
Sở hữu là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ giữa người với người trong quá trình 
chiếm hữu tư liệu sản xuất (TLSX) và sản phẩm xã hội. Trong lịch sử nhân loại đã có hai 
loại hình sở hữu là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Loại hình sở hữu tư nhân là loại 
hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số 
không có hoặc có rất ít TLSX, do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và 
bị trị. Loại hình sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà TLSX thuộc về mọi thành viên 
trong cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn 
nhau. Như vậy hai hình thức sở hữu này có nội dung khác nhau, mục đích khác nhau, nó 
đem lại lợi ích kinh tế khác nhau do đó cùng tồn tại sẽ tạo nên mâu thuẫn với nhau. 
ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại 5 hình thức sở hữu: là sở hữu Nhà nước, sở hữu 
tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản. Trong các hình thức này 
khái quát lại cũng có hai hình thức cơ bản là công hữu và tư hữu còn các hình thức khác 
chỉ là trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. 
Các thành phần kinh tế này tồn tại trong một cơ cấu chung của thời kỳ quá độ, nó 
tồn tại trong mối liên hệ vừa thống nhất nhưng vừa mâu thuẫn: 
+ Sự thống nhất thể hiện mỗi thành phần kinh tế là những khâu, giai đoạn trong hệ 
thống phân công và tái sản xuất, mỗi thành phần kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật 
kinh tế thị trường; quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà 
nước, chịu sự chi phối của kinh tế Nhà nước. 
+Sự mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế được thể hiện là: có các hình thức sở 
hữu khác nhau cho nên mục đích và lợi ích kinh tế cũng khác nhau, tạo ra yếu tố cạnh 
tranh, đấu tranh với nhau, cạnh tranh lành mạnh thì phát triển, cạnh tranh không lành mạnh 
thì kìm hãm sự phát triển. Do vậy cần có sự can thiệp của Nhà nước. Đảng và Nhà nước 
thừa nhận tồn tại khách quan nhiều thành phần không thể chủ quan phủ nhận thành phần 
kinh tế này hay thành phần kinh tế khác. Vì vậy cần phải nhận thức và sử dụng chính sách 
nhất quán kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế tham gia vào thị trường được 
đối xử bình đẳng, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, cũng phát triển lâu 
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và 
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền 
kinh tế quốc dân. Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng ta đã xác định: chế độ sở 
hữu công cộng (công hữu) về TLSX chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế 
tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. 
d) Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với xây dựng con người XHCN 
Triết học Mácxít quan niệm: Con người là một thực thể sống nhất sinh học - xã 
hội. Trong con người luôn tồn tại song song hai mặt: Sinh học và xã hội, chúng hòa quện 
vào nhau làm nên con người. Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của 
những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của 
những quan hệ xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo lịch sử. 
Con người có vai trò to lớn nên người ta đã khẳng định: Con người là giá trị cao 
nhất của mọi giá trị, nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của 
mọi nguồn lực, sự phát triển người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. ở nước ta 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng xây dựng XHCN trước hết phải có con người 
XHCN. 
Về quan hệ cá nhân và xã hội: Xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân, cá 
nhân ảnh hưởng tới xã hội. 
ở Việt Nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà trong 
đó mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, 
tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa tiền tệ, quan hệ hàng hóa tiền tệ phát 
triển mở rộng... Nền kinh tế thị trường đã tác động đến con người làm cho con người trở 
nên năng động, sáng tạo, nhanh nhạy song nó cũng làm cho một số người tha hóa, xu 
hướng thụ hưởng vật chất ngày càng gia tăng, sùng bái đồng tiền, lối sống xa hoa lãng phí, 
dễ mắc các tệ nạn xã hội, tham nhũng...Những tiêu cực này đã kìm hãm sự phát triển của 
kinh tế thị trường. 
Trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Đảng ta đã nêu những yếu kém 
khuyết điểm là: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở 
một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất nghiêm trọng. Điều này mâu thuẫn với 
việc xây dựng con người XHCN là con người Việt Nam có tri thức có đạo đức, thể lực, kỹ 
năng, thái độ, phong cách làm việc phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Do vậy 
về phương pháp luận xây dựng giải pháp phát triển con người Việt Nam phải tính đến tổng 
thể các quan hệ, các yếu tố đan xen chằng chịt. Phải đặt con người Việt Nam trong sự 
thống nhất, mâu thuẫn giữa nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội, giữa lợi ích vật chất và lợi 
ích tinh thần, giữa tiện nghi, mức sống, tiền tài với đạo lý, lương tâm, tình nghĩa, giữa lợi 
ích gia đình, cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích quốc tế. 
Nghị quyết Đại hội IX đã xác định: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, 
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo là 
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát 
huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và 
bền vững. 
e) Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với những khuyết tật của kinh 
tế thị trường 
Bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế thị trường như cơ chế thị trường tự động 
kích thích sự phát triển, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu thì kinh tế thị 
trường cũng chứa đựng rất nhiều khuyết tật là: Do mục đích là P nên lợi dụng khai thác tài 
nguyên một cách triệt để làm hủy hoại ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên; suy thoái 
đạo đức, vi phạm pháp luật; kinh tế thị trường gắn liền với thất nghiệp, lạm phát, tính chu 
kỳ, khủng hoảng, kinh tế thị trường (KTTT) dẫn đến sự phân hóa trong xã hội ngày càng 
sâu sắc. Những khuyết tật này đã cản trở sự phát triển của KTTT. Để giải quyết mâu thuẫn 
này đòi hỏi phải có sự can thiệp điều tiết của Nhà nước. Vai trò KTTT của Nhà nước thể 
hiện: Đảm bảo công bằng xã hội, giữ gìn trật tự an ninh bằng các công cụ vĩ mô như: thuế 
thu nhập, trợ cấp, phân phối thu nhập (quỹ phúc lợi); bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô bằng 
công cụ, chính sách như: Lãi suất, chính sách tài khóa, tiền tệ... để đầu tư tạo việc làm 
kiềm chế lạm phát; chính sách bảo vệ môi trường; đầu tư khu vực kinh tế công cộng. Nhà 
nước phải tạo ra môi trường pháp lý, hành lang pháp luật để duy trì hoạt động kinh tế trong 
khuôn khổ luật pháp. Chính vì vậy Đại hội Đảng IX đã chủ trương thực hiện nhất quán và 
lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. 
III. Những giải pháp xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
1. Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) là nhiệm 
vụ trung tâm 
Nước ta từ một nước nông nghiệp, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu tiến thẳng lên 
CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN do đó để phát triển KTTT thì nhiệm vụ trọng 
tâm hàng đầu là phát triển CNH, HĐH để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH - đó chính là 
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể 
rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi 
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là 
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng phổ biến thành tựu mới về khoa học 
và công nghệ. Phát huy nguồn trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát 
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp 
CNH, HĐH. 
Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ 
cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, 
kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước (DNNN), hiệu quả đầu 
tư, hiệu quả sử dụng vốn. Tạo sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường 
ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu. Nước ta có thế mạnh về nông nghiệp nên tăng cường chỉ 
đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết 
cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện 
đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. 
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, may mặc, da-giầy, một 
số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm... 
Chú ý đến phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, thương mại, 
kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch tài chính, 
ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm,... xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống 
kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước. 
Phát triển phân công lao động xã hội trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa tạo tiền 
đề vật chất cho sự phân công mới lao động xã hội, hình thành các ngành nghề mới, các 
vùng chuyên canh... 
Thực hiện chiến lược phát triển các vùng, phát huy vai trò vùng kinh tế trọng 
điểm, phát huy thế mạnh tiềm năng từng vùng, liên kết giữa các vùng. Phát huy vai trò 
chiến lược của kinh tế biển kết hợp bảo vệ vùng biển. Từng bước hiện đại hóa công tác 
nghiên cứu dự báo khí tượng thủy văn, vật lý địa cầu. Sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài 
nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học. 
2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 
Giữa LLSX và QHSX có mối liên hệ mật thiết biện chứng với nhau, chính vì vậy 
trong KTTT định hướng XHCN ở nước ta thì phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn 
liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Nền 
kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế; Đảng ta chủ trương thực 
hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà 
nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành 
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. 
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân 
hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan 
xen hỗn hợp. Chiến lược phát triển các thành phần kinh tế là: 
- Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là lực lượng vật chất 
quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN 
giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về 
năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. 
- Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác 
xã là nòng cốt. Các hợp tác xã (HTX) dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập 
thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Nhà nước giúp HTX đào tạo cán 
bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các 
quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng... và phát triển HTX theo luật HTX. 
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. 
Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp 
tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. 
- Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề 
sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về 
chính sách pháp luật để phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước. 
- Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết 
giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi 
ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. 
- Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng 
vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, 
tạo thêm nhiều việc làm. 
3. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý 
kinh tế nhà nước 
* Các yếu tố thị trường: Kinh tế thi trường (KTTT) nước ta hiện nay mới là giai 
đoạn đầu còn sơ khai chưa đầy đủ các yếu tố thị trường do vậy để phát triển KTTT Đảng ta 
có chủ trương phải xây dựng hoàn thiện đầy đủ các yếu tố thị trường, thúc đẩy sự hình 
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc 
biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như: Thị trường 
lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công 
nghệ. 
- Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ: phát huy vai trò nòng cốt, định hướng 
và điều tiết của kinh tế nhà nước trên thị trường. Đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức 
mua của thị trường trong nước, ở cả thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có 
nhiều khó khăn. Mở thêm nhiều thị trường mới ở nước ngoài. Hạn chế và kiểm soát độc 
quyền kinh doanh. 
- Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo 
vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động. 
- Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở 
hữu trí tuệ, đẩy mạnh, phát triển các dịch vụ về thông tin chuyển giao công nghệ. 
- Phát triển bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. 
Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả. 
- Hình thành và phát triển thị trường bất động sản bao gồm cả quyền sử dụng đất 
theo quy định của pháp luật. 
* Về quản lý kinh tế của Nhà nước: KTTT nước ta là KTTT theo định hướng 
XHCN tức là nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước quản lý kinh tế tốt là điều 
kiện thúc đẩy KTTT phát triển lành mạnh, Đảng ta có chủ trương nâng cao hiệu lực quản 
lý kinh tế nhà nước, đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích 
cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò 
quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham 
nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây phiền hà. 
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh 
tranh và hợp tác để phát triển, bằng các chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết 
hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, 
bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát thanh tra mọi 
hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận 
thương mại. 
Bằng các công cụ chính sách vĩ mô nhà nước tác động để đạt mục tiêu, tạo điều 
kiện môi trường để KTTT phát triển như: Môi trường chính trị: ổn định chính trị đổi mới 
chính sách kinh tế để khuyến khích đầu tư; Môi trường kinh tế: ổn định kinh tế vĩ mô, ổn 
định đồng tiền, tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn cho nhà đầu tư; môi trường pháp lý: 
ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo hành lang pháp luật để duy trì các hoạt động 
trong khuôn khổ pháp luật. Có chính sách mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: đa 
dạng, đa phương, chủ động hội nhập, phát huy lợi thế so sánh tăng sức cạnh tranh. 
4. Giải quyết các vấn đề xã hội 
Để kinh tế phát triển nền KTTT định hướng XHCN thì yếu tố quan trọng tạo điều 
kiện, môi trường, động lực để phát triển thuận lợi và vững chắc đó là sự tác động của các 
vấn đề xã hội. Do vậy Đảng và Nhà nước có chủ trương là giải quyết tốt các vấn đề xã hội. 
Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, 
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng 
suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân 
làm giàu hợp pháp... 
Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản; cải cách cơ bản chế độ tiền 
lương cán bộ, công chức theo hướng tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương; các doanh nghiệp được 
tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả của 
doanh nghiệp. 
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã hội và vận động 
toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. 
Đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn, có chính sách 
dân số nhằm kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát 
triển kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, tăng 
cường lãnh đạo và quản lý phong trào toàn dân chống tội phạm... 
Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa, đề cao trách nhiệm 
của chính quyền các cấp, huy động nhân dân tham gia vào đoàn thể nhân dân, các tổ chức 
xã hội. 
5. Phát triển giáo dục và đào tạo 
Con người là nguồn nhân lực, là yếu tố quyết định cho sự phát triển của mỗi quốc 
gia, đặc biệt trong kinh tế thị trường con người cần phải được giáo dục đào tạo để khắc 
phục những mặt tiêu cực do thị trường đem lại do vậy để phát triển KTTT theo định hướng 
XHCN, Đảng ta đã quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo con người. 
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, lý tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn 
trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp. Đào tạo lớp người lao động có 
kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả, nhạy cảm với cái 
mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ tiên tiến. Xây dựng đội ngũ cá nhân 
lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. 
Chính sách sử dụng lao động và nhân tài để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất 
nước. 
6. Thực hiện tốt chính sách đối ngoại 
Để KTTT phát triển nhanh chóng hội nhập cùng quốc gia trên thế giới, Đảng ta 
xác định cần thực hiện tốt chính sách đối ngoại trên nguyên tắc phát huy nội lực, giữ vững 
độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. 
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là: Đa dạng hóa các hình thức kinh 
tế đối ngoại, đa phương hóa trong quan hệ thị trường với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế 
trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi. Mục tiêu 
cần đạt là thu hút nguồn lực bên ngoài để phát huy nguồn lực và lợi thế bên trong, bảo 
đảm sự hoạt động bình thường của kinh tế trong nước khi điều kiện quốc tế có thể có 
những biến động. 
Kết luận 
Qua lý luận về mâu thuẫn biện chứng việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của 
KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam cho thấy phát triển KTTT theo định hướng 
XHCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật chung và thực tế ở 
Việt Nam, phù hợp với con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn là quyết tâm xây 
dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh và mục đích là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ 
và văn minh. 
Phát triển KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam có những mâu thuẫn biện 
chứng theo quan điểm triết học thể hiện khá rõ nét đó là các mâu thuẫn LLSX và QHSX, 
mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các hình thức sở 
hữu, mâu thuẫn giữa KTTT với xây dựng con người XHCN, mâu thuẫn giữa phát triển 
KTTT với những khuyết tật của KTTT. 
Từ những mâu thuẫn này đòi hỏi thực tiễn phải nhận thức đầy đủ và phân tích 
những mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn, xu hướng vận động của hiện tượng và sự vật, tôn 
trọng yêu cầu của các quy luật khách quan để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp phát 
huy những ưu thế của kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những khiếm khuyết của cơ chế 
thị trường, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ theo định hướng XHCN. 
KTTT là mô hình kinh tế có hiệu quả nhất để đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi 
nghèo nàn lạc hậu sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới. Do vậy các doanh nghiệp 
cũng như mỗi người dân Việt Nam thực hiện tốt những giải pháp, đường lối mà Đảng và 
Nhà nước đã chỉ đạo thì sự nghiệp đổi mới sẽ thành công và KTTT phát triển vững chắc. 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. TS. Đoàn Quang Thọ, TS. Phạm Văn Sinh, TS Dương Thị Liễu, Triết học, Nxb 
Thống kê, 2002. 
2. GS.TS Nguyễn Hữu Vui, GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình triết học Mác - 
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004. 
3. Hội đồng Trung ương biên soạn, đồng chí Đào Duy Tùng, ủy viên Bộ Chính trị, Bí 
thư Trung ương Đảng - Chủ tịch, Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb 
CTQG, 1999. 
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, 2001. 
5. Các Tạp chí triết học. 
6. Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, Học viện Chính trị quốc gia. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.pdf LUẬN VĂN- Lý luận về mâu thuẫn biện chứng với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.pdf