Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong
những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước
những thách thức cực ḱ nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự
hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2862 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đề dân tộc và giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mark-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc
và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người.Từ hoạt động thực tiễn,Hồ Chí Minh đã khám phá các quy luật vận động xã hội,đời
sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia
và thời đại mới để khái quát thành lí luận,đem lí luận chỉ đạo thực tiễn , qua kiểm nghiệm
của thực tiễn để hoàn thiện ,làm cho lí luận có giá trị khách quan, tính cách mạng và khoa
học. Trong đó ,tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp chính là sự vận dụng sang tạo chủ nghĩa Mark-Lenin vào điều kiện lịch sử thực
tiễn của Việt Nam. Đó như là kim chỉ nam và có tác dụng lớn lao trong việc tập hợp lực
lượng cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước thuộc địa nói chung.
Bài tiểu luận với nội dung là đi sâu nghiên cứa mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh , bao gồm những phần chính như sau:
-Phần 1 : Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp.
-Phần 2 : Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp trong thời đại ngày nay.
-Phần 3 : Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay.
PHẦN I : Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp.
1.1. Cơ sở lí luận :
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một cách sáng
tạo học thuyết Marx-Lenin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp là một trong những sáng tạo đó.Trước hết, phải biết được những luận điểm cơ bản
của Mark-Lenin về vấn đề dân tộc và giai cấp.Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản,
Marx –Engels đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong
trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì
vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu
tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Marx-Engels đã thấy
được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ
vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
- Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối
kháng: tư sản và vô sản.
- Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản.
- Vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập
chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công
nhân. Marx-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc
này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp
trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất
theo". Như vậy theo Marx-Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải
quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để
giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối với Marx so với vấn đề giai cấp vô sản thì
vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời đại của Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở thực
tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho rằng
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó
không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với
Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản
tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo
Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc,
vì vậy không mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước
thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại, Marx - Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách
mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên
hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai
cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn
đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.Luận điểm này của Người
xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Marx đã
xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào?
Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng
không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại
chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở
phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã
hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như
xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không
quyết liệt như ở đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó,
không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương
Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền
lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai
cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này
thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong
lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân
tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những
sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin.
Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở
Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.
1.1. Cơ sở thực tiễn :
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được
truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân
Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho
các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của
những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng
do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm
của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản
xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy
không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết
quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người
thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công
lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường
cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các
châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân
lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực
tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức,
phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái
Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu
lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan
trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau
khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải
qua. Con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ
đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống
các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách
mạng giải phóng dân tộc.
PHẦN II : Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và giai cấp trong thời đại ngày nay.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời
cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ
đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân
tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định
nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và
tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và
cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải
phóng dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc,
xoá bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập. Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách
mạng vô sản đầu thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
2.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ
quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát
vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người
Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ
sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do,
hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh,
đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư
tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập
tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp
xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu
tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối
với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo chí,
hội họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt
Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-nam đòi
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm
cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và
phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng 8 thành công,
Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự
do độc lập ấy”.
+ Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm
no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân
tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
2.2. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn ở các nước đang
đấu tranh giành độc lập.
Theo Hồ Chí Minh , do kinh tế còn lạc hậu , chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở
Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương
Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn : dù là địa chủ hay nông dân, họ đều chịu
chung số phận là người nô lệ mất nước. từ sự phân tích đó, Người kiến nghị về Cương
lĩnh hành đông của quốc tế Cộng sản là:” phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh
Quốc tế cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của học thắng lợi …nhất định chủ nghĩa dân
tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa , từ truyền
thống dân tộc Việt Nam , Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy. Người cho đó là một chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời . Chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản mà
Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính chứ không phải chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi.
2.3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của
các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng
thuộc địa, và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân
tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH thể hiện một số điểm
sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ
giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản.
“Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế
giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định con
đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ánh quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên
CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, mọi người đều
được sung sướng, tự do”.Sự phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội là một
đảm bảo vững chắc cho nền độc laapjcuar dân tộc. Hồ Chí Minh nói :” yêu Tổ quốc , yêu
nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội , vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân
dân mỗi ngày một no ấm them, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh không chỉ
đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức.
“Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho
dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí
Minh nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả
của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết , nhưng Hồ Chí Minh luôn nhiệt liệt ủng hộ cuocj
kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Lào va Campuchia, đề ra khẩu hiệu “ giúp bạn là giúp mình” , và chủ trương
phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách
mạng thế giới.
PHẦN III: Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay.
3.1. Thực trạng việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết.
Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH,
đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai
cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và
kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực
chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về
phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước
thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn
mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa
quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ
sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề
ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu
''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng
giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng
XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của
giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng
ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc;
trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và
hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách
mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng
những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng
XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta
đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận
thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết
hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở
nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu
chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
3.2.Phương hướng, giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
ở nước ta hiện nay:
Phương hướng vận dụng và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới là nắm vững quan điểm thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của
Người để giải quyết đúng đắn vấn đề do thực tiễn đặt ra.Nội dung chủ yếu để vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt năm hiện nay cơ bản như sau:
- Kiên định đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.Đó là tiếp tục con đường
xây dựng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản được vạch ra trong cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH mà đại hội Đảng lần VII đã vạch ra.
- Dựa vào sức mạnh của toàn dân :
+Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con người.
+Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
+Tôn trọng quyền làm chủ của toàn dân.
+Dựa trên sức mạnh của dân,xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên giá trị truyền
thống văn hóa dân tộc.
- Xây dựng và chỉnh đốn hệ thống chính trị trong sạch và vững mạnh.
KẾT LUẬN:
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ
và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong
những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước
những thách thức cực ḱ nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự
hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững
chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây
dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh./.
Tài liệu tham khảo:
1) Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo.
2) Đề tài về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh , Nguyễn Thế Hinh, trường ĐH Kinh tế quốc dân.
3) Website Viện triết học Việt Nam, website Đảng cộng sản Việt Nam.
4) Tạp chí cộng sản, số 24,ngày 28/5/2008.
5) Báo Bình Định, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tưởng Hồ Chí
Minh,3/11/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.pdf