Luận văn Một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay

Để phù hợp với cơ chế mới và làm đúng chức năng mô tả thực trạng thị trường hàng hoá dịch vụ, dự báo xu hướng biến động cung cầu và giá cả về các trạng thái của sản lượng việc làm và giá cả cần phải căn cứ vào hệ thống mục tiêu quản lý cơ chế mới, hệ thống chi tiêu kế hoạch hoá định h ướng theo cơ chế mới để cải tạo các thông tin và hệ thống chỉ tiêu thông tin Kinh tế – quản lý cho phù họp với việc điều hành và quản lý Kinh tế vĩ mô

pdf27 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
heo hướng nhất định, tức là:Nhà nước không chỉ là công cụ trong tay giai cấp thống trị mà quyền lực đại diện cho lợi ích chung của toàn cộng đồng xã hội. Trong các đặc trưng về chất, đặc trưng về mặt Kinh tế gồm: vấn đề sản xuất và vấn đề lợi ích Kinh tế là quan trọng nhất, vì các hoạt động Kinh tế ngày một trở nên là các hoạt động cốt lõi của xã hội. Các Nhà nước trước Chủ nghỉa xã hội về cơ bản là đại diện cho quyền lợi thiểu số giai cấp thống trị giàu có nhằm bóc lột, nô dịch đại đâ số nhân dân lao động trong và ngoài nước. Đặc biệt là Nhà nước tư sản, thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ quản lí khác để chi phối các hoạt động Kinh tế và xã hội, duy trì và phát triển lợi ích của các nhà tư bản. Dù dưới nhiều hình thức khác nhau, các nhà lí luận bênh vực cho các nhà tư sản đã không thể phủ nhận bản chất giai cấp Nhà nước, Nhà nước đó là tên lính canh cửa của chế độ sở hữu tư sản đúng như C. Mác đã phê phán: “chính những tư tưởng của các ông là con đẻ của chế độ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí cua giai cấp các ông, được đề lên thành pháp luật, các ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Trong lĩnh vực Kinh tế, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền ở các nước phát triển, để giải quyết những hiện tượng Kinh tế xã hội nảy sinh, đã có nhiều lí thuyết về vai trò thực tế của Nhà nước trong việc điều chỉnh nền Kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như những khó khăn về Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có sự phân tích tình hình mới. ở giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản, các lí thuyết Kinh tế tư bản đã chứng minh sự ra đời tất yếu và sứ mệnh tiến bộ của phương thức tư bản chủ nghĩa và chống lại các thế lực phong kiến. Nhưng, từ thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19, trường phái cổ điển và tân cổ điển mới coi nhà nước tư bản chỉ là người canh gác và bảo về tài sản cho Chủ nghĩa tư bản, họ ủng hộ nguyên tắc tự do Kinh tế, chưa nhìn thấy vai trò điều chỉnh Kinh tế của Nhà nước. Adam Smith một nhà Kinh tế học người Anh cho rằng: “hoạt động Kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối.” Tất cả được giải quyết thông qua thị trường. Sang thời kì công nghiệp hoá, Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn, người ta chỉ phê phán những tiêu dùng xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối. Nhưng rồi Chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ những mâu thuẫn và nhược điểm, không chỉ những mâu thuẫn về giai cấp mà cả những mâu thuẫn giữa các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, giữa các ngành Kinh tế, giữa thành thị và nông thôn…đã làm xuất hiện tính khủng hoảng chu kì của nền Kinh tế TBCN. Trước đòi hỏi thực tiễn, nhiều nhà Kinh tế TB đã đưa ra các học thuyết khác nhau đễ lí giải mâu thuẫn và tìm đến vai trò của Nhà nước , trong việc điều chỉnh các mâu thuẫn nhằm giải quyết các mất cân đối trong quá trình tái sản xuất và giảm nhẹ các cuộc khủng hoảng mang tính chu kì. Tuỳ giác độ và điều kiện nghiên cứu cụ thể khác nhau và đưa ra các khuyến nghị khác nhau; trong đó chủ yếu là việc điều chỉnh sự bóc lột của giai cấp TS đối với người lao động. Tuy nhiên, trong các lí thuyết ấy, dù góc độ xem xét khác nhau, dù quan niệm khác nhau về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước nhưng họ đều thấy một thực tế là: theo đà phát triển của sản xuất, chức năng của Nhà nước sẽ tăng lên. Tuy nhiên họ vẫn cho rằng: tự do Kinh tế là sức mạnh hoạt động của nền Kinh tế TBCN . Họ tin vào cơ chế thị trường và sự điều tiết hoạt động theo cung cầu và giá cả. Theo sự điều tiết hoạt động của:”bàn tay vô hình” mà quá trình tái sản xuất bảo đảm được tỉ lệ cân đối và duy trì được sự phát triển bình thường. Song cuộc khủng hoảng Kinh tế của Chủ nghĩa tư bản bắt dầu từ năm 1925 và trở nên thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỉ XX đã chứng tỏ “bàn tay vô hình “ không thể bảo đảm cho nền Kinh tế TBCN phát triển bìmh thường. Hơn nữa, xu hướng xã hội hoá sản xuất càng cao đã cho thấy cần phải có một lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình Kinh tế , điều tiết Kinh tế. J. M. Keynes- Nhà Kinh tế học nổi tiếng người Anh, trên cơ sở đánh giá vai trò của Nhà nước ở vị trí hoàn toàn khác đã sáng lập ra lí thuyết “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết “. Ông cho rằng :Cơ chế thị trường không thể đẩm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất để đảm bảo cho Chủ nghĩa tư bản hoạt động bình thường , tránh đuược thất nghiệp và khủng hoảng. Keynes đã đứng trên giác độ quả lí Kinh tế vĩ mô nền Kinh tế để phân tích các mâu thuẫn và những mất cân đối vốn có trong nền Kinh tế TBCN ở giai đoạn Chủ nghĩa tư bản độc quyền . Ông cho rằng xã hội loài người có sự tồn tại “quy luật tâm lí chủ yếu “ là khi thu nhập cũng tăng thì khuynh hướng tiêu dùng giảm xuống” mà khuynh hướng tiết kiệm càng phát triên. Điều đó dẫn đến sự giảm “cầu” mà “cầu” lại là động lực để phát triển sản xuất. Để tiếp tục phát triển sản xuất, để khôi phục lại sự cân bằng phải tạo ra “cầu tích cực” bằng sự can thiệp của Nhà nước nhằm tăng chi phí cho ngân sách, cho đầu tư và tiêu dùng. J.M Keynes còn chứng minh rằng việc giải quyết vấn đề thất nghiệp phụ thuộc vào các điều kiện chung cuả tái sản xuất và là vấn đề Kinh tế vĩ mô, từ đó đặt lên vai Nhà nước chức năng “toàn dụng” tất cả các nguồn lực, trong đó có sức lao động. Để làm được điểu đó nhà nước không chỉ dừng lại ở việc thực hiện một số biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh của nhà tư bản mà phải thực hiện những chức năng quản lí vĩ mô nền Kinh tế với sự nghiên cưú và dự báo xu hướng phát triển trong tương lai, xây dựng các kế hoạch để tạo ra “cầu tích cực” và đề ra biện pháp can thiệp, điều chỉnh thích hợp nhắm khắc phục những mâu thuẫn quá trình tái sản xuất. Thực tế cho thấy vai trò quản lí của Nhà nước là cực kỳ quan trọng. Nhà nước quản lí tồi sẽ đưa tới đất nước nghèo, lầm than, đổ vỡ, chiến tranh. Nhà nước quản lí tốt sẽ đưa đất nước tới sự giàu mạnh, phát triển thậm chí có sự bành trướng 2. Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam a. Bản chất Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một Nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với bản chất của Nhà nước giai cấp bóc lột. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nguyên lí này đúng với mọi Nhà nước nói chung, nhưng với Nhà nước ta, do những đặc điểm về mặt bản chất giai cấp, nó là sự thể hiện nền dân chủ cao nhất. Do đó nó có vai trò sáng tạo lớn nhất trong việc xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Mà đặc điểm cơ bản là: Thứ nhất, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nguyên tắc cao nhất của chế độ ta là “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” “Nhà nước Việt Nam là do giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức làm nền tảng; liên minh với tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và hơn nữa, thu hút cả những phần tử tư sản đang tồn tại và phát triển một cách hợp pháp đó là Nhà nước đảm bảo xây dựng xã hội đi theo con đường hướng lên Chủ nghỉa xã hội, theo lập trường tư tưởng, lí tưởng của giai cấp công nhân; mà cũng là nguyện vọng của nhân dân lao động, của dân tộc. Thứ hai, Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ quan thống trị giai cấp, là một bộ máy thống nhất quản lí xã hội về mọi mặt. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức của Nhà nước. Một mặt Nhà nước thực hiện dân chủ với đại đa số nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác tổ chức xây dựng lên một xã hội mới – xã hội Xã hội chủ nghĩa và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội ấy không ngừng phát triển b. Các quan điển và nguyên tắc cơ bản của thiết chế Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Thứ nhất, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân Thứ hai, quyền lực Nhà nước là thống nhất, không phân chia nhưng có phân công rành mạch giữa các quyền Thứ ba, nguyên tắc tập chung dâ chủ là chủ đạo Thứ tư, xây dựng một Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa 3. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền Kinh tế thị trường Vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất qui định. Lực lượng sản xuất càng phải phát triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Như đã biết nển Kinh tế hàng hoá với cơ chế Kinh tế thị trường là bước phát triển tất yếu của Kinh tế tự cấp, tự túc, một trình độ cao của sự xã hội hoá sản xuất… tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hoá sản xuất ở mỗi nước và trong từng thời kỳ mà giữa chúng có quan hệ tỉ lệ nhất định đảm baỏ cho sự phát triển cân đối, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của nhân tố tự nhiên, xã hội, Kinh tế, chính trị và đối ngoại làm cho các quan hệ tỉ lệ luôn biến động. Các quan hệ tỉ lệ đó có thể phù hợp với yêu cầu của các qui luật và tính qui luật vận động khách quan, phát triển Kinh tế xã hội và tạo điều kiện cho Kinh tế tăng trưởng; ngược lại các quan hệ tỉ lệ đó có thể không phù hợp và làm cho nền Kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Đặc biệt là, khi các quan hệ Kinh tế được hình thành và phát triển thì các hoạt động Kinh tế trong và ngoài nước xâm nhập, tác động lẫn nhau, các nguồn lực bên trong – bên ngoài có thể di chuyển phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu phát triển trong nước; qui mô và cơ cấu nền Kinh tế có thể dịch chuyển theo hướng tiến bộ, hợp lí tối ưu hay lạc hậu, bất hợp lí, mất cân đối, và nền Kinh tế dân tộc của mỗi quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một khâu cần thiết của hệ thống phân công lao động quốc tế. Có thể nối vận mệnh của mỗi nền Kinh tế quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các quan hệ bên trong, mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài: thị trường khu vực và quốc tế Tình hình đó đã đặt lên vai các Nhà nước nhiệm vụ không chỉ là “người lính” bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia, mà còn là người hiểu biết qui luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo các diễn biến Kinh tế trong và ngoài nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy Kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các qui chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động: Kinh tế, đối ngoại, định hướng phát triển của các ngành – vùng, lĩnh vực… nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong sự phát triển do chính các qui luật và tính khách quan của đời sống Kinh tế – xã hội quy định. Có thể khẳng định rằng, yêu cầu cân đối trong sự phát triển nền Kinh tế cơ sở kháh quan, sâu xa của vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế. Trong nền Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, được thể hiện như sau: Thứ nhất, trong nền Kinh tế hàng hoá vận độngtheo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh, mỗi địa phương… đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm mọi biện pháp để tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi địa phương có thể nhìn hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đối với lợi ích của người khác, ngành, vùng khác; và do đó tất yếu nảy sinh hiện tượng lợi ích của cá nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể của nền Kinh tế quốc dân Biểu hiện: các hoạt động Kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỉ lệ Kinh tế quốc dân bị phá vỡ sự phân bố các nguồn lực không hợp lí, cơ cấu Kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh… Muốn khắc phục nhược điểm này, cần có một bộ phận điều hành vĩ mô bằng việc hoạch định chương trình, chiến lược về kế hoạch phát triển với các mục tiêu về qui mô, về cơ cấu, nhịp độ và tốc độ tăng trưởng của từng ngành – vùng, về các mục tiêu Kinh tế vĩ mô khác, cũng như của toàn bộ nền Kinh tế từng cá nhân, doanh nghiệp - ngành – vùng trong nước. Bộ phận điều hành việc đó không ai khác là Nhà nước – chủ thể Kinh tế của mỗi quốc gia. Như vậy nếu không có vai trò của Nhà nước, sẽ không có việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành – vùng để hình thành cơ cấu Kinh tế hợp lí tối ưu; sẽ không có sự phát triển của ngành có ý nghĩa thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ trong toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. Sẽ không có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, bảo hộ sản xuất trong nước, chiếm lính thị trường nước ngoài. Nếu không có Nhà nước, sẽ không có nguồn tích luỹ tập trung qui mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển Kinh tế xã hội và giải quyết những cơ chế thị trường không thể thực hiện được, đặt biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội. Thứ hai, trong nền Kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh, hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và các qui luật của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại hàng hoá và dịch vụ mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng lại không được thanh toán và bồi hoàn đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực tràn ra thị trường không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị Kinh tế, gây ra một tổn phí lớn trong xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên phạm vi toàn xã hội. Thì tư nhân không thể cung cấp được. Điều này là hiển nhiên vì tư nhân không thể chi phối được giá cả và thu hồi được chi phí bỏ ra, và xã hội cũng không chấp nhận những hoạt động sản xuất và tiêu dùng chỉ nhằm tối đa hoá lợi ích của người khác, và lợi ích cộng đồng. Do vậy, Nhà nước với tư cách chủ thể nền Kinh tế quốc dân, với mục tiêu Kinh tế vĩ mô, cần thiết phải nắm và đảm bảo cho xã hội những loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá ma nếu nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lí; vì lợi ích Kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm môi trường… Cơ chế thị trường “bàn tay vô hình” – không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Vì thế Nhà nước có chức năng bảo đảm về mặt chính trị và xã hội, bảo hiểm về mặt Kinh tế nhằm duy trì các quan hệ vì lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị và bảo vệ được quyền lợi và địa vị giai cấp thống trị. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị và môi trường Kinh tế, xã hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ Kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được mỗi nước Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền Kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày một tăng. Những diễn biến Kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi đòi hỏi có vai trò của Nhà nước. Nhà nước cần và có điều kiện để thực hiện vai trò này, vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là chủ thể của nền Kinh tế độc lập, có chu quyền có lợi ích Kinh tế tách biệt, Nhà nước lại nắm trong tay những quyền lực Kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích giai cấp, Nhà nước của mỗi nước phải trực tiếp tác động đến quan hệ Kinh tế đối ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi cho nền Kinh tế có lợi trong khu vực và quốc tế Thứ năm, vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, khống chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy Kinh tế và chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực Kinh tế cua Nhà nước – tức là sức mạnh của hệ thống Kinh tế Nhà nước và các công cụ Kinh tế đặc biệt khác Tóm lại, việc khắc phục những nhược điểm hạn chế và khuyết tạt của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt độngcó hiệu quả không thể không có Nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. II. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1. Nền Kinh tế nước ta trước cải cách năm 1986.  Nền Kinh tế trước năm 1986 – nền Kinh tế kế hoạch hoá tập trung Những năm trước 1986, do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lí Kinh tế của ta được sao chép gần như nguyên vẹn từ mô hình phát triển Kinh tế xã hội và cơ chế quản lí Kinh tế các nước Xã hội chủ nghĩa mà đặc biệt là Liên Xô (cũ). Cơ chế quản lí Kinh tế của ta giai đoạn này là đề cao công cụ kế hoạch hoá, kế hoạch hoá mang tính pháp lệnh bắt buộc mà mọi ngành mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân phải theo, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định các vấn đề Kinh tế xã hội  Đặc trưng cơ bản của cơ chế quản lí Kinh tế tập trung kế hoạch hoá Dựa trên cơ sở chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất. Nhà nước cải tạo các thành phần Kinh tế, chỉ chấp nhận thành phần Kinh tế Xã hội chủ nghĩa, các thành phần Kinh tế khác bị hạn chế, đặc biệt Kinh tế tư nhân bị loại bỏ Nhà nước quản lí Kinh tế thông qua chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác, tổ chức sản xuất …Nhà nước đặt ra kế hoạch sản xuất, giá cả thị trường, lỗ có Nhà nước chịu, Nhà nước bao cấp tất cả mọi mặt cho nên các cơ sở trở nên thụ động Chức năng của đồng tiền bị hạn chế, giá trị đất đai không được thừa nhận, sức lao động và tư liệu sản xuất được coi là hàng hoá nên không được mua bán. Các công cụ lãi suất, giá cả, thuế, tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh cân đối vĩ mô Với cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp như vậy sẽ kèm theo bộ máy quản lí Kinh tế cồng kềnh lại kém hiệu quả năng lực của cán bộ quản lí yếu kém, phong cách quan liêu của quyền Với đặc điểm như vậy cơ chế này có ưu nhược điểm sau: Uu điểm: - Phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trong thời kì chiến tranh, cơ chế đã động viên tích cực người lên đường chiến đấu, bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo được mức lương thực, họ yên tâm sản xuất, chiến đấu phục vụ tổ quốc. Nhược điềm: - Cơ chế này chỉ phù hợp với chiến tranh. Do đó khi chiến tranh kết thúc thì áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Điều này chúng ta không nhận thấy ngay nên trong một thời gian dài cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền Kinh tế nước ta và gây nhiều tác hại xấu tới đời sống Kinh tế xã hội - Do có sự phân phối bình quân cho nên đã khuyến khích được người sản xuất, không phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động, hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì đã có Nhà nước bao cấp bao tiêu sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm kém làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả Kinh tế lại thấp - Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu linh hoạt với thị trường, dẫn tới tình trạng sản xuất không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Mặt hàng cần thiết thì không sản xuất lại sản xuất hàng loạt mặt hàng không cần thiết gây tình trạng lãng phí - Công nghệ kỹ thuật chậm phát triển, cải tiến, chi phí cao mà chất lượng sản phẩm thấp. Cung cách hạch toán mang tính hình thức, phô trương, xuất hiện tình trạng “lãi giả lỗ thật” - Mặc dù hàng hoá kém phẩm chất nhưng làm đến đâu phân phối hết đến đó cho nên các cơ sở không tích cực sửa đổi mẫu mã, chất lượng,cải tiến cung cách làm ăn… 2. Nền Kinh tế đổi mới sau 1986 – nền Kinh tế thị trường Với cơ chế cũ đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển Kinh tế – xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý Kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hôi VII khẳng định “tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” Cơ chế thị trường có ưu - nhược điểm sau: Ưu điểm: - Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể Kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm nền Kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực xã hội vào phát triển Kinh tế - Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất, có thể được bằng cách áp dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá - Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó ó thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được - Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện Kinh tế thay đôỉ, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền Kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song “… cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” P. A Samuelsen, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội Nhược điểm: - Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền Kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đâù vào của sản xuất và đầu ra, tức đường Kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Như vậy, hiệu lực của cơ chế phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm - Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội gánh chịu do đó hiệu quả Kinh tế – xã hội không được đảm bảo - Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động hoàn hảo cũng không thể đạt được sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo ngỳ càng sâu sắc - Một nền Kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng Kinh tế có tính chu kì Như vậy, cơ chế thị trường có mọt loạt những khuyết điểm vốn có của nó. Do đó, ngày nay trên thực tế không tồi tại cơ chế thị trường thuần tuý mà có sự can thiệp của Nhà nước Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. a. Cơ chế vận hành nền Kinh tế là cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Điều đó có nghĩa là nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của Kinh tế thị trường, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực Kinh tế, khắc phục những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Tuy nhiên cần nhấn mạng rằng sự can thiệp của Nhà nước vào Kinh tế phải sao cho tương hợp với thị trường. Vì vậy Nhà nước phải sử dụng các biện pháp Kinh tế là chính để điều tiết nền Kinh tế Vai trò quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa trong nền Kinh tế thị trường hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho nền Kinh tế thị trường phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nền Kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt sự phân hoá giàu – nghèo, thành thị – nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện Kinh tế thị trường Để thực hiện vai trò đó, cần phải giữ vững và tăng cường bản chất Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay với việc nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Kinh tế của Nhà nước, cần có biện pháp hữu hiệu làm trong sạch bộ máy Nhà nước, kiên quyết bài trừ tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và hệ thống quản lý Kinh tế. Chỉ có vậy mới giữ vững được bản chất Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhờ đó thực hiện được vai trò đặc biệt là một nhân tố đảm bảo sự định hướng xã hội của nền Kinh tế ở nước ta. b. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng là nền Kinh tế mở, hội nhập với Kinh tế khu vực và thế giới Đây là hướng chung của các nền Kinh tế trên thế giới hiện nay, ở đây muốn nhân mạnh sự khác biệt nền Kinh tế mà chúng ta đang xây dựng với nền Kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. Trong điều kiện Kinh tế hiện nay chỉ có mở cửa Kinh tế hội nhập vào Kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năngvà thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển Kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa Kinh tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, thị trường trong nước gắn với thị trương khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ Kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ Kinh tế đối ngoại Trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả Kinh tế đối ngoại hiện nay, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của Kinh tế đối ngoại, điều chỉnh cơ cấu thị trường để hội nhập khu vực và thế giới, bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Cần có sự điều chỉnh trong chính sách và hoạt động Kinh tế đối ngoại cho phù hợp với tình hình thực tế từng thời kỳ Để hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (APTA) và tổ chức thương mại quốc (WTO), cần có sự chuẩn bị tích cực ngay từ bây giờ không chỉ ở cấp trung ương mà ở cả các cấp cơ sở, các doanh nghiệp phải tính đến điều kiện hoạt động khi hội nhập đầy đủ để có biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, nhờ đó tồn tại và phát triển c. Sự phát triển Kinh tế thị trường gắn liền với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Điều đã được thừa nhận rộng rãi là nền Kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về đạo đức và xã hội. Ngay từ 1884 trong “tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” C. Mác và Ph. Angen đã chỉ ra rằng xã hội tư bản “không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mới lạ lạnh lùngvà lối “ trả tiền ngay không tình nghĩa” . Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phưong Tây Edgan Morin đã chua chát nhận xét rằng : “trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”. Khi chuyển nền Kinh tế nước ta sang Kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường thì cũng nảy sinh trong đời sống thực tế những hiện tượng: Thương mại hoá không chỉ các quan hệ Kinh tế , mà cả những quan kệ xã hội sống vụ lợi,sùng bái đồng tiền, coi thường các giá trị nhân văn, làm sói mòn truyền thống văn hoá và đạo đức của dân tộc. Việc mở của và hội nhập, ngoài những tác dụng tích cực , cũng tạo ra nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá lại càng mất gốc, xa lạ với truyền thống văn hoá Việt Nam . Chúng ta coi việc xây dựng và phát triển Kinh tế thị trường là phưong tiện, con gường thực hkiện mục tiêu Xã hội chủ nghĩa , chứ không phải phát triển Kinh tế thị trường TBCN . Vì vậy, khi xây dựng nền Kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập với khu vực và thế giới phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới để làm giàu đẹp thêm văn hoá Việt Nam. III. Mục tiêu và chức năng quản lí Kinh tế vĩ mô của Nhà nước 1. Mục tiêu a. Phải có tăng trưởng và phát triển Kinh tế: Tốc độ tăng trưởng Kinh tế cao: hiện nay với sự chuyển đổi cơ chế mới, tốc độ tăng trưởng Kinh tế của ta khá cao. Đây là cơ sở chứng minh sự đúng đắn trong quản lý của Nhà nước. Trong những năm sắp tới mục tiêu của chúng ta là không ngừng duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng Kinh tế mới có cơ hội đuổi kịp các nước trên thế giới. Về tổng sản phẩm quốc dân GNP và tổng sản phẩm quốc nội GDP. Ngày nay thước đo cuối cùng để đánh giá thành công Kinh tế là khả năng của một nước tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ Kinh tế. Nước ta hiện nay mới chuyển sang cơ chế thị trường vì vậy GNP và GDP chưa cao nhưng đang có xu hướng tăng mạnh đặc biệt sau khi Mĩ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể, nhờ đó sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao. Tuy nhiên để tránh lạm phát cao với mức sản lượng tiềm năng, không được cao quá hoặc không thấp quá để phát huy được tối đa các nguồn nhân lực – toàn dụng Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người một năm - đây là một chỉ tiêu quan trọng cho phép xét mức sống của người dân, sự giàu có và phồn thịnh của một quốc gia. Hiện nay nước ta có dân số 80 triệu người, mức thu nhập còn thấp. Mục tiêu của chúng ta là nâng cao mức thu nhập / người: 500 USD người / năm và có thể cao hơn. b. Việc làm và vấn đề thất nghiệp: Tình trạng nhàn rỗi không tự nguyện không những gây khó khăn về Kinh tế mà còn gây ra những tổn thất về tâm lí, đạo đức và y tế. Mục tiêu đặt ra là khai thác triệt để nguồn lực về lao động, giảm thất nghiệp đến mức tối đa. Nhờ đó mà tiêu cực xã hội cũng giảm xuống và hơn nữa việc làm ảnh hưởng tới mức thu nhập do vậy mà ảnh hưởng tới mức sống của người dân c. Lạm phát: Lạm phát là một căn bệnh đối với bất kỳ một nền Kinh tế thị trường nào ở bất kỳ nước nào ở mọi giai đoạn phát triển. Sự phát triển Kinh tế thường đi kèm theo với lạm phát, mà lạm phát lại ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân. Vì vậy nên có sự cân đối hài hoà giữa tăng trưởng Kinh tế và lạm phát. Có thể kìm chế lạm phát thông qua hàng loạt các công cụ vĩ mô như: chỉ số trong giá, cân đối ngân sách, phát triển triển sản xuất để tăng cung… Nhưng tuyệt nhiên không nên áp đặt một tập hợp giá cứng nhắc như vậy nó ngăn chặn không để cho “bàn tay vô hình” hoạt động có hiêụ quả nhất d. Cán cân thanh toán quốc tế: Xuất khẩu hàng hoá phải có những chính sách thích hợp gắn liền với từng giai đoạn phát triển. Giai đoạn đầu tiên khi nền Kinh tế của ta còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển mạnh, chúng ta có thể nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước. Khi nền Kinh tế đã phát triển ở mức cao hơn, đáp ứng được phần nào nhu cầu trong nướcthì phải hạn chế nhập khẩu và dần dần chuyển sang xuất khẩu. Ngày nay nước ta mở rộng giao lưu hợp tác trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, với nhiều bạn hàng quốc tế tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tiến hành đầu tư gian tiếp hoặc trực tiếp khuyến khích đầu tư nước ngoài, tranh thủ dự án tài trợ để tiến hành đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp vào sản xuất Xuất khẩu lao động, nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công hoá lao động quốc tế, đặc biệt nguồn nhân lực ở nước ta rất dồi dào. Xuất khẩu lao động cũng là một hình thứu để chúng ta giải quyết việc làm cho số người nhàn rỗi, khi sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu về việc làm. Đảm bảo sự cân bằng, bắt đầu từ nhiều vấn đề thiếu công bằng trong việc phân phối thu nhập của người lao động trong cơ chế thị trường bằng do đồng tiền gây ra giữa mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Sự hình thành rõ rệt giữa các tầng lớp người giàu và người nghèo, sự bất công trong cuộc sống. Tất cả những vấn đề này là mục tiêu cuối cùng của vai trò quản lí vĩ mô nền Kinh tế của Nhà nước 2. Chức năng quản lý Kinh tế vĩ mô của Nhà nước a.Khái niệm: Chức năng quản lý Nhà nước về Kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước lên đối tượng và khách thể quản lý. Là tập hợp nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước trong quá trình quản lý phải tiến hành. Quản lý Nhà nước về Kinh tế là quản lý Kinh tế vĩ mô, nghĩa làquản lí toàn bộ nền Kinh tế quốc dân với tính cách là một hệ thống lớn và phức tạp do vô số các phần tử nhỏ hơn và cấp độ khác nhau hợp thành. b. Chức năng quản lý Nhà nước về Kinh tế theo phương hướng tác động Theo phương hướng tác động quản lý, quản lý Nhà nước về Kinh tế như đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra bao gồm các chức năng quản lí sau: Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: Bảo đảm sự ổn định về chính trị, Kinh tế ,xã hội cho mọi người yên tâm sản xuất kinh doanh. Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội, bảo đảm bình đẳng trong kinh doanh, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổib mới ổn định môi trường Kinh tế vĩ mô ; khống chế lạm phát : điều tiết thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu : chống sự cản phá của nước ngoài. Xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động Kinh tế : cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính - tiền tệ, hệ thống pháp chế, cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội. Thứ hai, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển , thông qua kế hoạch và các nguồn tài lực tập trung và lực lượng dự trữ, phát huy vai trò Kinh tế Nhà nước, khai thông các quan hệ bang giao và làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân trong Kinh tế đối ngoại. Thứ ba, hoạch định và thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội. San sẻ rủi ro với các doanh nghiệp và cá nhân. Thứ tư, quản lý và kiểm soát việc sử dụng tải sản quốc gia, nhằm bảo tồn và phát triển các tài sản đó, trong đó có bộ phận tài sản giao cho Kinh tế quốc doanh. Thứ năm, phân biệt quản lý Nhà nước về Kinh tế và quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp với các đặc trưng sau : - Các cơ quan Nhà nước có chức năng tổ chức và quản lý toàn bộ xã hội và nền Kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô với ý nghĩa chủ yếu là điều tiết tổng thể các mối quan hệ phức tạp của nền Kinh tế bằng sức mạnh và các công cụ có trong tay ; các loại biện pháp kết hợp nhằm tạo ra khuôn khổ cho các tổ chức kinh doanh hoạt động thuận lợi. Các doanh nghiệp có chức năng tổ chức và hoạt động kinh doanh bằng biện pháp kinh doanh nhằm tạo ra những giá trị vật chất đáp ứng các nhu cầu xã hội. -Các cơ quan Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bằng chiến lược, định hướng, chính sách, cơ chế quản lý , điều tiết lợi ích trong phạm vi toàn xã hội . Các doanh nghiệp được họat động trong môi trường thuận lợi do Nhà nước tạo ra, được xác định phần lợi ích xứng đáng của mình và chịu sự điều tiết bởi lợi ích của Nhà nước. - Các cơ quan quản lý Nhà nước, quản lý toàn xã hội và nền Kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, bằng hệ thống pháp luật và xử phạt mọi hành vi phạm pháp. Các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần Kinh tế khác nhau là những đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân và bình đẳng với nhau trong kinh doanh trước pháp luật Nhà nước, chịu sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước trong việc chấp hành pháp luật. - Các mối quan hệ trong hoạt động và quản lý của Nhà nước được điều chỉnh chủ yếu bằng luật hành chính. Còn các mối quan hệ trong kinh doanh được điều chỉnh chủ yếu bằng luật dân sự.. - Các cơ quan Nhà nước hoạt động bằng cấp phát của ngân sách Nhà nước. Còn các tổ chức kinh doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính, bằng vốn tự có hoặc tín dụng, tự cấp phát vốn và hạch toán kinh doanh . Tuy cần phân biệt quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh song cũng cần thấy hai mặt đó không thể tách rời nhau một cách máy móc, mà kết hợp với nhau, thông nhất với nhau trong hệ thống kinh tế và cơ chế quản lý của Nhà nước. C, Chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác đông. Theo giai đoạn tác động quản lý, quản lý Nhà nước về kinh tế có 6 chức năng sau : Thứ nhất, xác định phương hướng, mục tiêu, chiến lược, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. (nhiệm vụ của Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện)  Xác định phương hướng phát triển : Là vấn đề cơ bản nhất trong các chương trình quản lý, vì nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai đất nước. Chẳng những xác định phương lại cũng phải dựa trên nó. Xác định phương hớng là một phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt tới các mục tiêu định trước. Vì phương pháp tiếp cận này không tách rời khỏi môi trường, nên phương hướng đúng phải xét tới bản chất của môi trường, mà các quyết định và hành động của phương hướng được dự kiến để hoạt động trong đó xác định phương hướng là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và các phương pháp tốt để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó. Xác định phương hướng là quyết định phương hướng xem phải làm gì, làm thế nào, là làm cho các sự việc đó có thể hoặc không xảy ra. Đòi hỏi Nhà nước phải có chiến lược phát triển đất nước và đề ra các đường lối một cách có ý thức, đưa ra các quyết định dựa trên các cơ sở mục tiêu đòi hỏi của các qui luật, sự hiểu biết và những đánh giá thận trọng. Thực chất của việc xác đinh phương hướng là nhằm hoàn thành mục đích và mục tiêu của Nhà nước đặt ta xuất phát từ bản chất của thể chế xã hội. để thực hiện các mục đích chung của đấ nước thông qua sự hợp tác chặt chẽ và nỗ lực của mọi công dân trong đất nước.  Mục tiêu: Là các quyết định đưa ra trước khi hành động. Khi đề ra mục tiêu là Nhà nước đề ra một loạt các biên pháp bằng cách dự đoán trước các hành động. Bởi vì tất cả các mục tiêu đề ra cần có một sự quyết định, cho nên việc suy luận là biện pháp cơ bản để đạt điều đó. Muối đặt ra mục tiêu Nhà nước phải thu lượm các thông tin cần thiết, đề ra các giả thiết và quy vùng các ván đề chính yếu lại, nghiên cứu các giải pháp có thể và chọn lấy giải pháp hoàn chỉnh nhất. Các mục tiêu Kinh tế Nhà nước nêu rõ tất cả những điều mà Nhà nước muốn các cá nhân, các doanh nghiệp phải làm để thực hiện các dự đoán của Nhà nước .  Các chiến lược : Trong quân sự, thuật ngữ chiến lược thường được dùng theo nghĩa các kế hoạch lớn, được khởi thảo trên cơ sở tin chắc là cái gì đối phương có thể làm, không thể làm hoặc công nghiệp sẽ làm khi xuất hiện các điều kiện nào đó. Nhưng trong quản lý Kinh tế, thuật ngữ chiến lược được hiểu là hệ thống các cơ quan điểm, các đường lối , mục tiêu lớn , và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đất nước đạt đến mục tiêu đã định. Thứ hai, lập chương trình kế hoạch phát triển Kinh tế xã hội (Nhiệm vụ của chính phủ thực hiện) Chương trình theo cách hiểu thông thường là tổ hợp các mục tiêu, chính sách, thủ tục,, các quy tắc, nhiệm vụ , các bước tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác để thực hiện một ý đồ lớn, một mục đích nhất định của Nhà nước. Chương trình thường được gắn liền với các ngân sách cần thiết, các chương trình có thể lớn và dài hạn nhiều năm như CNH- HĐH đất nước, xây dựng và cải cách nền hành chính quốc gia, hay trung hạn 2-3 năm nhằm đạo tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý hoặc xây dựng đường đây điện xuyên Việt. Việc thành lập chương trình là nhiệm vụ của Chính Phủ, không có chương trình thì chính phủ dễ có khuynh hướng làm những điều mới thoạt nhìn có là quan trọng nhưng chỉ là trước mắt, gạt bỏ những vấn đề lớn, mà nếu không bắt tay vào thực hiện chúng ngay từ đầu thì khó có thể thực hiện xong. Một chương trình tốt phải là một công cụ có ích giúp cho chính phủ cân nhắc và đánh giá các khả năng hiện đang có và giành các cố gắng tối đa cho các vấn đề quan trọng nhất, kịp hành động trước khi chúng trở thành cấp bách, phát hiện trước được những giải pháp cho các vấn đề đó và phối hợp trong mục đích đó các tài nguyên, các khả năng và các cơ hội của đất nước. Thứ ba, xây dựng và thực hiện luật pháp về quản lí Kinh tế (do quốc hội và toà án thực hiện). Để điều chỉnh và quản lý nền Kinh tế quốc dân. Nhà nước phải ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, các chế độ chính sách này cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về Kinh tế, và đang được Nhà nước tập trung nghiên cứu giải quyết. Thứ tư, tổ chức các hệ thống Kinh tế trong nước hoạt động (do chính phủ thực hiện). Bao gồm các phân hệ theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần Kinh tế, theo loại hình kinh doanh sản xuất …cùng các cơ quan quản lý chức năng, các trung tâm khoa học và đào tạo cần thiết Thứ năm, kiểm tra kiểm sóat nền Kinh tế bảo đảm định hướng Xã hội chủ nghĩa của sự phát triển. Kịp thời phát hiện các sai sót, ách tắc đổ vỡ của quá trình phát triển Kinh tế đất nước, lường trước các sai sót, rủi ro mà đất nước có thể gặp phải, phát hiện các thời cơ có lợi cho sự phát triển nền Kinh tế quóc dân trong tương lai. Thứ sáu , điểu chỉnh và tìm kiếm các biện pháp phát triển nền Kinh tế, mở rộngvà khai thông môi trường Kinh tế đối ngoại. Nhằm kịp thời sửa chữa, chỉnh các sai sót, tận dụng các thời cơ có lợi để phát triển đất nước. IV. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò Kinh tế của Nhà nước ta hiện nay 1. Hoàn thiện và đổi mới công cụ quản lý vĩ mô Nhà nước Vấn đề các công cụ quản lý không phải là mới, vì trên thực tế trong các cơ chế kinh doanh kế hoạch hoá chúng ta đã có hệ thống công cụ quản lý rồi, vấn đề ở chỗ hệ thống được tạo ra để điều hành nền Kinh tế quản lý tập trung. Cần xem xét công cụ quản lý nào, gạt bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu, kế thừa và phát huy những yếu tố còn dùng được để làm cơ sở cho việc hình thành cơ chế mới a. Kế hoạch hoá: là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền Kinh tế, nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp – bộ – ngành - địa phương. Kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối chính sách. Trong nền Kinh tế tập trung kế hoạch hoá không phát huy được bởi phương pháp kế hoạch và mục tiêu lựa chọn. Kế hoạch hoá trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án b. Hệ thống và công cụ Kinh tế: sẽ giúp cho Nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, có thể nói mỗi chính sách Kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động một cách phù hợp và lợi ích toàn xã hội. Chính sách có nhiều loại, nhưng có thể phân thành hai loại: Thứ nhất: Sử dụng để tác động vào phía cung hoặc cầu. Mỗi chính sách Kinh tế đều có thể tác động vào hai phía. Khi Nhà nước đinh sử dụng một chính sách cụ thể nào đó để tác động vào phía cung thì phải tạo ra các phản ứng phụ để hạn chế ảnh hưởng của nó về phía cầu và ngược lại Thứ hai: Phân loại theo khu vực. Các chính sách Kinh tế có thể tác động đồng thời trên các lĩnh vực sau: lĩnh vựctài chính, tiền tệ, đối ngoại, tỉ giá… c. Các chiến lược phát triển Kinh tế hoá định hướng và các chính sách chỉ đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hoá pháp luật Pháp luật thể hiện vai trò của nó trên hai phương diện sau: - Thứ nhất: pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động của nó có thể làm tổn hại cho lợi ích cộng đồng , xã hội . - Thứ hai: pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết được làm cái gì ? và không được làm gì? để từ đó mỗi doanh nghiệp tự định hướng cho mình làm gì mà họ có khả năng 2. Một số giải pháp cơ bản trong thời kỳ này. a. Tiếp tục tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền Kinh tế một cách triệt để hơn. Tự do hoá giá cả và thương mại hoá nền Kinh tế là một trong những nội dung trọng yếu của qua trình chuyển đổi * Đối với giá cả trên thị trường độc quyền, Nhà nước quản lý bằng hình thức như sau: + Quy hoạch giá chuyển đổi và hàng hoá độc quyền + Quy định chính sách, cơ chế quản lý giá cước phí bưu chính viễn thông, cũng như giá sử dụng tài nguyên thiên nhiên. +Ngoài ra, đối với một số sản phẩm, tuy không là sản phẩm độc quyền nhưng Nhà nước vẫn phải đầu tư hoàn toàn hoặc thuộc sở hữu Nhà nước thì Nhà nước cũng phải quy định mức giá chuẩn * Các biện pháp quản lý giá trên thị trường cạnh tranh mà Nhà nước quản lý như sau: + Đối với một số sản phẩm quan trọng vừa có sự tham gia của Nhà nước, vừa có sự tham gia của các đơn vị Kinh tế thì Nhà nước quy định giá giới hạn – một trường hợp cạch tranh độc quyền + Đối với sản phẩm còn lại, thì quản lý bằng cách: quy định chính sách, cơ chế quản lý giá, quy định gioí hạn và hàng đặc biệt + Thực hiện chính sách bình ổn giá một số hàng hoá, dich vụ thiết yếu, bảo hộ sản xuất trong nước + Tiến hành thanh tra sử lí vi phạm kỉ luật về giá * Hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết cho việc thương mại hoá nền Kinh tế như: thị trường vốn, lao động, đưa các thị trường này vào hoạt động * Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền Kinh tế thông qua chính sách mở của b. Tiếp tục đa dạng hoá chế độ sở hữu theo xu hướng phát triển doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp cơ chế thị trường Theo tinh thần đại hội khoá VIII của Đảng, nước ta đang tồn tại năm loại sở hữu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản. Đa dạng hoá chế độ sở hữu là một nội dung trọng yếu, quyết định mức độ hoạt động của Kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta, Cần thu hẹp hình thức sở hữu Nhà nước ở những ngành Kinh tế không hoặc chưa cần thiết. Đẩy mạnh phát triển các hình thức sở hữu tư nhân và hình thức Kinh tế tư bản Nhà nước thuộc sở hữu hỗn hợp. c.Tăng cường kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Để làm được điều đó Nhà nước cần: - Tạo hình dáng pháp lí cho các doanh nghiệp trong tự do kinh doanh - Thành lập các công ty kiểm toán tư nhân và Nhà nước đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của bộ tư pháp - Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng kí hệ thống kiểm toán. d. Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá Nhà nước Bộ máy Nhà nước cần phải được cải cách có hệ thống. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa do dân, vì dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh chống quan liêu cửa quyền, tham ô lãng phí e. Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng đồng thời đổi mới hệ thống các mục tiêu định hướng f. Đổi mới hệ thống thông tin Kinh tế – thông tin quản lý theo yêu cầu của cơ chế thị trường Để phù hợp với cơ chế mới và làm đúng chức năng mô tả thực trạng thị trường hàng hoá dịch vụ, dự báo xu hướng biến động cung cầu và giá cả về các trạng thái của sản lượng việc làm và giá cả cần phải căn cứ vào hệ thống mục tiêu quản lý cơ chế mới, hệ thống chi tiêu kế hoạch hoá định hướng theo cơ chế mới để cải tạo các thông tin và hệ thống chỉ tiêu thông tin Kinh tế – quản lý cho phù họp với việc điều hành và quản lý Kinh tế vĩ mô g. Đổi mới cách thức sử dụng các chính sách Kinh tế theo nhu cầu Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế phù hợp với chính sách ổn định Kinh tế vĩ mô h. Đổi mới hệ thống pháp chế Kinh tế theo định hướng dân chủ hoá nền Kinh tế: Thứ nhất, là các nước pháp quyền trước hết phải thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ nhất quán và khoa học Thứ hai, là việc thực hiện luật pháp phải nghiêm minh, sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật Thứ ba, phải có quá trình tham gia giám sát kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện pháp luật, tất cả nhằm bảo đảo cho việc thực thi một kiểu Nhà nước trên cơ sở pháp luật thực hiện thông qua luật pháp và bị hạn chế bởi pháp luật i. Hoàn thiện và đổi mới quản lý Nhà nước và tiền tệ – tín dụng và ngân hàng j. Tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn là nhiệm vụ trung tâm trong những năm trước mắt k. Đổi mới chế độ tiền lương l. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý vĩ mô - Tổ chức một bộ phận chuyên trách đủ mạnh - Tăng cường điều hành hướng dẫn - Tăng cường hơn nữa vai trò Nhà nước trong việc thiết lập kỉ cương trật tự mới để tạo môi trường cho cơ chế thị trường độngcó hiệu quả - Cần phân rõ chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh - Quản lý Nhà nước cần đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới - Cần hệ thống hoá các công cụ quản lý - Tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng Với một số biện pháp như vậy chúng ta có quyền hy vọng có một Nhà nước với vai trò quản lý Kinh tế định hướng Xã hội chủ nghĩa có hiệu quả góp phần phát triển nền Kinh tế Kết luận Như đã phân tích ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết hàng hoá một cách hiệu quả, tuy nhiên “…cơ chế thị trường, không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” Cho nên bên cạnh đó có những khuyết tật, chính vì lí do đó mà bất kì ở đâu, nơi nào trên thê giới và cũng không có chính phủ nào, dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng tay vào nền Kinh tế . ở Việt Nam cũng vậy vai trò Kinh tế của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Với đặc điểm riêng của mình thì vai trò của Nhà nước ta đến những tác động đến nền Kinh tế trên những mặt, phương diện và bằng những cách thức cũng khác nhau nhưng để nhằm mục đích dân giàu nước mạnh – xã hội công bằng – dân chủ, văn minh, tạo ra chiếc cầu để nối xã hội hôm nay với một xã hội khác trong nay mai- xã hội Xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao của nó là chủ nghĩa cộng sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Một số giải pháp cơ bản, nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan