Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước nhu cầu về máy móc thiết 
bị, vật liệu vật tư không ngừng tăng lên . Cùng với tiến trình phát triển của đất 
nước, công ty Thương mại du lịch và dịch vụ TST đã không ngừng vươn lên 
tự hoàn thiện mình. Hoạt động kinh doanh XNK nói chung và kinh doanh 
nhập khẩu máy móc thiết bị, vật liệu vật tư. nói riêng đã đạt được những kết 
quả bước đầu tương đối khả quan.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 74 trang
74 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2419 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường muốn mua chứ không phải thứ bạn muốn bán” cung cấp đúng 
những mặt hàng mà thị trường yêu cầu đã được ban giám đốc và cán bộ công 
nhân viên trong công ty thực hiện khai thác một cách triệt để. 
 46
Trong thời gian gần đây, cơ cấu mặt hàng kinh doanh có thay đổi các 
mặt hàng phục vụ cho sản xuất, xây dựng có xu hướng tăng lên, còn các mặt 
hàng phục vụ cho tiêu dùng có xu hướng giảm xuống. Nguyên nhân của sự 
tăng giảm này là do dự thay đổi nhu cầu khác nhau của mỗi loại hàng hoá trên 
thị trường, do sự phát triển của sản xuất trong nước đã đáp ứng một số lượng 
lớn nhu cầu hàng hoá, do sự phát triển của nền kinh tế. 
Bên cạnh đó, hiện nay chính sách của nhà nước là giảm nhập siêu tăng 
kim nghạch xuất khẩu, đối với hoạt động nhập khẩu nhà nước chỉ khuyến 
khích nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ cho sản xuất và xây dựng như vật 
tư thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cho công nghiệp, nông nghiệp. Nhà nước 
hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Chính vì vậy công ty tập trung khai thác 
các nguồn hàng vật tư, thiết bị, máy móc hiện đại có kỹ thuật tiên tiến, chỉ 
nhập khẩu hàng tiêu dùng cao cấp mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng 
được. 
 Hoạt động nghiên cứu thị trường do Phòng Kinh doanh đảm nhiệm. 
Căn cứ vào các thông tin thu thập được Phòng Kinh doanh tiến hành phân tích 
xác định nhu cầu thực tế của thị trường trong nước và các yếu tố có liên quan 
đến mặt hàng nhập khẩu như dung lượng thị trường, các đối thủ cạnh tranh, 
sự biến động thị trường, tỷ suất ngoại tệ, giá cả hiện tại trên thị trường và các 
chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh mặt hàng 
đó. Kết quả của phân tích cho phép Công ty lập ra kế hoạch nhập hàng có 
hiệu quả nhất. 
 Đối với thị trường quốc tế, Công ty thường thu thập các thông tin dựa 
vào các phương tiện thông tin đại chúng cập nhật hàng ngày như các tạp chí 
thông tin thương mại, báo thương mại. Trong trường hợp thị trường nhập 
khẩu là thị trường mới Công ty cử nhân viên ra nước ngoài để trực tiếp tiếp 
cận thị trường lựa chọn đối tác giao dịch. Ngoài ra, Công ty còn tham gia các 
 47
hội chợ triển lãm nhằm giới thiệu các mặt hàng nhập khẩu của Công ty để 
nắm bắt nhu cầu thị hiếu của khách hàng trong nước. 
Nói tóm lại, công tác nghiên cứu thị trường cả trong nước và ngoài 
nước đối với các loại hàng hoá nhập khẩu ở công ty đã tiến hành thường 
xuyên và liên tục với nhiều nguồn thông tin khác nhau rồi từ đó có những 
biện pháp xử lý thông tin một các nhanh chóng và chính xác, loại bỏ kịp thời 
những thông tin nhiễu, thông tin giả để giúp cho việc dự đoán nhu cầu cho 
việc lập phương án kinh doanh một cách đúng đắn hiệu qủa kinh tế cao. 
 Qua việc phân tích trên đây, ta thấy thị trường và những sản phẩm hàng 
hoá mà công ty đang khai thác và kinh doanh hiện nay trên thị trường có rất 
nhiều và phong phú. Chính vì vậy, công ty đang hoạt động trong một bối cảnh 
cạnh tranh khốc liệt và rất nhiều khó khăn. Nhưng với một chiến lược kinh 
doanh về thị trường, về sản phẩm… hợp lý, đúng đắn, nhanh nhạy và linh 
hoạt, công ty đã và đang từng bước hoàn thiện củng cố và phát triển vị trí của 
mình trong nền kinh tế 
2. Lựa chọn đối tác kinh doanh. 
 Thông thường mỗi mặt hàng có rất nhiều các nhà cung cấp. Các nhà 
cung cấp này có thể trong một quốc gia hoặc nhiều quốc gia khác nhau. 
Nhiệm vụ đối với Phòng Kinh doanh là phải xem xét các yếu tố có khả năng 
xảy ra khi Công ty muốn đặt mối quan hệ ngoại thương với các nhà cung cấp. 
Các yếu tố này có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hoạt động kinh doanh 
của Công ty. Để trả lời câu hỏi này Phòng Kinh doanh thường tổng hợp phân 
tích một số chỉ tiêu sau: 
 + Mối quan hệ ngoại giao giữa 2 nước, tình hình kinh tế - chính trị. 
 + Hệ thống tài chính tiền tệ, sự biến động giá cả tại nước đó. 
 + Loại hình đối tác: Hãng, công ty liên doanh hay doanh nghiệp Nhà nước. 
 + Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, uy tín. 
 48
 Sau đó, việc chọn đối tác sẽ căn cứ vào kết quả so sánh giữa các đơn 
chào hàng, cụ thể Công ty sẽ so sánh để xác định đơn chào hàng nào đáp ứng 
đầy đủ các yêu cầu về mặt kỹ thuật, công nghệ, phạm vi cung cấp, giá cả, điều 
kiện thanh toán, điều kiện giao hàng... Trong các đơn chào hàng thì giá cả là 
vấn đề rất quan trọng. Vì vậy, Phòng Kinh doanh phải tiến hành phân tích 
xem với giá đó thì hàng hoá nhập có được thị trường trong nước chấp nhận về 
chất lượng giá cả hay không. Sau khi tiến hành nghiên cứu phân tích và so 
sánh, Công ty sẽ đi đến quyết định cuối cùng là nên chọn đối tác nào. 
3. Đàm phán và ký kết hợp đồng. 
 * Đàm phán: 
 Cũng giống như bất kỳ một hợp đồng kinh tế thông thường nào việc ký 
kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty cũng có thể là gặp gỡ trực tiếp hoặc gián 
tiếp đàm phán thông qua thư từ, điện tín. Đối với những khách hàng quen 
thuộc hoặc khách hàng ở xa thì Công ty thường ký theo hình thức gián tiếp có 
nghĩa là Công ty sẽ lập hợp đồng, ký tên và đóng dấu sau đó gửi đến cho nhà 
cung cấp. Phương thức này cho phép Công ty ký kết hợp đồng một cách 
nhanh hơn và tiết kiệm được một khoản chi phí. Trên thực tế, việc lập hợp 
đồng nhiều khi không phải do cán bộ Phòng Kinh doanh lập mà do chính phía 
đối tác lập hợp đồng sau đó gửi sang bằng fax. Trong trường hợp này, Phòng 
Kinh doanh phải xem xét kỹ lưỡng từng điều khoản ghi trong hợp đồng có 
phù hợp với thoả thuận đã đạt được khi đàm phán hay không. Nếu không thấy 
có sai sót thì Phòng Kinh doanh sẽ trình cho Giám đốc ký và fax lại cho bên 
bán. Hợp đồng này được coi là hợp đồng chính thức giữa hai bên, chữ ký và 
con dấu qua fax có giá trị pháp lý như khi ký kết trực tiếp đối với những 
khách hàng có mối quan hệ làm ăn với Công ty như Thái Lan, Hàn Quốc, Đài 
Loan hoặc đối với những khách hàng quen thuộc như Hàn Quốc nhưng hợp 
 49
đồng nhập có khối lượng lớn, phức tạp cần có sự thoả thuận kỹ lưỡng thì 
Công ty sử dụng hình thức trực tiếp ký kết hợp đồng. 
 * Ký kết hợp đồng: 
 Việc ký kết hợp đồng thường do Giám đốc trực tiếp đảm nhiệm hoặc 
trưởng Phòng Kinh doanh được Giám đốc uỷ quyền. Sau khi tiến hành đàm 
phán trong một khoảng thời gian ngắn (thường là 7 ngày) Công ty và đối tác 
sẽ gửi hợp đồng cho nhau hoặc trực tiếp ký với nhau, mở L/C. Nếu hợp đồng 
không thoả mãn đối với một trong hai bên thì hai bên sẽ tiến hành trao đổi lại 
cho đến khi cả hai bên cùng chấp nhận. Hợp đồng của Công ty bao giờ cũng 
được ký kết dưới hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có thể xảy ra 
sau này. 
 Ngoài ra, do Công ty có khách hàng và có thị trường nước ngoài nên 
Công ty thường ký uỷ thác để hưởng hoa hồng. 
4. Thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 
 Sau khi thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên bằng việc ký kết 
hợp đồng, Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại TST với tư cách là nhà 
nhập khẩu sẽ tiến hành thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Cụ thể: 
 * Mở L/C: Khi hợp đồng nhập khẩu quy định tiến hành thanh toán bằng 
L/C thì cũng sẽ tiến hành làm đơn xin mở L/C theo mẫu in sẵn và gửi cho 
Ngân hàng đại lý của mình (thường là Ngân hàng Công thương Việt Nam 
hoặc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp 
ngân hàng mở L/C do bên bán yêu cầu. Nội dung của L/C phải phù hợp, ăn 
khớp với nội dung của hợp đồng đã ký. Ngân hàng căn cứ vào đơn xin mở 
L/C của Công ty, mở L/C và gửi bản gốc cho người bán (thường là gửi cho 
ngân hàng người bán). 
 Thông thường, một thời gian sau khi ký hợp đồng có hiệu lực nhưng 
trước khi giao hàng, Công ty phải tiến hành thanh toán một phần trị giá hợp 
đồng (thường nằm trong khoảng 5 - 10% trị giá hợp đồng) và sẽ được chuyển 
 50
vào tài khoản của người bán. Đối với đồng tiền thanh toán thì mỗi hợp đồng 
quy định một đồng tiền khác nhau, tuỳ theo tập quán buôn bán và sự lựa chọn 
của các bên. 
 * Hiện nay, Công ty TST thường nhập khẩu theo điều kiện CIF (như 
CIF Hải Phòng, CIF Đà Nẵng) và C & F nên hầu như không phải thuê tàu. 
 * Khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá và vận đơn BL do bên bán gửi 
đến Công ty sẽ kiểm tra kỹ nội dung của bộ chứng từ với nội dung của L/C đã 
lập. Nếu thấy có sự sai sót thì lập tức thông báo lại cho bên bán và ngân hàng 
mở L/C để kịp thời điều chỉnh xử lý. Bộ chứng từ hoàn chỉnh bao gồm: 
 + Chứng từ giao hàng. 
 + Hợp đồng. 
 + Giấy mở L/C của ngân hàng. 
 + Phiếu hạn ngạch (nếu có). 
 Tuỳ từng chủng loại hàng mà Công ty gửi bộ chứng từ đến phòng cấp 
giấy phép xuất nhập khẩu của Bộ Thương mại để xin giấy phép nhập khẩu 
hoặc đối với những mặt hàng nhập khẩu theo mặt hàng kinh doanh của Công 
ty thì làm thủ tục nhận hàng trực tiếp tại cơ quan hải quan. 
 * Làm các thủ tục hải quan: 
 Khi tàu nhập cảng Công ty tiến hành làm các thủ tục hải quan để trong 
khoảng thời gian ngắn nhất có thể đưa hàng về kho. Tờ khai hải quan có dấu 
của Công ty gửi cùng bộ chứng từ gồm có giấy phép nhập khẩu, hợp đồng 
ngoại, hoá đơn, vận đơn giao hàng của hãng vận tải, phiếu hạn ngạch (nếu 
có), phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết để làm thủ tục nhận hàng. 
 Có 2 hình thức thông quan nhập khẩu: 
 + Mở trực tiếp tại cửa khẩu cho hải quan kiểm tra. 
 + Mở chuyển tiếp (hàng về Hải Phòng, mở tờ khai ở Hà Nội sau đó 
chuyển tiếp xuống Hải Phòng và đưa hàng về Hà Nội để kiểm hoá). Nếu hàng 
hoá có tổn thất, mất mát, hư hỏng không đúng với yêu cầu trong hợp đồng đã 
 51
đặt ra thì Công ty sẽ khiếu nại tuỳ theo mức bảo hiểm mà Công ty mùa 
thường là 110% trị giá hoá đơn thương mại với điều kiện mọi rủi ro. 
 * Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan Công ty sẽ nhận được thông báo 
đóng thuế. Công ty luôn cố gắng đóng thuế đúng thời hạn để tránh tình trạng 
bị phạt do chậm nộp thuế. 
 * Sau khi hoàn tất thủ tục hải quan và nhận được hàng Công ty vận 
chuyển hàng về kho chờ tiêu thụ - đối với nhập trực tiếp. Còn đối với nhập 
khẩu uỷ thác, có thể Công ty sẽ giao hàng ngay tại cảng cho bên uỷ thác. 
 52
 III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 
CỦA CÔNG TY DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST. 
1. Thành công. 
 Với TST, tuy mới được thành lập trong điều kiện cạnh tranh gay gắt lại 
gặp phải không ít những khó khăn, biến động về tổ chức và sự thay đổi của 
chính sách của Nhà nước, xong hoạt động nhập khẩu của Công ty vẫn không 
ngừng phát triển cả về số lượng và mặt hàng, từ đó chiếm được một dung 
lượng thị trường không những trong nước và cả nước ngoài. Doanh số từ hoạt 
động kinh doanh không ngừng tăng lên theo từng năm, kéo theo đó là sự mở 
rộng quy mô kinh doanh, nâng cao không ngừng đời sống cũng như thu nhập 
của cán bộ công nhân viên trong Công ty. 
 Để có được kết quả như vậy, ta nhìn nhận Công ty trên các mặt nỗ lực sau: 
 - Ngay từ khi được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất 
nhập khẩu trực tiếp, Công ty TST đã xác định hoạt động này là một hoạt động 
kinh doanh mũi nhọn của mình. Ban Giám đốc Công ty đã tạo mối quan hệ 
kinh doanh với nhiều bạn hàng trên Thế giới, với nhiều tổ chức kinh doanh 
của Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Sinhgapore... Công ty TST đã tập trung 
nguồn lực của mình vào lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt là hoạt 
động nhập khẩu bởi Ban lãnh đạo Công ty đã nhanh chóng nhận ra có một 
lượng nhu cầu trong nước chưa được đáp ứng. Đồng thời bằng phương châm 
kinh doanh: đối với mặt hàng chính thì đầu tư lâu dài, tạo lợi nhuận về sau, 
đối với các mặt hàng khác thì tiến hành kinh doanh theo phương pháp "đánh 
nhanh thắng nhanh" để tăng vòng quay vốn, đã tỏ ra phù hợp với tình hình 
kinh doanh trong giai đoạn hiện nay. Vì một mặt nó đã tạo ra hiệu quả cao đối 
với một số mặt hàng có ưu thế cạnh tranh (lợi nhuận siêu ngạch), mặt khác 
không ngừng mở rộng mặt hàng kinh doanh sang những lĩnh vực mới. Điển 
hình thành công của phương châm này là trong năm 1997, trên cơ sở sự nới 
lỏng của các chính sách nhà nước kết hợp với nhu cầu đang tăng lên ở trong 
 53
nước, Công ty đã huy động mọi nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ và kim ngạch 
nhập khẩu những mặt hàng có sức tiêu thụ nhanh như: xe máy, linh kiện điện 
tử sau đó bán buôn ngay cho các nhà kinh doanh trong nước với mục đích lấy 
doanh số cao để làm tăng lợi nhuận và thu hồi vốn kinh doanh sớm. 
 Điểm thứ hai cần phải nhắc tới là Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương 
mại TST đã tận dụng tối đa uy tín, điều kiện và các mối quan hệ của mình để 
vay vốn, xin quota xuất nhập khẩu. Chẳng hạn như việc xin quota nhập khẩu, 
bao giờ Công ty cũng được duyệt cao hơn đơn vị khác nếu so với tiềm năng và 
kinh nghiệm của các đơn vị này, để có được đủ số hàng hoá cung cấp cho thị 
trường. 
 - Việc nghiên cứu của thị trường trong nước, Công ty đã thực hiện 
tương đối tốt. Hàng của Công ty nhập về luôn bắt kịp và đáp ứng đúng yêu 
cầu tiêu dùng về chất lượng, chủng loại và thời gian nên hàng bán được nhiều, 
và đem lại lợi nhuận cao. 
 - Khi giao dịch với các đối tác kinh doanh nước ngoài, ngân hàng, 
Công ty đã tạo được những mối quan hệ tốt, có độ tin cậy cao, uy tín do thực 
hiện hợp đồng nhập khẩu một cách nhanh gọn, đúng thủ tục, không để xảy ra 
sai sót dẫn đến khiếu nại hoặc phải bồi thường. 
 - Trong tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty lên kế hoạch 
và phân công giao trách nhiệm cho từng khâu nghiệp vụ, từng phòng ban và 
cá nhân, từ đó làm cho việc điều hành và giám sát được chặt chẽ, kịp thời. Do 
vậy, các mặt hàng nhập khẩu của Công ty không những đủ tiêu chuẩn chất 
lượng theo hợp đồng mà còn không vi phạm những quy định của Bộ Thương 
mại hay luật pháp quốc tế về ngoại thương. Khi nói đến kết quả kinh doanh 
đạt được như hiện nay, không thể không nói đến những nỗ lực của tất cả 
những thành viên trong Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại từ các khối 
văn phòng, các cửa hàng đến các đơn vị trực thuộc đã thực hiện tốt nhiệm vụ 
của mình. Trong đó, bộ phận hoạt động nhập khẩu mà cụ thể là Phòng Kinh 
 54
doanh xuất nhập khẩu dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trưởng phòng đã thực 
hiện tốt các nghiệp vụ từ đơn giản đến phức tạp trong quan hệ với bạn hàng, 
không để xảy ra sai sót hoặc rủi ro khi nhập khẩu, kịp thời tạo ra những nguồn 
hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty. 
 Kết quả mà Công ty Dịch vụ Du lịch và Thương mại đạt được trong 
những năm qua còn là nhờ vào một lợi thế không nhỏ của Công ty: Công ty là 
một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và 
Công nghệ được Bộ thương mại có nhiều ưu đãi. Nhưng trong cơ chế thị 
trường thì những ưu thế đó sẽ dần dần mất đi do các thành phần kinh tế được 
tham gia một cách bình đẳng trong các quan hệ kinh tế nhất là trong quan hệ 
nhập khẩu hàng hoá. 
 Vì vậy muốn thắng lợi trong cạnh tranh và đạt kết quả cao hơn, Công ty 
phải nhanh chóng khắc phục những mặt hạn chế trong thời gian qua. 
2. Hạn chế. 
 - Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động đòi hỏi nghiệp vụ cao, phức 
tạp vì vậy Công ty cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ nhân viên có chuyên 
môn, trình độ cao. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, tình trạng lao động trong 
Công ty vẫn còn thiếu một lượng lớn các cán bộ giỏi, nhân viên có trình độ cao. 
 - Thực tế đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường trong nước hoạt động 
với tính ổn định chưa cao. Công ty cũng chưa chú trọng nhiều đến tiêu thụ do 
vậy mà tiêu thụ chậm dẫn đến ứ đọng vốn. Về giá cả thị trường, Công ty cần 
dự đoán chính xác những biến động của nó để có quyết định nhập khẩu hạn chế 
hay ngừng nhập khẩu kịp thời với tình hình biến động của nhu cầu trong nước. 
 - Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty vẫn còn bị 
động về thời gian nhận hàng do nhiều yếu tố khách quan là phải qua những 
bước thủ tục hay vận chuyển trong thời gian dài (15 - 20 ngày với thị trường 
gần) nên nhiều khi ảnh hưởng đến kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh. 
 55
 - Bạn hàng mà Công ty quan hệ để mua hàng nhập khẩu phần lớn chỉ là 
những hãng trung gian hoặc các trung tâm giao dịch chứ không phải là các đại 
lý của các hãng sản xuất trực tiếp nên giá hàng nhập thường cao hơn, dẫn đến 
lợi nhuận cũng bị giảm đáng kể đối với những lô hàng lớn. Ví dụ, xe Honda 
Dream II, Công ty thường phải mua của hãng trung gian Vewchipxeng với giá 
1500 USD (CIF) / 1 chiếc. Trong khi đó, nếu mua của hàng trực tiếp sản xuất 
- Thái Honda chỉ là 1400 - 1450 USD. 
 - Chính sách của Nhà nước và Bộ Thương mại một mặt tạo điều kiện 
cho Công ty. Mặt khác có lúc gây khó khăn không ít cho hoạt động nhập 
khẩu. Nhiều khi việc cấp hạn ngạch không đáp ứng đủ so với năng lực của 
Công ty, sự thay đổi quá nhiều và liên tục trong khoảng thời gian ngắn làm 
cho định hướng kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, 
việc xin giấy phép cũng còn nhiều phiền hà, rắc rối; cơ quan Hải quan còn 
gây nhiều khó khăn trong việc giải quyết thủ tục nhận hàng... Công ty phải 
chủ động hơn nữa trong việc khắc phục những khó khăn chung này. 
 56
CHƯƠNG III 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT NGHIỆP VỤ 
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU 
TẠI CÔNG TY DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THƯƠNG MẠI TST 
I. PHƯƠNG HƯỚNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN 
TỚI. 
 Tiếp tục đầu tư có hiệu quả hơn nữa cho sản xuất với lưu thông hàng 
hoá theo hướng hợp tác phát triển liên doanh, liên kết. Mở rộng quy mô kinh 
doanh, quy mô ngành hàng theo hướng đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá 
ngành hàng. Các mặt hàng xuất nhập khẩu phải hỗ trợ nhau theo hướng đồng 
bộ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, kết hợp giữa kinh doanh xuất nhập khẩu vật 
tư, nguyên liệu, thiết bị máy móc với hàng tiêu dùng, vừa tận dụng được 
nguồn lực vừa phân tán rủi ro. 
 Bằng tất cả những biện pháp nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, mở rộng 
đầu mối tiêu thụ, để mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước, tăng 
nhanh kim ngạch xuất khẩu, đẩy mạnh các dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác. 
Nhập khẩu phải đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất trong nước, đi sâu vào 
mục đích cung cấp vật tư thiết bị, nguyên vật liệu cho nhu cầu trong nước, 
từng bước phải tiến tới cân bằng kim ngạch xuất khẩu với kim ngạch nhập 
khẩu. 
 Tiếp tục khai thác mạnh hơn nữa nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bản 
và các nước ASEAN, đồng thời thâm nhập và mở rộng thị trường EU, tìm 
cách khôi phục thị trường Đông Âu. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết sản xuất, 
vừa mở rộng phương thức kinh doanh, vừa tạo được đầu mối tiêu thụ lâu dài 
hàng hoá nhập khẩu của Công ty. Tiếp tục liên kết nhập khẩu nguyên liệu làm 
hàng xuất khẩu và đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ dệt may. 
 57
 Thay đổi cơ cấu mặt hàng hợp lý: Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ trước 
đến nay là ôtô, xe máy nhưng đây chỉ là những mặt hàng có tính chất tạm tời 
khi Công ty mới đi vào hoạt động và trong thời gian tới, sản xuất trong nước 
sẽ thay thế nhập khẩu. Vì vậy, chiến lược kinh doanh của Công ty trong tương 
lai là trước mắt vẫn khai thác hai mặt hàng này nhưng phải chuyển đổi dần 
dần sang nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị. Nhập khẩu hàng 
tiêu dùng cũng phải giảm xuống hơn nữa, chỉ nhập những mặt hàng thiết bị 
văn phòng cao cấp do vẫn có nhu cầu lớn. Bên cạnh đó, tìm kiếm, phát hiện 
những nhu cầu mới về hàng hoá nảy sinh mà sản xuất trong nước chưa đáp 
ứng được để có sự bổ sung kịp thời, nắm bắt một cách nhanh chóng thời cơ 
nhằm thu lợi nhuận cao. 
 Bố trí sắp xếp mạng lưới tiêu thụ nhập khẩu, tăng thêm những điểm bán 
lẻ đi sâu vào thị trường trọng điểm từng vùng, từng ngành, vừa đẩy mạnh tiêu 
thụ hàng nhập khẩu vừa cung cấp được thông tin cơ bản về thị trường. Để từ 
đó, Công ty có thể nghiên cứu, phân tích lập kế hoạch chính xác, phù hợp. 
Đây là cơ sở vững chắc để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường. 
 Tạo điều kiện cho các cán bộ công nhân viên trong Công ty nâng cao 
trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ. Tổ chức các cuộc nghiên cứu, khảo sát thị 
trường trong nước và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong 
công tác quản lý và điều hành kinh doanh. Thông qua đòn bẩy kinh tế, khoán 
cụ thể để khuyến khích cán bộ công nhân viên chủ động hoàn thành nhiệm vụ, 
các đơn vị trực thuộc, cửa hàng, trạm sửa chữa bảo hành... thực hiện các biện 
pháp thưởng phạt vật chất cụ thể để nâng cao trách nhiệm và khuyến khích 
người lao động. 
 Mục tiêu lâu dài của Công ty là mở rộng quy mô kinh doanh với chiến 
lược cụ thể là đa dạng hoá kinh doanh, đa dạng hoá mặt hàng, xác định rõ mặt 
hàng chủ lực trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cho phù hợp với nhu cầu hiện 
thời của thị trường, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh trên cơ sở coi 
 58
trọng hoạt động xuất nhập khẩu, luôn luôn đảm bảo kết hợp chặt chẽ giữa nhu 
cầu thị trường với tiềm năng của Công ty để có những điều chỉnh kế hoạch 
cho phù hợp, từ đó, góp phần vào nội dung yêu cầu tăng trưởng chung của các 
ngành kinh tế. Tình hình trong nước, tuy mức lạm phát không cao nhưng giá 
cả hàng hoá không ổn định, quản lý thị trường còn lỏng lẻo, nhu cầu hàng hoá 
cũng không ổn định. Chính vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của 
Công ty trong thời gian tới, Công ty Dịch vụ Du lịch và thương mại TST cần 
phải có những biện pháp khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hoạt động kinh 
doanh một cách có hiệu quả, cụ thể và thiết thực. 
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG 
NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY TST. 
1. Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ: 
1.1. Giải pháp mở rộng thị trường. 
 Thị trường tiêu thụ có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của 
Công ty, nó quyết định hàng hoá nhập khẩu của Công ty có tiêu thụ được hay 
không. Để tăng kim ngạch nhập khẩu ngoài việc thay đổi cơ cấu hàng hoá 
nhập khẩu cho phù hợp với nhu cầu sản xuất, tiêu dùng, Công ty phải tìm các 
biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác tối đa các nhu cầu 
hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có thể tồn tại và phát triển trong tình hình 
cạnh tranh quyết liệt hiện nay. 
 Muốn mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nhập khẩu, Công ty phải thực 
hiện các bước cơ bản sau: 
 Nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường trong nước về từng mặt hàng 
nhập khẩu cụ thể mà Công ty đang có kế hoạch kinh doanh. Trong kinh doanh 
hàng nhập khẩu không thể tách rời mặt hàng với thị trường, đây là hai mặt của 
một vấn đề. Khó khăn lớn nhất của Công ty hiện nay là cạnh tranh với các 
hãng nước ngoài có tiềm lực mạnh. Vì vậy, hàng hoá nhập khẩu phải phù hợp 
 59
với sản xuất và tiêu dùng trong nước, việc này đối với khả năng của Công ty 
không phải là khó bởi để tìm hiểu nhu cầu thị trường thì Công ty có lợi thế 
hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá 
trình nghiên cứu thị trường, Công ty vẫn còn có những hạn chế, chưa xác định 
chính xác nhu cầu thị trường cho từng mặt hàng mà chỉ dự đoán được xu 
hướng biến động chung. Đây là một vấn đề rất khó khăn, để khắc phục tình 
trạng này, Công ty vẫn phải xây dựng cơ cấu mặt hàng một cách chắc chắn 
theo xu hướng chung của nó. Trong tương lai, Công ty cần khai thác có hiệu 
quả các lợi thế trong điều kiện trao đổi và phân công lao động quốc tế, tạo ra 
mặt hàng nhập khẩu mới, có khả năng thay thế và bổ xung. Trong quá trình 
nghiên cứu thị trường, Công ty phải xác định rõ thị trường trọng điểm và thời 
cơ hấp dẫn. Đối với Công ty hiện nay, thị trường trọng điểm chính là thị 
trường hàng hoá vật tư, nguyên liệu, máy móc, thiết bị cho công nghiệp, nông 
nghiệp, làm hàng xuất khẩu. 
 Khai thác thêm nhu cầu bằng cách liên doanh, liên kết để cung cấp vật 
tư, nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước. Vấn đề mở 
rộng thị trường tiêu thụ, tăng kim ngạch nhập khẩu trong điều kiện khó khăn 
hiện nay thì việc liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất để tạo mối quan 
hệ mua bán lâu dài và vững chắc, tạo ra những đơn đặt hàng lớn, là điều hết 
sức cần thiết. Đây là một phương thức kinh doanh có tính chắc chắn và ổn 
định. Chẳng hạn như trong những năm qua, Công ty đã tạo lập được mối quan 
hệ liên doanh, liên kết với Nhà máy hoá chất Việt Trì, Nhà máy xà phòng Hà 
Nội và trở thành bạn hàng cung cấp nguyên liệu hoá chất thường xuyên và có 
uy tín. Bên cạnh đó, Công ty không những liên doanh với các đơn vị sản xuất 
trong nước mà còn liên kết với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 
tạo nên sự tương hỗ và phân chia lĩnh vực kinh doanh, giảm bớt sự cạnh tranh 
không cần thiết đáng có. 
 60
 Tăng cường dịch vụ nhập khẩu và các dịch vụ khác. trong những năm 
qua, kim ngạch nhập khẩu giảm một phần là do giá trị khâu nhập khẩu uỷ thác 
giảm, Công ty phải kết hợp các hình thức liên doanh, liên kết nêu trên cùng 
với uy tín sẵn có đối với các bạn hàng trong nước về khả năng nhập khẩu, để 
khai thác tối đa nhu cầu, tăng cường dịch vụ nhận nhập khẩu uỷ thác và các 
dịch vụ nhập khẩu khác để góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh và tăng 
kim ngạch nhập khẩu. Ngoài ra, Công ty muốn chiến thắng trong cạnh tranh 
cần đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khi bán hàng nhập khẩu. Bởi vì khách 
hàng luôn muốn mua bán một cách thuận tiện, nhanh chóng trong những điều 
kiện có lợi nhất. Chẳng hạn như, Công ty có thể bán hàng và vận chuyển theo 
yêu cầu của khách hàng như bán hàng tại địa chỉ khách hàng yêu cầu, áp dụng 
các phương thức bán hàng khác nhau như: bán trả góp, bán chịu... Đầu tư sửa 
chữa, nâng cấp các cửa hàng của Công ty trên các khu vực thị trường, mở 
rộng ra các thị trường mới, đảm bảo phục vụ khách hàng mọi lúc mọi nơi một 
cách tốt nhất. 
 Tăng khả năng cạnh tranh của Công ty trên thương trường: như đã phân 
tích, trong quá trình hoạt động kinh doanh, Công ty đã gặp không ít trở ngại 
trong cạnh tranh. Cạnh tranh là tất yếu khách quan trong cơ chế thị trường, 
chiến lược cạnh tranh có thể dẫn đến thắng lợi hay thất bại của Công ty. Vì 
vậy, muốn đứng vững trong cạnh tranh, cùng với các chính sách bổ xung 
khác, Công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh năng động, 
đảm bảo thích nghi môi trường bên trong với môi trường bên ngoài, thích 
nghi với khách hàng, với đối thủ cạnh tranh và điều kiện cạnh tranh, điều kiện 
vật chất, khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, Công ty phải có được những thông 
tin chính xác về đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh đang 
kinh doanh mặt hàng nào, so sánh mặt hàng kinh doanh của họ với mặt hàng 
kinh doanh của mình về chủng loại, về giá cả, về thời gian... Tìm hiểu về kế 
hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chính sách giá cả của họ như thế 
 61
nào? Phải luôn tìm hiểu kỹ những lợi thế, những điểm yếu của họ để từ đó 
đưa ra những chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm chiến thắng đối thủ cạnh 
tranh. Đồng thời, Công ty cũng cần có mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh để 
phân chia thị trường, nhằm khai thác triệt để mọi ưu thế của Công ty. 
 Áp dụng chính sách giá bán hàng nhập khẩu linh hoạt: Giá cả là một 
yếu tố quan trọng mà bất cứ nhà kinh doanh nào cũng cần phải tính đến các 
quyết định về giá cả tác động đến khối lượng bán, doanh thu và lợi nhuận, khi 
định giá quá cao sẽ làm mất khách hàng, giảm khối lượng bán, giảm khả năng 
cạnh tranh... Khi định giá quá thấp sẽ làm cho khách hàng có cảm giác nghi 
ngờ về chất lượng hàng hoá của Công ty. Vì vậy, việc xác định giá cả cho 
hàng hoá nhập khẩu là việc hết sức khó khăn. Trong tình hình hiện nay, giá cả 
những loại hàng hoá nhập khẩu biến động hết sức phức tạp trên thị trường. 
Công ty đã có những biện pháp định giá phù hợp nhưng vẫn có nhiều hạn chế 
như thay đổi giá nhiều khi không theo quy luật thị trường, có khi đặt ra lợi 
nhuận quá cao bằng cách định giá cao hơn đối thủ cạnh tranh dẫn đến làm cho 
hàng hoá khó tiêu thụ. Đồng thời trên thực tế, giá cả hàng nhập khẩu của 
Công ty còn cao là do Công ty chưa có được mối quan hệ bạn hàng với các 
doanh nghiệp sản xuất ở nước ngoài nhằm tạo ra một nguồn cung cấp tận gốc, 
vì vậy Công ty cần tạo nguồn hàng thông qua kênh nhập khẩu trực tiếp, tổ 
chức nhập khẩu từ các doanh nghiệp sản xuất, các đại lý. Nói tóm lại, Công ty 
áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng 
khách hàng cụ thể. Phải có những chính sách ưu đãi, khuyến khích khách 
hàng như giảm giá, chiếu cố giá phù hợp cho các đối tượng khách hàng. Phải 
luôn xem xét và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả, cung cầu, các chi phí 
vận chuyển để có biện pháp thay đổi thích hợp. Xác định giá phải bảo đảm căn 
cứ theo tình hình thị trường và tình hình cạnh tranh, đảm bảo mục tiêu lợi nhuận. 
 Tăng cường chính sách xúc tiến quảng cáo, khai trương: Như ta đã biết, 
sự cần thiết trong tiêu thụ sản phẩm là phải tiến hành xúc tiến quảng cáo bán 
 62
hàng. Hàng mà Công ty TST kinh doanh là những loại hàng nhập khẩu có 
chất lượng cao và mẫu mã luôn thay đổi thì công tác này càng trở nên quan 
trọng. Thực tế, hầu như Công ty đầu tư cho mặt hàng này rất ít, có thể nói là 
không đáng kể. Trong thời gian tới, Công ty cần thực hiện tốt mặt hoạt động 
này. Về nội dung quảng cáo cần phải tập trung làm cho bạn hàng và người 
tiêu thụ hiểu rằng: 
 + Thế mạnh của Công ty TST là kinh doanh xuất nhập khẩu thương 
mại, có thị trường và mạng lưới phân phối rộng lớn, có chữ tín trong quan hệ 
buôn bán, có dự định về khả năng quan hệ hợp tác và đầu tư liên doanh, liên 
kết... 
 + Mặt hàng kinh doanh có chất lượng đảm bảo, đúng nhãn mác, xuất 
xứ sản xuất và giá cả thích hợp. 
 + Các dịch vụ tạo thuận lợi cho khách hàng một cách tối đa như bảo 
hành, sửa chữa. 
 Về hình thức truyền thống có thể thực hiện thông qua các trung tâm 
giới thiệu, bảo hành sản phẩm, tham gia các hội trợ triển lãm trong và ngoài 
nước, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các sản phẩm trong và 
ngoài ngành thương mại. 
 Tính toán hiệu quả của quảng cáo với các chi phí bỏ ra. Có thể tiến 
hành quảng cáo điểm trong thời gian nhất định để giảm chi phí. 
 Song song với các hình thức quảng cáo cần kết hợp với các hình thức 
xúc tiến khác như nâng cấp trưng bày các điểm bán hàng một cách đẹp mắt 
hấp dẫn. Xây dựng đội ngũ nhân viên bán hàng văn minh, lịch sử, tiến hành 
bảo hành bao gói tất cả các sản phẩm bán ra với tem mác của Công ty để bảo 
đảm uy tín. 
1.2. Lựa chọn đúng đối tác. 
 Ngay từ khâu chọn đối tác kinh doanh, Công ty cần phải tìm hiểu kỹ 
đối tác về quá trình phát triển, các lĩnh vực kinh doanh, khả năng tài chính, uy 
 63
tín cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của họ. Đây là điều rất quan trọng 
bởi vì nó có thể giúp Công ty tránh được làm ăn với những Công ty ma, 
những trung gian môi giới hoặc những Công ty đang sắp phá sản... Từ đó mà 
hạn chế được những rủi ro trong kinh doanh. 
 Khi lựa chọn đối tác để nhập khẩu, Công ty cần phải nghiên cứu tình 
hình sản xuất, chất lượng sản phẩm, điều kiện địa lý, chính sách thương mại, 
phong tục và tập quán nước đó. Cần chú ý đến các danh tiếng trên thế giới với 
những mặt hàng đã được công nhận. Sau đó để chọn hãng nào cung cấp cần 
phải nghiên cứu các lĩnh vực như: 
 - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh 
doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, ổn định, thường xuyên liên kết 
kinh doanh. 
 - Khả năng về vốn, cơ sở kỹ thuật của hãng đó. 
 - Thái độ và quan điểm kinh doanh. 
 Khi chọn nhà cung cấp nên chọn nên mua những nhà cung cấp lớn 
chuyên vài mặt hàng chủ lực. Công ty nên cố gắng trực tiếp liên hệ với người 
sản xuất, hạn chế liên hệ thông qua các tổ chức trung gian để giảm bớt chi phí 
và nâng cao độ an toàn. Đối với các thương nhân nước ngoài đến Công ty đưa 
ra một số mặt hàng mà ta cần nhập, hay tự giới thiệu qua fax, qua thư, Công 
ty cần phải tìm hiểu hoạt động, đánh giá đối tượng trên cơ sở phân tích như 
trên. Đối với đối tượng này, Công ty có thể tìm hiểu thông qua bạn hàng trong 
và ngoài nước nhưng cách tốt nhất là nhờ đại diện của ta ở nước ngoài để họ 
cung cấp các thông tin cần thiết. Sau khi thăm dò và thu thập đủ các thông tin 
cần thiết, dù quyết định Công ty đưa ra là mua hay không mua hàng của hãng 
đó, Công ty vẫn nên trả lời một cách ngắn gọn rõ ràng bằng những thư từ điện 
tín mà bên kia đã gửi để giữ uy tín kinh doanh. 
1.3. Quy định chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng. 
 Khi ký kết hợp đồng Công ty cần chú ý nhiều tới điều khoản giá cả, 
mẫu mã, chất lượng, bảo hành, cơ sở và điều kiện giao hàng, địa điểm giao 
 64
hàng bởi vì nếu không cẩn thận rất dễ bị thua thiệt. Hợp đồng cần quy định 
chặt chẽ về mọi điều khoản để tránh những rắt rối về sau. Hiện nay các điều 
khoản về bất khả kháng, khiếu nại, trọng tài chưa được Công ty quan tâm 
đúng mức. Mặc dù cho đến nay Công ty chưa gặp phải rắc rối gì, nhưng trong 
tương lai, không ai có thể đảm bảo rằng Công ty sẽ không gặp phải những vụ 
tranh chấp, những trường hợp bất khả kháng theo chiều hướng bất lợi đối với 
Công ty. Như vậy, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, Công ty cần phải 
quan tâm hơn nữa tới vấn đề này. 
1.4. Giải pháp đẩy mạnh công tác giao nhận hàng nhập khẩu. 
 * Để thực hiện tốt hợp đồng nhập khẩu, trước khi tàu cập cảng Công ty 
cần làm một số việc sau: 
 - Yêu cầu nhà xuất khẩu cung cấp đầy đủ các giấy tờ cần thiết có liên 
quan đến lô hàng nhập khẩu. 
 - Liên lạc với ngân hàng để mở thư tín dụng gồm việc sử dụng và thời 
hạn có giá trị (nếu yêu cầu thanh toán bằng LC). 
 - Nếu hàng hoá nhập khẩu thuộc diện cần giấy phép, phải kiểm tra xem 
giấy phép còn hiệu lực hay không. 
 - Phải tiến hành những công việc sơ bộ cho việc làm thủ tục hải quan, 
kiểm tra biểu thuế và chuẩn bị như tờ khai hải quan. 
 - Phải tiến hành công việc cần thiết với các nhà chức trách tại cảng như 
đăng ký trước công nhân xếp dỡ hàng hoá, diện tích bến cảng, các thiết bị bốc 
dỡ và những điều kiện lưu kho. 
 * Công tác kiểm tra chất lượng, số lượng hàng nhập khẩu: 
 - Kiểm tra chất lượng là một trong những khâu quan trọng nhất trong 
quá trình thực hiện hợp đồng. Chất lượng của hàng nhập khẩu ảnh hưởng trực 
tiếp đến lượng hàng bán ra, doanh thu và uy tín của Công ty. Vì vậy Công ty 
cần phải quan tâm hơn nữa tới hoạt động này. Trong giai đoạn tới khi Công ty 
chủ trương nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thì công tác kiểm tra 
 65
chất lượng cũng cần có sự sửa đổi linh hoạt hơn. Nếu như trước kia việc kiểm 
tra chất lượng chỉ diễn ra khi hàng tới cảng thì bây giờ Công ty nên tiến hành 
ngay từ khi xếp hàng lên tàu, đặc biệt với những hàng hoá mà Công ty đặt 
theo mẫu yêu cầu thì nên tiến hành kiểm tra ngay trong quá trình sản xuất của 
nhà cung cấp, việc kiểm tra này giúp Công ty nhận được hàng phù hợp với 
chất lượng như đã thoả thuận trong hợp đồng tránh tình trạng hàng đến nơi 
mà chất lượng không phù hợp phải trả lại, Công ty không nhận được hàng bỏ 
lỡ cơ hội kinh doanh. 
 - Kiểm tra số lượng là một mắt xích quan trọng trong quá trình mua có 
liên quan đến việc kiểm tra hiện trạng tất cả các hàng hoá được chuyển tới 
Công ty. Nó chính thức hoá hoạt động nhận hàng trước khi lưu kho, vì vậy mà 
công tác này cần được tiến hành khoa học hơn. Khi nhận được các chứng từ 
giao hàng cùng với kiểm tra chi tiết sẽ phải đối chiếu với yêu cầu của chứng 
từ mua hàng. Khi bốc hàng, dỡ hàng Công ty phải thường xuyên bám sát hiện 
trường cập nhật số liệu từng ngày từng giờ hạn chế tối đa mất mát. Công ty 
nên có giấy chứng nhận về trọng lượng (chứng từ lên bờ) khi chưa biết chính 
xác mất mát thiệt hại và trong thời gian cho phép phải nhanh chóng kiểm tra 
hàng để kịp thời cho thủ tục khiếu nại (nếu có). 
 * Thủ tục hải quan và thanh toán: 
 - Việc làm thủ tục hải quan cần phải nhanh chóng tránh để lưu kho bến 
bãi gây tăng chi phí. 
 Yêu cầu đối với Công ty. 
 + Phải chuẩn bị đầy đủ giấy tờ về lô hàng nhập khẩu như giấy phép, 
hoá đơn, chứng nhận xuất xứ, vận đơn, giấy chứng nhận chất lượng. 
 + Phải kê khai đầy đủ vào tờ khai hải quan và tạo điều kiện thuận lợi 
nhất cho nhà chức trách kiểm tra nếu được yêu cầu. 
 + Phải nộp thuế và chi phí đầy đủ. 
 - Thanh toán tiền hàng nhập khẩu. 
 66
 Nếu Công ty không thực hiện đúng theo những điều kiện thanh toán thì 
sẽ bị yếu thế hơn trong những cuộc thương lượng sau. Thậm chí dù là những 
lý do ngẫu nhiên cũng có thể làm giảm uy tín của Công ty (tiếng xấu sẽ nhanh 
chóng đồn xa). Bởi vậy khi đã nhận được hàng Công ty nên nhanh chóng làm 
các thủ tục cần thiết để thanh toán cho nhà cung cấp. Trước khi thanh toán 
Công ty phải kiểm tra kỹ lưỡng hoá đơn mà nhà cung cấp gửi tới xem họ có 
thực hiện đúng những thoả thuận trong hợp đồng hay không. Cụ thể: 
 + Số lượng hàng hoá trong hoá đơn có phù hợp với số lượng trong hợp 
đồng hay không. 
 + Giá các đơn vị hàng hoá trong hoá đơn có phù hợp với số lượng trong 
hợp đồng hay không. 
 + Các điều kiện thanh toán có phù hợp với các điều kiện đã định hay 
không. 
 Việc thanh toán cũng phải dựa vào báo cáo kiểm tra chất lượng hàng 
hoá của các bộ phận liên quan. 
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC. 
 2.1. Thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Công ty theo hướng 
phục vụ các ngành sản xuất trong nước. 
 Trong tình hình hiện nay, việc nhập khẩu hàng hoá phục vụ tiêu dùng 
không có khả năng phát triển được nữa mà phải giảm dần vì sản xuất trong 
nước đã gần như thay thế được hàng nhập ngoại. Ngược lại, trước yêu cầu của 
công nghiệp hoá và hiện đại hoá, sản xuất trong nước đòi hỏi phải nhập khẩu 
rất nhiều vật tư, máy móc, thiết bị cần thiết có chất lượng cao, kỹ thuật tiên 
tiến mà trong nước không có khả năng tự cung cấp. Vì vậy, nếu Công ty 
không thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu đó thì 
hàng hoá của Công ty sẽ không thể tiêu thụ được hoặc có tiêu thụ được thì rất 
 67
chậm và như vậy Công ty không còn khả năng cạnh tranh và không thể tiếp 
tục tồn tại được trên thương trường. 
 Mặt hàng nhập khẩu của Công ty cần phải được thay đổi về cơ cấu cho 
phù hợp với nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Mặt hàng cần phải 
được chú trọng nhất đó là nguyên liệu, vật tư, thiết bị kỹ thuật phục vụ cho 
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những 
ngành kinh tế đang phát triển mạnh và có nhu cầu về nguyên liệu, vật tư, thiết 
bị rất lớn để phục vụ cho việc phát triển đồng bộ các ngành sản xuất trong 
nước trong hiện tại cũng như trong tương lai. 
 Mặt hàng truyền thống của Công ty từ trước đến nay là phương tiện vận 
tải và xe máy cùng với hàng tiêu dùng như linh kiện điện tử, thiết bị nội thất, 
đồ gia dụng... chỉ được coi là mặt hàng tạm thời trong thời gian đầu, nay cần 
phải giảm xuống vì nhu cầu thị trường về những mặt hàng này ngày càng trở 
nên bão hoà, nếu tiếp tục nhập khẩu nhiều sẽ không tiêu thụ được. 
 Điều chủ yếu là phải lựa chọn những mặt hàng khác nhau với xu hướng 
biến động khác nhau để lập kế hoạch mặt hàng. Trong quá trình thực hiện các 
kế hoạch kinh doanh, nhiều khi mặt hàng thay đổi không đúng theo kế hoạch 
do nhu cầu mới nảy sinh trên thị trường, vì vậy Công ty cần luôn luôn có 
những chiến lược dự phòng cho trường hợp này. Chẳng hạn như, khi mới 
thành lập Công ty xác định mặt hàng kinh doanh nhập khẩu tạm thời là xe 
máy, phương tiện vận tải, hàng tiêu dùng nhưng về lâu dài thì Công ty tập 
trung chú ý xây dựng điều kiện để phát triển mặt hàng nguyên liệu, vật tư, thiết 
bị, hoá chất cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu. 
 Để thực hiện việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, Công ty cần 
tiến hành một số điều chỉnh có tính chất khả thi trên cơ sở điều kiện và khả 
năng của mình. Việc thay đổi cơ cấu mặt hàng tuy có gây cho Công ty một số 
khó khăn và bỡ ngỡ xong do khi mới bắt đầu đi vào hoạt động, Công ty đã 
xác định rõ đâu là mặt hàng mang tính chất tạm thời, đâu là mặt hàng mang 
 68
tính chất chiến lược lâu dài, từ đó có những kế hoạch hợp lý. Cụ thể là, chẳng 
hạn như với mặt hàng xe máy, ôtô Công ty luôn xác định đây chỉ là mặt hàng 
tạm thời lúc bắt đầu xâm nhập thị trường, trong tương lai mặt hàng chính của 
Công ty sẽ là hoá chất, vật tư, thiết bị, máy móc dùng cho công nghiệp, nông 
nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu. Để chuẩn bị việc mua bán và tiêu thụ mặt 
hàng này, Công ty đã tiến hành liên doanh liên kết với một số công ty, xí 
nghiệp hoá chất trong địa bàn Hà Nội cũng ở một số tỉnh lân cận. Nhờ đó khi 
bắt đầu nhập mặt hàng hoá chất, vật tư, thiết bị Công ty đã trở thành bạn hành 
cung cấp nguyên vật liệu tin cậy của các công ty, xí nghiệp này. Đến lúc này, 
một vấn đề mới nảy sinh là tuy đã tạo được một thị trường tiêu thụ từ các đơn 
vị liên doanh liên kết, xong nếu chỉ dựa vào các bạn hàng này thì không thể 
nâng cao doanh thu vì thế Công ty phải tiến hành một số biện pháp mở rộng 
thị trường (như đã nêu ở phần II1). 
 2.2. Nâng cao công tác quản lý hoạt động kinh doanh. 
 Thực trạng hiện nay của Công ty là vốn ít, thiếu cán bộ chuyên môn 
giỏi... trong khi đòi hỏi của cơ chế kinh doanh mới là phải không ngừng nâng 
cao và mở rộng, đầu tư kỹ thuật mới vào sản xuất, lắp ráp hàng hoá, kinh 
doanh phải năng động, hiệu quả, thích ứng với cơ chế thị trường. Tăng cường 
cơ sở vật chất và hệ thống kinh doanh của Công ty mà thực chất là đổi mới và 
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, khắc phục những gì còn tồn tại. 
 a. Về vốn: 
 Để phát triển được nguồn vốn một cách có hiệu quả Công ty cần thực 
hiện một số biện pháp sau: 
 - Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kế toán quản lý tài chính, tín dụng, 
hối đoái của Nhà nước mà trước tiên là Công ty phải hoàn thành các loại thuế 
phải nộp. 
 69
 - Tính toán khả năng lỗ lãi, thời gian thu hồi vốn trong kinh doanh cũng 
như dự tính trước được những rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp phòng 
ngừa. 
 - Kết hợp chặt chẽ sự vận động của vốn và hàng hoá lưu thông. 
 - Tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá. 
 - Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi an toàn tránh được tình 
trạng ứ đọng vốn hay dây dưa trong thanh toán tiền hàng. 
 - Tận dụng vốn của chủ đầu tư trong nhập khẩu uỷ thác bằng cách yêu 
cầu họ chuyển tiền đúng hạn. Như vậy sẽ tiết kiệm được tiền của Công ty tập 
trung vào các dự án nhập khẩu tự doanh. Tuy nhiên cần áp dụng linh hoạt với 
từng đối tượng bạn hàng để tăng sức mạnh trong cạnh tranh. 
 - Rút ngắn hợp lý quá trình thực hiện hợp đồng: tìm đối tác cung cấp, 
ký kết hợp đồng, thời gian giao hàng... nhằm tăng số vòng quay vốn lưu động, 
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 
 - Cần quản lý tốt lượng hàng hoá dự trữ, thanh lý kịp thời những hàng 
hoá ứ đọng, hàng tồn kho để giải phóng vốn. 
 Ngoài ra, Công ty nên giao vốn cho từng phòng, từng chi nhánh để họ 
thực hiện chế độ tự hạch toán, tự cân đối đồng thời có kế hoạch giám sát, 
kiểm tra chi tiết. Điều này sẽ giúp cho các phòng, các chi nhánh chủ động hơn 
trong kinh doanh, đồng thời sẽ làm giảm gánh nặng quản lý cho các phòng 
ban khác, tránh được sự lơi lỏng trong quản lý tài chính và thắt chặt hơn mức 
độ trách nhiệm của từng thành viên đối với tài sản và nguồn vốn của Công ty. 
 Ngoài công việc khai thác tối đa hiệu quả nguồn vốn hiện có của Công 
ty, ban lãnh đạo cần có những biện pháp năng động huy động vốn cho hoạt 
động kinh doanh như: 
 - Tích cực đẩy mạnh quan hệ với các tổ chức tài chính như quỹ tiền tệ 
quốc tế, ngân hàng phát triển Châu Á... nhằm tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi 
và những sự trợ giúp khác. 
 70
 - Ưu tiên trích lợi nhuận thu được từ hoạt động để tăng nguồn vốn phục 
vụ kinh doanh. 
 b) Về cơ sở vật chất. 
 Cần nâng cấp sửa sang cửa hàng để thu hút khách hàng, đầu tư mở rộng 
hệ thống các cửa hàng, đại lý, hệ thống bảo hành... 
 - Mở rộng thêm các điểm bán hàng ở các khu vực có dân cư đông đúc, nhất 
là ở vùng ngoại thành Hà Nội, chú ý nơi có nhu cầu gia tăng để tiêu thụ hàng hoá, 
đồng thời trang bị lại các phương tiện bán hàng như: tủ hàng, quầy hàng... 
 - Đầu tư và tăng cường công nghệ mới cho dây chuyền lắp ráp xe máy 
dạng CKD, tiến tới lắp ráp để tạo ra một lượng hàng hoá ổn định cho nguồn 
hàng kinh doanh. 
 c) Về lao động. 
 - Công ty phải nhanh chóng thay đổi hoàn thiện cơ cấu cán bộ cho từng 
cấp và từng chức danh. Việc đổi mới cán bộ phải tập trung trước hết vào các 
khâu quản lý, các bộ phận xuất nhập khẩu, nhân viên kinh doanh trực tiếp, 
tăng cường cán bộ lãnh đạo có năng lực nghiệp vụ. Giảm bớt những bộ phận 
lao động không cần thiết hoặc hoạt động không có hiệu quả. 
 - Thường xuyên đôn đốc quản lý hoạt động của các đơn vị kinh doanh 
hạch toán độc lập để không xảy ra các vi phạm chính sách đáng tiếc gây thất 
thoát vốn. 
3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ chủ quản. 
 Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, các 
hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động của nhập khẩu nói riêng đều nằm 
dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của Nhà nước như: Các chính sách của Nhà 
nước về xuất nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược, kế hoạch phát 
triển kinh doanh, mặt hàng nhập khẩu, các mức thuế... Để có thể làm tốt công 
tác nhập khẩu, ngoài sự nỗ lực của chính bản thân Công ty thì Nhà nước cũng 
cần có những biện pháp, chính sách và cơ chế điều hành cho phù hợp, vận 
dụng quan điểm chung về kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ 
 71
mô của Nhà nước để chủ động cung cấp vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất, phát 
triển kinh doanh, tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết thế mạnh của mình. 
Cụ thể là một số biện pháp như sau: 
 + Xoá bỏ những hạn chế bằng hạn ngạch hoặc thay hạn ngạch bằng 
thuế cho một số mặt hàng chọn lọc mà Nhà nước cần bảo hộ. Thuế vẫn phải 
được duy trì như một công cụ thực hiện mục tiêu kinh tế nhất định. Nhưng 
Nhà nước cần xây dựng một biểu thuế rõ ràng, phù hợp và đơn giản hơn mà 
vẫn đảm bảo chặt chẽ về mặt pháp lý. Đồng thời đơn giản hoá các thủ tục 
hành chính trong nhập khẩu tương tự như xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép nhập 
khẩu từng chuyến. 
 + Giảm giá đồng tiền nội địa sau đó giữ vững ổn định. Trong thưòi gian 
qua có ý kiến cho rằng: Nếu loại trừ yếu tố lạm phát của đồng Đô la Mỹ và 
đồng tiền Việt Nam thì thực tế đồng tiền Việt Nam tăng lên khá mạnh. Ở giai 
đoạn phát triển, đổi mới nền kinh tế, đẩy mạnh giao lưu quốc tế và đặc biệt 
đẩy mạnh việc nhập khảu vật tư, nguyên liệu cần thiết cho sản xuất trong 
nước, chúng ta cần áp dụng chính sách tỷ giá cho linh hoạt, lấy việc ổn định 
giá thực tế làm mục tiêu để điều chỉnh giá danh nghĩa. Đây là cơ sở để xây 
dựng thành công chiến lược kinh doanh, mở cửa kinh tế, khuyến khích xuất 
nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, duy trì sự phát triển kinh tế. Việc điều 
chỉnh tỷ giá hối đoái phải phù hợp làm cho xuất khẩu có lãi và nhập khẩu có 
hiệu quả, sẽ khuyến khích sản xuất phát triển mà không cần đến chính sách 
trợ cấp trực tiếp. 
 + Thi hành các chính sách vĩ mô phù hợp nhằm làm ổn định môi trường 
kinh tế vĩ mô trước khi tiến hành tự do hoá thương mại, vì không có doanh 
nghiệp nào làm ăn thành công trong quá trình tự do hoá thương mại với mức 
lạm phát cao, vì thế đồng tiền nội địa thực tế bị lên giá dù Chính phủ thi hành 
các chính sách giảm giá. 
 72
 + Còn đối với thuế doanh thu và thuế xuất nhập khẩu: Việc cải cách hệ 
thống thuế phải nhằm sửa đổi những bất hợp lý và quá phức tạp làm cho 
chính sách thuế trở nên phù họp với tình hình thực tế nhằm góp phần đẩy 
mạnh sản xuất, mở rộng hoạt động nhập khẩu, tránh hiện tượng thất thu thuế. 
Đồng thời, việc sửa đổi chính sách thuế phải tuân theo mô hình có tăng có 
giảm, đảm bảo cân đối ngân sách. Hạ thuế suất của những mặt hàng có thuế 
nhập khẩu cao hơn 60% xuống mức thuế tối đa 60%. Phần chênh lệch giữa 
mức thuế nhập khẩu hiện hành với mức thuế mới được chuyển sang thuế tiêu 
thụ đặc biệt như với hàng tiêu thụ trong nước. 
 * Một số kiến nghị đối với Bộ Thương mại: 
 - Đề nghị Bộ sớm xác định rõ định hướng về mô hình kinh doanh của 
Công ty. Đồng thời bổ xung cho TST những ngành kinh doanh khác trong 
điều kiện kinh doanh có hiệu quả, không ảnh hưởng đến hoạt động kinh 
doanh của các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. 
 - Bộ cần tạo điều kiện cho Công ty phát huy tối đa khả năng kinh doanh 
các ngành hàng đặc biệt là các ngành hàng thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ 
cho nông nghiệp, công nghiệp, sản xuất hàng xuất nhập khẩu bằng việc cấp 
hạn ngạch nhập khẩu cho phù hợp với khả năng của Công ty. 
 - Đề nghị Bộ cải tiến hơn nữa các thủ tục hành chính nhất là các quy 
định về cơ chế xuất nhập khẩu, các quy định trong việc đăng ký hợp đồng 
nhập khẩu. Cần thống nhất một phương thức, tạo điều kiện thuận lợi giúp các 
doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục hành chính nhanh gọn nhất. 
 - Tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ khả năng về đầu tư vốn, tìm đối tác 
nước ngoài, tạo tiền đề cho việc mở rộng và tận dụng vốn đầu tư nước ngoài. 
 73
KẾT LUẬN 
Cùng với xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu hiện nay có một vị trí rất 
quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói 
riêng. Nó góp phần giải quyết tình trạng mất cân đối giữa cùng và cầu, tạo 
điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dịch 
cơ cấu thị trường theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 
Trong những năm qua công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST được 
đánh giá là một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, chấp hành tốt chính 
sách pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình hoạt động công ty không ngừng 
tự hoàn thiện mình, từng bước tháo gỡ khó khăn về vốn, cải tiến phương pháp 
quản lý... Vì vậy uy tín của công ty đang ngày càng được nâng cao. Các sản 
phẩm nhập khẩu của công ty luôn đảm bảo chất lượng đáp ứng được nhu cầu 
thiết yếu của sản xuất và tiêu dùng mà nền kinh tế nội địa chưa thoả mãn 
được. Tuy nhiên kinh doanh là quá trình tự hoàn thiện mình, vì vậy công ty 
vẫn còn có những điểm yếu cần được khắc phục. Những điểm yếu này xuất 
phát từ mặt hàng, thị trường, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ kinh 
doanh...Chính vì vậy với đề tài "Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm 
nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty dịch vụ du lịch và thương 
mại TST" em mong muốn phần nào góp ý kiến của mình nhằm hoàn thiện 
hơn nữa hoạt động kinh doanh của công ty. 
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến thầy giáo hướng dẫn 
Bùi Đức Dũng và tập thể cán bộ phòng kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành 
luận văn của mình. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Đề tài Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST.pdf Đề tài Một số giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại công ty dịch vụ du lịch và thương mại TST.pdf