Các dịch vụ cung cấp từ các Hiệp hội cũng rất phong phú. Dịch vụ thông tin 
và tƣ vấn đƣợc đặt lên hàng đầu. Thông qua đối thoại và các phƣơng tiện thông tin 
đại chúng để dành nhiều thì giờ thông tin tuyên truyền cho các thành viên, cung cấp 
thông tin cho các thành viên từ mọi hình thức nhƣ bằng thƣ, hệ thống máy fax, các 
tập san, mạng nội bộ, các trang web 
Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong những hoạt động chứa đựng 
nhiều rủi ro mà một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện đƣợc. Vì vậy, Hiệp hội có
thể là ngƣời thay các doanh nghiệp thực hiện những công trình nghiên cứu triển 
khai nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp cũng nhƣ chia sẻ những rủi 
ro giữa các doanh nghiệp. Bằng cách lập ra một quỹ nhằm nghiên cứu triển khai kỹ
thuật và công nghệ nhằm phổ biến kiến thức này cho tất cả các thành viên của Hiệp 
hội sẽ mang lại hiệu quả lớn. Hoạt động này nếu làm tốt không những sẽ không 
ngừng nâng cao khả năng của toàn bộ các thành viên trong Hiệp hội mà còn nâng 
cao vai trò của chính Hiệp hội đối với các thành viên.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 109 trang
109 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2627 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực phản ánh ý kiến của ngành thuỷ sản Nhật Bản 
trong việc ra chính sách của Chính phủ. 
 Hiệp hội thành lập các Uỷ ban và Hội đồng thảo luận xem xét các vấn đề 
chính sách của Chính phủ nếu có những ảnh hƣởng tới ngành cũng nhƣ hệ thống 
pháp luật và các xu hƣớng cả trong và ngoài nƣớc. Hiệp hội cũng tập hợp các ý kiến 
trong ngành và vận động hành lang nghị viện Chính phủ và các cơ quan khác. 
 Tổ chức triển lãm công nghệ và hải sản quốc tế với sự tham dự của các đại 
diện trong ngành thuỷ sản và các ngành khác có liên quan cả trong và ngoài nƣớc 
*Bộ phận hoạt động 
 Hoạt động nhƣ một bộ phận giải quyết các vấn đề về môi trƣờng và thuỷ 
sản với mục đích duy trì việc tận dụng các tài nguyên thuỷ sản. Hiệp hội gia nhập tổ 
chức Liên minh quốc tế các Hiệp hội thuỷ sản nhằm phối hợp với các hoạt động 
quốc tế và hỗ trợ các hoạt động thích hợp của các tổ chức quốc tế và các tổ chức 
quản lý thuỷ sản khu vực với chức năng là các tổ chức phi Chính phủ. 
 Hiệp hội cũng tiến hành các dự án nhằm tái cơ cấu thuỷ sản dƣới sự hỗ trợ 
của Chính phủ nhằm bù đắp phần nào cho những ngƣời thuộc diện nằm trong 
chƣơng trình cắt giảm tàu đánh cá đã đƣợc Chính phủ chú trọng hoặc các chủ tàu 
tiến hành bởi sáng kiến của chính họ do những thay đổi về môi trƣờng xung quanh 
hoạt động đánh bắt cá. 
 Hiệp hội cũng đang tiến hành các hoạt động báo chí ở cả Nhật Bản và 
nƣớc ngoài thông qua các ấn phẩm: “Suisankai”, “Đặc san thuỷ sản”, “ISARIBI”. 
* Bộ phận quản lý chất lượng 
 Hiệp hội hoạt động nhằm thúc đẩy việc kiểm soát chất lƣợng và vệ sinh hải 
sản tại các khu vực của các ngành công nghiệp có liên quan trong suốt quá trình từ 
sản xuất tới tiêu thụ. 
 Để đảm bảo đủ tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh hải sản, Hiệp hội đang tiến 
hành một loạt các hoạt động tăng cƣờng áp dụng tiêu chuẩn HACCP chẳng hạn nhƣ 
86 
các khoá đào tạo và giáo dục, tƣ vấn, dịch vụ chứng nhận cũng nhƣ hợp tác và 
nghiên cứu quốc tế. Hiệp hội tiến hành các cuộc hội thảo và các chƣơng trình nghị 
sự thảo luận về HACCP trong đó có mời các nhà thuyết trình từ các tổ chức Chính 
phủ và các chuyên gia trong ngành từ nƣớc ngoài. Hiệp hội cũng cử các đại biểu tới 
Uỷ ban luật về sản phẩm nghề cá và đánh bắt cá và vệ sinh thực phẩm và các hội 
nghị quốc tế xuyên lục địa khác nhằm bày tỏ ý kiến với tƣ cách là một tổ chức 
ngành hải sản hàng đầu của Nhật Bản. 
 Hiệp hội cũng tổ chức các khoá đào tạo nhằm giáo dục tất cả những ngƣời 
có liên quan trong lĩnh vực chế biến hải sản các lý luận cơ bản và việc áp dụng các 
giải pháp kiểm soát vệ sinh thực phẩm theo hệ thống HACCP. Các chỉ dẫn và các 
băng Video nhằm giới thiệu các công nghệ kiểm soát chất lƣợng và vệ sinh mới 
nhất cũng đƣợc phân phát. 
 Hiệp hội cũng phát hành các chứng chỉ chế biến theo tiêu chuẩn HACCP 
cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm sang Mỹ và tuân thủ mọi quy định về hải 
sản của Mỹ. Đặc biệt Hiệp hội cũng tạo ra dịch vụ chứng nhận nhằm hỗ trợ tài 
chính cho các nhà máy muốn giới thiệu HACCP 
 Uỷ ban đặc biệt cho các nhà xuất khẩu hải sản cũng tiến hành các biện 
pháp xúc tiến xuất khẩu hải sản và giải quyết các vấn đề thƣơng mại quốc tế khác 
liên quan đến hải sản. Uỷ ban đặc biệt về phân phối hải sản cũng tham gia vào việc 
giảm chi phí phân phối, thu thập và phân tích về tất cả các thông tin liên quan. 
3.1.1.3 Hiệp hội dệt may Ấn Độ 
Ấn Độ có một truyền thống dệt may lâu dài. Thƣơng mại trong ngành dệt Ấn 
Độ diễn ra từ rất lâu. Ra đời năm 1939, Hiệp hội dệt may Ấn Độ là một tổ chức phi 
lợi nhuận, một diễn đàn dành cho sự trao đổi tự do về kỹ thuật dệt may, trao đổi 
thông tin trên nền tảng của sự hợp tác và toàn diện. Đứng đầu bởi tổ chức có tên gọi 
là Uỷ ban điều hành đƣợc bầu ra từ các đơn vị trực thuộc có liên quan dựa trên tỷ lệ 
về sức mạnh kinh tế. Những nhà quản lý hoạt động tại Văn phòng hiệp hội đƣợc 
bầu ra bởi Uỷ ban điều hành. Các đơn vị thành viên dƣới sự điều hành của các nhà 
quản lý tự động hoạt động trong lĩnh vực của họ và phối hợp chung thông qua một 
87 
cơ cấu liên đoàn dƣới sự lãnh đạo của Văn phòng trung ƣơng ở cấp quốc gia. Các 
thành viên của Uỷ ban điều hành và các đơn vị bộ phận đƣợc bầu 2 năm một lần. 
Hiện tại Hiệp hội quy tụ đƣợc số lƣợng thành viên đông đảo hơn 18.000 hội viên cả 
trong và ngoài nƣớc ở 27 cơ sở trên khắp đất nƣớc Ấn Độ. Hội viên của Hiệp hội gồm 
7 nhóm : 
+ Thành viên danh dự 
+ Thành viên bảo trợ 
+ Thành viên cố vấn 
+ Thành viên bình thƣờng 
+ Thành viên nƣớc ngoài 
+ Thành viên tổ chức, doanh nghiệp 
+ Thành viên sinh viên. 
Hội còn kết hợp với tất cả các đơn vị có liên quan tới ngành dệt may, thƣơng 
mại, giáo dục và nghiên cứu cho dù với tƣ cách cá nhân hay tổ chức. Sự phát triển 
mang tính hiện tƣợng mà Hiệp hội đạt đƣợc hơn 60 năm qua là kết quả không chỉ 
bởi công lao của các nhà sáng lập mà còn ở tinh thần dân chủ thực sự của một số 
lƣợng lớn các chuyên gia dệt may tận tình, ngƣời đã làm việc không nghỉ cho sự 
phát triển của Hiệp hội dệt may Ấn Độ. 
Mục tiêu của Hiệp hội: Cung cấp những hiểu biết khoa học trong ngành dệt, 
từ khi còn là sợi đến khi đƣợc làm thành quần áo. Thực hiện các chƣơng trình giáo 
dục liên tục về công nghệ và quản lý trong ngành dệt. Giúp các thành viên có đƣợc 
các kỹ thuật dệt nhằm cải tiến phƣơng thức sản xuất. Ghi nhớ công lao những ngƣời 
đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt Ấn Độ. Phân tích 
môi trƣờng kinh tế xã hội cho các chiến lƣợc phát triển. Hỗ trợ các doanh nghiệp 
thành viên trong xúc tiến xuất khẩu 
Vai trò của các đơn vị ở các trung tâm dệt khác nhau của Ấn Độ bao gồm tổ 
chức các hội thảo, hội nghị, khoá học, chƣơng trình trò chơi kỹ thuật, các cuộc trao 
đổi kinh nghiệm đƣợc tiến hành ở cả các phân xƣởng dệt. Các bộ phận lần lƣợt tổ 
chức các hội nghị dệt may toàn Ấn Độ uy tín. Hầu hết các bộ phận tổ chức các cuộc 
88 
hội thảo xã hội và mời các gia đình hội viên cùng tham gia. Các bộ phận mạnh giúp 
đỡ các bộ phận yếu ở những khu vực gần nhau nhằm hoạt động có hiệu quả hơn. 
Hiệp hội còn rất chú trọng tới công tác giáo dục và đào tạo, từ con số 2 
trƣờng dệt may năm 1950, đến năm 1990 con số này đã là 60 trƣờng và đang tiếp 
tục tăng trong những năm qua. Cùng với công tác đào tạo, công tác thẩm định chất 
lƣợng và cấp chứng chỉ cũng đƣợc nâng cao khiến uy tín của các hoạt động Hiệp 
hội ngày càng đƣợc khẳng định. 
Công tác cung cấp thông tin cũng rất đƣợc chú trọng, ngoài bản tin Hiệp hội 
đƣợc phát hành 2 lần 1 tháng, Hiệp hội còn phát hành nhiều ấn phẩm khác nhƣ : 
Công nghệ sản xuất hàng dệt may trƣớc thế kỷ 21, Năng lực tiềm ẩn của sản xuất 
hàng dệt may, Hội nhập công nghiệp dệt may Ấn Độ vào nền kinh tế thế giới, Quản 
lý tốt trong sản xuất dệt may…Hiệp hội còn trao giải thƣởng thông qua các cuộc thi 
cho các ấn phẩm có giá trị, chính điều này đã thu hút mọi thành viên của Hiệp hội 
hết lòng tham gia hoạt động của Hiệp hội bất kể đó là tổ chức, cá nhân, chuyên gia 
hay sinh viên và mang lại nguồn thu cho Hiệp hội 
3.1.2 Một số nhận xét chung từ hoạt động của các Hiêp hội ngành hàng trên thế giới 
Các Hiệp hội ngành hàng đã phát triển từ rất lâu trên thế giới đặc biệt tại các 
nƣớc phát triển nhƣ Anh và Nhật Bản, Ấn Độ, Mỹ …. Qua các hoạt động của mình, 
các Hiệp hội đã làm tốt đƣợc các chức năng của mình và trở thành đầu mối cho các 
quan hệ của ngành. Thông qua việc thiết lập hệ thống tự điều hành giữa các doanh 
nghiệp, Hiệp hội áp dụng những quy định và những hạn chế nhằm tăng cƣờng năng 
lực của ngành hàng. Thực hiện các liên kết đa phƣơng theo ngành dọc giữa các 
doanh nghiệp nhằm tìm hiểu và điều phối các vấn đề có liên quan đến cung cấp 
nguyên liệu, công nghệ và buôn bán giữa các thành viên nhằm xúc tiến hợp tác phát 
triển công nghệ. Hiệp hội còn đại diện cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các 
hoạt động nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm nhƣ áp dụng tiêu chuẩn HACCP của 
Hiệp hội thuỷ sản Nhật Bản, thực thi chiến lƣợc phát triển một số thƣơng hiệu nổi 
tiếng. Tổ chức và thực hiện các hoạt động về dịch vụ cộng đồng nhằm trợ giúp và 
nâng cao khả năng của các doanh nghiệp. Hiệp hội ngành hàng còn là ngƣời đại 
89 
diện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết các Hiệp định 
về buôn bán và kinh doanh với các Hiệp hội nƣớc ngoài cũng nhƣ với các Hiệp hội 
ngành hàng quốc tế. Hiệp hội ngành hàng còn tổ chức các triển lãm, hội chợ hàng 
hoá ở trong và ngoài nƣớc để giúp các doanh nghiệp tham gia nhằm đẩy mạnh trao 
đổi, buôn bán giữa doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Khai thác thị trƣờng nƣớc 
ngoài, nghiên cứu thị trƣờng quốc tế và tổ chức các đoàn khảo sát thị trƣờng thế 
giới hoặc tổ chức cho các hội viên tham gia triển lãm quốc tế. Mở rộng các liên kết 
với các tổ chức có liên quan ở nƣớc ngoài, phát triển các trao đổi hợp tác về kinh tế, 
công nghệ và quản lý doanh nghiệp. 
Các dịch vụ cung cấp từ các Hiệp hội cũng rất phong phú. Dịch vụ thông tin 
và tƣ vấn đƣợc đặt lên hàng đầu. Thông qua đối thoại và các phƣơng tiện thông tin 
đại chúng để dành nhiều thì giờ thông tin tuyên truyền cho các thành viên, cung cấp 
thông tin cho các thành viên từ mọi hình thức nhƣ bằng thƣ, hệ thống máy fax, các 
tập san, mạng nội bộ, các trang web… 
Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong những hoạt động chứa đựng 
nhiều rủi ro mà một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện đƣợc. Vì vậy, Hiệp hội có 
thể là ngƣời thay các doanh nghiệp thực hiện những công trình nghiên cứu triển 
khai nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các doanh nghiệp cũng nhƣ chia sẻ những rủi 
ro giữa các doanh nghiệp. Bằng cách lập ra một quỹ nhằm nghiên cứu triển khai kỹ 
thuật và công nghệ nhằm phổ biến kiến thức này cho tất cả các thành viên của Hiệp 
hội sẽ mang lại hiệu quả lớn. Hoạt động này nếu làm tốt không những sẽ không 
ngừng nâng cao khả năng của toàn bộ các thành viên trong Hiệp hội mà còn nâng 
cao vai trò của chính Hiệp hội đối với các thành viên. 
Có đƣợc những thành công trên là do không những các Hiệp hội ra đời từ rất 
lâu mà còn do các doanh nghiệp đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng vô cùng to lớn 
của Hiệp hội ngành hàng đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Sự tự do phát 
triển trong nền kinh tế thị trƣờng nhờ giảm nhẹ sự can thiệp của Nhà nƣớc và Chính 
phủ cũng là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của các Hiệp hội ngành hàng. 
90 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay, việc 
củng cố và phát triển các Hiệp hội ngành hàng ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm 
của các quốc gia. Các Hiệp hội ngành hàng đã phát huy vai trò của mình trong việc 
phát triển xuất khẩu, mở rộng thị trƣờng và đóng góp tích cực tới sự thịnh vƣợng 
chung cho xã hội. 
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP 
HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM 
3.2.1 Các giải pháp về quản lý Nhà nƣớc 
3.2.1.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các Hội nói chung và 
Hiệp hội ngành hàng nói riêng. 
Trƣớc hết Nhà nƣớc cần nhận định rõ vai trò, vị trí của các Hiệp hội ngành 
hàng trong nền kinh tế là rất quan trọng đặc biệt là vào thời điểm hiện nay khi 
chúng ta đang chuẩn bị hội nhập. Thực tế cho thấy các Hiệp hội vẫn chƣa đƣợc 
đánh giá và nhìn nhận đúng với tính chất hoạt động nhƣ đƣợc quy định trong nghị 
định 88/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003, có không ít các Cơ quan quản lý 
Nhà nƣớc cho đến nay vẫn xem thƣờng vai trò của Hịêp hội, can thiệp sâu vào hoạt 
động của Hiệp hội, thậm chí trƣớc khi ra một quyết định nào đó có liên quan đến 
ngành nghề do Hiệp hội quản lý cũng không cần tham khảo ý kiến từ phía Hiệp hội 
vì vậy dẫn đến việc nhiều quyết định ban hành chƣa thực sự bám sát với thực tế 
hoạt động của các doanh nghiệp, vô tình tạo ra những cản trở cho chính các doanh 
nghiệp đó. Cần có chính sách hợp lý để hạn chế, chấm dứt xu hƣớng “Nhà nƣớc 
hoá”, “hành chính hoá” các Hiệp hội, cũng nhƣ xu hƣớng “chính trị hoá” đang tràn 
lan trong các tổ chức này. 
Hiện nay, Vụ các tổ chức phi Chính phủ trực thuộc Bộ nội vụ là cơ quan Nhà 
nƣớc làm nhiệm vụ theo dõi, quản lý các Hiệp hội, ngoài ra các Hội còn thuộc sự 
quản lý của Bộ chủ quản nhƣ các Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu chịu sự quản lý 
của Bộ thƣơng mại, Mặc dù luật tổ chức Chính phủ và nghị định số 86/2002/NĐ-CP 
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang 
Bộ đã xác định đƣợc nhiệm vụ của các Bộ trong việc quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt 
91 
động quản lý của Hội, tổ chức phi Chính phủ thuộc ngành lĩnh vực hoạt động trong 
phạm vi cả nƣớc hoặc liên tỉnh nhƣng hiện nay các cơ quan quản lý Nhà nƣớc vẫn 
còn rất lúng túng trong việc cụ thể hoá nhiệm vụ này. Điều này dẫn đến việc mỗi 
khi có việc liên quan đến cơ quan Nhà nƣớc là các doanh nghiệp, các Hiệp hội 
ngành hàng lại lúng túng vì thủ tục hành chính phức tạp và bộ máy làm việc cồng 
kềnh, chồng chéo của các cơ quan công quyền. Với xu hƣớng ra đời ngày các nhiều 
các Hiệp hội, nhiều vấn đề mới sẽ nảy sinh cần giải quyết, Nhà nƣớc cần xem xét 
các biện pháp thành lập một Cơ quan quản lý riêng các Hiệp hội mang tính chuyên 
sâu chứ không nên dàn trải sự quản lý tại các Bộ chủ quản nhƣ hiện nay. Nếu tiếp 
tục để Vụ tổ chức phi Chính phủ quản lý thì cần mở rộng chức năng hoạt động của vụ 
này để việc quản lý đƣợc chặt chẽ, chuyên sâu hơn cơ chế quản lý còn yếu ớt, lỏng lẻo 
nhƣ hiện nay. Cơ quan này không những mang chức năng quản lý mà còn là trung tâm 
nơi các Hiệp hội có thể tranh thủ sự giúp đỡ khi cần thiết, nơi chuyên nghiên cứu các 
chiến lƣợc giúp cho các Hiệp hội phát triển, nơi đào tạo các nhà quản lý cho các Hiệp 
hội, nơi giúp các Hiệp hội tháo gỡ các vƣớng mắc trong quá trình hoạt động. 
Nhà nƣớc cũng cần xem xét chuyển giao dần một số việc lâu nay thuộc chức 
năng cơ quan công quyền sang cho Hiệp hội thực hiện, tuỳ theo sự lớn mạnh của 
Hiệp hội ví dụ nhƣ việc cấp chứng từ thƣơng mại quốc tế, để Hiệp hội tham gia quá 
trình phân bổ quota, tham gia hội đồng xét thầu, cấp chứng chỉ hành nghề. 
Điển hình vừa qua Bộ Tài chính đã chính thức chuyển giao việc hƣớng dẫn, 
kiểm tra thực hiện các chuẩn mực nghề nghiệp cho Hội Kế toán và Kiểm toán Việt 
Nam (VAA) và Hội Kiểm toán viên Hành nghề Việt Nam (VACPA). Việc chuyển 
giao này là một trong những bƣớc đi của lộ trình cải cách hành chính của Bộ tài 
chính và nhằm nâng cao sự tín nhiệm của xã hội về hệ thống thông tin kế toán, đảm 
bảo chất lƣợng cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán tại Việt Nam và phù hợp với 
thông lệ quốc tế. 
Cần chính thức thừa nhận và giám sát hoạt động tạo động lực và gây áp lực 
(hoạt động lobby) của các Hiệp hội kinh tế. Đây là một nhiệm vụ rất cần thiết 
nhƣng cũng rất khó khăn bởi vì sự cấu kết giữa quyền lực chính trị và quyền lực 
92 
kinh tế luôn rất bí ẩn và cách thức tác động của Hiệp hội vào đời sống chính trị biến 
đổi khôn lƣờng. 
Nhằm giúp các Hiệp hội có thêm kinh phí hoạt động chứ không chỉ trông 
chờ vào nguồn thu nhỏ hẹp từ hội phí và kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nƣớc và 
các tổ chức quốc tế, Nhà nƣớc cần tạo ra một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho 
Hiệp hội triển khai các hoạt động dịch vụ, tƣ vấn, đào tạo, khuyến khích các cơ 
quan chấp nhận sự tham gia của Hiệp hội vào việc nghiên cứu các dự án, đề tài, các 
hợp đồng kinh tế cấp quốc gia. 
Trong điều kiện các Hiệp hội đặc biệt các Hiệp hội ngành hàng đều mới 
thành lập, nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng Nhà 
nƣớc cần hỗ trợ kinh phí cho các Hiệp hội trong giai đoạn trứng nƣớc ở khâu triển 
khai hoạt động, hình thành bộ máy và nhân sự. Nhƣng sự hỗ trợ này không phải là 
bao cấp mà xuất phát từ vai trò chức năng của Hiệp hội, Nhà nƣớc cần coi Hiệp hội 
là trợ thủ của mình, là tổ chức dân sự chung vai gánh vác nhiệm vụ quản lý kinh tế, 
quản lý ngành hàng. Nhƣng cũng cần dần dần chuyển từ hỗ trợ trực tiếp sang hình 
thức hỗ trợ phù hợp theo cơ chế thị trƣờng bằng cách thực hiện đơn đặt hàng, hợp 
đồng triển khai dự án, đề án, đề tài nghiên cứu. Việc hỗ trợ này phải đƣợc thực hiện 
trên cơ sở khung khổ pháp lý có các chế tài kiểm soát chứ không phải thực hiện trên 
cơ chế xin cho nhƣ hiện nay, dễ gây ra các tiêu cực, bất bình đẳng giữa các Hiệp hội 
và giữa các doanh nghiệp hội viên trong cùng một Hiệp hội. 
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định “cần xây dựng một nền kinh tế mở, đẩy 
nhanh quá trình hội nhập khu vực và thế giới”. Trong quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế ấy hầu hết các Hiệp hội ngành hàng đặc biệt là Hiệp hội ngành hàng xuất 
khẩu đang gặp rất nhiều khó khăn vƣớng mắc về thủ tục, các rào cản do thiếu kinh 
nghiệm, thiếu thông tin và do đó các vụ kiện thƣơng mại do chính sách của các 
nƣớc phát triển nhằm ngăn cản hàng hoá từ các nƣớc đang phát triển với ƣu thế 
cạnh tranh hơn đang tràn vào nƣớc mình ngày càng tăng. Mặc dù mới đây Bộ 
thƣơng mại vừa ký quyết định thành lập văn phòng và thông báo địa điểm hỏi đáp 
về hàng rào kỹ thuật trong thƣơng mại (gọi tắt là văn phòng TBT) đặt tại Vụ xuất 
93 
nhập khẩu nhằm tiến hành phổ biến, cung cấp thông tin cho các Hiệp hội ngành 
hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu và các biện pháp phát triển hệ thống tiêu chuẩn 
kỹ thuật công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình trƣớc và sau khi Việt Nam 
gia nhập WTO. Đặc biệt các Hiệp hội doanh nghiệp và doanh nghiệp lớn trong 
trƣờng hợp có khả năng bị kiện do hàng rào kỹ thuật sẽ đƣợc trả lời trong vòng 24 h 
bằng fax hoặc e- mail nhƣng để giúp các doanh nghiệp chủ động phòng chống các 
vụ kiện thƣơng mại của nƣớc ngoài Nhà nƣớc cần hoàn thiện hệ thống pháp luật của 
Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh doanh nhằm phòng ngừa 
các vụ kiện thƣơng mại. Cần thực thi pháp lệnh về chống phá giá, chống trợ cấp và 
tự vệ thƣơng mại phù hợp với các quy định liên quan của WTO nhằm tạo cơ sở 
pháp lý để tự vệ, hoặc “ trả đũa” khi có đủ cơ hội. Cần gắn thực trạng các vụ tranh 
chấp thƣơng mại quốc tế với quá trình đàm phán các Hiệp định thƣơng mại song 
phƣơng và đa phƣơng. Để phòng ngừa, giảm bớt những nguy cơ áp dụng chế tài 
đơn phƣơng, gây thiệt hại cho sản xuất và xuất khẩu, phải tận dụng thế mạnh của 
thƣơng mại nƣớc ta, nhất là nên thực hiện biện pháp “có đi có lại, đôi bên cùng có 
lợi” trong thƣơng mại vì điều này sẽ góp phần giảm nguy cơ bị khiếu nại đơn 
phƣơng. Cần sớm đẩy mạnh các cuộc đàm phán gia nhập WTO và vận dụng cơ chế 
giải quyết tranh chấp của nó để tự vệ trƣớc những vụ kiện phi lý, thiếu công bằng. 
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động của Hiệp hội không thể 
không tính đến việc liên kết với các chủ thể nƣớc ngoài, nhất là đội ngũ đông đảo 
Việt kiều để lôi kéo họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế, tham gia vào hệ 
thống phân phối hàng hoá Việt Nam trên phạm vi toàn cầu. Bài học từ Trung Quốc 
có thể coi nhƣ một kinh nghiệm vàng. Ngƣời Trung Quốc đã thành lập một tổ chức 
phi Chính phủ gọi là “Phòng thƣơng mại ngƣời Hoa trên toàn cầu”. Đây là một thực 
thể kinh tế không đơn thuần chỉ đại diện cho lợi ích riêng trong nƣớc Trung Quốc 
mà là của ngƣời Hoa trên toàn thế giới. Nó trở thành một đối trọng kinh tế tác động 
tới tất cả các quốc gia khác. Đơn cử trong số trên 50 tỷ USD đầu tƣ nƣớc ngoài mỗi 
năm chảy vào Trung Quốc có tới 70% là do chính ngƣời Hoa đầu tƣ trở lại. Vậy nên 
94 
Nhà nƣớc ta cũng cần có cơ chế thu hút các doanh nghiệp nƣớc ngoài đặc biệt các 
doanh nghiệp Việt Kiều vào các tổ chức Hiệp hội tại Việt Nam. 
3.2.1.2 Hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng 
Trƣớc thực trạng khung pháp luật về hội còn lẻ tẻ, thiếu đồng bộ nhƣ hiện 
nay Nhà nƣớc cần phải xây dựng cơ sở pháp lý cho các Hiệp hội ngành hàng hoạt 
động. Xây dựng cơ sở pháp lý cho các Hiệp hội ngành hàng bao gồm hai bộ phận 
cấu thành quan trọng: 
+ Xác lập hành lang pháp lý chung đối với việc tổ chức và quản lý Hội. 
Những quy định này cụ thể hoá quyền lập Hội đƣợc Hiến pháp quy định, xác định 
cụ thể hơn thủ tục thành lập, sát nhập, giải thể, quyền và nghĩa vụ pháp lý của Hiệp 
hội và quy định biện pháp quản lý của Nhà nƣớc đối với Hội. 
+ Thể chế hoá các mối quan hệ phối hợp công tác giữa Hiệp hội ngành hàng 
với các cơ quan chính quyền, thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, cung 
cấp các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập, phát triển thị trƣờng, đồng thời bảo 
đảm để các doanh nghiệp thông qua các Hiệp hội ngành hàng tham gia xây dựng và 
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam. Nói cách khác, bên cạnh một văn 
bản pháp luật quy định về tổ chức, thủ tục thành lập giải thể … cho các loại hình 
Hiệp hội, cần có một văn bản riêng thể chế hoá những quan điểm, chính sách của 
Đảng và Nhà nƣớc đối với các Hiệp hội ngành hàng (hai văn bản này có vai trò 
tƣơng tự nhƣ Luật doanh nghiệp và nghị định 90/2001/CP về doanh nghiệp nhỏ và 
vừa đối với sự phát triển doanh nghiệp). Pháp luật phải khuyến khích, tạo điều kiện 
cho các Hiệp hội thu hút hội viên và các hội viên gắn bó với Hiệp hội, phải bảo vệ 
đƣợc các quyền và lợi ích chính đáng của họ trong kinh doanh, giải quyết các tranh 
chấp đảm bảo lợi ích của các bên và đảm bảo lợi ích của Nhà nƣớc, của xã hội. 
Môi trƣờng pháp lý thuận lợi không chỉ thể hiện điều kiện thuận lợi trong 
những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của các Hiệp hội ngành hàng 
mà còn phải thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ, trách 
nhiệm của các tác nhân khác, đặc biệt là Nhà nƣớc trong việc tạo điều kiện cho các 
hoạt động kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các Hiệp hội. 
95 
Tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật, trong hệ thống chính sách, cơ chế là 
một tiền đề để đảm bảo tính hiệu quả. Trong quá trình phát triển sắp tới, việc xây 
dựng thể chế kinh tế phải đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp lý, cơ chế, 
chính sách ở Việt Nam, đồng thời phải đảm bảo tính tƣơng thích với những quy 
chuẩn quốc tế, thúc đẩy nhanh hơn nữa và hiệu quả hơn nữa quá trình chủ động hội 
nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật cần tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh 
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong cùng một Hiệp hội và giữa các Hiệp hội 
thuộc các ngành hàng khác nhau. 
Trong dự thảo luật về Hội đang đƣợc thảo luận hiện nay vẫn còn nhiều bất 
cập, Thứ nhất là không cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trở 
thành hội viên chính thức mà chỉ là hội viên liên kết, đây thực sự là một sai lầm vì 
các doanh nghiệp nƣớc ngoài thông thạo thị trƣờng xuất khẩu và pháp luật quốc tế 
hơn ta vì vậy nếu có kiện tụng cũng sẽ ảnh hƣởng tới quyền lợi của các doanh 
nghiệp nƣớc ngoài do đó họ sẽ ủng hộ ta và do họ năm bắt tốt thị trƣờng nƣớc ngoài 
sẽ giúp các doanh nghiệp khác trong Hiệp hội tránh đƣợc các vụ kiện, ngoài ra việc 
phân biệt đối xử này đang đi ngƣợc lại nguyên tắc của WTO mà chúng ta đang đàm 
phán gia nhập, thứ hai dự luật do Bộ nội vụ soan thảo các hội vẫn phải chịu sự quản 
lý của các Bộ chuyên ngành, rất có thể một Hội phải xin ba bốn Bộ gây khó khăn 
cho hoạt động của Hiệp hội và thực tế có quá nhiều cơ quan quản lý Hội, thậm chí 
cả UBND quận, huyện, có Hội chỉ vì không có văn bản đồng ý của cơ quan Nhà 
nƣớc mà gần 10 năm nay không tổ chức đại hội đƣợc, thứ ba quy định số ngƣời tối 
thiểu mới đƣợc lập Hội và Hội phải có trụ sở nhiều khi gây khó khăn cho việc lập 
Hội, thứ tư các quy định về Hội trong dự thảo luật chỉ phù hợp với thực trạng xã hội 
đƣơng thời ít nhiều đều dựa vào sự bao cấp của Nhà nƣớc nhƣng khi kinh tế tƣ nhân 
gia tăng và các lợi ích ngày càng đa dạng trong xã hội sẽ thúc đẩy các Hiệp hội tự 
lớn dần lên và đòi quyền đại diện lợi ích cho các hội viên của họ khi ấy khung khổ 
pháp lý sẽ trở nên chật hẹp cho sự phát triển trong tƣơng lai không xa này. 
3.2.2 Các giải pháp đối với các Hiệp hội ngành hàng 
3.2.2.1 Quan hệ với Chính phủ và các cơ quan Nhà nước 
96 
Hiện nay sự tham gia của các Hiệp hội ngành hàng vào quá trình xây dựng 
luật pháp, chính sách kinh tế, tạo lập môi trƣờng kinh doanh thuận lợi cho doanh 
nghiệp còn có nhiều hạn chế. Đối thoại giữa Hiệp hội ngành hàng và chính quyền 
chƣa thực sự là hoạt động phổ biến tại các địa phƣơng, việc tổ chức đối thoại có nơi 
chỉ mang tính hình thức, phong trào, đối phó, không đi vào thực chất, chƣa có nhiều 
cuộc đối thoại sâu, chuyên biệt, thƣờng kỳ vào những lĩnh vực cụ thể. Do công tác 
chuẩn bị chƣa tốt nên nhiều cuộc đối thoại diễn ra dƣới hình thức hỏi đáp giữa Hiệp 
hội và các cơ quan Nhà nƣớc, các ý kiến của các Hiệp hội, các doanh nghiệp thƣờng 
thiên về kêu ca, khiếu nại và khiếu kiện, chƣa tổ chức đƣợc nhiều cuộc đối thoại lấy 
ý kiến về xây dựng, sửa đổi chính sách hay hiến kế. Theo Tiến sỹ Phạm Duy Nghĩa 
ở khoa Luật Đại học quốc gia ở nƣớc ngoài các Hiệp hội mất 30% thời gian làm 
việc với các cơ quan công quyền để nhờ các cơ quan này nói hộ, xây dựng hộ chính 
sách có lợi cho họ còn ở Việt Nam các Hiệp hội cũng mất ngần ấy thời gian nhƣng 
mà để xin sự công bằng, trụ sở, ô tô. Một số cơ quan Nhà nƣớc chƣa quan tâm tổ 
chức các cuộc đối thoại thƣờng xuyên, một số cán bộ Nhà nƣớc có tƣ duy quan 
điểm còn áp đặt, khép kín, “tƣ duy bề trên”, chƣa xem các Hiệp hội là một đối tác 
quan trọng. Ngay bản thân các Hiệp hội chƣa chủ động tổ chức các buổi đối thoại 
có hiệu quả, còn tự ti, phụ thuộc quá nhiều vào Nhà nƣớc. Nhằm giải quyết các 
vƣớng mắc trên, với địa phƣơng có nhiều Hiệp hội, các Hiệp hội có thể hiệp thƣơng 
hoặc dƣới sự bảo trợ của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam để tiến hành 
đối thoại hàng năm, hàng quý với lãnh đạo chính quyền về môi trƣờng pháp luật và 
chính sách kinh tế xã hội. Các Hiệp hội ngành hàng chủ động tăng cƣờng đối thoại 
với các sở, ban quản lý chuyên ngành có liên quan, trên cơ sở các cuộc đối thoại với 
sở, ban, ngành, tập hợp các kiến nghị vƣợt thẩm quyền chuyển lãnh đạo cấp trên 
giải quyết. Các Hiệp hội cần tổng hợp và công bố kết quả đối thoại với các hội viên, 
phân công theo dõi, giám sát các cơ quan chức năng giải quyết các kiến nghị của 
doanh nghiệp, Hiệp hội, có sự can thiệp kịp thời nếu giải quyết chậm, sai. [9] 
Hiệp hội cũng cần chủ động mời các cơ quan lãnh đạo tham dự các cuộc họp 
của Hiệp hội để cùng hiến kế xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và cho các 
97 
cán bộ lãnh đạo thấy thực trạng phát triển của các Hiệp hội mà có những chính sách 
thích hợp, tăng cƣờng sự hiểu biết giữa chính quyền và doanh nghiệp, tạo lập sự 
đồng thuận vì mục tiêu phát triển kinh tế đất nƣớc. 
Hiệp hội ngành hàng phải tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào quá trình đóng 
góp xây dựng chính sách pháp luật và đề xuất với Nhà nƣớc xây dựng và hoàn thiện 
hệ thống chính sách đối với các Hiệp hội ngành hàng nhằm đảm bảo các chính sách 
pháp luật ban hành sát đúng với thực tiễn và có tính khả thi. 
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc, Hiệp hội ngành 
hàng cần phát huy vai trò tƣ vấn cho Chính phủ những vấn đề liên quan đến 
ngành mình trong các nội dung cam kết ở các Hiệp định song phƣơng và đa 
phƣơng góp phần đảm bảo thành công cho sự phát triển của ngành trong quá trình 
tham gia hội nhập. 
3.2.2.2 Nâng cao năng lực lãnh đạo và hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên 
Ở các nƣớc trên thế giới, vai trò của Hiệp hội có quyết định rất lớn đến sự 
phát triển của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp không chỉ ở một quốc gia mà 
rộng ra cả quốc tế. Còn ở Việt Nam, hoạt động của các Hiệp hội thƣờng mang tính 
tự phát, đơn lẻ và đôi khi là sự chỉ đạo của lãnh đạo cấp trên lên chƣa thực sự lôi 
cuốn đƣợc nhiều thành viên tham gia. Chính vì vậy để lôi cuốn đƣợc các doanh 
nghiệp, Ban lãnh đạo Hiệp hội cần phải lên một chiến lƣợc và chƣơng trình hành 
động cụ thể trong từng giai đoạn và từng nhóm doanh nghiệp, Hiệp hội cần phát 
huy vai trò điểm tựa hỗ trợ các doanh nghiệp trên tất cả mọi lĩnh vực. Các chiến 
lƣợc này phải bắt nguồn từ cuộc sống sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Phải 
tuyệt đối tránh tình trạng quan liêu, hành chính hoá hoạt động của lãnh đạo Hiệp 
hội, quan hệ giữa lãnh đạo của Hiệp hội là quan hệ với cộng đồng, cùng phấn đấu vì 
sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp. 
Các Hiệp hội ngành hàng cũng cần đổi mới phƣơng thức hoạt động, tập hợp 
rộng rãi các thành viên, mở rộng hợp tác quốc tế, các Hiệp hội cũng cần tiến hành 
đánh giá những hình thức liên kết, hợp tác của các doanh nghiệp một mặt hạn chế 
những hình thức liên kết tạo độc quyền và cạnh tranh không bình đẳng giữa các 
98 
thành phần kinh tế. Hiệp hội cần tiếp tục nâng cao vai trò đại diện, làm đầu mối 
phối hợp hành động giữa các doanh nghiệp. Thông qua các hoạt động của mình, 
hiệp hội cần quan tâm kết nạp thêm các hội viên thuộc các thành phần kinh tế khác 
nhƣ doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, doanh nghiệp tƣ nhân nhằm đa dạng 
hoá hoạt động của mình. Để làm tốt các công tác hỗ trợ trên, các Hiệp hội ngành 
hàng cần có một bộ máy lãnh đạo tốt cùng với một nền tài chính mạnh. 
Hiện nay các lãnh đạo của các Hiệp hội thƣờng là những ngƣời kiêm nhiệm, 
họ vừa làm công tác lãnh đạo ở một cơ quan Nhà nƣớc vừa lãnh đạo Hiệp hội nên 
chƣa chú tâm nhiều đến các hoạt động nâng cao vai trò hoạt động của các Hiệp hội 
hoặc những cán bộ của các cơ quan Nhà nƣớc đã nghỉ hƣu. Thực tế hiện nay ở nƣớc 
ta tình trạng thiếu cán bộ có năng lực, cán bộ chuyên trách là rất phổ biến tại các 
Hiệp hội ngành hàng, rất ít ngƣời quan niệm hoạt động Hội là một nghề, đòi hỏi 
tính chuyên nghiệp cao không kém gì các nghề khác. Không những thế, năng lực 
của ban lãnh đạo của Hiệp hội còn rất yếu do đó chƣa đảm đƣơng tốt các hoạt động 
tổ chức, tƣ vấn, xúc tiến thƣơng mại, đại đa số cán bộ nhân viên Hiệp hội không 
đƣợc trang bị chuyên môn để tổ chức, quản lý Hiệp hội và cung cấp dịch vụ cho hội 
viên, nguyên nhân do tình trạng trên là các Hiệp hội thƣờng do Nhà nƣớc hỗ trợ 
thành lập và đa phần là các doanh nghiệp Nhà nƣớc nên chƣa có cơ chế thu hút 
những ngƣời tài ở các thành phần khác tham gia và hơn thế nữa do kinh phí hoạt 
động thƣờng do hội phí đóng góp nên lƣơng trả cho nhân viên Hiệp hội thƣờng rất 
thấp. Tuy nhiên trong tƣơng lai để tăng thêm kinh phí từ việc cung cấp dịch vụ 
không có cách nào khác là các Hiệp hội cần phải tuyển nhiều ngƣời tài vào vị trí 
lãnh đạo Hiệp hội, một Hiệp hội có những lãnh đạo mạnh, hoạt động tốt mới có thể 
thu hút đƣợc nhiều doanh nghiệp tham gia. Hiệp hội phải chủ động trong công tác 
cán bộ, tập thể cần lựa chọn những cán bộ am hiểu công việc, có uy tín, có nhiệt 
tình với công tác hội, Chủ tịch Hiệp hội phải là ngƣời trƣởng thành từ đội ngũ cán 
bộ quản lý kinh doanh trong ngành hàng đƣợc tập thể tín nhiệm bầu ra chứ không 
phải là quan chức kiêm nhiệm hay đƣợc Nhà nƣớc hoặc bộ chủ quản chỉ đinh. 
99 
Các Hiệp hội cũng cần có một cơ cấu tổ chức thích hợp hơn với Ban lãnh 
đạo gọn nhẹ nhƣng hoạt động có hiệu quả. Hiện nay do chƣa có một mô hình thống 
nhất nên cơ cấu tổ chức của các Hiệp hội thƣờng phụ thuộc vào thực trạng nguồn 
kinh phí và năng lực cụ thể của Ban lãnh đạo chứ chƣa xuất phát từ chức năng 
nhiệm vụ của Hiệp hội. Việc hoàn chỉnh mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt động 
của bộ máy lãnh đạo Hiệp hội cần theo hƣớng hình thành các tổ chức chuyên trách 
của Hiệp hội ngành hàng và phân theo chi hội ở từng địa phƣơng để dễ quản lý và 
hoạt động. Các thành viên Hiệp hội cần đề cử vào bộ phận văn phòng Hiệp hội 
những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, ngoại ngữ tốt, năng động để hoàn thành 
nhiệm vụ của Hiệp hội. Các Hiệp hội ngành hàng cần có những liên kết với các 
Hiệp hội thuộc các lĩnh vực khác nhƣng có liên quan đến ngành hàng xuất khẩu của 
Hiệp hội để tạo ra sự phối hợp giữa các ngành trong việc nâng cao hiệu quả xuất 
khẩu. Có thể tính tới việc hình thành Hiệp hội của các Hiệp hội để tạo môi trƣờng 
giao lƣu giữa các Hiệp hội, thƣờng xuyên trao đổi nghiệp vụ, thông tin bổ ích. 
Tình trạng tài chính của các Hiệp hội hiện nay rất hạn hẹp, nhiều Hiệp hội 
chƣa tạo đƣợc các nguồn thu thƣờng xuyên bảo đảm cho các hoạt động của Hiệp 
hội. Trong khi kinh phí do Nhà nƣớc cấp và các tổ chức quốc tế hỗ trợ còn nhỏ và 
không thƣờng xuyên, các Hiệp hội ngành hàng nên chủ động về tài chính chứ không 
nên trông đợi vào hỗ trợ bên ngoài. Để làm đƣợc điều đó các Hiệp hội nên mở rộng 
các hoạt động dịch vụ, tƣ vấn, đào tạo không chỉ cho các hội viên mà còn cả các 
doanh nghiệp trong ngành. Cùng với việc mở rộng các hoạt động dịch vụ các Hiệp 
hội cũng phải không ngừng nâng cao chất lƣợng các hoạt động này cho phù hợp với 
yêu cầu của các doanh nghiệp và tình hình mới và phát triển thêm nhiều dịch vụ 
mới nhƣ tổ chức trao đổi kinh nghiệm, tuyên truyền và phổ biến kinh nghiệm xây 
dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh. Ngoài ra cần có cơ chế quản lý tài 
chính nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai, thƣờng xuyên báo cáo cho các hội 
viên để tránh gây mất đoàn kết cho các hội viên. 
3.2.2.3 Đẩy mạnh công tác thông tin 
100 
Trên cơ sở hình thành các bộ phận chuyên trách trong Ban lãnh đạo Hiệp 
hội, cần nâng cao năng lực của các cán bộ thuộc bộ phận phụ trách công tác thông 
tin. Các nguồn thông tin có thể từ trong và ngoài nƣớc. Để chất lƣợng thông tin 
đƣợc tốt, kịp thời, các Hiệp hội cần chú trọng đến các hình thức thu thập thông tin 
chẳng hạn qua sách, báo, Website của các Cơ quan chủ quản, các tổ chức quốc tế, 
các Hiệp hội ngành hàng thế giới. 
Một nguồn thông tin khác là từ các cơ quan thƣơng vụ của Chính phủ tại các 
nƣớc ngoài ví dụ nhƣ theo Tổng thƣ ký Hiệp hội gỗ - lâm sản Việt Nam khẳng định 
Hiệp hội sẵn sàng đứng ra mua thông tin từ các Tham tán nhƣng vấn đề là Hiệp hội 
phải đứng ra kết nối đƣợc nhu cầu của doanh nghiệp với các Tham tán. Hiệp hội sẽ 
là nơi cung cấp thông tin cho các Tham tán và cũng trở thành đầu mối để Tham tán 
chuyển tải thông tin về thị trƣờng nƣớc ngoài cho các doanh nghiệp một cách hiệu 
quả nhất. Các doanh nghiệp không nên làm việc một cách đơn lẻ, “buôn thúng bán 
mẹt” mà hãy tập trung lại cùng mở cửa các thị trƣờng lớn. Các Hiệp hội nên phối 
hợp với các Tham tán trong công tác nghiên cứu thị trƣờng, tìm kiếm thông tin. 
Hiệp hội bỏ chi phí để Tham tán tìm kiếm thông tin cho mình hoặc thông qua Tham 
tán thuê các công ty tƣ vấn cho mình. Theo tổng thƣ ký Hiệp hội gỗ và lâm sản nếu 
một chuyến đi tìm nguồn nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến gỗ có thể tốn 
vài chục tới vài trăm ngàn đôla thì việc bỏ ra vài ngàn đô la không có khó khăn gì. 
Đây có thể là một giải pháp tốt trong công tác thu thập thông tin chất lƣợng hiện 
nay. 
3.2.2.4 Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại 
Hiện nay công tác xúc tiến thƣơng mại ở Việt Nam tuy nhiều Hiệp hội tiến 
hành nhƣng chất lƣợng chƣa cao, thiếu hiểu biết về thị trƣờng, thiếu kỹ năng lập và 
tổ chức kế hoạch, thiếu nguồn tài chính cần thiết. Do đó trƣớc mắt cần đẩy mạnh 
hoạt động của các cán bộ chuyên trách tại Văn phòng Hiệp hội. Họ không chỉ có 
nghĩa vụ thực hiện các dịch vụ tƣ vấn hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu mà còn cần 
phải nghiên cứu sâu về thị trƣờng xuất khẩu, phát hiện các rào cản thƣơng mại mới 
và đề xuất hƣớng giải quyết, nghiên cứu các hình thức xúc tiến thƣơng mại mới nhƣ 
101 
phát triển thƣơng hiệu, tiếp cận với các giao dịch hiện đại. Cần xem xét các khả 
năng để sớm mở văn phòng đại diện ở các thị trƣờng trọng điểm ở nƣớc ngoài để 
chủ động khảo sát nắm bắt tình hình thị trƣờng nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất 
khẩu thuỷ sản ở các thị trƣờng lớn, giữ vững thị trƣờng đã có, tìm kiếm mở rộng các 
thị trƣờng mới. 
Các Hiệp hội cũng cần thay đổi và cải tiến liên tục các phƣơng thức xúc tiến 
thƣơng mại cho phù hợp với đặc điểm của từng loại thị trƣờng, thiết kế gian hàng 
tại các hội chợ triển lãm mang tính chuyên nghiệp hơn, mang phong cách Việt Nam. 
Bên cạnh đó các Hiệp hội cần xây dựng đề án và triển khai từng bƣớc việc tổ chức 
các đầu mối và các kênh tiêu thụ chung cho các doanh nghiệp hội viên tại các thị 
trƣờng Mỹ, EU, Nhật, Trung Quốc…, hoạt động theo phƣơng thức tự chủ tài chính, 
cung cấp thông tin và các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp hội viên. 
Mặt khác, việc phối hợp với các đối tác nƣớc ngoài xây dựng các liên minh 
chiến lƣợc bốn bên ( nhà sản xuất Việt Nam, các hệ thống siêu thị nƣớc ngoài, các 
tổ chức chứng nhận chất lƣợng và các tổ chức bảo vệ môi trƣờng, xã hội) để xây 
dựng các tiêu chuẩn chung và quy chế thƣơng mại bình đẳng nhằm nhanh chóng 
tiến kịp với sự phát triển của thƣơng mại thế giới và nhu cầu ngày càng cao của thị 
trƣờng thế giới. 
Các Hiệp hội cũng cần làm cầu nối tổ chức chắp mối các quan hệ làm ăn 
kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt động chắp mối có thể thông qua xúc tiến 
trực tiếp, qua điện thoại, email, thƣ giới thiệu… Phát triển các dịch vụ xúc tiến, hỗ 
trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trƣờng theo nguyên tác có sự phối hợp với các Hiệp 
hội và các tổ chức xúc tiến khác. Tích cực thúc đẩy sự hình thành của thị trƣờng các 
dịch vụ hỗ trợ kinh doanh ở Việt Nam. Tập trung nguồn lực của Hiệp hội vào các 
hoạt động có lợi thế cao, những hoạt động xúc tiến ở tầm quốc gia, xây dựng mạng 
lƣới tiếp thị tập thể, các chiến dịch xây dựng hình ảnh quốc gia, chiến lƣợc phát 
triển và bảo vệ thƣơng hiệu Việt Nam, các dự án hỗ trợ tái cơ cấu và chuyển giao 
công nghệ lớn. Chú ý phát triển hệ thống thƣơng mại điện tử nhằm đảm bảo kết nối 
các kênh xúc tiến thƣơng mại một cách đầy đủ, cập nhật và hiệu quả cao. Cần thay 
102 
đổi nhận thức của một số doanh nghiệp muốn tiết kiệm chi phí mà chƣa chú trọng 
vào hoạt động xúc tiến thƣơng mại và tháo gỡ một số bất cập của hoạt động xúc tiến 
thƣơng mại hiện nay nhƣ tổ chức hội chợ triển lãm tràn lan nhƣng hiệu quả chƣa 
cao, nhiều hội chợ có nội dung khá giống nhau trên cùng một địa bàn nên không thu 
hút đƣợc nhiều ngƣời tham gia, hoạt động xúc tiến còn lẻ tẻ, tính chất chuyên 
nghiệp chƣa cao, trình độ tiếp thị còn kém…. 
3.2.2.5 Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm 
Trƣớc hết Hiệp hội cần hỗ trợ cải thiện chất lƣợng nguồn nguyên liệu đầu 
vào, nâng cao khả năng kiểm tra kiểm soát chất lƣợng các nguồn nguyên liệu, kết 
hợp với các trung tâm nghiên cứu và các viện nghiên cứu triển khai các nguồn 
nguyên liệu mới cho hiệu quả chất lƣợng cao. Cần tổ chức các khoá huấn luyện 
nâng cao trình độ cho các nhà cung cấp nguyên liệu đặc biệt là các nông ngƣ dân 
nhằm chống đƣa tạp chất và nguyên liệu hay sử dụng hoá chất kháng sinh bị cấm ở 
các ngành nông lâm ngƣ nghiệp. Cần nghiên cứu tìm hiểu các nguồn công nghệ 
mới, giải pháp quản lý tiên tiến và phổ biến áp dụng cho các hội viên để quản lý tốt 
hơn quá trình sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả và giảm chi phí. Cần đào tạo các 
cán bộ có chuyên môn về mặt công nghệ, phấn đấu để hiệp hội còn là trung tâm 
công nghệ cho các hội viên. 
Cần phối hợp với các Bộ chủ quản, các ngành hữu quan tăng cƣờng hỗ trợ 
các doanh nghiệp hội viên xây dựng, phát triển và đăng ký bảo hộ thƣơng hiệu 
riêng, gắn với các giải pháp đảm bảo tiêu chuẩn sản phẩm và xúc tiến thƣơng mại 
nhƣ một chỉnh thể tạo nên lợi thế cạnh tranh cho cả ngành và cho từng doanh 
nghiệp. 
Nhờ các mối quan hệ rộng lớn, các Hiệp hội cũng cần hỗ trợ các doanh 
nghiệp hội viên tìm các nhu cầu và điều tiết nhu cầu nhằm tranh các tình trạng tranh 
mua tranh bán hay tích trữ tồn kho quá nhiều mà không tìm đƣợc đầu ra, khuyến 
khích các hội viên đa dạng hoá thị trƣờng để tranh khi gặp rào cản tại bất kì một thị 
trƣờng nào đó lại không thể tìm kiếm nhu cầu ở các thị trƣờng khác và gây ra tình 
trạng bế tắc đầu ra cho doanh nghiệp. 
103 
3.2.3 Các giải pháp về phía doanh nghiệp 
Trƣớc hết các doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò to lớn của các Hiệp hội 
ngành hàng và sự cần thiết phải tham gia liên kết với các doanh nghiệp trong ngành 
bởi đây sẽ là diễn đàn để có thể trao đổi kinh nghiệm, tạo môi trƣờng cạnh tranh 
công bằng và lành mạnh, tạo nên sức mạnh ngành trong việc giải quyết và bảo vệ 
cho các doanh nghiệp khi gặp các trở ngại trong thƣơng mại quốc tế. 
Các doanh nghiệp không đƣợc có những hành động cạnh tranh không lành 
mạnh, dẫn đến phân tán, chia rẽ trong nội bộ mà phải hỗ trợ nhau từng bƣớc tăng 
cƣờng sức mạnh chung cho toàn ngành. Cần tránh các thái độ thờ ơ trƣớc những 
diễn biến có hại cho ngành mà cần chủ động đoàn kết với các doanh nghiệp khác 
cùng giải quyết vì khi đã ảnh hƣởng tới ngành rất có khả năng sẽ ảnh hƣởng tới 
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm hội viên 
nhƣ tham gia đóng hội phí đầy đủ, đúng hạn, tham gia tích cực vào các hoạt động 
của Hiệp hội và tuân thủ các cam kết chung đã đặt ra. 
Bên cạnh sự hỗ trợ của Hiệp hội, các doanh nghiệp cũng cần chủ động làm 
tốt công tác nghiên cứu thị trƣờng, phát triển mạng lƣới tiêu thụ, nâng cao chất 
lƣợng sản phẩm để không ngừng giữ vững và phát triển thị trƣờng xuất khẩu. Cần 
biết tận dụng những hỗ trợ ấy làm tiền đề cho những sáng tạo, phát triển ngày một 
vững mạnh trong tƣơng lai . Các doanh nghiệp ở các ngành hàng chƣa có Hiệp hội 
cần xem xét để vận động các doanh nghiệp khác cùng thành lập Hiệp hội nhƣ ngành 
sữa, sành sứ- thuỷ tinh, đó là xu hƣớng phát triểu tất yếu nếu các doanh nghiệp 
muốn tồn tại vững chắc. 
104 
KẾT LUẬN 
 
Việt Nam đã và đang hội nhập đầy đủ theo các thoả thuận của AFTA, đồng 
thời mở cửa thị trƣờng mạnh mẽ đáp ứng việc gia nhập WTO và cạnh tranh quốc tế 
là một hiện thực. Để chuẩn bị cho việc này không chỉ bản thân các doanh nghiệp 
cần nỗ lực hết mình trong việc sắp xếp lại sản xuất, nâng cao khả năng về vốn, 
nghiên cứu thị trƣờng, thời cơ, thách thức của tiến trình hội nhập một cách kỹ lƣỡng 
để xác định lựa chọn những thị trƣờng mục tiêu mà còn cần phát huy sức mạnh 
đoàn kết, sức mạnh ngành ở các Hiệp hội ngành hàng trƣớc các thế lực kinh tế hùng 
mạnh trên thế giới. 
Luận văn đã tiến hành nghiên cứu về vai trò, nội dung hoạt động của các 
Hiệp hội ngành hàng nhằm thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp thành viên. 
Phân tích, đánh giá thực trạng về sự hình thành và phát triển của Hiệp hội ngành 
hàng ở Việt Nam và những thành công đạt đƣợc của các Hiệp hội ngành hàng xuất 
khẩu cũng nhƣ những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của nó. Đồng thời, luận 
văn cũng đã tiến hành nghiên cứu thực trạng của sự hình thành và phát triển của 
một số Hiệp hội ngành hàng ở một số nƣớc trên thế giới nhằm rút ra những bài học 
bổ ích cho Việt Nam và cho việc đề xuất các giải pháp kiến nghị nhằm phát triển 
Hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. 
Theo sự phát triển kinh tế, các Hiệp hội ngành hàng tại Việt Nam sẽ phát 
triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, vai trò của Hiệp hội sẽ ngày càng đƣợc nâng 
cao, do đó những đề xuất về các giải pháp cho các Hiệp hội ngành hàng xuất khẩu 
trong phạm vi bài viết này mong muốn đƣợc góp phần định hƣớng cho sự phát triển 
của các Hiệp hội trong tƣơng lai cũng nhƣ là những kiến nghị giúp Chính phủ 
nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý tạo khuôn khổ cho các hoạt động của Hiệp 
hội ngành hàng. 
Do khả năng còn nhiều hạn chế và nhận thức còn bị thu hẹp do sự hình thành 
và phát triển Hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam mới chỉ ở bƣớc đầu, các nghiên cứu 
105 
có liên quan mới chỉ ở bƣớc tìm tòi khám phá chứ chƣa đề cập một cách chuyên sâu 
theo những mô hình nhất quán, vì vậy tác giả rất mong đƣợc những đóng góp của 
bạn đọc. Xin trích lời Thủ tƣớng Phan Văn Khả trong cuộc gặp doanh nghiệp hàng 
năm tại thành phố Hồ Chí Minh (24-25/3/03) về những hy vọng sắp tới cho các 
Hiệp hội ngành hàng thay cho đoạn kết bài viết: “Hy vọng rằng với sự quan tâm và 
chỉ đạo chặt chẽ của Chính phủ, các doanh nghiệp và doanh nhân thuộc mọi thành 
phần kinh tế, các Hiệp hội doanh nghiệp sẽ phấn đấu với khí thế mới, đạt được 
những thành tựu to lớn hơn cả về nhịp độ tăng trưởng và chất lượng phát triển”. 
106 
MỤC LỤC 
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 
DANH MỤC CÁC BẢNG 
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ............. 5 
1.1 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ............................... 5 
1.1.1 KHÁI NIỆM VỀ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ........................................ 5 
1.1.1.1 KHÁI NIỆM HỘI ................................................................................ 5 
1.1.1.2 KHÁI NIỆM HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ........................................... 6 
1.1.1.3 SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT HUY KHẢ NĂNG LIÊN KẾT 
THÔNG QUA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG .................................................... 8 
1.1.2 VAI TRÒ CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG TRONG VIỆC THÚC 
ĐẨY XUẤT KHẨU ..................................................................................... 10 
1.1.2.1 LÀM CẦU NỐI GIỮA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ 
NƢỚC, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC VỚI CÁC DOANH NGHIỆP 
THÀNH VIÊN .............................................................................................. 11 
1.1.2.2 HỖ TRỢ CÁC DOANH NGHIỆP TRONG VIỆC ĐÀO TẠO VÀ 
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ........................................................... 13 
1.1.2.3 CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ TƢ VẤN, HỖ TRỢ VỀ KHOA 
HỌC CÔNG NGHỆ ...................................................................................... 13 
1.1.2.4 HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI ........ 15 
1.1.2.5 XÚC TIẾN XUẤT KHẨU ................................................................ 16 
1.1.2.6 ĐẠI DIỆN CHO CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG MỐI 
QUAN HỆ VỚI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ ................................................ 18 
1.2 HÌNH THỨC TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP 
HỘI NGÀNH HÀNG Ở VIỆT NAM .......................................................................... 20 
1.2.1 HÌNH THỨC TỔ CHỨC ..................................................................... 20 
107 
1.2.2 PHƢƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI .............................. 25 
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ HIỆP HỘI 
NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ........ 27 
2.1 KHÁI QUÁT VỀ CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG VIỆT NAM ......................... 27 
2.1.1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIỆP HỘI 
NGÀNH HÀNG TẠI VIỆT NAM ................................................................ 27 
2.1.2 MỘT SỐ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU TIÊU BIỂU 
CỦA VIỆT NAM .......................................................................................... 34 
2.2 TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT 
KHẨU TẠI VIỆT NAM ............................................................................................. 39 
2.2.1 HOẠT ĐỘNG CẦU NỐI GIỮA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ 
NƢỚC, CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ KHÁC VỚI CÁC DOANH NGHIỆP 
THÀNH VIÊN .............................................................................................. 39 
2.2.2
HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN 
NHÂN LỰC.................................................................................................. 47 
2.2.3 HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP THÔNG TIN, TƢ VẤN VÀ HỖ TRỢ 
VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ.................................................................... 49 
2.2.4 HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP 
THƢƠNG MẠI ............................................................................................. 54 
2.2.5 HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ XÚC TIẾN XUẤT KHẨU ............................ 60 
2.2.6 HOẠT ĐỘNG ĐẠI DIỆN CHO CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP 
TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ ......................... 67 
2.3 NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN .......................................................... 69 
2.3.1 NHỮNG HẠN CHẾ TỒN TẠI ............................................................ 69 
2.3.2 NGUYÊN NHÂN ................................................................................ 74 
2.3.2.1 NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN ................................................... 74 
2.3.2.2 NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN ........................................................ 78 
108 
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT 
ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM ................ 80 
3.1 TÌM HIỂU KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ HIỆP HỘI 
NGÀNH HÀNG TRÊN THẾ GIỚI ............................................................................. 80 
3.1.1 MỘT SỐ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG TRÊN THẾ GIỚI ..................... 80 
3.1.1.1 MỘT VÀI NÉT VỀ CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG Ở ANH ........ 80 
3.1.1.2 HIỆP HỘI THUỶ SẢN NHẬT BẢN ................................................ 82 
3.1.1.3 HIỆP HỘI DỆT MAY ẤN ĐỘ .......................................................... 86 
3.1.2 MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC 
HIÊP HỘI NGÀNH HÀNG TRÊN THẾ GIỚI ............................................. 88 
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA 
HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM ..................................... 90 
3.2.1 CÁC GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ................................... 90 
3.2.1.1 HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI 
VỚI CÁC HỘI NÓI CHUNG VÀ HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG NÓI 
RIÊNG. ......................................................................................................... 90 
3.2.1.2 HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT CHO HOẠT ĐỘNG CỦA 
CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ................................................................. 94 
3.2.2 CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÁC HIỆP HỘI NGÀNH HÀNG ............ 95 
3.2.2.1 QUAN HỆ VỚI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƢỚC ... 95 
3.2.2.2 NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ HỖ TRỢ CÁC 
DOANH NGHIỆP THÀNH VIÊN ................................................................ 97 
3.2.2.3 ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN .......................................... 99 
3.2.2.4 ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC XÚC TIẾN THƢƠNG MẠI ................. 100 
3.2.2.5 NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM ...... 102 
3.2.3 CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP ................................. 103 
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 104 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3073_2429.pdf 3073_2429.pdf