Luận văn Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh

Chính quyền cấp xã và CBCC chính quyền cấp xã là trung tâm, nền tảng của hệ thống chính trị, là nguồn nhân lực quan trọng ở địa phương, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước nhằm đưa đất nước ta vững bước vào thế kỷ XXI trong xu thế hòa nhập với thế giới. Hiện nay, đất nước ta xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi CBCC phải có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, có trí tuệ, trình độ và năng lực, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Cấp xã là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên năng lực của cán bộ công chức xã là năng lực thực hành, tổ chức công việc và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Do đó năng lực lãnh đạo quản lý của CBCC giữ vai trò quyết định và là tiêu chuẩn cao nhất trong hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ. Bởi vậy nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là nhiệm vụ tiên quyết, phù hợp với xu thế hội nhập. Trong những năm qua, việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã huyện Bình Liêu đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận, năng lực CBCC cấp xã từng bước nâng cao. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy trình độ chuyên môn, trình độ lý luận của đội ngũ này còn bất cập. Đây là thách thức lớn đặt ra, đòi hỏi phải có giải pháp hợp lý, tích cực để nâng cao chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu tỉnh Quảng, những định hướng và mục tiêu phát triển NNL của tỉnh nói chung và huyện Bình Liêu nói riêng. Tác giả đã đề xuất 7 giải pháp sát hợp với điều kiện thực tiễn của huyện dân tộc miền núi biên giới gồm: (1)Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; (2)Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC; (3)Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng, luân chuyển; (4)Thực hiện trẻ hóa đội ngũ CBCC; (5)Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về CBCC cấp xã từ nay đến hết năm 2020 và chuẩn bị cho công tác cán bộ giai đoạn 2020- 2025; (6) Đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, HĐND, UBND111 xã. Các giải pháp trên cần thực hiện một cách đồng bộ, không được coi nhẹ giải pháp nào. Tuy nhiên theo tác giả luận văn trước thực trạng của CBCC cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh thì việc đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã phải xác định là then chốt và xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về CBCC cấp xã là khâu đột phá góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý. Ngoài những kiến nghị cụ thể trên, luận văn có một số kiến nghị nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã vừa có đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là: Cần có sự nghiên cứu, sửa đổi những hạn chế của Luật tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND (Sửa đổi). Quy định rõ hơn, cụ thể hơn quyền hạn, nhiệm vụ của HĐND và UBND cũng như cơ chế để thực hiện các quyền đó. Nhất là các quy định đảm bảo cho hoạt động của HĐND có hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ cần sớm đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ chính sách đãi ngộ cũng như các tiêu chuẩn cần phải có đối với CBCC chính quyền cấp xã. Trên cơ sở đó các cấp chính quyền xây dựng quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý nhằm tạo sự an tâm, cũng như ý thức phấn đấu vươn lên của cán bộ cấp xã. Đối với các chức danh CBCC chính quyền cấp xã phải qua bầu cử như: Đối với chức danh Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND có thể sử dụng cơ chế dân bầu trực tiếp; đối với chức danh chủ tịch UBND trong những trường hợp cần thiết mà chưa đến thời điểm bầu cử mà cần bố trí đồng chí không phải là thành viên HĐND làm Chủ tịch UBND cùng cấp thì đưa ra HĐND bầu để đồng chí đó làm Chủ tịch UBND. Điều này cần được bổ sung vào Luật tổ chức và hoạt động HĐND, UBND chứ không nên chỉ thể hiện trong văn kiện. Cần thực hiện nhất quán chiến lược cán bộ, sử dụng cán bộ, đào tạo cán bộ theo đúng quy hoạch. Tránh tình trạng cán bộ trong diện quy hoạch được cử đi đào tạo tập trung, dài hạn, sau khi học xong về địa phương thì bị "hết ghế ", không được bố trí vào các chức danh chủ chốt như dự kiến. Tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp. Có chế độ kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

pdf122 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở rộng, nâng cấp và xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội, đảm bảo tất cả các điểm dân cư trong khu kinh tế, nhất là các địa bàn vùng giáp biên đều có các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (điện, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, nhà sinh hoạt cộng đồng...). Xây dựng củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ đảm bảo trật tự an toàn xã hội, AN-QP trên tuyến biên giới phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay. Chính vì vậy phải tiếp tục đổ mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới. 91 3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh 3.2.1. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ Đảng ta xác định: Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục là nhiệm vụ thường xuyên và phải tiến hành theo quy hoạch. Quy hoạch tốt sẽ tạo ra sự chủ động, bảo đảm tính kế thừa, phát triển, khắc phục tình trạng hẫng hụt trong bố trí, sử dụng cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức, từ thực trạng đội ngũ cán bộ để xây dựng, đảm bảo tính khoa học, tính kế thừa liên tục và vững chắc. Quy hoạch phải gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để kịp thời chuyển tiếp từng bước các thế hệ lãnh đạo; bảo đảm mỗi cấp phải hình thành cho được đội ngũ cán bộ có ba độ tuổi tiếp kế nhau. Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng cán bộ. Luân chuyển cán bộ là để đào tạo cán bộ tại cơ sở, nguồn luân chuyển phải nằm trong nguồn quy hoạch, có hướng phát triển, triển vọng; thường xuyên đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ luân chuyển, mạnh dạn bố trí cán bộ đã được luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ vào các chức danh chủ chốt của huyện. Theo đó quy hoạch cán bộ trở thành một trong những khâu chủ yếu của công tác cán bộ và phải được làm từ cán bộ lãnh đạo cao nhất trong Đảng, Nhà nước cho đến các cán bộ cơ sở. Về cách làm, trước hết phải đổi mới nội dung và phương thức quy hoạch cán bộ, có quy chế, quy trình chặt chẽ và đi vào tiêu chuẩn hóa. Trong những năm qua, công tác xây dựng quy hoạch và tạo nguồn CBCC cấp xã tại huyện Bình Liêu đã được các cấp ủy Đảng quan tâm, song thực tế hiệu quả của công tác này chưa cao, chưa có những chuyển biến mạnh mẽ, chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí không sử dụng nguồn quy hoạch. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng này là do cấp ủy chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, chưa tích cực triển khai công bằng, hiệu quả. Một số cán bộ đương chức ngại làm quy hoạch do sợ đụng chạm ảnh hưởng đến vị trí công tác hoặc do cục bộ, bè pháilàm cho công tác quy hoạch mang tính hình thức, đối phó hoặc kết quả không cao. Việc kết hợp công tác quy hoạch với các mặt công tác khác trong 92 công tác cán bộ chưa đồng bộ, chặt chẽ. Việc kiểm tra, giám sát, tổng kết rút kinh nghiệm chưa thật sát sao, kịp thời. Trong quy hoạch cán bộ, việc lựa chọn cán bộ đưa vào diện quy hoạch là khâu rất quan trọng, quyết định chất lượng cán bộ kế nhiệm. Vì vậy cần phải rà soát, đánh giá toàn bộ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã, phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của từng cán bộ, công chức để từ đó đưa vào diện quy hoạch. Do đó cần phải đổi mới hơn nữa công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nói chung và ở huyện Bình Liêu nói riêng. Đổi mới ở đây, Trước hết là đấu tranh phê phán, khắc phục những quan niệm cách làm cũ như chủ quan, duy ý chí, những định kiến hẹp hòi, thiên lệch nặng nề về thành phần xuất thân, bằng cấp, cục bộ, bè phái, tình cảm cá nhânthiếu dân chủ. Cần phải hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá cán bộ một cách khách quan, công tâm và thực sự có hiệu quả, lấy chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực của cán bộ và phải đặt cán bộ trong môi trường làm việc cụ thể. Nếu làm tốt việc đánh giá cán bộ chắc chẵn sẽ lựa chọn đúng cán bộ có năng lực tốt đưa vào diện quy hoạch tạo nguồn. Việc lựa chọn cán bộ ở nhiều phạm vi và mức độ nhất định, có thể dựa vào sự giới thiệu của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Khi đã lựa chọn được cán bộ đưa vào diện quy hoạch thì vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, kiểm tra, quản lý cán bộ lại là khâu quyết định. Công tác quy hoạch phải gắn chặt với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nhưng thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa đáp ứng được nhu cầu của cán bộ. Cơ chế, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn có nhiều bất cập, chưa thu hút được nguồn cán bộ. Trong khi đó, các đối tượng trong quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cơ sở lại rất hay biến động. Có xã đã xây dựng xong quy hoạch cán bộ, có hướng lựa chọn nguồn và dự định đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nhưng lại xin chuyển công tác, hoặc không được sự tín nhiệm của nhân dân,...Vì vậy, đội ngũ CBCC chưa đồng bộ, còn chắp vá, thiếu hụt, năng lực lãnh đạo quản lý chưa tốt. Cho nên phải căn cứ vào mặt mạnh, mặt yếu của cán bộ, công chức, căn cứ vào yêu cầu công việc mà tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp. Cán bộ 93 trẻ trong diện quy hoạch cần được đào tạo tập trung cơ bản, phải trải qua thời gian rèn luyện, thử thách trong thực tiễn gần sát với công việc dự kiến được giao. Cấp ủy, thủ trưởng và cơ quan tổ chức cán bộ phải trực tiếp và thường xuyên theo dõi, giúp đỡ, đánh giá mức độ trưởng thành của cán bộ quản lý và kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động của cán bộ. Thông báo kịp thời cho cán bộ đó biết về những mặt tốt để phát huy và mặt hạn chế để khắc phục. Việc quản lý, kiểm tra cán bộ quy hoạch cũng dựa vào hiệu quả công việc, nhân dân và các đoàn thể quần chúng. Để đảm bảo quy hoạch có tính khả thi cần phải làm tốt các nội dung sau: - Tiếp tục nâng cao nhận thức, xác định rõ vai trò trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ đảng viên về công tác quy hoạch cán bộ ở các xã. - Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có của từng xã, xác định rõ tiêu chuẩn của CBCC chính quyền cấp xã và thực hiện tiêu chuẩn hóa CBCC cấp xã, cán bộ nguồn quy hoạch. - Khi có sự biến động về cán bộ trong diện quy hoạch thì cần phải kịp thời điều chỉnh, bổ sung quy hoạch. - Khi quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì cần phải nghiêm túc thực hiện, cần phải tiến hành các bước tiếp theo: Đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ theo đúng quy hoạch. - Quy hoạch phải đảm bảo thực hiện hết thời hạn, tránh trường hợp thủ trưởng mới lên thay lại làm quy hoạch mới, trong khi quy hoạch cũ chưa hết thời hạn. - Cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về quy hoạch đảm bảo tính khoa học, cụ thể và thiết thực. - Những người đang đương chức phải có thái độ cởi mở, có trách nhiệm dìu dắt, rèn luyện những người trong diện quy hoạch. 3.2.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã thì phải đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC trong từng giai đoạn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, và khi đã có cán bộ dự nguồn thì phải đưa vào kế 94 hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi để họ yên tâm học tập, rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất, có đủ các yếu tố cần thiết theo tiêu chuẩn. Khi lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho CBCC cấp xã cần lưu ý các điểm sau: Cán bộ ngành nào phải được đào tạo theo ngành đó, tránh mở lớp tràn lan, chạy theo bằng cấp, không chú trọng đến chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; kết hợp chặt chẽ giữa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở cơ sở với nhu cầu thật sự của cá nhân cán bộ, đảng viên được cán bộ học tập để nâng cao trình độ, bảo đảm cho cán bộ trước khi bố trí vào vị trí chủ chốt đã được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản, tránh tình trạng bầu vào vị trí xong rồi mới đưa đi đào tạo. Ngoài ra căn cứ vào đặc thù của địa phương, Huyện có thể mở các lớp đào tạo về trình độ ngoại ngữ nhất là Tiếng Trung Quốc. Vì là huyện miền núi biên giới có các cửa khẩu tiểu ngạch giao thương hàng hóa với nước láng giềng Trung Quốc như Hoành Mô; Đồng Văn việc đào tạo tiếng Trung cho CBCC là hết sức quan trọng. Hơn nữa vào các dịp Lễ Quốc khánh, cả 2 bên đều tổ chức các đoàn thăm hỏi lẫn nhau. Đó vừa là cơ hội để chúng ta trao đổi các vấn đề AN-QP và phát triển kinh tế. Huyện Bình Liêu luôn luôn tạo mối quan hệ đối tác với huyện Phòng Thành, tỉnh Quảng Tây, Trung quốc, cùng nhau bảo vệ mốc biên giới đất liền, phát triển giao thương hàng hóa trung bình mỗi năm đạt mức trao đổi hàng hóa trên 50 triệu đô la Mỹ. Hay mở các lớp tập huấn phổ biến và hướng dẫn thi hành pháp luật cho đội ngũ cán bộ, bởi cán bộ là người trực tiếp tham gia thi hành pháp luật, chỉ đạo điều hành hoặc ban hành các quyết định trong khuôn khổ pháp luật, đại diện tổ chức ký ban hành các văn bản dưới luật như: Nghị quyết, Quyết định để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng dân cư thuộc địa bàn xã quản lý. Mà pháp luật luôn có sự điều chỉnh như: Hiến pháp năm 2013; Luật xử lý vi phạm năm 2012; Luật Chính quyền địa phương năm 2018; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Đất đai 2013; Luật Xây dựng 2014đây là các văn bản pháp luật liên quan hàng ngày đến các vấn đề QLNN và xã hội ở địa phương Đào tạo, bồi dưỡng đúng đối tượng, đó là nguồn cán bộ trong quy hoạch trước mắt và lâu dài, không chỉ cán bộ đang tham gia công tác mà còn 95 phải chú ý đến con em dân tộc trong huyện. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu của từng loại cán bộ, chú trọng cả phẩm chất, đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng kỹ năng cơ bản và kỷ năng thực hành. Về hình thức đào tạo, bồi dưỡng: có 2 hình thức - Một là, cử cán bộ đi học tập trung ở trường chính trị tỉnh, trường cao đẳng cộng đồng. - Hai là, ký hợp đồng với các trường, mở các lớp tại chức tại huyện, có thể nói đây là loại hình đào tạo linh họat nhất, số lượng người tham gia học tập đông nhất. Trong những năm qua huyện đã ký hợp đồng với trường chính trị tỉnh mở 4 lớp tại chức tại huyện, trong đó, 2 lớp trung cấp lý luận chính trị; 02 lớp trung cấp hành chính. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, bởi cán bộ vừa học vừa làm nên không tập trung toàn bộ thời gian cũng như tâm sức vào việc học tập. Hơn nữa, việc quản lý thực hiện các quy chế còn lỏng lẻo; chất lượng bài giảng của một số thầy cô chưa đạt yêu cầu. Loại hình đào tạo này chỉ phù hợp với đối tượng là cán bộ đương chức, đương nhiệm đi học. Còn đối tượng là cán bộ dự nguồn nhất thiết phải được đào tạo cơ bản, tập trung ở các trường. Có như vậy mới đảm bảo chất lượng của đội ngũ cán bộ sau này. Để nâng cao chất lượng đào tạo cần phải đầu tư nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất và phương tiện giảng dạy cho các trường, nhất là trường chính trị tỉnh và trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện. Đặc biệt, phải không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên. Cần phải coi trọng hai hình thức bồi dưỡng để thường xuyên cập nhật với những kiến thức mới như bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, QLNN, quản lý kinh tế, xây dựng Đảng, đoàn thể với thời gian từ 1-3 tháng, học tại trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện hoặc tại trường chính trị tỉnh. Bên cạnh đó, đội ngũ CBCC cấp xã là phải tự mình học hỏi thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua sách, báo, tập chívà học tập ở nhân dân. 96 3.2.3. Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ chủ chốt cấp xã Về bố trí, sử dụng CBCC cấp xã phải đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường; đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc. Kiên quyết thay đổi ngay những cán bộ kém về năng lực và phẩm chất, thiếu tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật. Việc bố trí CBCC phải góp phần kiện toàn bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể tại xã, bởi vì họ là bộ khung, là nồng cốt của hệ thống bộ máy tổ chức ở cơ sở. Bố trí CBCC phải kết hợp với năng lực của từng người trong cả bộ máy ấy để tạo nên sự liên kết, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả bộ máy Để thực hiện tốt việc bố trí sử dụng CBCC, thì việc Đảng ủy xã và huyện ủy bố trí CBCC cấp xã phải được thực hiện một cách dân chủ, công khai. Kết hợp thăm dò ý kiến của cá nhân cán bộ được bố trí và ý kiến của tập thể cán bộ cơ quan, đơn vị mà cán bộ được bố trí công tác, tránh áp đặt, gượng ép trong việc bố trí cán bộ. Sau khi bố trí, phân công công tác cho CBCC phải luôn theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra công tác của CBCC đó, nhất là những CBCC mới được bố trí lần đầu. Nếu cán bộ có khuyến điểm thì tổ chức, người lãnh đạo giúp đỡ họ sữa chữa ngay để cán bộ yên tâm, tự tin trong công tác và công tác đạt kết quả cao. Việc bố trí và sử dụng cán bộ không chỉ là vấn đề khoa học mà còn là nghệ thuật, nghệ thuật nghiên cứu, sử dụng người. Việc bố trí, sử dụng CBCC cấp xã còn là vấn đề quyết định đến sự thành công hay không hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương. Cho nên để đảm bảo cho việc bố trí, sử dụng CBCC có chất lượng đòi hỏi cấp ủy Đảng cần phải thực hiện tốt các khâu, các bước trong quá trình bầu cử, bổ nhiệm và bãi nhiệm cán bộ . Về luân chuyển CBCC chính quyền cấp xã phải đúng theo tiêu chuẩn, đúng lúc, đúng quy trình và phải phù hợp giữa khả năng, thế mạnh của từng người với yêu cầu, vị trí việc làm. Có như vậy mới phát huy được hết khả năng của cán bộ ở từng cương vị công tác; động viên, khuyến khích sự hăng hái, nhiệt tình của họ với công việc thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu làm 97 không đúng quy định này, hiệu quả hoạt động hạn chế thậm chí còn dẫn tới hậu quả xấu. Vì vậy, việc rà soát, phân loại cán bộ trong vòng vài, ba năm hoặc lâu dài là căn cứ để đánh giá, quy hoạch, đề bạt, cất nhắc, bố trí, sử dụng, luân chuyển CBCC chính quyền cấp xã. Việc này vừa phải đảm bảo nguyên tắc dân chủ, khách quan, không thiên vị, vừa phải tính đến đặc thù của từng địa phương; vừa phải quan tâm tới năng lực của cá nhân, lại biết khéo léo kết hợp tạo nên sự đồng bộ của hệ thống. Tạo được sự tiếp nối và tương hợp giữa cán bộ cũ và mới; nam và nữ, trẻ và giàlà nguyên tắc trong sử dụng cán bộ và cũng là giải pháp tạo dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý cho CBCC. Luân chuyển cán bộ là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng, nó rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, của toàn bộ hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang, nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; tạo nguồn cán bộ lâu dài cho đất nước; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng ngành địa phương và từng đơn vị. Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý, Huyện ủy Bình Liêu đã chỉ đạo các ngành, cơ sở quán triệt và thực hiện nghiêm túc nghị quyết này. Huyện Bình Liêu đã có kế hoạch luân chuyển từ 3-5 cán bộ giữ cương vị là trưởng và phó các phòng, ban, đoàn thể cấp huyện tuổi đời còn trẻ (dưới 45 tuổi) được đào tạo cơ bản, có năng lực và triển vọng tốt đưa xuống đảm nhận, giữ cương vị là Bí thư Đảng ủy hoặc Chủ tịch UBND xã; đặc biệt là những xã vùng sâu còn yếu kém để tăng cường. Nhưng cũng đồng thời là để rèn luyện thử thách và tạo nguồn cán bộ kế cận cho cấp ủy, song đây cũng là điều kiện để cho các cơ sở yếu kém vươn lên về mọi mặt góp phần vào sự phát triển chung của toàn huyện 98 3.2.4. Xây dựng các quy chế về công tác quản lý cán bộ Để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC thì ngoài việc đào tạo bồi dưỡng thì cần có những bộ quy chế về đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm...nhằm tạo cơ sở cho các cơ quan tổ chức liên quan có nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ ngay từ bước đầu cũng như quản lý cán bộ trong quá trình công tác, cụ thể cần xây dựng các quy chế sau: Thứ nhất: Quy chế đánh giá cán bộ Việc đánh giá cán bộ từ trước đến nay còn mang nặng tính hình thức, thiếu dân chủ và chưa đi vào cụ thể, do đó một số đơn vị còn lúng túng khi đánh giá. Do đó công tác đánh giá phải: - Đánh giá đối với từng chức danh, gắn với nhiệm vụ được giao. Ví dụ đối với các chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy tập trung vào đánh giá việc chỉ đạo, lãnh đạo trong công tác bổ nhiệm cán bộ và chịu trách nhiệm liên đới nếu cán bộ trong đơn vị mình thiếu trách nhiệm trong hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao mà chưa có kế hoạch bố trí cán bộ khác thay thế vị trí đó. Do đó cấp trên có thẩm quyền đánh giá trực tiếp đối với đội ngũ cán bộ. Đối với các vị trí là Chủ tịch UBND, phó Chủ tịch UBND cần tập trung vào tiêu chí thực hiện các quy định trong quản lý hành chính Nhà nước, nếu trên địa bàn còn tình trạng chi trả sai chế độ chính sách, vi phạm các quy định về quản lý đất đai, xây dựng, môi trường khoáng sản và ngày càng có chiều hướng gia tăng chứng tỏ có việc buông lỏng trong quản lý phải được đưa ra khiển trách, kỷ luật và nhận mức không hoàn thành nhiệm vụ, trách tình trạng vẫn được nâng đỡ, châm trước trong đánh giá như hiện nay. - Thay đổi hình thức trong việc đánh giá của tập thể đối với cán bộ: Từ trước tới nay việc đánh giá cuối năm đối với mỗi CBCC mang tính hình thức, thiếu khách quan do có nhiều quyền lợi đan xen và không có cấp dưới nào dám chỉ rõ sai lầm khuyết điểm của cấp trên và càng không dám trực tiếp chỉ rõ sai lầm đó tại cuộc họp. Để khắc phục trước hết cần thay đổi từ việc chuẩn bị phiếu kín đánh giá đối với từng CBCC, việc tổng hợp phiếu đánh giá phải trưng dụng 99 cán bộ từ các cơ quan chuyên môn huyện hoặc từ đơn vị các xã khác để đảm bảo tính khách quan, dân chủ. Thứ hai: Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ phải dựa trên cơ sở xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm. Trong phiếu quy định đầy đủ các tiêu chuẩn: Trình độ chuyên môn; kinh nghiệm công tác; các kỹ năng ...Do đó nếu không tìm được cán bộ trong địa bàn xã có đủ điều kiện theo tiêu chuẩn vị trí việc làm thì cấp ủy phải đề nghị cấp trên bố trí cán bộ nơi khác đến theo phương thức luân chuyển cán bộ chứ không được tự ý bố trí cán bộ như xã Lục Hồn. - Bổ xung quy định thanh kiểm tra trong khâu tuyển chọn cán bộ. Nếu cán bộ không được tuyển chọn đúng với các tiêu chuẩn thì cần phải loại khỏi danh sách. Thứ ba: Xây dựng quy chế về việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ Từ trước đến nay các cơ quan tổ chức hoạt động còn thiếu sự giám sát trực tiếp của người dân, hay có giám sát nhưng chưa hiệu quả vì không biết phản ánh các ý kiến của mình tới ai và cơ quan nào chịu trách nhiệm để giải quyết các phản ánh đó. Để làm tốt công tác trên cần có phiếu lấy ý kiến cơ sở trong xây dựng, đánh giá cán bộ và cụ thể hóa các quy chế dân chủ ở địa phương để việc đánh giá cán bộ đảm bảo dân chủ khách quan, phiếu ý kiến phải được đọc cho tất cả các cộng đồng dân cư nghe và chọn lọc đánh giá ý kiến trực tiếp dưới sự kiểm sát của trưởng ban ngành cơ sở. Việc làm trên phải được thực hiện định kỳ và thường xuyên được thực hiện bởi một ban chuyên môn thành lập theo nhiệm kỳ. Ngoài ra quy chế cần xây dựng phải xác định rõ quyền hạn trách nhiệm của mỗi cán bộ lãnh đạo để người dân đánh giá đúng người đúng việc, quy đúng trách nhiệm để việc giám sát và khiếu nại đúng và hiệu quả. Thứ tư: Xây dựng quy chế về phân công, phân cấp cán bộ Việc phân công phân cấp cán bộ là hết sức cần thiết vì đó là cơ sở để phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm được giao đối với từng vị trí lãnh đạo. Trong đó cá biệt giữa vai trò của các đồng chí điều hành công việc cấp ủy và điều hành 100 công tác quản lý Hành chính Nhà nước chung để tránh tình trạng việc lãnh đạo cấp ủy Đảng can thiệp sâu trong từng công việc điều hành quản lý hành chính cụ thể. Ngoài ra còn phải giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đồng chí trong việc chỉ đạo quản lý trực tiếp các bộ phận của xã đảm bảo theo đúng thẩm quyền và nhiệm vụ được giao. 3.2.5. Thực hiện trẻ hóa cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã Việc trẻ hóa cán bộ là một chủ trương lớn của Đảng ta nhằm nâng cao chất lượng quản lý và điều hành của đất nước đáp ứng tốc độ phát triển mạnh mẽ về KT-XH và khoa học kỹ thuật của nước ta để theo kịp tốc độ phát triển của các nước phát triển trên thế giới. Đối với huyện Bình Liêu thực trạng CBCC cấp xã những năm gần đây độ tuổi trung bình có xu hướng tăng lên và tiếp tục tăng nếu không có những cải cách hợp lý. Để làm được tốt công tác trẻ hóa trước hết là khâu xây dựng đội ngũ cán bộ nguồn, thay đổi cách xây dựng cán bộ theo nguồn tại chỗ vì cơ bản đối với mỗi địa phương việc bố trí các vị trí cán bộ yếu hoặc khuyết tại các cán bộ xã là rất khó để tuyển chọn người đầy đủ năng lực cũng như đảm bảo về độ tuổi. Nên đưa việc tuyển chọn cán bộ nguồn từ tất cả các cơ quan đơn vị trên địa bàn huyện, không thiên quá vào sự đề bạt, mà theo đánh giá hàng năm về năng lực, sở trường của mỗi đồng chí là công chức nếu có đủ năng lực thì cho vào đội ngũ cán bộ nguồn chung để bổ nhiệm, chứ không nhất nhất theo quy hoạch. Ngoài ra theo chính sách thu hút nhân tài mà Trung ương, tỉnh đã đề ra. Đối với một số vị trí cần thu hút sinh viên mới tốt nghiệp loại giỏi ra trường đáp ứng được vị trí cần tuyển dụng, bổ nhiệm vào các xã có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn. Và hiện tại trên địa bàn huyện có số lượng công chức, viên chức trẻ ở phòng ban chuyên môn huyện rất nhiều tỉ lệ, hiện tại theo báo cáo của phòng Nội vụ huyện có trên 35% cán bộ dưới 35 tuổi và có thâm niên công tác trên 5 năm đây là nguồn cán bộ kịp thời để bổ xung đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. 101 3.2.6. Xây dựng tiêu chuẩn CBCC cấp xã đến năm 2020 và chuẩn bị cho công tác cán bộ giai đoạn 2020 - 2025 Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về chức danh CBCC chính quyền cấp xã là căn cứ để xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ là một hệ thống các yêu cầu về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị cần phải có để cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm nhiệm. Việc xác định tiêu chuẩn cán bộ là khâu then chốt trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ và xác định tiêu chuẩn cán bộ đúng mới có thể đánh giá, lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ trong quy hoạch. Không xây dựng được tiêu chuẩn cán bộ cụ thể sẽ không có cơ sở khách quan để tiến hành tốt các khâu trong công tác quy hoạch, và tạo nguồn cán bộ. Cán bộ xã hiện nay chủ yếu xuất thân từ nông dân, lớn lên và trưởng thành trong môi trường nông thôn nên năng lực và trình độ còn những hạn chế nhất định. Song, hiện nay công tác đào tạo cán bộ cấp xã, nhất là kỹ năng thực hành có tính nghề nghiệp chưa được chú ý đúng mức, thậm chí có phần xem nhẹ trình độ của cán bộ cấp xã mà chưa thấy hết được tính phức tạp, sự đa dạng trong hoạt động của họ. Trong điều kiện trình độ dân trí đã được nâng cao, tính chất quản lý ngày càng phức tạp, vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện cho việc quản lý nhà nước ở cơ sở xã khoa học hơn, cán bộ cấp xã cần phải có trình độ, nhất là kỹ năng thực hành tổng hợp. Nếu cán bộ cấp trên cần phải chuyên sâu, thì cán bộ cấp xã lại phải có tri thức ở diện rộng, đa năng, có thể giải quyết được hoặc ít ra cũng biết được thủ tục và cách giải quyết nhiều vấn đề rất khác nhau trực tiếp nảy sinh ở cơ sở để hướng dẫn cho người dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật và chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Hiện nay, chúng ta mới chỉ có các trường đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực nên chỉ đáp ứng được việc đào tạo cán bộ cho các cơ quan Trung ương hoặc địa phương mà hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu của cơ quan chính quyền 102 cấp cơ sở, đặc biệt tại các địa phương cơ sở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo, hay vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Do vậy, cần nghiên cứu đổi mới, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ xã, kể cả cơ chế điều chuyển cán bộ cấp huyện cho các cơ quan cấp xã; nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình tại cơ sở đào tạo cán bộ cấp xã theo hướng đa chức năng hơn, coi trọng kỹ năng thực hành hơn. Công tác cán bộ luôn là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt. Bởi vậy Ban thường vụ Huyện ủy Bình Liêu tập trung xây dựng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xã trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) và được cụ thể hóa tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Trong đó có các tiêu chuẩn chính là: phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, đồng thời tiêu chuẩn cho từng loại cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Căn cứ vào thực tiễn hiện nay, thì tiêu chuẩn của các chức danh Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, thị trấn được cụ thể như sau: - Về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng: Đây là tiêu chuẩn đầu tiên đối với CBCC cấp xã, mỗi CBCC cấp xã phải hiểu rõ, nắm vững, tin tưởng và chấp hành tốt đường lối đổi mới của Đảng, quyết tâm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối đó phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Điều này rất quan trọng, bởi vì đa số người dân nông thôn còn chưa hiểu rõ về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bên cạnh đó là những hạn chế về trình độ dân trí, họ cảm nhận về Đảng về hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước thông qua người CBCC cấp xã. Đặt biệt là hiện nay các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, chúng đưa những luồng tư tưởng xuyên tạc chế độ XHCN và phủ nhận những thành quả của cách mạng của Đảng. Vì vậy, đòi hỏi người CBCC cấp xã phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tư tưởng vững vàng, gương mẫu, gần dân để tuyên truyền, vận động nhân dân, đấu 103 tranh chống lại những tiêu cực, tư tưởng lệch lạc, thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, phong cách và tác phong công tác của CBCC cấp xã cũng là một trong những yếu tố tạo nên chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã. Nó là tổng hợp những phương pháp, cách thức riêng có, tiêu biểu, ổn định mà người lãnh đạo phải sử dụng hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình. CBCC cấp xã cần phải có phong cách làm việc năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, trước nhân dân. Trong công việc phải hăng hái, nhiệt tình, biết sắp xếp công việc một cách khoa học, hợp tình hợp lý, làm việc phải dân chủ, khách quan, toàn diện, gắn lý thuyết với thực hành, nói đi đôi với làm, tránh những trường hợp làm ít nói nhiều, hoặc nói thì hay làm thì dở. Trình độ lý luận chính trị: Việc học tập và trang bị kiến thức về lý luận chính trị đối với CBCC cấp xã là quan trọng và cần thiết. Người cán bộ lãnh đạo không thể làm tròn nhiệm vụ nếu như không được trang bị kiến thức về lý luận chính trị. Do vậy, CBCC cấp xã cần thiết phải được học tập lý luận, nghiên cứu thêm lý luận chính trị và đây là yêu cầu để CBCC cấp xã thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Tiêu chuẩn về trình độ lý luận chính trị của CBCC cấp xã giai đoạn 2016- 2021 như sau: Đối với cán bộ là Bí thư, Phó Bí thư tối thiểu phải có trình độ từ Trung cấp chính trị trở lên. Đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND phải có trình độ từ Trung cấp chính trị trở lên Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Cùng với những thành tựu đã đạt được, cơ hội và thách thức đan xen đã đặt ra yêu cầu cấp bách đối với đội ngũ cán bộ nói chung và CBCC nói riêng phải có trình độ, kiến thức, năng lực trên các lĩnh vực để phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ khắc phục khó khăn, đưa địa phương, đất nước phát triển hội nhập. Điều đó có được khi CBCC phát huy tinh thần tự học, rèn luyện, có đủ tâm, đủ tầm để lãnh đạo, chỉ đạo, tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Những điều kiện quan trọng về trình độ chuyên môn của cấp xã từ nay đến năm 2018 và những năm tiếp theo là: Đối với đội ngũ cán bộ là Bí thư, Phó Bí thư; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND, phải có trình độ tối thiểu từ Cao đẳng trở 104 lên vào năm 2018 và trình độ Đại học vào năm 2020 (ở các xã khó khăn tối thiểu phải có trình độ trung cấp). - Về tuổi áp dụng từ nay trở đi: Đối với Bí thư, Phó bí thư; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND cấp xã tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 45 tuổi đối với nam và 40 tuổi đối với nữ. - Tác phong lề lối làm việc: Đối với CBCC cấp xã cần phải có phong cách làm việc năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, trước nhân dân. Không quan liêu, hống hách, không độc đoán chuyên quyền, luôn đi sâu đi sát, gần gũi với quần chúng nhân dân. Trong công việc phải hăng hái, nhiệt tình, biết sắp xếp công việc một cách khoa học, hợp tình hợp lý, làm việc phải dân chủ, khách quan, toàn diện, gắn lý thuyết với thực hành, nói đi đôi với làm, tránh những trường hợp làm ít nói nhiều, hoặc nói thì hay làm thì dở. Trên cơ sở những tiêu chuẩn chung của CBCC cấp xã nói trên, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của tổ chức trong HTCT, cần xác định rõ tiêu chuẩn từng chức danh. Sau đây là điểm cần nhấn mạnh đối với một số chức danh chủ yếu: Bí thư Đảng ủy xã: Bí thư Đảng ủy xã là hạt nhân chính trị của Đảng bộ xã, là người chịu trách nhiệm lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, các tổ chức và toàn bộ phong trào chung, là người “đứng mũi chịu sào” ở xã. Do đó, người Bí thư phải là người dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và địa phương. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thực hiện quan điểm của Đảng, đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, với đặc thù là một huyện chủ yếu phát triển nông nghiệp cho nên yêu cầu đặt ra cho người Bí thư Đảng ủy phải là người có khả năng tổ chức và phối hợp đồng bộ nhịp nhàng hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở hướng vào mục tiêu, nhiệm vụ và Đảng bộ xã đã đề ra; là trung tâm đoàn kết, tập hợp, quy tụ lực lượng ở địa phương, biết tạo cơ hội cho mọi người phát huy trí tuệ, tìm tòi phát hiện người có khả năng, năng lực để giao trách nhiệm và tạo cho họ những điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng và phát triển. Chủ tịch UBND xã: Là người thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng QLNN trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tại cơ sở xã, có trách nhiệm thực 105 hiện các quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên, thực hiện các nghị quyết của HĐND cùng cấp. Đồng thời phải có trách nhiệm tổ chức, triển khai, thực hiện các nghị quyết của cấp ủy. Vì vậy, tiêu chuẩn cần nhấn mạnh đối với Chủ tịch UBND xã là: phải có kiến thức và năng lực QLNN, quản lý kinh tế, nắm vững pháp luật, nghiệp vụ, chức năng, quyền hạn của mình. Biết điều hành bộ máy chính quyền theo đúng luật định. Chủ tịch HĐND xã: Là người đứng đầu cơ quan quyền lực của nhân dân ở cấp xã ( HĐND xã) đại diện cho ý chí nguyện vọng của đại bộ phận nhân dân trong xã, có vai trò giám sát việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của UBND xã, chịu trách nhiệm dự thảo các Nghị quyết, Quyết sách trên các lĩnh vực phát triển kinh tế, AN-QP, văn hóa, giáo dục, đời sống xã hội, chính sách dân tộc tôn giáo, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính. Vì vậy với vai trò là người đứng đầu HĐND phải có năng lực, trí tuệ, kiến thức sâu rộng trên các phương diện, am hiểu tình hình địa phương, khả năng tổng hợp và phân tích để đưa ra những quyết sách phù hợp với đặc thù địa bàn. 3.2.7. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, HĐND, UBND xã Cấp xã là sự thống nhất quá trình lãnh đạo, quản lý với quá trình trực tiếp triển khai thực hiện trên thực tế các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Hơn nữa, chính quyền xã cũng không đơn thuần chỉ là “cánh tay nối dài” của cơ quan nhà nước cấp trên mà phải quản lý một địa bàn lãnh thổ nhất định với một số thôn, bản, làng có truyền thống tự quản khá cao và chịu sự chế ước của một số đặc điểm vùng miền, có khi cả đặc điểm tộc người và tôn giáo, nên chính quyền xã có vai trò độc lập tương đối. Vì thế, xét về nguyên tắc, trong tổ chức và hoạt động của CBCC xã, luôn đòi hỏi tính chất đa ngành, liên ngành với một số nét đặc thù và tính độc lập nhất định tùy từng loại hình xã (tại vùng nông thôn đồng bằng, vùng ven đô, vùng núi, vùng đông dân tộc ít người,...). Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với sự tách bạch chức năng QLNN với chức năng quản lý kinh doanh, chính quyền xã đã không còn là chủ thể trực tiếp tổ chức, quản lý sản xuất - kinh doanh. Cùng 106 với những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế, trong quá trình chuyển đổi từ một nhà nước quản lý là chủ yếu sang một nhà nước phục vụ, chính quyền cấp xã cũng đã có sự giảm bớt các lĩnh vực quản lý, đồng thời đẩy mạnh việc quản lý phát triển VH-XH, như phát triển mạng lưới y tế, giáo dục, cung cấp các dịch vụ công cho các cộng đồng và người dân trên địa bàn xã; hỗ trợ và mở rộng quyền tự quản của các thôn/bản trong quá trình phát triển và giải quyết các vấn đề VH - XH trên cơ sở kế thừa và phát huy hương ước hay luật tục. Do đặc điểm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính quyền cấp xã còn có vai trò của người điều phối, khắc phục các khiếm khuyết do sự phát triển của kinh tế thị trường gây ra; bảo vệ môi trường, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện bảo trợ xã hội đối với các đối tượng chính sách và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, nhằm thực hiện dân chủ và công bằng trong phát triển xã hội. Tuy vậy, ngay cả trong lĩnh vực này chính quyền cấp xã cũng không hoàn toàn tự mình làm tất cả, mà chỉ là chủ thể chính, đứng ra cầm trịch để thu hút và điều tiết nguồn lực của toàn thể xã hội cùng tham gia thực hiện. Vì vậy, đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, HĐND, UBND xã sẽ là tiền đề thúc đẩy đổi mới, hoàn thiện các chức danh lãnh đạo chủ chốt ở xã gồm: Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND xã. Trong nhiều năm, khi tổng kết hoạt động của HĐND cấp địa phương và cơ sở, trong đó có xã, một thực tế được nhiều người thừa nhận là tình trạng hoạt động của HĐND còn hình thức, kém hiệu quả. Trước tình hình trên, hiện đang thực hiện thí điểm mô hình Bí thư Đảng uỷ kiêm chức Chủ tịch HĐND xã. Thực tế cho thấy nếu bỏ HĐND xã sẽ tạo ra một khoảng trống trong hoạt động nhà nước tại cơ sở xã với địa bàn lãnh thổ không nhỏ và có truyền thống văn hóa tự quản; đồng thời xuất hiện không ít vấn đề, thí dụ ai sẽ đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, ai sẽ giám sát hoạt động của UBND,... Việc thực hiện mô hình Bí thư Đảng uỷ kiêm Chủ tịch HĐND xã, đáp ứng yêu cầu đổi mới về tổ chức và hoạt động của HĐND xã sẽ gắn được chức năng kiểm tra, kiểm soát của Đảng với chức năng giám sát của HĐND xã. Từ đó có thể nâng cao hiệu lực, hiệu quả của tổ chức Đảng và HĐND trên địa bàn xã. 107 Song thực tế tính chất công việc nặng, phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ đòi hỏi CBCC phải có sức khỏe, có năng lực, có kiến thức Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND xã. Ở đây có nhiều vấn đề cần làm rõ như: xây dựng UBND xã thành một cơ quan phối hợp hành động đa chức năng, vừa là cơ quan giải quyết những vấn đề thuộc đơn vị xã, đồng thời là cơ quan chấp hành các chủ trương của các cơ quan nhà nước cấp trên, vừa là cơ quan hành chính nhà nước điều hành các công việc trên phạm vi xã; vừa có vai trò như một cơ quan tư pháp để giải quyết những tranh chấp dân sự, những việc liên quan đến hôn nhân và gia đình; khám phá và giải quyết những vi phạm pháp luật nhỏ mà tính chất nguy hiểm ở mức độ thấp; v.v. Đây là những vấn đề không đơn giản. Thí dụ, do những đặc điểm về địa lý, dân cư và những đặc điểm khác mà mỗi địa phương có sự phát triển xã hội và cách thức quản lý phát triển xã hội mang tính đặc thù trên các phương diện khác nhau (miền núi, đồng bằng, hải đảo,...). Mỗi địa phương đều có những nhu cầu, điều kiện khác nhau, nên cần phải được tổ chức, quản lý phát triển xã hội khác nhau. Thực tế đó đòi hỏi bộ máy QLNN ở mỗi nơi cũng cần có những tính chất đặc thù nhất định. Chẳng hạn, ở những vùng đồng bằng thì trong UBND xã cần có một cán bộ chuyên trách về nông nghiệp; những vùng rừng núi thì nên có một cán bộ chuyên phụ trách về lâm - nông nghiệp,...Như vậy, mỗi địa phương khác nhau có thể tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với những đặc thù của địa phương, nhưng vẫn phải bảo đảm những nguyên tắc chung về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của một UBND xã. Những tình huống khác nhau trong quản lý phát triển xã hội của chính quyền xã đòi hỏi phải làm rõ tính nguyên tắc của quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền xã; những vấn đề khung để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước tập trung thống nhất trên phạm vi cả nước. Đồng thời, phải làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền xã (chủ yếu là những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc tổ chức, thực hiện pháp luật), để các cơ quan chính quyền xã có thể tự giải quyết được các công việc liên quan đến đời sống hằng ngày của người dân phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý. Thông 108 qua đó, cũng khắc phục hiện tượng quan liêu, ôm đồm, bao biện của chính quyền cấp trên đối với xã, tạo sự thi đua giữa các xã, đồng thời giảm bớt hiện tượng ách tắc trong quá trình giải quyết công việc. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng ở xã, trong đó đặt trọng tâm vào đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng, nhất là quyết định những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân trong xã, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở; nghị quyết liên quan đến những chủ trương công tác của chính quyền và đoàn thể. Cần coi trọng việc xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND. Đồng thời, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội sát hợp với nhu cầu, lợi ích của hội viên, đoàn viên; đáp ứng yêu cầu tham gia giám sát, phản biện đối với công tác lãnh đạo, quản lý của tổ chức Đảng và chính quyền xã. 109 Tiểu kết chƣơng 3 Từ thực trạng chất lượng CBCC và công tác nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã đặt ra trong chương 2, chương 3 tác giả luận văn đã đề xuất các nhóm giải pháp để giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã tại huyện Bình Liêu tỉnh Quảng Ninh. Chất lượng CBCC chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động, vì vậy muốn nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã cần phải thực hiện đồng bộ và có hệ thống các nhóm giải pháp kể cả vi mô và vĩ mô nhằm góp phần đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC; Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng, luân chuyển; Thực hiện trẻ hóa đội ngũ CBCC; xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về CBCC cấp xã từ nay đến hết năm 2020 và chuẩn bị cho công tác cán bộ giai đoạn 2020-2025; Đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, HĐND, UBND xã đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Từ đó nâng cao được chất lượng CBCC góp phần vào mục tiêu phát triển KT-XH, chính trị, an ninh quốc phòng của huyện Bình Liêu. 110 KẾT LUẬN Chính quyền cấp xã và CBCC chính quyền cấp xã là trung tâm, nền tảng của hệ thống chính trị, là nguồn nhân lực quan trọng ở địa phương, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước nhằm đưa đất nước ta vững bước vào thế kỷ XXI trong xu thế hòa nhập với thế giới. Hiện nay, đất nước ta xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi CBCC phải có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, có trí tuệ, trình độ và năng lực, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Cấp xã là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên năng lực của cán bộ công chức xã là năng lực thực hành, tổ chức công việc và thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Do đó năng lực lãnh đạo quản lý của CBCC giữ vai trò quyết định và là tiêu chuẩn cao nhất trong hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ. Bởi vậy nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là nhiệm vụ tiên quyết, phù hợp với xu thế hội nhập. Trong những năm qua, việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã huyện Bình Liêu đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận, năng lực CBCC cấp xã từng bước nâng cao. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy trình độ chuyên môn, trình độ lý luận của đội ngũ này còn bất cập. Đây là thách thức lớn đặt ra, đòi hỏi phải có giải pháp hợp lý, tích cực để nâng cao chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng CBCC cấp xã huyện Bình Liêu tỉnh Quảng, những định hướng và mục tiêu phát triển NNL của tỉnh nói chung và huyện Bình Liêu nói riêng. Tác giả đã đề xuất 7 giải pháp sát hợp với điều kiện thực tiễn của huyện dân tộc miền núi biên giới gồm: (1)Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; (2)Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC; (3)Tiếp tục đổi mới và thực hiện tốt việc bố trí, sử dụng, luân chuyển; (4)Thực hiện trẻ hóa đội ngũ CBCC; (5)Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về CBCC cấp xã từ nay đến hết năm 2020 và chuẩn bị cho công tác cán bộ giai đoạn 2020- 2025; (6) Đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Đảng ủy, HĐND, UBND 111 xã. Các giải pháp trên cần thực hiện một cách đồng bộ, không được coi nhẹ giải pháp nào. Tuy nhiên theo tác giả luận văn trước thực trạng của CBCC cấp xã huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh thì việc đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC cấp xã phải xác định là then chốt và xây dựng tiêu chuẩn cụ thể về CBCC cấp xã là khâu đột phá góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý. Ngoài những kiến nghị cụ thể trên, luận văn có một số kiến nghị nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng CBCC chính quyền cấp xã vừa có đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là: Cần có sự nghiên cứu, sửa đổi những hạn chế của Luật tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND (Sửa đổi). Quy định rõ hơn, cụ thể hơn quyền hạn, nhiệm vụ của HĐND và UBND cũng như cơ chế để thực hiện các quyền đó. Nhất là các quy định đảm bảo cho hoạt động của HĐND có hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ cần sớm đưa ra những quy định cụ thể hơn về chế độ chính sách đãi ngộ cũng như các tiêu chuẩn cần phải có đối với CBCC chính quyền cấp xã. Trên cơ sở đó các cấp chính quyền xây dựng quy hoạch cán bộ khoa học, hợp lý nhằm tạo sự an tâm, cũng như ý thức phấn đấu vươn lên của cán bộ cấp xã. Đối với các chức danh CBCC chính quyền cấp xã phải qua bầu cử như: Đối với chức danh Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND có thể sử dụng cơ chế dân bầu trực tiếp; đối với chức danh chủ tịch UBND trong những trường hợp cần thiết mà chưa đến thời điểm bầu cử mà cần bố trí đồng chí không phải là thành viên HĐND làm Chủ tịch UBND cùng cấp thì đưa ra HĐND bầu để đồng chí đó làm Chủ tịch UBND. Điều này cần được bổ sung vào Luật tổ chức và hoạt động HĐND, UBND chứ không nên chỉ thể hiện trong văn kiện. Cần thực hiện nhất quán chiến lược cán bộ, sử dụng cán bộ, đào tạo cán bộ theo đúng quy hoạch. Tránh tình trạng cán bộ trong diện quy hoạch được cử đi đào tạo tập trung, dài hạn, sau khi học xong về địa phương thì bị "hết ghế ", không được bố trí vào các chức danh chủ chốt như dự kiến. Tổ chức các cuộc thi kiểm tra trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thích hợp. Có chế độ kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tổ chức Trung ương, Một số văn kiện xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và đảng viên (quyển 3), Tạp chí Xây dựng Đảng, 2003. 2. Ban Tổ chức Trung ương, 339 tình huống công tác tổ chức xây dựng Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2008. 3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 15- NQ/TW, ngày 30/7/2007; Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 01/8/2007 Hội nghị Trung ương 5, khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. 4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Kết luận số 64 - KL/TW, ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành TW về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. 5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. 6. Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Kết luận Hội nghị lần thứ X của Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. 7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. 8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. 9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006. 10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 22- NQ/TW Hội nghị TW 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. 11. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW 4 (khóa XI) một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. 12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW4 (khóa X) về đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; 113 13. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 15- NQ/TW, ngày 30/7/2007, Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 01/8/2007 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; 14. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI 15. GS.TS Hoàng Chí Bảo (2005), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội; 16. Đảng bộ huyện Bình Liêu, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện trình tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXVI (nhiệm kỳ 2010 - 2018). 17. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 - 2018). 18. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Chỉ thị số 25-CT/TU, ngày 28/02/2014 của BTV Tỉnh ủy Quảng Ninh về việc triển khai thực hiện Kết luận 64-KL/TW, ngày 28/5/2013 của BCH Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 05/12/2013 của BCH Đảng bộ tỉnh về “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tinh giản bộ máy, biên chế” 19. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 05/12/2013 của BCH Đảng bộ tỉnh về “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tinh giản bộ máy, biên chế” 20. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3(khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. PGS.TS. Nguyễn Văn Giang - TS. Phạm Tất Thắng (đồng chủ biên), Các lý thuyết tổ chức hiện đại và viêc vận dụng vào công tác tổ chức xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012; 114 24. Trần Đình Hoan, Đánh giá, quy hoạch luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ CNH-HĐH đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009; 25. Trương Minh Hòa, Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2009; 26. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. 27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995; 28. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995; 29. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Hội 1995; 30. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 31. GS.TS. Lê Hữu Nghĩa - GS, TS. Hoàng Chí Bảo - PGS, TS. Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009; 32. Lê Duẩn, Mấy vấn đề cán bộ và tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội 1973. 33. (LOMBARDO (1996) - Tài liệu dịch từ tiếng Pháp, cung cấp cho lớp Thạc sỹ Hành chính công phối hợp giữa Học viện Hành chính Quốc gia và Trường Hành chính Quebec Canada trong khuôn khổ đề án 165 (tháng 10 năm 2010). 34. Lênin toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1974; 35. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 36. V.I.Lê nin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 37. V.I.Lê nin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva 38. Mác - Ănghen, tt, Nxb CTQG, HN 1995; 39. Vương Lạc Phu - Tưởng Nguyệt Thần, Khoa học lãnh đạo hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2009. 40. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_nang_cao_chat_luong_can_bo_chu_chot_chinh_quyen_cap.pdf
Luận văn liên quan