Tỉnh Chăm Pa Sắc có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là động lực phát triển của khu vực tây nam
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Với trách nhiệm đó đòi hỏi tỉnh
Chăm Pa Sắc phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có tài,
có đức, luôn năng động, bản lĩnh, đảm đương được nhiệm vụ, tương xứng với
tiềm năng vị trí và định hướng phát triển của Tỉnh. Đây là nhiệm vụ hết sức
quan trọng đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài.
Với mục tiêu chung là không ngừng khuyến khích phụ nữ tiến bộ, với
phạm vi nội dung đề cập ở đây là tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ nữ
cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa Sắc có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức,
trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tiễn, ra sức phấn đấu,
nâng mình lên ngang tầm với nhiệm vụ mới, đáp ứng yêu cầu và sự phát triển
của Tỉnh, đòi hỏi phải đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ nữ cán bộ,
công chức và cần phải có phương hướng, mục tiêu và các giải pháp đồng bộ,
Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc mới có thể phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra trong
về bình đẳng giới.
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ nữ cán bộ, công
chức ở tỉnh Chăm Pa Sắc, Tỉnh ủy và chính quyền Tỉnh phải xây dựng những
chủ trương, chính sách nhằm phát triển năng lực và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức nữ trong mỗi giai đoạn phát triển. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng, luận văn nhận thấy, đội ngũ nữ cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa
Sắc đã có bước phát triển mạnh về nhiều mặt, có những đóng góp quan trọng
trong các lĩnh vực của địa phương. Những đóng góp to lớn của đội ngũ cán
bộ, công chức nữ tỉnh Chăm Pa Sắc không chỉ khẳng định tiềm năng trí tuệ
của nữ giới, mà còn khẳng định sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nước Lào
và toàn xã hội, của chính quyền tỉnh Chăm Pa Sắc nói riêng, khẳng định sự
vươn lên không ngừng của bản thân mỗi người nữ cán bộ, công chức. Đồng81
thời những thành tích đạt được là minh chứng cho trí tuệ của nữ giới không
kém so với nam giới trong gia đình và xã hội.
Bên cạnh những ưu thế của nữ cán bộ, công chức như thông minh, dịu
dàng, khéo léo, cần cù, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách
nhiệm đội ngũ nữ cán bộ, công chức ở tỉnh Chăm Pa Sắc còn nhiều hạn
chế, yếu kém như: yếu về chất lượng; cơ cấu, phân bổ, quản lý, sử dụng và
đãi ngộ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển
tỉnh Chăm Pa Sắc.
Trong thời gian tới, để phát triển với tốc độ nhanh và bền vững, đồng
thời huy động được toàn bộ nguồn lực đóng góp vào sự phát triển tỉnh Chăm
Pa Sắc nói riêng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói chung, cần phải
có chiến lược phát triển đội ngũ nữ cán bộ, công chức, một cách phù hợp và
có hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở đánh giá những nhân tố tác động, luận văn đã
đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ,
công chức tỉnh Chăm Pa Sắc hiện nay và trong thời gian tới.
Vấn đề công tác cán bộ, công chức nữ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm
hiện nay. Có thể có rất nhiều hướng và biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
nữ cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa Sắc có tính khoa học hợp lý hơn về mặt lý
luận và xu hướng tiến bộ của thời đại, nhưng trong điều kiện cụ thể của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào chưa hẳn đã khả thi, vì nhiều lý do. Vì vậy đòi hỏi
công tác nghiên cứu, dự báo về vấn đề này vẫn rất cần được quan tâm./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 92 trang
92 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa Sắc, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực, xây dựng 
quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng cán bộ trên cơ sở 
những tiêu chuẩn chung, qui trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả 
công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Mục tiêu 
chung là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, 
có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư 
duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu 
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, 
hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn 
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. 
59 
Đội ngũ cán bộ, công chức phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số 
lượng và cơ cấu hợp lý. 
 Riêng về công tác cán bộ nữ, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng đặc 
biệt quan tâm và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, định hướng. Trong báo cáo 
tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng Nhân dân 
Cách mạng Lào khóa VIII về một số vấn đề công tác cán bộ nữ đến năm 2015 
đã chỉ rõ: phát triển bền vững đội ngũ nữ cán bộ, công chức các cấp trên mọi 
lĩnh vực, đảm bảo tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng, đáp ứng yêu cầu 
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bình đẳng giới trong bộ 
máy nhà nước. 
 Nghị quyết của Bộ chính trị Lào ngày 24/7/2012 về “Công tác cán bộ, 
công chức nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” cũng 
đã xác định mục tiêu như sau: 
 Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có 
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời 
sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã 
hội và gia đình, phấn đấu để nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là một 
trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ của khu vực. 
 Về nhiệm vụ, giải pháp thực hiện, Nghị quyết cũng nhấn mạnh nhiệm 
vụ xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ, công chức 
nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với định hướng 
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ, công chức 
nữ. Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ 
trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng cấp, từng ngành, từng 
địa phương. Thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, 
đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm. Công tác cán bộ nữ thực hiện chương trình đào 
tạo cán bộ, công chức nữ theo từng lĩnh vực, gắn với quy hoạch. Cần đảm bảo 
60 
tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận, chính trị, quản lý 
hành chính nhà nước từ 30%. 
 Đặc biệt Nghị quyết của Bộ Chính trị Lào đã đưa ra nhiệm vụ phấn đấu 
về tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, tham gia quản lý nhà nước và các cơ quan lãnh 
đạo cấp cao của Trung ương, đó là: 
 Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ, công chức nữ tham gia cấp ủy đảng 
các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội từ 35% đến 40%. Các cơ 
quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt 
là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ 
có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. 
 Đối với tỉnh Chăm Pa Sắc,trong định hướng cho công tác cán bộ, công 
chức nữ, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VII cũng chỉ rõ: tiếp 
tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ, sắp xếp tổ chức bộ máy và nâng cao chất 
lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy các cấp. 
Đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của 
công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, bố trí, luân chuyển 
cán bộ, công chức; mở rộng việc bố trí chức danh chủ chốt cấp huyện không 
phải là người địa phương. Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình, đề án 
đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, hoàn thiện chính sách cán bộ, 
nhất là chính sách đạo tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài, cán bộ cơ sở, cán 
bộ người dân tộc, cán bộ nữ, trẻ; Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có 
đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; Thực hiện tốt công tác quản 
lý, đánh giá cán bộ, công chức thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị 
và phẩm chất đạo đức, uy tín đối với nhân dân 
 Thực hiện có hiệu quả hơn công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, công 
chức đáp ứng nguồn cán bộ trước mắt đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 
Trong đó cần tập trung quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng 3 loại cán bộ, công 
61 
chức: cán bộ lãnh đạo chính trị và quản lý nhà nước; cán bộ, công chức khoa 
học công nghệ và văn hóa nghệ thuật; cán bộ quản lý doanh nghiệp. Phấn đấu 
hầu hết cán bộ, công chức do cấp huyện quản lý trở lên có trình độ đại học về 
chuyên môn, cao cấp lý luận chính trị. 
 Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý doanh nghiệp có tinh thần 
yêu nước, có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm kinh doanh thành thạo, 
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý nhà nước có phẩm chất chính trị, 
có tâm đức trong sáng, có trách nhiệm trước dân, có năng lực, trí tuệ và nhiệt 
tình cách mạng. Có chính sách thỏa đáng để không ngừng nâng cao trình độ, 
năng lực tổ chức thực hiện và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức. 
 Từ những định hướng nêu trên, từ những yêu cầu, đòi hỏi của tình hình 
mới và từ thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức nữ của tỉnh Chăm Pa Sắc đã 
đặt ra mục tiêu chung cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công 
chức nữ trong giai đoạn hiện nay là phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ, công 
chức nữ tương xứng với vị trí của tỉnh Chăm Pa Sắc và lực lượng phụ nữ 
trong toàn Tỉnh, đó là một đội ngũ cán bộ, công chức nữ luôn trung thành và 
tận tụy với sự nghiệp của Đảng, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm 
bảo về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, có chất lượng về phẩm chất và năng lực, 
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chung và góp phần xứng đáng trong thực hiện 
các mục tiêu phát triển của Tỉnh trên tất cả các lĩnh vực. 
 Mục tiêu cụ thể: 
 Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nữ từ cấp tỉnh đến huyện và 
cơ sở có phẩm chất, năng lực Đặc biệt đội ngũ cán bộ nữ làm lãnh đạo, quản 
lý đạt tỷ lệ 20%, đảm bảo về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển 
tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, công chức nhằm góp phần 
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó: 
 + Đối với cấp tỉnh: Tỷ lệ nữ trong cấp ủy: 20%; Tỷ lệ nữ trong Ban 
thường vụ Tỉnh ủy: 15%; Tỷ lệ nữ trong thường trực ủy ban nhân dân – hội 
62 
đồng nhân dân: 15%; Tỷ lệ nữ là giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương: 
25-35%; Tỷ lệ nữ trong Ban thường vụ Đảng ủy cấp trên cơ sở: 20%. 
 + Đối với cấp huyện: Tỷ lệ nữ trong Ban thường vụ huyện: 15%; Tỷ lệ 
nữ trong thường trực ủy ban nhân dân huyện: 15%. 
 Hai là, coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán 
bộ, công chức nữ, chú ý đội ngũ cán bộ, công chức các sở, ngành chuyên 
môn, các doanh nghiệp kinh tế, ngành trọng điểm của tỉnh Chăm Pa Sắc và 
các tổ chức chính trị xã hội. 
 + Cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý chiếm tỷ lệ trong quy hoạch từ 
30-35%. 
 + Tỷ lệ cán bộ, công chức nữ được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, 
nghiệp vụ và lý luận chính trị từ trung cấp trở lên: 30-35%. 
 Trong đó đặc biệt chú ý đào tạo trình độ trên đại học đáp ứng yêu cầu 
mới. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ cán bộ, công chức nữ tỉnh Chăm Pa Sắc có 
trình độ trên đại học chiếm ít nhất 30%. 
 Ba là, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên nữ.Phấn đấu tỷ lệ đảng 
viên nữ được kết nạp trên 45% so với tổng số đảng viên được kết nạp. 
 3.1.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ, công 
chức tỉnh Chăm Pa Sắc đến năm 2020 
 Quán triệt và thực hiện các quan điểm về công tác cán bộ, công chức 
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: 
 Một là, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của nữ giới trong sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế 
nữ giới, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, 
xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trong của cách mạng 
Lào trong thời kỳ mới. 
63 
 Hai là, công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, 
phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng 
góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn 
kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ 
tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng 
để nữ giới có điều kiện thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao 
động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. 
 Ba là, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ, công chức nữ 
tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung 
quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ, công chức của Đảng Nhân dân 
Cách mạng Lào. 
 Bốn là, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của 
toàn xã hội và của từng gia định.Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy 
đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, 
vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội liên hiệp phụ nữ. 
Các quan điểm và mục tiêu này, trước hết được quán triệt và cụ thể hóa 
trong việc đẩy mạnh công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán 
bộ, công chức nữ trong tình hình mới, đề ra mục tiêu cụ thể và các giải pháp 
thực hiện đồng bộ từ nay đến năm 2020 dựa trên nguyên tắc: tỷ lệ cán bộ, 
công chức nữ khóa sau cao hơn khóa trước trên tất cả các lĩnh vực từ cấp tỉnh 
đến cơ sở. Trong thời điểm hiện nay, cố gắng thực hiện tốt các chỉ tiêu phấn 
đấu trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VII, nhiệm kỳ 2016-2020. 
Tổ chức phổ biến thực hiện Luật bình đẳng giới và các nghị định hướng 
dẫn thực hiện Luật trong tất cả các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và cán 
bộ, công chức, người lao động của Tỉnh, thực hiện bình đẳng giới trong các 
lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, đặc biệt quan tâm nội dung của Luật 
quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị với nội dung cơ bản là: 
64 
+ Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt 
động xã hội, tham gia xây dựng và thực hiện quy chế của cơ quan, tổ chức, 
trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu quốc hội, tự ứng cử 
vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính tri, tổ chức chính trị xã hội 
bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị 
trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. 
+ Thực hiện các giải pháp thúc đẩy bình đẳn giới trong lĩnh vực này 
gồm: bảo đảm tỷ lệ thích hợp nữ đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân cấp 
tỉnh phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; bảm đảm tỷ lệ nữ thích 
hợp trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục 
tiêu quốc gia về bình đẳng giới. 
3.2. Một số giải pháp cụ thể 
3.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính 
quyền, đoàn thể các cấp về công tác cán bộ, công chức nữ 
 Phải tiếp tục đổi mới nhận thức về phụ nữ với tư cách là một lực lượng 
quan trọng trong sự nghiệp phát triển của xã hội, phải được bình đẳng về 
quyền lợi, trách nhiệm. Phải coi công tác cán bộ nữ thực chất là một trong 
những nội dung của nhiệm vụ giải phóng phụ nữ; là nhiệm vụ của tất cả các 
thành viên trong hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân 
Cách mạng Lào; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ 
trương, chính sách về cán bộ nữ và nên đưa chỉ tiêu về cán bộ nữ là một nội 
dung trong nhiệm vụ của các cấp ủy đảng và đoàn thể được tổ chức kiểm tra, 
giám sát và đánh giá chất lượng tổ chức hàng năm. 
 Công tác cán bộ nữ là vấn đề lớn, quan trọng và là trách nhiệm của cả 
hệ thống chính trị và toàn xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước Lào. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Chăm Pa Sắc tăng cường phối hợp 
với các cơ quan, đẩy mạnh truyền thông để tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận 
thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và của toàn xã hội về tầm 
65 
quan trọng, vị trí, vai trò của công tác cán bộ nữ; về chủ trương, chính sách 
của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác phụ nữ, về bình đẳng giới, về 
hôn nhân và gia đình. 
 Nâng cao nhận thức về giới và quyền chính trị của phụ nữ, lợi ích của 
phụ nữ tham gia chính trị và lãnh đạo đối với cấp ủy đảng, chính quyền, mặt 
trận tổ quốc và các ban ngành, đoàn thể các cấp cũng như phụ nữ và nam giới 
trong cộng đồng nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi về mọi mặt để phụ 
nữ tự tin, khẳng định năng lực từng vị trí, cương vị và tính quyết định trong 
công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành được tốt hơn. 
 Nâng cao nhận thức về giới và kiến thức lồng ghép giới trong đội ngũ 
lãnh đạo chủ chốt các cấp ở địa phương, làm thay đổi nhận thức, suy nghĩ, 
việc làm. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát đánh giá về giới trong chính 
sách, kế hoạch hành động của các cấp chính quyền và các ban ngành nhằm 
tăng tỷ lệ nữ tham gia vào các cấp lãnh đạo và các công việc của bộ máy nhà 
nước; Đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp hoạt 
động tích cực hơn. Mặt khác, triển khai thực hiện tốt Nghị định số 64-CP của 
Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về quy hoạch trách nhiệm 
của bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp về việc đảm bảo cho các cấp hội liên 
hiệp phụ nữ tham gia quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Công tác 
cán bộ nữ phải gắn chặt với yêu cầu đổi mới công tác cán bộ nói chung, nhằm 
đạt mục tiêu thu hút được nhân tài, chống những định kiến về phụ nữ. 
3.2.2. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, công chức nữ 
ở tỉnh Chăm Pa Sắc 
 Quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, công chức nữ là một nhiệm vụ quan 
trọng của công tác tổ chức cán bộ; là yêu cầu tất yếu bởi lẽ theo quy luật 
khách quan, lớp lớp cán bộ, công chức trưởng thành phát triển giữ những 
trọng trách cao hơn, lớp lớp cán bộ, công chức hết độ tuổi lao động phải được 
nghỉ ngơi thì việc bổ sung thay thế là lẽ đương nhiên. Mặt khác, do sự phát 
66 
triển kinh tế - xã hội đòi hỏi một lực lượng cán bộ công chức mạnh hơn cả về 
số lượng và chất lượng. 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng nhân 
dân cách mạng Lào (khóa VIII) đã đề ra yêu cầu: “đảng bộ, chi bộ và cấp ủy 
đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm nhiều thế hệ bổ 
sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng thời phát 
hiện và bồi dưỡng những người có tài, có đức trong nhân dân để đảm đương 
các vị trí công tác trong hệ thống chính trị”. 
Trong thời gian tới, công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, công chức nữ 
ở tỉnh Chăm Pa Sắc cần tập trung như sau: 
Một là, đổi mới và khắc phục những tồn tại, yếu kém trong công tác quy 
hoạch cán bộ, công chức, nhất là yếu kém trong việc tạo nguồn cán bộ từ xa. 
Xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức nữ toàn diện và đồng bộ hơn hiện nay 
để phát huy được khả năng đa dạng và sức mạnh tổng hợp của nữ giới, bên 
cạnh quy hoạch lại cán bộ lãnh đạo, quản lý cần thực hiện các loại cán bộ, 
công chức cơ bản khác trong đội ngũ cán bộ, công chức nữ tỉnh Chăm Pa Sắc 
hiện nay là: cán bộ giáo dục, khoa học, công nghệ; cán bộ quản lý kinh doanh 
– doanh nhân; cán bộ văn hóa, nghệ thuật; cán bộ tham mưu. 
Đưa các chỉ tiêu về bình đẳng giới đã được Nghị quyết 10-NQ/TƯ của 
Bộ Chính trị Lào khóa IX xác định vào quá trình hoạch định và thực thi chính 
sách của Đảng và Nhà nước một cách nghiêm túc và quyết liệt hơn. Có chế tài 
mạnh hơn đối với các tập thể, cá nhân có thẩm quyền không thực hiện các 
nhiệm vụ chính trị này và không chấp hành Luật Bình đẳng giới. 
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh cần chủ động tham mưu, đề xuất, giới thiệu 
nguồn cán bộ, công chức nữ với cấp ủy trong công tác quy hoạch; cần gây 
ảnh hưởng, tác động tích cực hơn trong quá trình xây dựng, thực hiện đề án 
quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ của các cấp ủy địa phương, sở, 
ngành, huyện, Hội cần thực hiện chức năng, nhiệm vụ phản biện và giám 
67 
sát đối với quá trình hoạch định và thực thi chính sách của các cơ quan Đảng, Nhà 
nước có liên quan tới vấn đề bình đẳng giới và đội ngũ cán bộ, công chức nữ. 
Hai là, thực hiện nghiêm túc cơ cấu 3 độ tuổi cán bộ, công chức nữ trong 
quy hoạch cấp ủy và ban lãnh đạo, quản lý các cấp; tăng cường kiểm tra việc 
thực hiện quy hoạch, bảo đảm tính thực chất, khả thi của đề án quy hoạch cán 
bộ, công chức. Độ tuổi nữ khi được quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cần sớm 
hơn nam giới từ 3 đến 5 năm. 
Đề án quy hoạch và đề án nhân sự ban chấp hành, ban thường vụ các cấp 
ủy phải đảm bảo cơ cấu nữ ở cả 3 độ tuổi; cấp có thẩm quyền chỉ phê duyệt, 
xác nhận quy hoạch hoặc thông qua phương án nhân sự cấp ủy khi quy hoạch 
hoặc phương án nhân sự đáp ứng được yêu cầu này. Việc bổ sung ban chấp 
hành, ban thường vụ Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ phải quan tâm bổ sung cán bộ, 
công chức nữ, đủ tuổi tham gia từ 2 nhiệm kỳ trở lên nhằm đào tạo, chuẩn bị 
nhân sự nữ cho các khóa tiếp theo. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý 
cần bảo đảm cán bộ, công chức nữ 3 độ tuổi trong lãnh đạo ở từng cấp; đối 
với cấp huyện và tương đương trở lên nhất thiết phải có cán bộ nữ trong cơ 
cấu lãnh đạo. 
 Ba là, công tác quy hoạch cán bộ, công chức nữ phải đảm bảo nguyên 
tắc “động” và “mở”. Hàng năm rà soát, bổ sung danh sách quy hoạch về chỉ 
tiêu cán bộ, công chức nữ trong hệ thống chính trị. Định kỳ căn cứ vào kết 
quả đánh giá cán bộ, công chức nữ để lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn 
bổ sung vào quy hoạch, đồng thời đưa ra khỏi danh sách quy hoạch những 
người không còn đủ tiêu chuẩn. 
Bốn là, việc tạo nguồn cán bộ, công chức nữ không khép kín trong địa 
phương, sở, ngành, đơn vị. Cấp ủy các cấp thường xuyên rà soát, phát hiện 
nhân tố mới có năng lực, sở trường, chuyên môn phù hợp với lĩnh vực công 
tác nào thì bố trí, đưa vào danh sách dự nguồn để theo dõi, bồi dưỡng, giao 
nhiệm vụ. 
68 
3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ 
nữ cán bộ, công chức 
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói chung, tỉnh Chăm Pa Sắc nói 
riêng, công tác đào tạo và sự nghiệp đấu tranh giải phóng phụ nữ đã góp phần 
quan trọng vào quá trình phát triển của đất nước, nhưng lại đang phải đối mặt 
với tình trạng lạc hậu và trì trệ của tư duy đào tạo. Vì vậy, trong quá trình 
diễn ra những chuyển biến mang tính bước ngoặt của thời đại, muốn có đội 
ngũ nữ cán bộ, công chức có thể làm chủ được quá trình chuyển biến đó, cần 
phải tiến hành đổi mới liên tục và cơ bản lĩnh vực đào tạo cán bộ, công chức. 
Đại hội lần thứ IX của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đề ra đột phá về 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: “Phải đột phá một cách mạnh mẽ về phát triển 
nguồn nhân lực, nhất là về đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết, 
năng lực trong các mặt của cán bộ cho tương xứng với yêu cầu của phát 
triển”. [8]. 
Thực hiện Quyết định số 733-QĐ/TU ngày 29/3/2013 của Ban Thường 
vụ Tỉnh ủy Chăm Pa Chắc “Về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng 
cán bộ, công chức, dự nguồn quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý giai 
đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020”, thời gian tới cần tập trung thực 
hiện đồng bộ các giải pháp đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để nâng cao chất 
lượng đội ngũ cán bộ, công chức hội các cấp, đáp ứng yêu cầu công tác hội 
trong giai đoạn mới, đồng thời góp phần tạo nguồn cán bộ, công chức nữ cho 
các cấp, các ngành. 
Một là, các cấp ủy đảng, trong kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, 
dài hạn phải xác định rõ chỉ tiêu là cán bộ, công chức nữ, làm cơ sở từng bước 
lựa chọn đối tượng đi đào tạo, bồi dưỡng. Trước hết Hội phụ nữ các cấp cần 
chủ động phát hiện cán bộ, công chức trong hệ thống có triển vọng, nhất là 
cán bộ, công chức nữ trẻ, đề xuất với cấp ủy cho đi đào tạo, bồi dưỡng. 
69 
Hai là, về nội dung đào tạo, bồi dưỡng không chỉ kiến thức về khoa 
học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghề nghiệp mà còn bao gồm cả những 
kiến thức về văn hóa, nhân văn, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của phụ nữ 
Lào: có lòng yêu nước, có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng 
động, sáng tạo, khéo léo, nhạy bén, có lối sống văn hóa và lòng nhân hậu, 
nhằm xây dựng hình ảnh người phụ nữ Lào chuẩn mực trong thời đại mới, 
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, quá 
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ cần khoa học – kỹ thuật, công 
nghệ hiện đại, mà chính đạo đức, nhân phẩm của con người cũng là yếu tố 
quyết định sự phát triển bền vững của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Xây dựng chiến lược đạo tạo, bồi dưỡng đội ngũ nữ cán bộ, công chức 
theo từng lĩnh vực, từ đó cụ thể hóa kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo, bổ sung, hoàn 
thiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cán bộ, công chức nữ tham gia đào tạo. 
Cùng với đào tạo, bồi dưỡng trong nước, cần lựa chọn những cán bộ, 
công chức nữ có triển vọng đi đào tạo tại nước ngoài với số lượng, cơ cấu, 
lĩnh vực phù hợp, đặc biệt là những ngành, lĩnh vực mũi nhọn trong phát triển 
kinh tế - xã hội ở tỉnh Chăm Pa Sắc; Tiến hành lựa chọn và đào tạo thông qua 
hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học trong thực thi công vụ và quản 
lý. Tuy nhiên, tài năng của người cán bộ, công chức vẫn là quan trọng nhất, 
nhưng phải chú ý đến đặc điểm về giới, không áp dụng một tiêu chuẩn duy 
nhất cho cả hai giới nam và nữ khi đánh giá năng lực cán bộ, công chức; 
Quan tâm đào tạo cán bộ, công chức nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã 
hội, bảo đảm đạt được Mục tiêu Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai 
đoạn 2011-2020 mà Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã đề 
ra. Hiện nay, phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ, 
công chức nữ để họ thực sự đảm đương được nhiệm vụ, tránh chủ nghĩa cơ 
cấu đơn thuần và hình thức. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho các sinh viên nữ để 
bổ sung vào chất lượng đội ngũ nữ cán bộ, công chức trong tương lai. 
70 
Ba là, đổi mới quá trình đào tạo cán bộ, công chức nữ. Đào tạo cơ bản 
để trang bị kiến thức, kỹ năng tối thiểu cho phù hợp với công việc đang đảm 
nhiệm.Đào tạo nâng cao để cán bộ, công chức nữ làm việc nâng cao hiệu quả. 
Đào tạo phải linh hoạt, thiếu kiến thức ở lĩnh vực nào thì đào tạo, bồi dưỡng 
kiến thức đó, tránh đào tạo tràn lan kém hiệu quả. Ngoài ra, cần chú ý đào tạo, 
bồi dưỡng trong thực tiễn. 
Khuyến khích nữ cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ bằng 
nhiều hình thức khác nhau và phải có chính sách ưu tiên cho phù hợp từng địa 
bàn để nhằm đảm bảo nữ cán bộ, công chức cho từng địa phương, tránh thiếu 
hụt ở một số nơi, đồng thời có chính sách hỗ trợ kinh phí cho quá trình học 
đối với cán bộ, công chức nữ học ở trình độ cao nhằm đào tạo ra đội ngũ nữ 
cán bộ, công chức có chất lượng; Các trường và các cơ sở đào tạo phải trang 
bị cho sinh viên nói chung và sinh viên nữ nói riêng những kiến thức về chính 
trị, xã hội giúp họ nhận thức đúng đắn về những vấn đề xảy ra xung quanh 
trong xã hội hiện đại góp phần làm cho một bộ phận sinh viên, trong đó có nữ 
sinh viên khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, 
theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão Có làm được như vậy, sinh viên nữ 
mới có đủ phẩm chất, năng lực, hoài bão, lòng tự tin bước vào tham gia lực 
lượng lao động xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của 
đất nước có hiệu quả cao; Phải lồng ghép kiến thức về giới trong chương trình 
giảng dạy ở các trường phổ thông, trung học, cao đẳng, đại học hiện nay; 
Thành lập các quỹ hỗ trợ tài năng trẻ cho sinh viên nữ cần được khuyến khích 
mở rộng nhằm thu hút sự tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân vì hiền tài 
của đất nước và vì sự phát triển của nữ giới, đồng thời tạo ra động lực thúc 
đẩy, giúp đỡ sinh viên nữ có ý chí vươn lên trong học tập, nhất là sinh viên nữ 
nghèo có tinh thần vượt khó. 
3.2.4. Đổi mới chính sách tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công chức nữ 
 Chính sách tuyển dụng được đổi mới theo hướng xây dựng và thực 
hiện phương pháp tuyển dụng cạnh tranh, công khai, bình đẳng giữa nam và 
71 
nữ, khách quan, chính xác, tăng khả năng lựa chọn để nâng cao chất lượng đội 
ngũ nữ cán bộ, công chức và tuyển dụng được những người thực sự có trình 
độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu của công việc và 
chức danh tuyển dụng đặt ra. 
 Một là, có cơ chế chính sách tuyển dụng cụ thể, rõ ràng, minh bạch. 
Để tuyển dụng được chính xác và hợp lý, chức danh tuyển dụng phải được 
công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, chính xác về yêu 
cầu và vị trí cần tuyển để qua đó tuyển dụng được đúng người cần tuyển và 
người có năng lực thì có cơ hội được bộc lộ tài năng của mình cho công việc, 
đặc biệt đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý hay khoa học công nghệ 
càng cần thiết phải thi tuyển trong điều kiện hiện nay, tránh hiện tượng thừa 
hoặc thiếu một cách giả tạo, gây nên sự lãng phí chất xám hoặc quá trình sử 
dụng không đúng người đúng việc. Hàng năm, tổ chức thi nâng ngạch bằng 
hình thức cạnh tranh cho các đối tượng đủ tiêu chuẩn.Qui trình tổ chức thi 
phải chặt chẽ, minh bạch, khắc phục tiêu cực. 
 Hai là, khi tuyển dụng phải đảm bảo cân bằng giữa nam và nữ. 
Tuyển dụng cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý hành chính, sự 
nghiệp, các thành phần kinh tế cần có những quy định đảm bảo số lượng 
nam giới và nữ giới cân bằng tương đối trong mọi thời điểm. Cần có những 
quy định cụ thể riêng cho từng giới đảm bảo sự phù hợp cho từng ngành 
trong quá trình tuyển dụng, phải khắc phục hoàn toàn việc không tuyển 
dụng và không được đặt ra những điều kiện khắt khe, bất lợi cho nữ giới 
dưới bất kỳ lý do và hình thức nào. 
 Ba là, nội dung tuyển dụng toàn diện đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri 
thức và hội nhập quốc tế.Hiện nay, thi tuyển phải đầy đủ tất cả các kiến thức 
cần thiết trong quá trình sử dụng và được coi như điều kiện bắt buộc. Nội 
dung thi tuyển phải vừa toàn diện, vừa cụ thể, phải bao quát được những vấn 
đề chung của quản lý nhà nước và riêng của công việc cụ thể mà người đó 
72 
phải đảm nhiệm trong tương lai. Yêu cầu bắt buộc phải sử dụng ngoại ngữ và 
có kiến thức đủ để phát triển kinh tế tri thức và hội nhập. 
 3.2.5. Đổi mới chính sách sử dụng đội ngũ nữ cán bộ, công chức 
 Hiệu quả trong sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức nữ phụ thuộc chủ 
yếu vào hai vấn đề là trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và thái độ của 
nữ cán bộ, công chức đối với công việc. Vì vậy, giải pháp hiện nay là khơi 
dậy, nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực, siêng năng, chịu khó của đội ngũ 
nữ cán bộ, công chức, lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện mục tiêu của tổ chức, của 
cơ quan thông qua việc đổi mới kịp thời những chính sách sử dụng cán bộ, 
công chức nữ hiện nay. 
 Đơn vị sử dụng cán bộ, công chức nữ phải bố trí, sắp xếp hợp lý dựa 
trên cơ sở năng lực, trình độ, bằng cấp, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng 
chức danh, vị trí công việc, đồng thời phải chính xác để làm cơ sở xác định 
nhu cầu sử dụng nữ cán bộ, công chức. Việc xây dựng tiêu chuẩn phù hợp sẽ 
làm căn cứ để trả lương chính xác cho cán bộ, công chức, sẽ là động lực để họ 
phấn đấu và cống hiến cho công việc. 
 Cải tiến các chính sách liên quan đến việc sử dụng nữ cán bộ, công 
chức như: Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương chính sách cụ thể qui 
định tuổi quy hoạch của nữ, nên qui định sớm và kéo dài bằng nam, vì nữ giới 
ở giai đoạn đầu phát triển trước nam giới và giai đoạn sau thời gian của nữ 
giới ngắn hơn nam. Đối với tuổi nghỉ hưu của nữ cán bộ, công chức cần qui 
định sao cho linh hoạt. Không nên qui định tất cả nữ cán bộ, công chức đều 
nghỉ hưu ở tuổi 55 như hiện nay. Có thể một số chức danh nên để tuổi nghỉ 
hưu của nữ bằng với nam giới. Chẳng hạn những người có trình độ cao như: 
giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp trở lên 
(ngoại trừ những người không đủ sức khỏe thì được nghỉ hưu theo nguyện 
vọng của cá nhân). Làm như vậy sẽ khai thác được những thế mạnh của họ để 
đóng góp vào sự phát triển của địa phương nói riêng, của cả nước nói chung 
73 
và không gây lãng phí (đặc biệt chất xám) cho xã hội. Bởi vì, trên thực tế ở độ 
tuổi đã chín, đội ngũ nữ cán bộ, công chức như trên mới có nhiều thời gian, 
có vốn tri thức lớn và kinh nghiệm của chuyên gia cho công việc và lĩnh vực 
ngành nghề mình nghiên cứu, đảm nhiệm. Hơn nữa, lúc này con cái họ đã 
trưởng thành, gia đình ổn định, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn dành cho 
công tác chuyên môn. Do đó, tuổi nghỉ hưu của đội ngũ nữ cán bộ, công chức 
nêu trên nên bằng với nam giới là 60 tuổi. Nếu thực hiện được giải pháp này 
sẽ tận dụng được sự đóng góp không nhỏ của một bộ phận đội ngũ nữ cán bộ, 
công chức có tài năng và thể chế hóa được tư tưởng về bình đẳng giới của 
Đảng và Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. 
 Mỗi năm, ở tỉnh Chăm Pa Sắc nói riêng, cả nước Lào nói chung có 
nhiều ngàn sinh viên nữ tốt nghiệp các loại hình đào tạo khác nhau như cử 
nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Nếu địa phương có chính sách trọng dụng hợp lý thì có 
thể tuyển chọn được lực lượng lao động chất lượng cao cho các cơ quan, tổ 
chức, đơn vị sự nghiệp trong Tỉnh, tuyển chọn được nhân tài và xây dựng 
được đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng ở tất cả các lĩnh vực, đóng góp 
cho sự phát triển chung của đất nước. Tỉnh Chăm Pa Sắc đã và đang cố gắng 
đề ra và thực hiện các chính sách thu hút nhân tài nhằm nâng cao chất lượng 
đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ nữ cán bộ, công chức nói riêng, 
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mặc dù vậy, trên 
thực tế các chính sách đó chưa phát huy được hiệu quả, kết quả thực hiện 
chưa đạt được yêu cầu đề ra. Vấn đề không chỉ cần có cơ chế hợp lý, có nhận 
thức đúng, có kế hoạch lựa chọn và đào tạo mà điều quan trọng là phải quyết 
tâm bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, tin tưởng vào đội ngũ nữ cán bộ, công chức trẻ, 
tạo động lực kích thích tính chủ động, sáng tạo của họ.Phải sử dụng đúng sở 
trường, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, tránh việc sắp xếp công 
việc trái ngành nghề đào tạo, có như vậy thì mới đem lại được hiệu quả 
cao.Đội ngũ cán bộ, công chức nữ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển 
74 
kinh tế và tiến bộ xã hội, nên bên cạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng thì công 
tác sử dụng, quản lý cũng cần có sự quan tâm thỏa đáng thì mới có thể khai 
thác và phát triển được đội ngũ nữ cán bộ, công chức cho phát triển, cho nên 
cần phải chú ý những vấn đề sau: 
 + Phải đặt mục tiêu phát triển đội ngũ nữ cán bộ, công chức và trọng 
dụng họ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung 
của tỉnh Chăm Pa Sắc. Có tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể với từng lĩnh vực, từng 
huyện, từng bản, từng đối tượng, ngành nghề. Công tác qui hoạch sử dụng cán 
bộ, công chức nữ phải được tiến hành thường xuyên và được quan tâm một 
cách đầy đủ của các cấp lãnh đạo, các sở, ban, ngành, nhưng không vì đáp 
ứng yêu cầu về cơ cấu tham gia của nữ cán bộ, công chức mà xem nhẹ chất 
lượng. Ngược lại, phải có sự chuẩn bị đội ngũ cán bộ, công chức cả về số 
lượng và không ngừng nâng cao về chất lượng cả trước mắt cũng như lâu dài. 
 + Trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức và sắp xếp bố trí, luân 
chuyển phải tính đến đặc điểm giới, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho 
họ phấn đấu, rèn luyện, thể hiện năng lực, sở trường để phát triển. Lựa chọn, 
đề bạt nữ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới thì việc đề 
cao các tiêu chuẩn về bằng cấp là cần thiết nhưng cũng không cứng nhắc mà 
làm việc lựa chọn đội ngũ cán bộ, công chức nữ gặp khó khăn, việc phát hiện 
tài năng nữ không được quan tâm thỏa đáng. 
 + Các cấp ủy Đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng qui hoạch đội 
ngũ cán bộ, công chức nữ trong qui hoạch tổng thể về cán bộ của Đảng ở từng 
cấp, từng ngành, từng đơn vị trong toàn Tỉnh. Đồng thời, cùng với việc qui 
hoạch, phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề bạt, bổ 
nhiệm cần bảo đảm tiêu chuẩn của từng chức danh, có khả năng hoàn thành 
tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu điểm của bản thân cán bộ, công 
chức nữ. Thực hiện nguyên tắc qui hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm của nữ 
cán bộ, công chức sớm hơn so với nam về độ tuổi. Chủ động bố trí nữ cán bộ, 
75 
công chức đã được rèn luyện, thử thách, được đào tạo và hội đủ các tiêu 
chuẩn đặt ra. Trong trường hợp nam và nữ cán bộ, công chức có đủ tiêu chuẩn 
và điều kiện như nhau thì phải ưu tiên cho nữ trước. Trong quy hoạch phải 
đảm bảo tính ổn định, kế thừa và phát triển của nữ cán bộ, công chức một 
cách vững chắc tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức. 
 + Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chính sách 
nhằm phát triển đội ngũ nữ cán bộ, công chức trong nghiên cứu khoa học – 
công nghệ, trong lãnh đạo, quản lý. Có chính sách cụ thể về qui hoạch, đào 
tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối với họ cho phù hợp. 
 + Có chế độ chính sách phù hợp cho đội ngũ nữ cán bộ, công chức, 
nhất là ở cấp cơ sở, để thu hút được nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đã qua 
đào tạo về công tác tại địa phương, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của 
họ. Thực hiện nhiều biện pháp khuyến khích, nhân rộng những tấm gương 
thuộc về nữ cán bộ, công chức điển hình, tích cực, có nhiều thành tích học 
tập, nghiên cứ, trong công tác; hỗ trợ vật chất, tinh thần để họ vươn lên trong 
khoa học, công tác; Chính sách đãi ngộ, khuyến khích cho những nữ cán bộ, 
công chức công tác tại những huyện, bản vùng sâu, xa, hoặc vùng đặc biệt 
khó khăn trong Tỉnh 
 + Tỉnh Chăm Pa Sắc cần có nhiều biện pháp tạo điều kiện cho đội ngũ 
nữ cán bộ, công chức có điều kiện hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các nước 
trong khu vực và thế giới: học tập kinh nghiệm về nâng cao chất lượng đội 
ngũ; trao đổi khoa học và nhiệm vụ trong mọi lĩnh vực 
 3.2.6. Đổi mới chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ nữ cán bộ, công chức 
 Cần có chính sách đãi ngộ một cách thỏa đáng thì mới khai thác được 
tiềm năng của mỗi cán bộ, công chức trong quá trình hoạt động công việc của 
họ, trong đó có đội ngũ nữ cán bộ, công chức. Tạo điều kiện làm việc tốt nhất 
cho cán bộ, công chức như cung cấp thông tin, trang thiết bị hiện đại kết hợp 
giải quyết thỏa đáng các loại lợi ích vật chất và tinh thần. Những hoạch định 
76 
cụ thể trong việc sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ nữ cán bộ, công chức ở 
tỉnh Chăm Pa Sắc trong thời gian tới có thể tập trung vào một số điểm cụ thể: 
 + Một là, đối với những sinh viên nữ trẻ mới ra trường, Nhà nước và 
địa phương cần có chính sách cụ thể để khuyến khích, động viên sao cho 
xứng đáng để họ yên tâm công tác, cống hiến và tích cực học tập nâng cao 
trình độ, đáp ứng yêu cầu của công việc. Tạo ra những điều kiện, cơ hội 
bằng nhau cho cả nam và nữ, đồng thời phải đáp ứng những đòi hỏi mang 
tính đặc thù của giới tính, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của nữ cán bộ, 
công chức. Tránh tình trạng phân biệt đối xử trong đào tạo và sử dụng nữ 
cán bộ, công chức. 
 + Hai là, đánh giá, đãi ngộ và tôn vinh nữ cán bộ, công chức phải công 
bằng. Việc đánh giá của cơ quan các cấp, của xã hội một cách khách quan 
năng lực của nữ cán bộ, công chức và căn cứ vào sự cống hiến của họ để có 
sự đãi ngộ tương xứng là một nguồn động viên rất lớn, khuyến khích đội ngũ 
cán bộ, công chức nữ say mê công việc và có chí vươn lên. Một vấn đề mà 
các nữ cán bộ, công chức hiện nay đang rất cần đó là sự công bằng, dân chủ 
trong việc đánh giá, đãi ngộ. Vấn đề này đang đặt ra và đòi hỏi các đơn vị chủ 
quản trực tiếp, cơ quan các cấp cần quan tâm, xem xét giải quyết sao cho thỏa 
đáng. Sự công bằng ở đây không phải là sự “bình quân, chiếu cố” mà là sự tạo 
điều kiện của các cấp lãnh đạo, xã hội và gia đình cho đội ngũ nữ cán bộ, 
công chức có cơ hội được thể hiện trí tuệ của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, 
cần có các chính sách cụ thể khuyến khích phát triển tài năng sáng tạo của đội 
ngũ cán bộ, công chức nữ như tạo điều kiện cho họ thực hiện các dự án, đề tài 
khoa học; mạnh dạn và tin tưởng giao cho họ làm việc đi đôi với hướng dẫn, 
kèm cặp để bản thân họ vừa học tập, vừa nâng cao trình độ, vừa chủ động, 
sáng tạo đóng góp sức lực vào các hoạt động nghề nghiệp, có thêm thu 
nhập là việc làm cấp bách của các cấp quản lý và lãnh đạo tỉnh Chăm Pa 
Sắc. Bên cạnh đó phải có sự ưu tiên tuyển chọn đối với nữ cán bộ, công chức 
77 
trẻ từng có thành tích học tập xuất sắc, có nguyện vọng học lên cao thì có ưu 
tiên về kinh phí, thời gian. Có các hình thức khen thưởng bằng vật chất, tinh 
thần thích đáng, kịp thời đối với những thành công của nữ cán bộ, công chức; 
hình thành tâm lý xã hội trân trọng những thành quả đạt được trong hoạt động 
trí tuệ, hoạt động nghề nghiệp của nữ cán bộ, công chức để khích lệ lòng tự 
tin, sự phấn đấu vươn lên của họ. Để cả hai giới được phát triển như nhau, có 
những đóng góp xứng đáng vào tiến trình phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ 
chức nói riêng, của tỉnh Chăm Pa Sắc nói chung là nguyện vọng to lớn không 
chỉ của riêng đội ngũ nữ cán bộ, công chức, mà còn là của toàn xã hội. 
 + Ba là, vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Chăm Pa Sắc có một ý 
nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phấn đấu và vươn lên của đội ngũ cán bộ, 
công chức nữ. Hội phải xây dựng các điển hình, các phong trào tôn vinh nữ 
cán bộ, công chức. Với tính chất là một tổ chức đại diện cho quyền lợi của 
phụ nữ, Hội Liên hiệp phụ nữ Tỉnh phải tiếp tục tạo ra nhiều hoạt động hơn 
nữa góp phần nâng cao kiến thức và năng lực cho nữ cán bộ, công chức, qua 
đó giúp họ có những hiểu biết đúng đắn về bình đẳng giới, nhận thức rõ khả 
năng, năng lực và cả những hạn chế của bản thân, trên cơ sở đó có hướng đi 
phù hợp hoặc khắc phục hạn chế để đi đến thành công. Hội Liên hiệp phụ nữ 
tỉnh Chăm Pa Sắc phải là cầu nối giữa nữ cán bộ, công chức trong Tỉnh với 
Đảng, Chính phủ, với các cấp lãnh đạo trong Tỉnh, xa hơn nữa là với bạn bè 
quốc tế, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nữ cán bộ, công chức, đồng thời 
tham mưu đề xuất những chính sách, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội 
ngũ cán bộ, công chức nữ, đóng góp cho sự phát triển của tỉnh Chăm Pa Sắc. 
 + Bốn là, tạo môi trường tâm lý – xã hội thuận lợi để kích thích tính 
tích cực, sáng tạo của đội ngũ nữ cán bộ, công chức. Môi trường tâm lý – xã 
hội chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: quan hệ giữa các đồng nghiệp, 
triết lý sống, quan hệ cấp trên, cấp dưới, phong tục tập quán và nhiều hình 
thức sinh hoạt văn hóa, tinh thần khác Để tạo môi trường tâm lý – xã hội 
78 
thuận lợi cho việc động viên tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ nữ cán bộ, 
công chức, điều quan trọng nhất phải đưa ra những chính sách kinh tế - xã hội 
ở địa phương đúng đắn, vừa phù hợp với điều kiện và khả năng hiện thực của 
xã hội, vừa kịp thời đáp ứng những nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của mỗi cán 
bộ, công chức. Hiện nay, trong điều kiện cụ thể ở tỉnh Chăm Pa Sắc, để tạo 
tâm lý an tâm, phấn khởi, tích cực, sáng tạo của đội ngũ nữ cán bộ, công chức 
cần phải chú ý đến nhu cầu chính đáng cảu họ: việc làm và có thu nhập, tiến 
tới thu nhập ngày một cao; bình đẳng giới và công bằng xã hội; nhu cầu nâng 
cao hiểu biết; có cơ hội được thăng tiến để khẳng định bản thân và được xã 
hội tôn vinh, Việc thỏa mãn những nhu cầu này sẽ tác động trực tiếp, tích 
cực đến thái độ của nữ cán bộ, công chức đối với công việc. 
 3.2.7. Phát huy tính tự giác phấn đấu, ý chí vươn lên của nữ cán bộ, 
công chức tỉnh Chăm Pa Sắc 
 Việc tăng cường tỷ lệ nữ và phát huy năng lực của cán bộ, công chức 
nữ là tất yếu khách quan. Môi trường gia đình, xã hội tạo điều kiện thuận lợi 
cho đội ngũ cán bộ, công chức nữ học tập, công tác, là rất quan trọng. Tuy 
nhiên, để nâng cao được tỷ lệ cán bộ, công chức nữ về số lượng và đảm bảo 
về chất lượng, nhân tố quyết định lại do chính bản thân người nữ cán bộ, công 
chức đó. 
 Nhìn lại thực tế công việc đòi hỏi hơn ai hết, chính nữ cán bộ, công 
chức phải có trách nhiệm với việc xác lập vị trí của mình trong gia đình, trong 
xã hội và cơ quan. Tạo hóa sinh ra nam giới và nữ giới với những đặc điểm 
tâm sinh lý hoàn toàn khác nhau, nữ giới không có được tính cách mạnh mẽ, 
quyết đoán như nam giới nhưng lại sở hữu sự dịu dàng, quán xuyến, dẻo dai 
và linh hoạt. 
 Bản thân người nữ cán bộ, công chức cần chủ động tích cực nâng cao 
trình độ mọi mặt, nhất là chuyên môn, nghiệp vụ; phấn đấu trở thành người 
cán bộ, công chức, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, có mục tiêu, kế hoạch 
79 
phấn đấu rõ ràng để có thể nắm bắt, tận dụng có hiệu quả những cơ hội có 
được để tiến bộ. Mỗi cán bộ, công chức nữ cần nâng cao hơn nữa nhận thức 
giới, học tập trau dồi kiến thức, năng lực công tác, nhạy bén tiếp thu cái mới, 
cái hay, trau dồi phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, sẵn sàng nhận nhiệm 
vụ khi được phân công, tận tụy với công việc đẻ chứng minh, khẳng định 
được năng lực, vị trí, vai trò của mình trong lĩnh vực công tác. Thước đo năng 
lực của mỗi người là chính hiệu quả công việc mà người đó được giao phó, là 
chính uy tín của nữ cán bộ, công chức trước gia đình và xã hội. Họ phải phát 
huy tính chủ động, dám nghĩ, dám làm, vượt lên những định kiến hẹp hòi, 
những tư duy hạn hẹn, tư tưởng an phận, đồng thời cũng cần biết rõ những 
nhược điểm chính của giới nữ là tính tự ti, an phận, thói hẹp hòi, ích kỷ, đố kỵ 
với nhau để có biện pháp khắc phục, biết rộng lòng hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau 
tạo cơ hội cho mình và các nữ cán bộ, công chức khác, không nên quá cầu 
toàn, khắt khe, làm mất thời cơ. Cán bộ, công chức nữ hiểu giới mình hơn ai 
hết, chính bản thân họ phải đổi mới cách nhìn nhận, đánh giá cán bộ, biết 
thông cảm, thương yêu, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau vì mục đích đem 
lại sự bình đẳng, tiến bộ và phát triển. 
 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nữ tỉnh Chăm Pa Sắc 
hiện nay là hoạt động rất cần thiết. Để có được sự chuyển biến thực sự trong 
thực tế thì các giải pháp này cần được quán triệt đến tất cả các cơ quan trong 
hệ thống chính trị, trong đó Ban tổ chức cấp ủy các cấp phải là đầu mối chủ 
trì, phối hợp với ngành nội vụ, Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp trong Tỉnh để 
tham mưu giúp các cấp ủy chỉ đạo thực hiện công tác cán bộ nữ. Nhận thức 
phải được chuyển thành hành động thực tiễn, cho nên các giải pháp trên phải 
được tiến hành đồng bộ với sự nỗ lực và quyết tâm cao. 
80 
KẾT LUẬN 
Tỉnh Chăm Pa Sắc có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là động lực phát triển của khu vực tây nam 
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Với trách nhiệm đó đòi hỏi tỉnh 
Chăm Pa Sắc phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức thực sự có tài, 
có đức, luôn năng động, bản lĩnh, đảm đương được nhiệm vụ, tương xứng với 
tiềm năng vị trí và định hướng phát triển của Tỉnh. Đây là nhiệm vụ hết sức 
quan trọng đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài. 
Với mục tiêu chung là không ngừng khuyến khích phụ nữ tiến bộ, với 
phạm vi nội dung đề cập ở đây là tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ nữ 
cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa Sắc có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, 
trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, năng lực thực tiễn, ra sức phấn đấu, 
nâng mình lên ngang tầm với nhiệm vụ mới, đáp ứng yêu cầu và sự phát triển 
của Tỉnh, đòi hỏi phải đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ nữ cán bộ, 
công chức và cần phải có phương hướng, mục tiêu và các giải pháp đồng bộ, 
Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc mới có thể phấn đấu đạt được mục tiêu đề ra trong 
về bình đẳng giới. 
Nhận thức rõ được vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ nữ cán bộ, công 
chức ở tỉnh Chăm Pa Sắc, Tỉnh ủy và chính quyền Tỉnh phải xây dựng những 
chủ trương, chính sách nhằm phát triển năng lực và nâng cao chất lượng đội 
ngũ cán bộ, công chức nữ trong mỗi giai đoạn phát triển. Trên cơ sở đánh giá 
thực trạng, luận văn nhận thấy, đội ngũ nữ cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa 
Sắc đã có bước phát triển mạnh về nhiều mặt, có những đóng góp quan trọng 
trong các lĩnh vực của địa phương. Những đóng góp to lớn của đội ngũ cán 
bộ, công chức nữ tỉnh Chăm Pa Sắc không chỉ khẳng định tiềm năng trí tuệ 
của nữ giới, mà còn khẳng định sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nước Lào 
và toàn xã hội, của chính quyền tỉnh Chăm Pa Sắc nói riêng, khẳng định sự 
vươn lên không ngừng của bản thân mỗi người nữ cán bộ, công chức. Đồng 
81 
thời những thành tích đạt được là minh chứng cho trí tuệ của nữ giới không 
kém so với nam giới trong gia đình và xã hội. 
Bên cạnh những ưu thế của nữ cán bộ, công chức như thông minh, dịu 
dàng, khéo léo, cần cù, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách 
nhiệm đội ngũ nữ cán bộ, công chức ở tỉnh Chăm Pa Sắc còn nhiều hạn 
chế, yếu kém như: yếu về chất lượng; cơ cấu, phân bổ, quản lý, sử dụng và 
đãi ngộ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển 
tỉnh Chăm Pa Sắc. 
Trong thời gian tới, để phát triển với tốc độ nhanh và bền vững, đồng 
thời huy động được toàn bộ nguồn lực đóng góp vào sự phát triển tỉnh Chăm 
Pa Sắc nói riêng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào nói chung, cần phải 
có chiến lược phát triển đội ngũ nữ cán bộ, công chức, một cách phù hợp và 
có hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở đánh giá những nhân tố tác động, luận văn đã 
đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nữ cán bộ, 
công chức tỉnh Chăm Pa Sắc hiện nay và trong thời gian tới. 
Vấn đề công tác cán bộ, công chức nữ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm 
hiện nay. Có thể có rất nhiều hướng và biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ 
nữ cán bộ, công chức tỉnh Chăm Pa Sắc có tính khoa học hợp lý hơn về mặt lý 
luận và xu hướng tiến bộ của thời đại, nhưng trong điều kiện cụ thể của Cộng 
hòa Dân chủ Nhân dân Lào chưa hẳn đã khả thi, vì nhiều lý do. Vì vậy đòi hỏi 
công tác nghiên cứu, dự báo về vấn đề này vẫn rất cần được quan tâm./. 
82 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thị Vân Anh – Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ, giới và phát triển, 
Nxb Phụ nữ, Hà Nội 
2. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Chăm Pa Sắc (2015), Báo cáo tổng kết hoạt động 
năm 2015. 
3. Ban Tổ chức Trung ương Đảng (2012), Văn kiện Hội nghị Tổng kết công 
tác tổ chức, xây dựng Đảng và cán bộ toàn quốc lần thứ 9, Viêng Chăn. 
4. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Chăm Pa Sắc năm 2014, 2015. 
5. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Khoa 
học giới – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, 
Hà Nội. 
6. Nguyễn Thị Kim Dung (2010), Hồ Chí Minh với cuộc đấu tranh về 
quyền bình đẳng của phụ nữ, Nxb Dân Trí, Hà Nội. 
7. Nguyễn Thị Thanh Dung (2010), Phong cách tư duy Hồ Chí Minh với 
việc xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
8. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 
IX, Nxb Quốc gia Lào, Viêng Chăn. 
9. Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2012), Báo cáo số 50-BC-TU, ngày 
25/6/2012 tổng kết thực hiện Đề án của Tỉnh ủy về “Nâng cao năng lực 
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng 
đảng viên ở đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc thời kỳ 2006 – 2010”. 
10. Đảng bộ tỉnh Chăm Pa Sắc (2010), Chương trình hành động số 37-
Tr/HU, ngày 23/10/2010 về thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TƯ về công 
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
11. Nguyễn Đức Hạt (2009), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ 
trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
83 
12. Lương Thị Thu Hằng (2004), “Vị thế của phụ nữ và nam giới trong 
hưởng dụng đất nước hiện nay”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (10), tr.21 
– tr.29. 
13. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Chăm Pa Sắc (2014), Báo cáo đánh giá 5 năm 
thực hiện Luật bình đẳng giới. 
14. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Chăm Pa Sắc, Báo cáo tổng kết hoạt động của 
Hội các năm 2014, 2015. 
15. Luật cán bộ, công chức Việt Nam (2008). 
16. Nguyễn Hữu Minh – Trần Thị Vân Anh (2009), Nghiên cứu gia đình và 
giới thời kỳ đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
17. Trần Thị Thanh Nhàn (2014), Quy hoạch cán bộ diện Ban thường vụ 
tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay, Luận án tiến sỹ 
khoa học chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
18. Quy chế làm việc của Ban chấp hành Đảng bộ, Ban thường vụ và thường 
trực tỉnh ủy Chăm Pa Sắc khóa VI, số 02 – QC/TU (2011), 
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật cán 
bộ, công chức. 
20. Lê Thị Quý (2005), Mấy suy nghĩ về vấn đề Giới trong xã hội hiện nay, 
Hà Nội. 
21. Nguyễn Văn Quynh (2011), Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1+2. 
22. Sở Nội vụ tỉnh Chăm Pa Sắc (2015), Báo cáo tổng kết các mặt hoạt 
động của Sở năm 2015. 
23. Nguyễn Đình Tấn (2005), Các quan điểm về tăng cường năng lực lãnh 
đạo của cán bộ nữ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức 
chính trị xã hội, Hà Nội. 
84 
24. Trần Thị Thu (2003), Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa (Phân tích tại Hà Nội), Nxb Lao động – xã hội, 
Hà Nội. 
25. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2001), Luận cứ 
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thời kỳ công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà 
Nội. 
26. Trung tâm từ điển học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội 
27. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học 
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Lý luận 
chính trị, số 6/2012. 
28. TS. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán 
bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhà xuất bản chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
29. Trần Văn Tùng – Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh 
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
30. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_nu_can_bo_cong_chuc_tin.pdf luan_van_nang_cao_chat_luong_doi_ngu_nu_can_bo_cong_chuc_tin.pdf