Thực tế, nguồn nhân lực ở Thanh Hóa còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém: 
Lực lượng lao động đông nhưng yếu về chất lượng, một bộ phận không nhỏ nguồn lao 
động chưa có việc làm và thiếu việc làm. Lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào sản 
xuất nông nghiệp, lực lượng lao động trong công nghiệp ít. Công tác giáo dục đào tạo 
hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực có trình độ 
chuyên môn cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lực lượng cán bộ khoa học công 
nghệ thiếu, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao chủ yếu tập trung ở lĩnh vực 
giáo dục quản lý Nhà nước, y tế, những ngành mũi nhọn như công nghiệp xây dựng đều 
thiếu ngành.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 128 trang
128 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3161 | Lượt tải: 7 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảo 
quản nông sản. 
Việc đã dạng hóa sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đổi mới cơ cấu cây trồng vật 
nuôi chính là để tạo ra nhiều việc làm trong nông thôn, và chỉ có tạo ra nhiều việc làm 
trong nông thôn thì mới giải quyết được làm việc cho lao động nông thôn. 
Ngoài ra, những tiềm năng về đất trống, đồi núi trọc, tài nguyên thiên nhiên 
được khai thác tốt ở các địa phương thì cũng sẽ tạo ra một khối lượng việc làm rất lớn. 
Nghề rừng cần được tổ chức lại theo hướng xã hội hóa lâm nghiệp chuyển từ khai thác 
là chủ yếu sang trồng khoanh nuôi, chăm sóc và bảo vệ, gắn việc trồng rừng phòng hộ 
với phát triển rừng kinh tế và thực hiện theo chế độ giao khoán. Như vậy sẽ tạo thêm 
được nhiều việc làm mới cho lao động nông thôn miền núi và trung du, tăng của cải xã 
hội, bảo vệ được môi trường sinh thái. 
Đẩy mạnh hoạt động du lịch, dịch vụ, thương mại, đầu tư, tôn tạo, nâng cấp các 
điểm du lịch như: Sầm Sơn, Lam Kinh, Bến En, Hàm Rồng... nâng cao chất lượng phục 
vụ khách du lịch, giải quyết được việc làm cho hàng nghìn lao động. 
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu lao động. Nghị quyết Trung ương 2 
khóa VIII ghi rõ: "Mở rộng xuất khẩu lao động trên thị trường đã có và thị trường mới 
cho phép các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm dịch vụ xuất khẩu lao động 
trong khuôn khổ luật pháp dưới sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Việc xuất khẩu lao 
động không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho người lao động nước ta mà qua đó góp phần 
thu ngoại tệ cho đất nước để đầu tư trở lại cho nền kinh tế quốc dân, tạo mở việc làm 
trong nước. 
Theo tính toán của chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2010 trong 
10 năm Thanh Hóa phấn đấu đưa đi xuất khẩu lao động - chuyên gia và đi làm việc ở 
các tỉnh trong cả nước được 62,7 ngàn người. Hiện nay số lao động thất nghiệp ở Thanh 
Hóa là 221,27 người. Hầu hết trong số đó là lao động giản đơn. Trong khi kinh tế - xã 
hội của Thanh Hóa chưa phát triển, Thanh Hóa chưa giải quyết hết việc làm cho người 
lao động trong tỉnh, thì việc tìm kiếm thị trường lao động và xuất khẩu lao động là việc 
làm cần thiết để giải quyết việc làm cho một phần lao động của tỉnh. 
Nhưng hiện nay lao động Việt Nam ở nước ngoài thường bỏ trốn, tỷ lệ bỏ trốn 
ngày càng cao, làm cho công xưởng của người sử dụng lao động nhỡ kế hoạch nên họ 
không muốn sử dụng lao động Việt Nam nữa, họ hướng sang thị trường lao động khác. 
Ví dụ: 2004 thị trường lao động ở Nhật Bản nhận 41.000 người Trung Quốc. Số lao 
động của Trung Quốc sang Nhật đông nhưng tỷ lệ bỏ trốn ít, còn Việt Nam số lao động 
sang Nhật năm 2004 ít (2.000 người) nhưng tỷ lệ bỏ trốn cao, lên tới 34,1%. Nguyên 
nhân của việc lao động ở nước ta ngoài bỏ trốn là khi họ đang lao động ở nước ngoài, 
họ có thu nhập cao hơn, đời sống vật chất đầy đủ hơn ở nhà, khi trở về nước họ sống sẽ 
thiếu thốn về vật chất. Điều chủ yếu là lại không tìm được việc làm nên khi gần hết thời 
hạn lao động họ bỏ trốn. Mặt khác một số người lao động năm đầu họ hưởng mức lương 
tập sự thấp hơn người bản địa, họ thắc mắc và không làm nữa, hoặc do thiếu sự hiểu 
biết về luật lệ và những quy định cho người lao động nước ngoài tại nước bản địa nên 
họ xích mích và bỏ việc. 
Ông Kasuo Yama Zaki - Phó ban tu nghiệp sinh nước ngoài của Cục phát triển 
việc làm, Bộ y tế lao động Nhật Bản cho biết: Chúng tôi muốn nhận người lao động 
Việt Nam vào làm việc, vì người lao động Việt Nam cần cù, tháo vát, nhanh nhẹn, mặt 
khác nền văn hóa, phong tục, tập quán của người Việt Nam rất gần với Nhật Bản. Nhưng tỷ 
lệ bỏ trốn của người lao động Việt Nam rất cao. Nên chúng tôi phải hướng sang nhận lao 
động ở nước khác. Chúng tôi cần những người lao động có tay nghề, có phẩm chất. 
Chúng tôi không thể nhận lao động ở những nước có tỷ lệ bỏ trốn cao (báo Sài Gòn giải 
phóng 9/2005). 
Việt Nam xuất khẩu lao động sang rất nhiều nước và tỷ lệ lao động bỏ trốn ở 
các nước cũng rất nhiều. Nếu tình trạng này ngày càng gia tăng thì chúng ta sẽ không 
còn thị trường để xuất khẩu lao động nữa. 
Từ thực tế đó họ thấy việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần phải được chuẩn bị 
đó là sự chuẩn bị về nguồn lao động. Để có được nguồn lao động đáp ứng yêu cầu lao 
động của thị trường nước ngoài, chúng ta cần đầu tư xây dựng các trung tâm dạy nghề 
dành riêng cho đối tượng đi lao động ở nước ngoài. Ngoài thực hiện những chính sách 
những đã triển khai chúng ta còn phải đẩy mạnh việc trang bị cho nguồn lao động kiến 
thức nghiệp vụ chuyên môn, trang bị cho họ sự hiểu biết về luật lệ sử dụng người lao 
động nước ngoài của những nước sử dụng lao động, để tránh tình trạng sau này người 
lao động do không nắm bắt được các thông lệ của nước sử dụng lao động đã gây xích 
mích với chủ lao động và bỏ trốn. Đồng thời giáo dục đạo đức phẩm chất chính trị cho 
những người đi lao động ở nước ngoài. Nếu không, sau khi sang lao động ở ngoài họ dễ 
bị bọn "cò mồi" mối lái rồi bỏ trốn ra làm ngoài để mong có thu nhập cao hơn. Và để 
người lao động sau khi hết hạn lao động trở về nước thì chúng ta phải xây dựng đề án 
cho những người lao động ở nước ngoài khi về nước có việc làm. 
Thực hiện tốt những biện pháp trên chúng ra sẽ giữ vững và mở rộng được thị 
trường lao động ở nước ngoài. Và có như vậy chúng ta mới đẩy mạnh được việc xuất 
khẩu lao động, tạo mở ra nhiều việc làm cho người lao động trong tỉnh. 
Thứ tư, cần giải quyết lao động dôi dư. Do sắp xếp lại các doanh nghiệp hoặc 
thực hiện việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, sẽ có thể nảy sinh tình trạng dôi 
dư lao động ở ngành này, khu vực này nhưng lại thiếu lao động ở khu vực khác. Do đó 
có sự điều chỉnh lao động, tạo thêm ngành nghề mới để thu hút hết lao động, tránh tình 
trạng sa thải hàng loạt đẩy người lao động vào khó khăn kinh tế, làm cho vấn đề xã hội 
thêm gay gắt. Đặc biệt cần tăng cường và sử dụng quỹ Nhà nước để tạo việc làm hiệu 
quả hơn. 
Phân bố hợp lý để sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội là một vấn đề 
rất lớn, rất khó khăn kinh tế, làm cho vấn đề xã hội thêm gay gắt. Đặc biệt cần tăng 
cường và sử dụng quỹ Nhà nước để tạo việc làm hiệu quả hơn. 
Phân bố hợp lý để sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội là một vấn đề 
rất lớn, rất khó khăn. Bước vào nền kinh tế thị trường ta không thể sử dụng chỉ biện 
pháp hành chính để điều động cán bộ công nhân viên như thời kế hoạch hóa tập trung 
và bao cấp trước đây, mà cần có một hệ thống các chính sách có tác dụng khuyến khích 
lao động đến những nơi cần thiết như nông thôn, vùng núi, hải đảo, vùng xa, vùng sâu, 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; có chính sách ưu đãi về lương, trợ cấp tàu xe, đi lại, 
nghỉ phép, ưu tiên về chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chính sách nhà ở. 
Tỉnh cần dựa vào mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội từng thời 
kỳ để đưa ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực, phù hợp, thích ứng để tránh tình 
trạng lao động chỗ thừa, chỗ thiếu. 
Để giải quyết lao động dôi dư phải giải quyết tận gốc. Đó là, đào tạo bồi dưỡng 
cần căn cứ vào mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đồng thời 
có sự điều chỉnh lao động tạo thêm ngành nghề mới để thu hút lao động vào làm. Làm 
tốt những vấn đề trên là giải quyết tốt vấn đề việc làm chính là chất kích thích tốt nhất 
đến nỗ lực của mỗi người lao động trong học tập công tác, rèn luyện tay nghề, do đó mà 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của xã hội. 
Thứ năm, tiếp tục thực hiện chương trình định canh định cư và xây dựng vùng 
kinh tế mới nhằm phân bố lại lao động, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. 
Định canh, định cư và di dân vùng kinh tế mới là một chủ trương đúng đắn của 
Đảng và Nhà nước. Đây là việc làm thiết thực nhằm phân bố lại và sử dụng hợp lý 
nguồn nhân lực xã hội. Khai thác thế mạnh, tiềm năng tự nhiên phát triển kinh tế và có 
ý nghĩa chiến lược trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. Chương 
trình định canh, định cư và di dân xây dựng vùng kinh tế mới đã được thực hiện trên 
toàn quốc và ở Thanh Hóa gần 40 năm qua (từ 1963). Chỉ tính 10 năm trở lại đây, từ 
năm 1990 đến 2000, toàn tỉnh đã thực hiện công tác định canh, định cư cho 21.397 hộ 
với tổng số vốn đầu tư là 49.513 triệu đồng và di dân xây dựng vùng kinh tế mới cho 
7.119 hộ với tổng số vốn đầu tư gần 20 tỷ đồng. 
Việc định canh, định cư, di dân xây dựng vùng kinh tế mới của tỉnh Thanh Hóa 
đã đáp ứng được nhu cầu lợi ích của nhân dân về nhu cầu ổn định và phát triển kinh tế, 
giải quyết việc làm, góp phần tích cực vào việc thực hiện sử dụng hiệu quả nguồn nhân 
lực nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 
Tuy nhiên, Thanh Hóa vẫn là một tỉnh có dân số đông, phân bố không đều giữa 
các vùng, vùng thành phố và thị xã có mật độ dân số cao: 2.046 người/km2. Hai vùng 
này tập trung tới 71,5% dân số cả tỉnh, nhưng chỉ chiếm có 28,13% diện tích lãnh thổ, 
còn khu vực miền núi có diện tích rộng lớn 71,87% nhưng lại có rất ít dân số sinh sống. 
Sự bất hợp lý này đòi hỏi Thanh Hóa phải tiếp tục thực hiện chương trình định canh, 
định cư và di dân vùng kinh tế mới, nhằm phân bố lại lao động và khai thác có hiệu quả 
tài nguyên đất đai và lợi thế của miền núi. 
Tiềm năng đất đai của Thanh Hóa cần được đưa vào khai thác sử dụng còn rất 
lớn. Trong tổng số đất đai có khả năng canh tác nông - lâm - thủy sản: 342.494,8 ha, 
gồm: 
+ Diện tích được quy hoạch vào các dự án: 327, 773 là 108.792 ha. 
+ Diện tích mặt nước chưa được sử dụng những năm tới như đảo Mê, Điện Sơn: 
10.000 ha. 
+ Các dự án định canh, định cư độc lập: 73.179 ha. 
+ Còn lại đưa vào quy hoạch sử dụng là 150.523,8 ha. 
Do đó, theo chúng tôi, công tác định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế 
mới đến năm 2010 của tỉnh Thanh Hóa cần tập trung thực hiện những việc sau: 
+ Định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới trên cơ sở khai thác tiềm 
năng đất đai và nguồn lực tại chỗ kết hợp với đầu tư hỗ trợ của Nhà nước để bố trí lại 
sản xuất, sắp xếp lại dân cư một cách khoa học, thực hiện định canh định cư bền vững. 
+ Thực hiện định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới gắn với chương 
trình 5 triệu ha rừng, chương trình hỗ trợ đồng bào đặc biệt khó khăn và chương trình 
phát triển kinh tế - xã hội khác để nhanh chóng xóa đói giảm nghèo cho đối tượng định 
canh định cư. 
+ Thúc đẩy nông, lâm, công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp ở vùng định 
canh định cư, tạo điều kiện để vùng định canh, định cư phát triển nhanh và bền vững. 
Ưu tiên đầu tư cho các hạng mục xây dựng hệ thống giáo dục, y tế, văn hóa đáp ứng tốt 
nhu cầu học tập, chữa bệnh và văn hóa cho nhân dân. Hoàn thành căn bản việc xây 
dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống giao thông, tạo ra mạng lưới 
giao thông liên hoàn, giao lưu thuận tiện và hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ cho sản 
xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân. 
+ Thực hiện từ nay đến năm 2010 toàn tỉnh không còn hộ du canh, du cư. Thực 
hiện định canh định cư vững chắc cho 44.950 hộ (329.140 khẩu) đang sống rải rác ở 612 bản 
thuộc 77 xã của 10 huyện miền núi và vùng cao, gồm: 
- Huyện Mường Lát : 7 xã: 4.6661 hộ = 27.309 khẩu. 
- Huyện Quan Hóa : 17 xã: 7.530 hộ = 38.591 khẩu. 
- Huyện Quan Sơn : 11 xã: 5.585 hộ = 29.680 khẩu. 
- Huyện Như Xuân : 10 xã: 7.031 hộ = 38.327 khẩu. 
- Huyện Ngọc Lặc : 3 xã: 277 hộ = 1.441 khẩu. 
- Huyện Cẩm Thủy : 4 xã: 449 hộ = 2.946 khẩu. 
+ Sắp xếp lại dân cư, tạo việc làm cho người lao động, chấm dứt phá rừng đầu 
nguồn, phát huy kết quả giao đất, giao rừng đến hộ, thông qua công tác trồng rừng, bảo 
vệ rừng, tái sinh rừng, vừa giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vừa tạo ra môi trường 
sinh thái bền vững. 
+ Vốn sản xuất cho cho các hộ gia đình là điều kiện rất quan trọng để các hộ 
phát triển sản xuất và ổn định đời sống. Hiện nay các hộ thuộc đối tượng định canh, 
định cư đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, nên không có điều kiện để phát triển sản 
xuất theo hướng sản xuất thâm canh. Do đó trong quá trình thực hiện các dự án định 
canh, định cư cần phải có sự kết hợp các chương trình đầu tư khác để tạo nguồn vốn sản 
xuất cho đối tượng này. 
Tiềm tăng đất có khả năng khai thác đưa vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp 
ở các vùng định canh, định cư còn rất lớn cần được đầu tư khai thác để tạo việc làm, 
nâng cao thu nhập cho nhân dân vùng định canh, định cư. Nhà nước hỗ trợ, nhân dân 
cùng làm thì kinh tế - xã hội vùng định canh, định cư sẽ phát triển nhanh chóng và ổn 
định, có thể rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch về thu nhập và văn hóa - xã hội giữa 
vùng cao và vùng thấp, miền núi và đồng bằng. 
+ Xây dựng nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp loại nhỏ ở miền núi, thu 
hút lao động tại vùng miền núi và chế biến sản phẩm đặc trưng của vùng như sấy vải 
khô, chế biến ngô, sắn, làm miến dong. Những loại sản phẩm này bán rất chạy và với số 
lượng lớn hoặc có thể liên kết với nhà máy chế biến thức ăn gia súc để bán nguyên liệu. 
Như vậy, vừa tạo việc làm, vừa nâng cao đời sống nhân dân vùng miền núi, đời sống 
nhân dân ổn định tạo cho vùng định canh, định cư ổn định vững chắc. 
+ Xây dựng thị xã miền núi với nhau, miền núi đã thiếu thốn đủ bề, nhiều thứ 
cần thì phải xuống tận thị xã miền xuôi mới có. Vì vậy, lập thị xã miền núi là làm cho 
kinh tế - xã hội miền núi phát triển, xóa dần sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi tạo 
sự giao lưu giữa miền núi và miền xuôi, tạo sự thuận lợi cho việc làm ăn buôn bán giữa 
miền núi và miền xuôi. Đồng thời nó sẽ làm trạm trung chuyển mua hàng hóa giữa miền 
núi và miền xuôi. Như vậy kinh tế - xã hội miền núi càng ngày càng phát triển, xóa dần 
sự cách biệt giữa miền núi và miền xuôi. Vùng định canh, định cư sẽ được ổn định vững 
chắc, việc sắp xếp, phân bố lại lực lượng lao động của tỉnh sẽ thuận lợi và hiệu quả. 
3.2.3. Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ nhằm xây dựng và phát 
triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ của tỉnh 
Khoa học và công nghiệp tác động hết sức sâu sắc và mạnh mẽ đến mọi mặt của 
cuộc sống con người, đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đến đời sống chính trị và 
văn hóa của xã hội, đến khả năng quốc phòng và an ninh của mọi quốc gia đến quan hệ 
quốc tế và việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại. Nhận thức rõ vai trò đó 
của khoa học và công nghệ, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học và 
công nghệ. Đặc biệt hội nghị trung ương 2 (khóa VIII) đã nhấn mạnh. "Cùng với giáo 
dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh 
tế - xã hội là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc 
lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất 
nước bằng và dựa vào khoa học, công nghệ" 34-59. 
Theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) 
về khoa học, công nghệ. Tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa đã xác định mục tiêu từ năm 2001 
đến 2010 là: Phấn đấu nâng cao mặt bằng khoa học và dân trí lên một bước để có thể 
tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực của đời 
sống xã hội. 
Đây là vấn đề khá bức bách, bởi vì sự phát triển khoa học công nghệ của tỉnh 
rất chậm, tuy mấy năm nay đã có một số đóng góp đáng quý trong việc triển khai áp 
dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống nhân dân. 
Để khoa học công nghệ trở thành sức mạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển 
thì bản thân khoa học công nghệ phải được phát triển ở một mức độ nhất định. Điều 
kiện phát triển của khoa học công nghệ đó là môi trường thuận lợi. Môi trường đó vừa 
bao gồm những nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và đời sống xã hội đối với khoa học 
công nghệ, có tác dụng kích thích đối với khoa học công nghệ, vừa bao gồm những điều 
kiện kinh tế, văn hóa xã hội cùng các chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước, của 
tỉnh. Vì vậy, để phát triển khoa học, công nghệ nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán 
bộ khoa học, công nghệ chúng ta cần phải quan tâm đến những giải pháp sau: 
Một là, tăng cường đầu tư ngân sách cho khoa học và công nghệ. 
Không thể nói đến sự phát triển của khoa học và công nghệ nếu không đầu tư 
hoặc đầu tư không đúng mức. Sự đầu tư nhỏ giọt vào phân tán sẽ không mang lại kết 
quả mong muốn. Đã từ lâu nhiều năm nay sự đầu tư cho khoa học công nghệ quá thấp, 
sự đầu tư thấp nên cơ sở nghiên cứu nhỏ bé, nghèo nàn, thiết bị lạc hậu. Người làm 
khoa học không thể sống bằng nghề của mình nếu chỉ tập trung nghiên cứu. Điều đáng 
nói hơn là các nhà nghiên cứu không thể phát huy khả năng của mình với cơ sở nghiên 
cứu nhỏ bé, lạc hậu đó. Vì vậy, rất nhiều nhà khoa học trong tỉnh đã ra đi các tỉnh ngoài 
để làm việc khắc phục tình trạng đầu tư quá thấp, đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Thanh 
Hóa lấn thứ XV đã đề ra chủ trương: "Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động khoa 
học - công nghệ và môi trường vào sản xuất và đời sống. Từng bước nâng cao năng lực 
nội sinh về khoa học và công nghệ, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những công nghệ 
nhập, tiến tới tạo ra công nghệ mới trên một số lĩnh vực cần thiết cho phát triển của 
tỉnh" 70-49. Do đó, ngoài tăng từ ngân sách Nhà nước Thanh Hóa huy động các nguồn 
lực khác, phấn đấu tăng ngân sách cho khoa học công nghệ đạt 2% tổng ngân sách. 
Căn cứ vào định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh 2006-2010 
chúng ta tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực cơ bản sau: 
+ Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phát triển 
nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa thích nghi với điều kiện khí hậu, 
thời tiết thổ nhưỡng từng vùng của Thanh Hóa. Chương trình này rất cần cho sự phát 
triển kinh tế - xã hội của tỉnh bởi Thanh Hóa là một tỉnh sản xuất nông nghiệp là chủ 
yếu. Do đó chúng ta phải đầu tư trước hết là cho khoa học - công nghệ trong sản xuất 
nông nghiệp. Đầu tư cho chương trình này chúng ta sẽ tiếp cận và làm chủ được một số 
công nghệ sinh học chủ yếu trong sản xuất giống cây trồng vật nuôi. Công nghệ sản 
xuất hạt giống lúa lai, ngô lai, công nghệ điều khiển giới tính trong sản xuất cá rô phi, 
tôm càng xanh siêu đực, công nghệ sấy phôi trong sản xuất bò giống (bò sữa và bò thịt) 
để đến năm 2010 cơ bản chủ động được giống, cây trồng, vật nuôi có năng suất chất 
lượng cao phù hợp với Thanh Hóa. 
+ Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới và 
hiện đại hóa công nghệ thiết bị trong công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá 
thành, tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, hướng trọng 
tâm vào lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến bảo quản nông sản thực phẩm sau 
thu hoạch và chế biến sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu không để tụt hậu trong 
các lĩnh vực mà tỉnh có ưu thế: Công nghiệp xi măng, công nghiệp mía đường, công 
nghiệp giống, sản xuất phân bón, vật liệu xây dựng (đá ốp lát, gạch Ceramic...) công 
nghiệp may mặc, giày da... đồng thời thực hiện tốt chương trình phát triển công nghiệp 
thông tin, từng bước hình thành các ngành công nghiệp mới như: Công nghệ sản xuất 
phần mềm ứng dụng, công nghệ lắp ráp máy tính điện tử, công nghệ khai thác và chế 
biến khoáng sản. 
Để thực hiện được việc tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng khoa học - 
công nghệ vào các lĩnh vực ưu thế và trọng điểm trên các cấp ủy Đảng và quản lý Nhà 
nước của tỉnh phải thực hiện các giải pháp lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng kế hoạch và 
triển khai thực hiện kế hoạch khoa học công nghệ, tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt 
động khoa học công nghệ, tăng nhanh tổng đầu tư cho khoa học công nghệ, thành lập 
quỹ phát triển khoa học công nghệ tỉnh nhằm hỗ trợ hoàn thiện kết quả khoa học - công 
nghệ. Tăng cường kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho các hoạt động khoa học - công 
nghệ. Phấn đấu từ năm 2006 đến 2010 kinh phí ngân sách Nhà nước mỗi năm tăng 15% 
(Giai đoạn 2001-2005 là 10%, năm 2005 là 12 tỷ đồng). Bổ sung, điều chỉnh các chính 
sách khuyến khích đầu tư của tỉnh. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng 
ngân hàng để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, đồng thời tranh thủ nguồn 
vốn từ các ngân hàng thương mại trung ương để cho vay đầu tư phát triển sản xuất, thực 
hiện những nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, làm được những điều trên sẽ tạo 
điều kiện thuận lợi cho các ngành khoa học công nghệ phát triển. 
Hai là, tạo lập thị trường khoa học công nghệ. 
Khi những sáng tạo trong khoa học càng nhiều, được áp dụng ngày càng lớn và 
mang lại hiệu quả cao, thì đòi hỏi phải có thị trường khoa học và công nghệ. Chính nhu 
cầu thị trường sẽ quyết định các hướng nghiên cứu và sáng tạo các loại hình công nghệ 
mới, các phát minh khoa học. Vì vậy tỉnh cần phải đầu tư xây dựng trung tâm ứng dụng 
chuyển giao công nghệ của tỉnh, phải xây dựng những cơ sở sản xuất với quy trình công 
nghệ cao, tạo điều kiện cho việc triển khai, ứng dụng chuyển giao công nghệ, khuyến 
khích các thành phần kinh tế đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh 
doanh. Đại hội tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa lần thứ XV đã chỉ rõ: "Ưu tiên cho việc nghiên 
cứu lựa chọn khảo nghiệm đưa nhanh các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất 
lượng cao vào sản xuất, ứng dụng công nghệ thông tin (trong đó chú ý công nghiệp sản 
xuất phần mềm), công nghệ sinh học, công nghệ chế biến nông lâm hải sản, công nghệ 
sau thu hoạch, bảo vệ môi trường. Tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới 
sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường" [70-48]. 
Đồng thời tỉnh cần có những chính sách khuyến khích hướng dẫn trường Đại 
học trong tỉnh xây dựng các trung tâm ứng dụng chuyển giao công nghệ, cơ sở sản xuất. 
Đây là bước triển khai làm cho khoa học và sản xuất xích lại gần nhau. Nghiên cứu 
khoa học trong các trường đại học bước đầu tạo điều kiện phát huy tác dụng của các công 
nghệ tiên tiến nhập từ nước ngoài, nghiên cứu cải tiến và tạo khả năng sáng chế ra công 
nghệ mới để phát triển đất nước. Các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và các trư-
ờng dạy nghề là nơi cung cấp các dịch vụ tư vấn, ứng dụng và triển khai tiến bộ khoa học - 
công nghệ vào đời sống. Trong tỉnh có trường Đại học Hồng Đức và có trung tâm ứng 
dụng khoa học kỹ thuật của trường, song cũng chưa thật sự trở thành trung tâm chuyển 
giao công nghệ và trường cũng chưa xây dựng được các cơ sở sản xuất. Do đó, khoa học 
và sản xuất chưa gần gũi nhau, chưa tác động lẫn nhau để phát triển. Từ nay đến năm 
2010 Thanh Hóa phải phấn đấu đầu tư cho trường Đại học Hồng Đức thực hiện xây 
dựng trung tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật của trường trở thành trung tâm ứng dụng 
chuyển giao công nghệ điển hình của tỉnh. 
Ba là, tạo động lực phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, 
đồng thời xây dựng chính sách nhằm thu hút lực lượng lao động khoa học và công 
nghệ. 
Qua 10 năm từ năm 1995 đến 2005 đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh 
Thanh Hóa đã có bớc phát triển về số lợng và chất lượng, đã góp phần quan trọng cho 
sự phát triển không ngừng của nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, khi xem xét toàn 
diện trình độ học vấn, sự phân bố và sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật ở Thanh 
Hóa ta thấy vẫn còn nhiều bất cập. Để khắc phục những yếu kém và tạo động lực phát 
triển toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học của tỉnh thì chúng ta cần phải tạo điều kiện, môi 
trường làm việc tốt cho người làm công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ. Người làm 
khoa học công nghệ không thể thiếu trang thiết bị, nhất là trang thiết bị hiện đại. Nếu 
trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu thì làm cho người nghiên cứu khoa học, công nghệ không 
có điều kiện thuận lợi để phát huy khả năng của mình. Vì vậy ở họ sự nhiệt tình, sự say 
mê nghề nghiệp bị giảm sút. Hiện nay số cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ bản trong tỉnh 
đã ít, ngày lại càng ít. Vì có một số người đã về hưu còn số người chọn nghề nghiên cứu 
khoa học cơ bản cũng có rất ít người về Thanh Hóa để công tác, do điều kiện để nghiên 
cứu khoa học công nghệ ở Thanh Hóa thiếu thốn. Mặt khác con người làm khoa học và 
công nghệ cũng không thể sống hết mình vì khoa học nếu lương, tiền không thỏa đáng 
để đảm bảo cuộc sống. Do vậy, việc cải thiện đời sống cho họ, có chế độ lương phù hợp và 
thỏa đáng đối với họ là rất cần thiết. Đây cũng là một động lực quan trọng thúc đẩy sự hoạt 
động và sáng tạo của các nhà khoa học. Đi liền với việc thực hiện chính sách tiền lương 
thỏa đáng đó là chế độ lương, phụ cấp và trợ cấp đối với đội ngũ cán bộ khoa học, công 
nghệ và cho những công trình khoa học và công nghệ có giá trị, đảm bảo thu nhập thích 
đáng thông qua việc thu hút họ tham gia các hợp đồng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng triển 
khai. Trong những năm gần đây, tỉnh, Đảng bộ Thanh Hóa đã chủ động thực hiện phương 
án này nhưng chưa được đẩy mạnh. Để sớm có được đội ngũ cán bộ khoa học và công 
nghệ hàng đầu làm nòng cốt cho việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và hiệu 
quả, điều đó cần phải được duy trì thường xuyên và ngày càng nâng cao. 
Bên cạnh những chế độ tiền lương, tiền thưởng, lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế, 
những ngời hoạt động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ còn quan tâm đến một lợi ích 
khác, đó là lợi ích tinh thần là nhu cầu được thừa nhận, được động viên, khen thưởng kịp 
thời. Tỉnh Thanh Hóa còn nghèo những người làm công tác khoa học hiểu rất rõ điều đó. 
Vì vậy, họ không đòi hỏi phải được thưởng thật nhiều nhưng họ rất muốn được khen thởng 
kịp thời. Hàng năm mở ra những cuộc hội thảo, hội nghị về khoa học, công nghệ. Đồng 
thời trao các giải thưởng cho các thành tựu khoa học công nghệ trong tỉnh. Thực hiện tốt 
những điều đó sẽ có tác dụng tích cực động viên các nhà khoa học hăng hái hoạt động khoa 
học và sáng tạo. Cùng với những điều kiện trên, chúng ta thực hiện dân chủ, phát huy tinh 
thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong 
hoạt động nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Với môi trường như vậy, chúng ta sẽ khuyến 
khích họ hoạt động sáng tạo. Đồng thời với việc tạo điều kiện cho người làm công tác khoa 
học, công nghệ tỉnh cần phải có chính sách thu hút nhân tài, thu hút cán bộ khoa học, công 
nghệ là người Thanh Hóa về tỉnh công tác. Nhằm tăng nhanh lực lượng nghiên cứu triển 
khai, từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi trong nghiên cứu khoa học, tăng cường 
cán bộ khoa học kỹ thuật về cơ sở. Để thực hiện điều đó tỉnh phải xây dựng chính sách, phải 
ban hành cụ thể chủ trương "mời gọi trí thức" về tỉnh Thanh Hóa làm việc. Năm 1997, tỉnh 
cũng đã có chính sách thu hút nhân tài về tỉnh, song chỉ áp dụng cho trường Đại học Hồng 
Đức. Nhưng chế độ đề ra cũng chưa hấp dẫn như một số tỉnh khác (Bình Dương, Quảng Trị). 
Bởi Thanh Hóa là một tỉnh nghèo cơ sở vật chất, kỹ thuật chưa phát triển, nên cũng rất khó 
khăn trong việc "chiêu hiền đãi sĩ". Để có thể làm được điều này chúng ta phải xây dựng và 
nâng cao cơ sở vật chất - kỹ thuật của tỉnh, phải xây dựng phát triển được các khu công 
nghiệp, như phát triển hơn nữa khu công nghiệp Bỉm Sơn. Mở rộng và phát triển cảng Lễ 
Môn, xây dựng khu đô thị Nghi Sơn thành một điểm phát triển kinh tế phía Bắc. Đồng thời 
đẩy mạnh đầu tư, xây dựng, phát triển những điểm du lịch ở Thanh Hóa hơn nữa, như du lịch 
Sầm Sơn, khu du lịch Lam Kinh, Hàm Rồng, Bến En… Muốn vậy, phải lập dự án (đây là 
khâu quan trọng), kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước và phải được sự hỗ trợ 
của trung ương. Có như vậy Thanh Hóa mới phát triển, mới xây dựng được cơ sở vật chất kỹ 
thuật của tỉnh. Từ đó tạo tiền đề cho chúng ta phát triển nguồn nhân lực toàn diện, phát triển 
đội ngũ cán bộ khoa học, thu hút nhân tài, thu hút được lực lượng lao động khoa học và công 
nghệ. 
Tóm lại, đẩy mạnh việc phát triển khoa học - công nghệ là nhằm nâng cao trình 
độ học vấn, tri thức, tay nghề chuyên môn, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp 
cũng như nâng cao, mở rộng trình độ hiểu biết. Từ đó, đội ngũ lao động Thanh Hóa có 
thể nhanh chóng tiếp thu các thành tựu khoa học tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực của 
đời sống xã hội. Nói một cách khác đẩy mạnh phát triển khoa học cũng là để phát triển 
nguồn nhân lực chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa. 
3.2.4. Coi trọng công tác dự báo về xu hướng phát triển nguồn nhân lực 
 Để có được nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự 
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, chúng ta không thể không nghiên cứu dự báo về xu 
hướng phát triển nguồn nhân lực. Thực tế kinh nghiệm của các nước trên thế giới và ở 
nước ta cho thấy: nghiên cứu về nguồn nhân lực là điều kiện không thể thiếu để quản lý 
nguồn nhân lực hiệu quả. Trong những năm qua, tỉnh Thanh Hóa đã có chủ trương, 
chính sách tác động một cách tích cực vào con người nhằm xây dựng và phát triển 
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Song chính sách chưa 
đồng bộ, việc sử dụng nguồn nhân lực còn bất hợp lý. Nguồn nhân lực Thanh Hóa sử dụng 
có hiệu quả, phân bố có hợp lý hay không đều phụ thuộc vào việc nghiên cứu dự báo xu 
hướng phát triển nguồn nhân lực trong địa bàn Thanh Hóa. Vì vậy, việc nghiên cứu dự báo 
xu hướng phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn Thanh Hóa là một việc làm cần thiết, việc 
này nhằm tư vấn cho tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh trong việc đề ra chủ trương, giải pháp 
phát triển nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực có liên quan chặt chẽ đến 
chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo. Nội dung quan trọng khi hoàn thiện chiến lược 
phát triển nguồn nhân lực là phải giải quyết đồng bộ trong mối quan hệ mật thiết với 
nhau trên ba mặt chủ yếu: giáo dục - đào tạo con người, sử dụng con người và tạo việc 
làm. 
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đã được tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa quan 
tâm, song yếu tố tự phát vẫn còn chi phối. Điều đó đã tạo ra những bất hợp lý rất lớn 
trong nguồn lực con người. Vậy nên tỉnh cần phải coi trọng hơn nữa công tác dự báo xu 
hướng phát triển nguồn lực con người, để có chính sách sử dụng nguồn lực con người 
hiệu quả hơn. Việc dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực cho chúng ta nắm được 
sự tăng hay giảm về dân số, nguồn nhân lực và việc làm của tỉnh. Theo số liệu điều tra 
của cục thống kê Thanh Hóa năm 2004 là 3646593 người, căn cứ vào thời điểm đạt 
được các chỉ tiêu đặt ra với mức sinh hàng năm thì dân số Thanh Hóa tó 2010 sẽ có 
khoảng 3,98 triệu người. Dân số tăng dẫn đến số lao động tăng yêu cầu đào tạo nghề và 
giải quyết việc làm rất lớn. Lao động Thanh Hóa trong 5 năm (2001-2005) có khoảng 
123 ngàn lao động mới bổ sung cộng với 337 ngàn lao động (quy đổi) dôi dư thời kỳ 
trước (1996-2000) chuyển sang bằng 460 ngàn chỗ làm việc cần giải quyết. Dự kiến 
phân bổ nguồn nhân lực trong các ngành kinh tế quốc dân đến 2010 (xem bảng 17). 
Bảng 3.1: Dự kiến phân bổ nguồn nhân lực trong các ngành 
kinh tế quốc dân đến 2010 
Đơn vị tính: % 
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 
Nông-Lâm - Ngư nghiệp 81,32 66,0 -72,0 52,0 - 54,0 
Công nghiệp - Xây dựng 8,6 12,0 -15,0 20,0 - 22,0 
Dịch vụ 10,08 13,0 - 15,0 23,0 - 25,0 
 Nguồn: Cục thống kê sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hóa 
 Qua bảng 17 ta thấy dự kiến tỷ lệ lao động trong công nghiệp - xây dựng, dịch 
vụ tăng. Từ chỗ dự báo đó mà tỉnh ủy có chủ trương chính sách tập trung vào việc 
chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm 
dần lao động nông nghiệp. Đồng thời trên cơ sở dự kiến sự phát triển lao động của tỉnh 
trong các ngành kinh tế quốc dân mà đề ra chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, và kế 
hoạch đào tạo người lao động với trình độ chuyên môn, ngành nghề phù hợp với thị 
trường lao động trong tỉnh. 
Nhìn chung, dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực nhằm tư vấn cho tỉnh 
ủy và các cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện về việc 
phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH. 
 Quá trình hoàn thiện công tác dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực ở 
Thanh Hóa cần được tiến hành cùng với hoàn thiện chiến lược phát triển các ngành, vì 
chiến lược phát triển nguồn nhân lực có liên quan chặt chẽ đến chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung, của các vùng các huyện thị nói riêng. Chiến lược 
phát triển nguồn nhân lực còn liên quan chặt chẽ đến chiến lược giáo dục - đào tạo, 
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, nó liên quan đến số lượng, chất lượng và cơ cấu 
lao động trong thời kỳ nhất định, nó liên quan và chịu sự chi phối, định hướng của chiến 
lược phát triển sản xuất nông nghiệp - công nghiệp – dịch vụ. 
 Chính vì công tác dự báo xu hướng phát triển nguồn nhân lực có tầm quan 
trọng như vậy nên chúng ta phải coi trọng công tác này. Hằng năm sở kế hoạch đầu tư 
đã xây dựng kế hoạch hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh của 
ngành…quy hoạch cán bộ cốt cán các cấp. Quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực. 
Song đang còn khái quát và chưa được đều trong các năm. Tỉnh cần chú trọng đầu tư 
kinh phí và nhân lực khoa học cho công tác nghiên cứu có chất lượng, đủ sức là tư vấn 
khoa học cho chiến lược và chính phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Đồng thời cần 
tổng kết thực tiễn nguồn nhân lực của tỉnh và tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm 
về quản lý nhân lực của các tỉnh trong nước để áp dụng vào Thanh Hóa một cách phù hợp. 
Tóm lại, trên đây là một số phương hướng giải pháp chủ yếu mà tác giả luận 
văn đề xuất nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp 
CNH, HĐH. Giữa các giải pháp có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau khi thực hiện đòi 
hỏi phải có sự giải quyết một cách đồng bộ, có như vậy mới phát huy sức mạnh tổng 
hợp các giải pháp và sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân 
lực trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đó cũng chính là nhắm đến mục đích nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và của 
cả nước nói chung. 
Kết luận 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này đòi hỏi phải 
có sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều điều kiện, nhiều nguồn lực, từ cơ sở vật 
chất kỹ thuật, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn nhân lực... Trong các 
nguồn lực có tính chất quyết định đối với sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa là nguồn nhân lực con người, hơn bất kỳ nguồn lực nào khác, nguồn lực con người 
đóng góp vai trò quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước 
ta. Khai thác, phát huy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực con người là góp phần 
thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để phát triển kinh tế - xã 
hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. Quá trình này cần có những con người 
có trí thức, có sức khỏe - người lao động chất lượng cao. Song muốn có được nguồn 
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta không thể 
có cách nào khác là phải đào tạo, tổ chức quản lý và phát huy nguồn lực con người theo 
những yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. ở đây vấn đề đặt ra là 
việc đầu tư phát triển giáo dục phải đi trước, việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đó 
chính là sự lựa chọn có tính quyết định cho sự phát triển. 
Hiện tại, người lao động ở Thanh Hóa có nhiều phẩm chất vô cùng quý báu 
như: Cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo. Nhưng những bất cấp về mặt trí lực, thể 
lực làm cho người lao động Thanh Hóa khó có thể hội nhập vào trào lưu phát triển của 
thời đại cũng như chưa bắt kịp sự phát triển trong nước cũng như một số thành phố lớn 
của nước ta. Vì vậy, để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu 
Thanh Hóa phải phát triển giáo dục - đào tạo, phải ra sức đào tạo người lao động mới có 
đầy đủ những phẩm chất, năng lực trí tuệ thời đại yêu cầu. Thanh Hóa đang còn nghèo, 
nên bên cạnh việc tập trung phát triển kinh tế chúng ta cần phải mạnh dạn, phải "thắt 
lưng buộc bụng" huy động mọi nguồn lực nhằm tạo ra bước phát triển về chất cho giáo 
dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. 
Thực tế, nguồn nhân lực ở Thanh Hóa còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém: 
Lực lượng lao động đông nhưng yếu về chất lượng, một bộ phận không nhỏ nguồn lao 
động chưa có việc làm và thiếu việc làm. Lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào sản 
xuất nông nghiệp, lực lượng lao động trong công nghiệp ít. Công tác giáo dục đào tạo 
hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực có trình độ 
chuyên môn cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lực lượng cán bộ khoa học công 
nghệ thiếu, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao chủ yếu tập trung ở lĩnh vực 
giáo dục quản lý Nhà nước, y tế, những ngành mũi nhọn như công nghiệp xây dựng đều 
thiếu ngành. Những yếu kém, bất cập này do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ 
quan và khách quan. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải tìm cách khắc phục những yếu kém, 
xây dựng cho được nguồn nhân lực chất lượng cao, thực sự đáp ứng cho yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. 
Những vấn đề cần giải quyết để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Thanh 
Hóa hiện nay là mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở đa dạng hóa các nguồn vốn, điều 
chỉnh cơ cấu đào tạo, đổi mới về quan niệm học tập, đào tạo; xây dựng đội ngũ cán bộ 
quản lý và chuyên gia chăm sóc sức khỏe trẻ em, chuyển dịch cơ cấu lao động theo 
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người 
lao động có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho người lao động; chú trọng tổ 
chức bố trí lực lượng lao động hợp lý; xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển khoa học 
công nghệ. Những biện pháp đó là cần thiết, cấp bách và thực tế có khả năng thực hiện 
được. 
Thanh Hóa là một tỉnh lớn đứng thứ hai sau thành phố Hồ Chí Minh (xét về mặt 
dân số) nhưng không có nhiều lợi thế như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng. 
Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
không chỉ là việc làm của toàn tỉnh nói chung mà còn là sự nỗ lực phấn đấu của từng 
người dân Thanh Hóa. Song để thực hiện được nhiệm vụ này cần có sự chỉ đạo, hỗ trợ 
to lớn của Trung ương cả về vật chất lẫn tinh thần. 
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn 
đề có nội dung lớn liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong khuôn 
khổ của luận văn không thể trình bày hết tất cả những nội dung về mặt lý luận và thực 
tiễn của vấn đề. Tiềm năng của mỗi con người, cũng như toàn thể con người Thanh Hóa 
là rất lớn. Quá trình tìm kiếm những mô hình, giải pháp nhằm khai thác và phát huy có 
hiệu quả tiềm năng nguồn lực con người vẫn đang tiếp tục bằng sự nỗ lực của cả dân tộc 
nói chung, nhân dân Thanh Hóa nói riêng. 
danh mục Tài liệu tham khảo 
1. Phạm Ngọc Anh (1995), "Nguồn lực con người - nhân tố quyết định của quá trình 
công nghiệp hóa hiện đại hóa", Nghiên cứu lý luận, (2). 
2. Hoàng Chi Bảo (1998), "Lý luận và phương pháp nghiên cứu về con người", Triết học, 
(2). 
3. Hoàng Chí Bảo (1998), "Giáo dục văn hóa lao động để nâng cao tay nghề cho công 
nhân", Dân vận, (6). 
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Niên giám thống kê lao động thương 
binh và xã hội năm 2004, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Thuật ngữ lao động binh xã hội, Nxb 
Lao động xã hội, Hà Nội. 
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Số liệu thống kê lao động việc làm ở 
Việt Nam năm 2001, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
7. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Số liệu thống kê lao động việc làm ở 
Việt Nam năm 2002, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Số liệu thống kê lao động việc làm ở 
Việt Nam năm 2003, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Số liệu thống kê lao động việc làm ở 
Việt Nam năm 2004, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 
10. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Viện Dự báo chiến lược Khoa học và Công 
nghệ (1995), Việt Nam tầm nhìn đến năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
11. C. Mác - Ph.Ăngghen (1983), Tuyển tập, tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
12. C. Mác - Ph.Ăngghen (1983), Tuyển tập, tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
13. Cac Mác, F.Ăngghen, Tuyển tập, tập III, NXB Sự thật Hà Nội, 1981. 
14. Cac Mác, F.Ăngghen, Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật Hà Nội, 1981. 
15. Cac Mác, F.Ăngghen, Hệ tư tưởng Đức, tập I, NXB Sự thật Hà Nội, 1983. 
16. Cac Mác, F.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, NXB Sự thật Hà Nội, 1981. 
17. Cac Mác, F.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994. 
18. Cac Mác, Tư bản, phê phán khoa học kinh tế chính trị, tập 3, NXB Hà Nội 1978. 
19. Cac Mác, Bộ tư bản, tập thứ nhất, quyển 1, NXB Sự thật, Hà Nội 1987. 
20. Cac Mác, Sự khốn cùng của triết học, NXB Sự thật, Hà Nội 1975. 
21. Nguyễn Trọng Chuẩn, Một số vấn đề cần được quan tâm: Mối quan hệ giữa các 
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, Triết học, số 2- 1992 
22. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Triết 
học số 2 - 1994. 
23. Cơ quan báo cáo phát triển của con người LHQ, chỉ tiêu và chỉ số phát triển, NXB 
Thống kê, Hà Nội, 1990. 
24. Cục thống kê Thanh Hóa, Niên giám thống kê 2000 - 2004, NXB thống kê, Hà Nội 
2004. 
25. Cục thống kê Thanh Hóa, Đánh giá thực trạng mức sống dân cư Thanh Hóa, NXB 
thống kê, Hà Nội 2002 - 2004. 
26. Cục thống kê Thanh Hóa, Tình hình kinh tế - xã hội chủ yếu tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 
2001 - 2003, Thanh Hóa tháng 8 - 2003. 
27. Phạm Tất Dong, Suy nghĩ về đội ngũ trí thức nước ta, Tạp chí cộng sản số 4 - 1994. 
28. Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Hà Nội 1995. 
29. Nguyễn Quang Du, Tài liệu con người trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại 
hóa đất nước, Thông tin lý luận, số 11-1994. 
30. Nguyễn Hữu Dũng, Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử dụng khoa học học kỹ 
thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Thông tin 
lý luận số 11-1994. 
31. Trương Minh Dực, Phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Miền Trung, Tạp 
chí thông tin, lý luận số 4 - 1996. 
32. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ 4, BCHTW (khóa VII), NXB Sự 
thật Hà Nội tháng 2/1993. 
33. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW (khóa 
VII), NXB sự thật Hà Nội, 1994. 
34. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành TW (khóa 
VIII), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. 
35. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu đại biểu toàn quốc lần thứ III, 
Hà Nội 1960. 
36. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự 
thật, Hà Nội 1997. 
37. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập 2 
NXB Sự thật, Hà Nội 1992. 
38. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự 
thật, Hà Nội 1987. 
39. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự 
thật, Hà Nội 1991. 
40. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB 
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996. 
41. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB 
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. 
42. Đảng cộng sản Việt Nam, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 
2000, NXB Sự thật, Hà Nội 1991. 
43. Tống Văn Đường, Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta, kinh tế và 
phát triển số 5/1995. 
44. Mạc Đường, "Nghiên cứu con người theo phương pháp tiếp cận dân tộc hiện đại" 
"Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới", Hà Nội 1993. 
45. Nguyễn Điều, Về công nghiệp hóa ở nước ta, thông tin lý luận số 6 - 1994. 
46. Lương Việt Hải, ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ đến việc 
nghiên cứu và phát triển con người và nguồn nhân lực những năm đầu thế kỷ 
XXI, Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX - 05, Hà 
Nội 2003. 
47. Phạm Minh Hạc, Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế 
- xã hội, Nhà xuất bản KH - XH, Hà Nội 1996. 
48. Đỗ Trọng Hùng, Tích cực giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo góp phần 
thực hiện công bằng xã hội, tạp chí lịch sử Đảng, số 5, 1998. 
49. Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở 
Việt Nam, NXB sự thật, Hà Nội 1991. 
50. Vũ Đình Hòe, Vấn đề vốn và nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 
nước, thông tin lý luận 7 - 1994. 
51. Nguyễn Khánh, Phát triển nguồn lực con người và thực hiện công bằng xã hội 
(trình bày tại lớp nghiên cứu Nghị quyết đại hội VIII của Đảng ngày 10-9 và 
19-09-1996). 
52. Phan Văn Khải, Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa 
học - công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh 
tranh nền kinh tế, Báo nhân dân 11/1/1998. 
53. Võ Đại Lược, chính sách phát triển CN của Việt Nam trong quá trình đổi mới, Nhà 
xuất bản KH - XH, Hà Nội 1994. 
54. Bùi Thị Ngọc Lan, Phát huy nội lực trí tuệ, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa 
đất nước, Tạp chí nghiên cứu lý luận số 6, 1998. 
55. Trương Giang Long, Xem xét nhân tố lao động trong cấu trúc người lao động, tạp 
chí cộng sản số 13 - 1997. 
56. Hồ Chí Minh, Xây dựng con người mới, NXB Sự thật, Hà Nội 1995. 
57. Đỗ Mười, Tăng cường xây dựng Nhà nước và đội ngũ cán bộ vững mạnh, thực hiện 
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Tạp chí cộng sản, 
số 3 (7/1997). 
58. Đỗ Mười, Dành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo dục, đào tạo và KH - CN, Tạp 
chí công tác tư tưởng văn hóa, số 1 - 1997. 
59. Phạm Xuân Nam (Chủ biên), Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp, NXB 
Chính trị quốc gia - 1997. 
60. GS Trần Nhâm (Chủ biên), Có một Việt Nam như thế - đổi mới và phát triển, NXB 
chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. 
61. GS Trần Nhâm, Tìm hiểu chủ nghĩa duy vật lịch sử, NXB KH - XH, Hà Nội 1980. 
62. Nguyễn Thế Nghĩa, Thanh Hóa với sự nghiệp CNH, HĐH, nhà xuất bản khoa học 
xã hội, Hà Nội 1997. 
63. Những thách thức phát triển ở Châu á - Thái Bình Dương, NXB Khoa học - xã hội, 
Hà Nội 1995. 
64. Nguyễn Đình Phan - Phạm Nghiêm ích, CNH, HĐH ở Việt Nam và các nước trong 
khu vực, NXB thống kê, Hà Nội 1995. 
65. Phan Thanh Phố - An Như Hải, Phát triển nguồn lực để CNH, HĐH đất nước, Tạp 
chí kinh tế và phát triển, số 3 -1995. 
66. Trần Hồng Quân, Kế hoạch phát triển GD - ĐT giai đoạn 1996 - 2000 và được 
hướng đến năm 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, diện đại hóa đất 
nước, (Báo cáo tại lớp nghiên cứu nghị quyết Đại hội VIII - Tháng 9/1996). 
67. Bùi Tất Thắng (Chủ biên), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu thành 
phần kinh tế trong thời kỳ CNH, HĐH, NXB thống kê, Hà Nội 1997. 
68. Nguyễn Thanh, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2005. 
69. Vũ Bá Thế, Phát huy nguồn nhân lực con người, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Nhà xuất bản lao động - xã hội, 2005. 
70. Tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, NXB 
Thanh Hóa 1/2001. 
71. Tổng cục thống kê, Số liệu thống kê xã hội những năm đầu thế kỷ 21, Nhà xuất bản 
thống kê, Hà Nội, 3/ 2004. 
72. Trung tâm nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực, Từ chiến lược phát triển giáo dục 
đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nhà xuất bản Giáo dục - 2002. 
73. Trung tâm thông tin và tư vấn phát triển, Tổng quan quy hoạch phát triển kinh tế xã 
hội Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2-2002. 
74. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, viện triết học. Một số vấn đề về 
triết học - con người - xã hội, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 11-2002. 
75. ủy ban Quốc gia dân số kế hoạch hóa gia đình và trung tâm nghiên cứu dân số 
nguồn lao động, Bộ lao động thương binh xã hội, Một số vấn đề dân số, nguồn 
nhân lực và việc làm ở Việt Nam, Hà Nội 1996. 
76. ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết công tác đào tạo nghề năm học 
2003 - 2004, nhiệm vụ năm học 2004 - 2005, Thanh Hóa, tháng 9 năm 2004. 
77. ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, niên giám Thanh Hóa 2001 - 2004, Nhà xuất bản 
thông tấn, 4-2005. 
78. ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Quy hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục và đào 
tạo tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001 - 2010, Thanh Hóa - tháng 8 năm 2002. 
79. ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Thanh 
Hóa thời kỳ 1996 - 2010, Thanh Hóa, tháng 8 năm 1995. 
80. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb tiến bộ, Maxcơva 1997. 
81. Viện thống tin khoa học xã hội, CNH, HĐH những bài học thành công ở Đông á, 
Xưởng in Viện thông tin KHXH, Hà Nội 1995. 
82. Viện Khoa học Xã hội (1997), Triết học và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước, Trung tâm Triết học tại thành phố Hồ Chí Minh. 
Mục lục 
 Trang 
 Mở đầu 1 
 Chương 1: Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam 
7 
1.1. Quan điểm mácxít về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn 
nhân lực 
7 
1.2. Vị trí, vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước 
16 
 Chương 2: Thực trạng vấn đề nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở 
tỉnh Thanh Hóa 
27 
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực và vấn đề nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
ở Thanh Hóa 
27 
2.2. Đánh giá chung về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 58 
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa 
 Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu 
nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực trong sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh 
Thanh Hóa 
76 
3.1. Phương hướng 76 
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thanh Hóa 
92 
 Kết luận 119 
 danh mục Tài Liệu THAM Khảo 122 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.pdf LUẬN VĂN- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thanh Hóa.pdf