Việc khôi phục, giữ gìn, phát huy những di sản văn hoá độc đáo của người Mường
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và cả nước
đang nỗ lực vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như hiện nay, đòi hỏi
phải tiến hành nhiều biện pháp tích cực. Trong đó nhấn mạnh yếu tố tác động bằng thể
chế, chính sách của các chủ thể chính trị, các cơ quan chức năng liên quan đến đời sống
văn hoá của nhân dân và của dân tộc, nhấn mạnh vai trò chủ động sáng tạo của các tầng
lớp quần chúng nhân dân, các thế hệ người Mường đã và đang tiếp nối sự nghiệp sáng
tạo, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình.
80 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2890 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao vai trò nhân tố chủ quan trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mường tỉnh phú thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong các khu dân cư, thành lập và duy trì
các hoạt động của đội văn nghệ quần chúng, các hội thi, hội diễn.
Trong điều kiện kinh tế của vùng Mường còn nghèo, nguồn thu nhập của các hộ gia
đình thấp, lao động dôi dư trong các kỳ nông nhàn chưa tận dụng được hết. Để khắc phục
tình trạng “bỏ thì thương, vương thì tội” của các làng nghề, tăng thêm thu nhập cho cư
dân Mường và hạn chế những tác động tiêu cực khác nảy sinh như nghiện hút, mại
dâm…thì hơn lúc nào hết đòi hỏi các chủ thể lãnh đạo các cấp, các ngành có sự phối kết
hợp thu hút nguồn lực lao động vào các làng nghề thủ công, kết hợp quảng bá các sản
phẩm cổ truyền trong các dịp lễ hội, các tụ điểm du lịch, hội chợ…tìm đầu ra cho sản
phẩm, khắc phục tình trạng khó khăn về tài chính, ứ đọng các sản phẩm thủ công truyền
thống như hiện nay.
Vai trò của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân còn được thể hiện
trong việc chủ động đẩy mạnh phong trào toàn dân xây dựng nếp sống văn hoá ở khu dân
cư, xây dựng các tiêu chí gia đình văn hoá, thôn bản văn hoá phù hợp với đặc điểm của
địa phương, với phong tục tập quán của đồng bào cũng là một trong những tiêu chí góp
phần xoá bỏ những tập tục lạc hậu trong nếp sống và sinh hoạt của đồng bào Mường.
Việc khái quát, định hướng những phong trào nói trên không phải là đưa ra một hệ thống
những quy định, mô hình cứng nhắc để áp đặt mà phải xuất phát từ sự nhận thức đầy đủ
những đặc trưng của môi trường văn hoá địa phương, khả năng vận động và phát triển
của những thực trạng đó.
Trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc Mường, vai trò và trách
nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân không chỉ thể hiện ở sự
dày công sưu tầm các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể, ở sự phát động các phong trào
thi đua, văn nghệ, ở sự vận động đông đảo quần chúng tham gia; mà còn thể hiện ở sự
định hướng, sự đảm bảo tính liên tục trong mọi thời kỳ, thời điểm. Đảm bảo tính toàn
diện trong mọi mặt của đời sống xã hội; đảm bảo chiều sâu nhân văn trong các loại hình
nghệ thuật, làm cho người dân cảm thấy thích, thấy hoà đồng trong môi trường sống, môi
trường văn hoá; như vậy, các giá trị văn hoá truyền thống mới được duy trì và có sức bền,
các ảnh hưởng của yếu tố phi văn hoá mới bị hạn chế và loại bỏ.
3.1.2. Khơi dậy tính chủ động tích cực của quần chúng nhân dân trong việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường ở Phú Thọ hiện nay.
Mặt thuận lợi trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá Mường ở Phú Thọ là
người Mường cư trú khá tập trung ở hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập, trong mỗi huyện
tỷ lệ người Mường chiếm tới trên 70% dân số, xã nào cũng có những người già thông
thạo địa hình địa vật, tập tục lễ nghi, say sưa với những câu hát đối, nhiều gia đình còn
lưu giữ những cổ vật quý như Cồng, Chiêng, Ninh bằng đồng; Đuống gỗ, mũ áo tế lễ…
Nhưng một trong những hạn chế của vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá Mường đó
là người Mường không có chữ viết, mọi giá trị sáng tạo trong văn hoá được lưu truyền
trong dân gian là qua thể thức truyền miệng, yếu tố chính xác và cả sự phong phú phụ
thuộc rất nhiều vào trí nhớ và khẩu khiếu của người kể. Hơn nữa, ý thức lưu giữ và bảo
vệ các cổ vật quý trong của các thế hệ người trong các gia đình không giống nhau do vậy
sự thất thoát những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể là khá nhiều.
Vấn đề quan trọng đối với những người chủ di sản trong thời kỳ hiện tại là phải
thường xuyên học tập nâng cao nhận thức, ý thức tự giác bảo vệ các giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc mình, nâng cao khả năng cảm thụ thẩm mỹ, tìm hiểu những
thành tựu khoa học kỹ thuật mới, đưa các yếu tố văn hoá thâm nhập vào mọi mặt của đời
sống và hoạt động xã hội, thúc đẩy nhu cầu tự bảo vệ từ chính sức mạnh nội tại của nó
chứ không phải sự gò ép, áp đặt từ bên ngoài. Việc kế thừa những di sản văn hoá quý báu
của dân tộc cũng phải được các chủ thể thực hiện một cách hết sức sáng tạo, trong ý thức
phải có cả niềm tự hào, nếu không sẽ rất dễ rơi vào thủ cựu, phục cổ nguyên si cái cổ
truyền không phù hợp với điều kiện mới, hoặc sẽ là phủ nhận những giá trị văn hoá đích
thực, phủ nhận vai trò nền tảng của các di sản văn hoá dân tộc. Sự tác động của các
ĐKKQ, sự giáo dục, tuyên truyền, vận động của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể
nhân dân chỉ phát huy tác dụng khi người dân - chủ thể của các giá trị văn hoá có ý thức
tự giác, biết gắn bó giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Thực trạng tâm lý, tình cảm, ý thức chủ động giữ gìn, sáng tạo văn hoá của các thế
hệ người Mường ở Phú Thọ không giống nhau, nên vai trò của họ trong giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc cũng không giống nhau.
Thứ nhất, những nhà khoa học, tầng lớp trí thức người dân tộc Mường đã, đang
sống trên địa bàn, họ là những người có tri thức, am hiểu về con người, điều kiện sống và
thực trạng văn hoá của người Mường hiện nay; thế mạnh của họ là sự chủ động tham
mưu, đề xuất với các ngành chức năng các phương pháp tháo gỡ khó khăn, định hướng
các hoạt động bảo tồn và phát triển văn hoá một cách khoa học, hiệu quả nhất. Do vậy,
khơi dậy tính chủ động tích cực của những nhà khoa học, tầng lớp trí thức đã và đang
sống trên địa bàn tỉnh chính là khơi dậy trong họ tâm huyết và nhiệt tình, phát huy tính
chủ động sáng tạo của họ trong mặt trận văn hoá ở cả hai mặt lưu giữ và phát triển. Hơn
nữa, tầng lớp trí thức (nhất là thanh niên trí thức), là lực lượng thu hút, tập hợp giới trẻ
trong các hoạt động văn hoá xã hội, góp phần điều chỉnh những lệch lạc trong nhận thức
và hành vi đạo đức của tầng lớp thanh niên nói chung, thanh niên Mường trong tỉnh Phú
Thọ nói riêng.
Thứ hai, nguồn tư liệu “sống” trong dân gian là những người già có tâm huyết và
hiểu biết về vốn cổ văn hoá Mường trong tỉnh, nhưng đội ngũ này không nhiều và cũng
không tồn tại mãi mãi. Do vậy, phương hướng khai thác, khơi dậy lòng nhiệt tình của các
chủ thể này không thể chậm trễ; ngoài việc cung cấp những thông tin và tư liệu quý cho
các nhà khoa học, thì lớp các nghệ nhân già là lực lượng quan trọng trong các hoạt động
khôi phục văn hoá dân gian, đặc biệt là các lễ hội cổ truyền. Uy tín và vị trí của người già
trong các gia đình Mường rất được coi trọng, nên vai trò của họ trong việc điều chỉnh thái
độ, hành vi của con cháu là rất to lớn. Vấn đề quan trọng là tạo điều kiện để họ tiếp cận
và hiểu được các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
trong phát triển văn hoá, tuyên truyền để họ hiểu được tính chất hai mặt của văn hoá
truyền thống, khuyến khích sự chủ động loại trừ hủ tục trong các hoạt động văn hoá tín
ngưỡng ở gia đình và địa phương, nâng cao ý thức giữ gìn và bảo tồn tại chỗ các di sản
văn hoá như: Nhà sàn, Cồng, Chiêng…bảo tồn vốn cổ văn hoá truyền thống và đáp ứng
những yêu cầu phát triển chung.
Thứ ba, lực lượng đông đảo nhất và chủ lực nhất trong tất cả các hoạt động kinh tế -
xã hội của vùng Mường hiện nay là tầng lớp thanh niên. Đây là lực lượng có mặt trong
tất cả các ngành nghề, có tri thức, có sức khoẻ, nhạy bén, dễ thích ứng với mọi tình
huống nảy sinh trong xã hội đương đại; phần lớn trong số họ thích cuộc sống công
nghiệp, tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh, biết thực hành, ứng dụng những kiến thức, hiểu
biết của mình vào cuộc sống để nâng cao thu nhập, đảm bảo ổn định kinh tế gia đình. Xu
thế của thanh niên Mường trong tỉnh là không còn bó hẹp cuộc sống của mình trong
phạm vi làng bản nữa, họ chủ động giao lưu với những vùng kinh tế khác, tự tiếp thu
những gì mà chủ quan họ cho là tốt, thực hiện cách tân một cách triệt để…Nhưng chính
những mặt mạnh ấy của họ lại là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đứt
đoạn trong kế thừa và mai một vốn văn hoá truyền thống của dân tộc thiểu số nói chung,
dân tộc Mường nói riêng.
Khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của tầng lớp thanh niên này trong việc giữ gìn,
phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của các tổ
chức, ban ngành đoàn thể, đặc biệt là liên kết giữa hai ngành: Văn hoá và Đoàn thanh
niên trong việc tập hợp lực lượng trong độ tuổi và tổ chức các hoạt động chính trị, văn
hoá xã hội. Đối với lớp trẻ, không gì thuyết phục họ nhanh hơn các hoạt động bề nổi thiết
thực và hữu ích, từ những lợi ích trong hoạt động thực tiễn, dần dần tư duy và quan niệm
của họ sẽ thay đổi. Do vậy, ngoài việc tuyên truyền để họ hiểu giá trị vốn văn hoá truyền
thống của người Mường trong kho tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, thì việc tăng
cường các hoạt động như: Viết bài dự thi tìm hiểu vốn văn hoá truyền thống; Tổ chức lễ
hội cồng chiêng toàn tỉnh; Tổ chức giao lưu văn hoá các dân tộc trong tỉnh, Chương trình
“tiếp lửa truyền thống mãi mãi tuổi 20” v.v…những hoạt động chung của tổ chức, của
cộng đồng như vậy rất cần thiết. Bằng các hoạt động thực tiễn, bằng sự nhiệt tình của cán
bộ hội viên, sự nhiệt tình của các già làng, trưởng bản, bằng thế mạnh của mình, bằng ý
thức trách nhiệm, họ sẽ góp phần quan trọng trong việc cải tạo những hủ tục trong văn
hoá cổ truyền như: việc cưới, việc tang, lễ tết…, góp phần duy trì, phát triển những nét
đẹp trong văn hoá văn nghệ dân gian, và bảo tồn những di sản vật thể và phi vật thể đang
tồn tại trong gia đình và cộng đồng như: cồng chiêng, nhà sàn, tiếng nói, các vật dụng
sinh hoạt khác.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Phát triển kinh tế, nâng cao dân trí phù hợp với đặc điểm đồng bào dân tộc
Mường tỉnh Phú Thọ.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng, và đặc biệt là sau hai mươi năm thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, với các chương trình 135 trong lĩnh vực kinh tế,
chương trình “Xây dựng đời sống văn hoá trong dân cư” thực sự đã làm đổi thay bộ mặt
kinh tế - chính trị - xã hội của vùng Mường. Vì vậy, phát triển kinh tế là một trong những
nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Việc giữ
gìn, phát huy những giá trị văn hoá độc đáo của dân tộc tiểu số nói chung, dân tộc Mường
nói riêng, không chỉ là sản phẩm của những cố gắng chủ quan, mà phụ thuộc trước hết
vào trình độ phát triển kinh tế và những hoàn cảnh lịch sử của địa phương. Giải quyết tốt
mối quan hệ giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu văn hoá là một vấn đề hết sức quan trọng
trong sự nghiệp phát triển chung của cả tỉnh. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ lần thứ XVI đã đề ra mục tiêu tổng quát phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2005 –
2010 là:
“Phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, đẩy lùi tai nạn, tệ nạn xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá vùng
Đất Tổ; thực hiện tốt các chính sách xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách về thu
nhập và mức sống giữa các vùng miền trong tỉnh. Gắn kết giữa phát triển kinh tế -
xã hội với tăng cường công tác quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội” [20, tr.60,61].
Với một tỉnh có nhiều khó khăn như Phú Thọ và một vùng Mường có điểm xuất
phát kinh tế, trình độ dân trí thấp, công cụ sản xuất thô sơ, năng xuất lao động thấp, khả
năng vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất có nhiều hạn chế. Việc phát huy vai trò
nhân tố chủ quan trong phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm giữ gin, phát huy
bản sắc văn hoá Mường ở Phú Thọ cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các chủ thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước
và đoàn thể nhân dân trong vấn đề phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, kết hợp với các ngành nghề thủ
công, cơ khí nhỏ và dịch vụ.
Để đạt được mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc Mường ở
Phú Thọ, thì trước hết các cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân trong tỉnh, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở địa phương cần phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung, quy
hoạch chi tiết mô hình kinh tế của vùng Mường. Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, tìm
nguyên nhân và cách khắc phục những hạn chế tốc độ phát triển kinh tế trong thời gian
qua, trong tất cả các mặt: chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, cơ giới hoá sản
xuất, trong quản lý và thực hiện giao đất, giao rừng cho người lao động, trong việc gắn
kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong huy động, đầu tư và sử dụng
nguồn vốn, kinh phí cho phát triển kinh tế vùng Mường
Đối với kinh tế nông, lâm nghiệp
Do đặc điểm cư trú, nên nông nghiệp không phải là thế mạnh trong phát triển kinh
tế hộ gia đình của vùng Mường. Nhưng với diện tích canh tác bình quân 450m2/nhân
khẩu, nếu biết tận dụng nguồn nhân lực, kết hợp với sử dụng khoa học, kỹ thuật trong
canh tác thì nguồn thu từ nông nghiệp cũng chỉ đủ cho các hộ gia đình người Mường đảm
bảo nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, thoát khỏi tình trạng thiếu đói triền miên. Muốn ổn định
kinh tế, tăng nguồn thu, thì trước mắt, các chủ thể lãnh đạo Đảng, nhà nước, đoàn thể
nhân dân Huyện và cơ sở trong vùng Mường cần định hướng phát triển kinh tế nông
nghiệp theo hướng tăng cả tỷ trọng trồng trọt và chăn nuôi. Vận động bà con thay đổi
nhận thức, phá thế độc canh cây lúa, tăng thêm thời vụ trồng hoa màu (nhất là cây ngô,
khoai lang, các giống đậu, đỗ…) từ một vụ lên 3 vụ/ năm. Kết hợp mở rộng các trang trại
vừa và nhỏ, tận dụng nguồn phân bón từ chăn nuôi gia súc kết hợp với các loại phân bón
vi sinh, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị và sản lượng các loại cây trồng.
Định hướng cho người dân đầu tư trồng các loại cây như: chè và một số loại cây lấy
măng (bương, vầu, tre bát độ…), vừa tận dụng được diện tích đất dốc (toàn tỉnh có
52,9%, vùng Mường Thanh Sơn và Yên Lập là xấp sỉ 90% diện tích đất dốc), vừa góp
phần ổn định và nâng cao thu nhập cho người dân.
Thế mạnh của cả vùng Mường là phát triển kinh tế đồi rừng, việc sử dụng hợp lý
nguồn tài nguyên đất sẽ tạo ra sức bật mới cho kinh tế vùng Mường thời gian tới, ngoài
việc tiếp tục mở rộng diện tích, thâm canh, chăm sóc và đưa giống mới vào sản xuất
nông, lâm nghiệp thì việc khoanh nuôi, bảo vệ và trồng mới các loại cây truyền thống
như cây Chè, cây Sơn, cây nguyên liệu giấy là rất cần thiết. Mặc dù vào thời điểm hiện
tại, hiệu quả kinh tế của các loại cây này chưa cao nhưng nó là nguồn sống chính của
người dân trong vùng nên cần được chú trọng, đồng thời kết hợp trồng xen các loại cây
công nghiệp dài ngày như Trám, Dổi, Lem xẹt, Quế…Các chủ thể lãnh đạo cần chủ động
phối hợp với nhà máy giấy Bãi Bằng và các nhà máy chè trong tỉnh để đảm bảo nguồn
cung ứng vật tư, giống, vốn, thị trường và giá cả tiêu thụ có lợi cho người dân. Có như
vậy mới tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi, tăng thêm thu nhập cho người dân, dần
ổn định được diện tích đất rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tạo nguồn sinh thuỷ
phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Miền núi trong tỉnh Phú Thọ nói chung và vùng Mường nói riêng có thế mạnh phát
triển kinh tế theo hướng nông, lâm nghiệp kết hợp. Mặc dù mức độ tăng trưởng GDP
hàng năm của tỉnh là 9,73%, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp đều tăng, nhưng mức độ
thu nhập còn quá chênh lệch giữa các vùng. Năm qua vùng Mường Thanh Sơn và Yên
Lập chỉ đảm bảo mức thu nhập bình quân từ 2,73 đến 3 triệu đồng/ người/ năm, bình
quân lương thực là 175 đến 200 kg/ người/ năm [10, tr.739]. Do vậy, các cấp chính quyền
trong tỉnh cần tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất cho vùng núi, ưu tiên
đầu tư cho phát triển mạng lưới điện, giao thông, thủy lợi nội đồng; chủ động xây dựng
cơ chế, chính sách, phối kết hợp với các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
trên địa bàn cho người dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi để phát triển sản xuất. Đồng thời,
hướng dẫn, khuyến khích người dân chủ động huy động vốn trong các gia đình, dòng họ;
mở rộng các mô hình liên kết, các câu lạc bộ giúp nhau làm kinh tế; áp dụng tiến bộ khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng, thời vụ các loại cây trồng, đảm bảo cung
cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến với giá cả hợp lý nhất; đảm bảo và nâng cao
thu nhập cho người dân.
Đối với các ngành nghề thủ công và dịch vụ
Ngoài việc đầu tư cho phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp thì các chủ thể lãnh đạo
trong tỉnh và đặc biệt là các cấp lãnh đạo từ huyện đến cơ sở của hai huyện Thanh Sơn,
Yên Lập cần chú ý tới phát triển các ngành thủ công như nghề dệt vải cổ truyền, nghề
mộc, đan lát...Duy trì hoạt động của 3 trung tâm dệt may cổ truyền ở các xã Tân Phú, Lai
Đồng và Xuân Đài, phát triển nhân rộng các trung tâm dệt may cổ truyền trong các làng
người Mường. Việc xây dựng kế hoạch cho phát triển kinh tế ở mảng này cần được chú
trọng đưa vào nghị quyết của tỉnh, huyện Đảng bộ và UBND các cấp. Quy hoạch rõ ràng
vùng trồng cây nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tại chỗ, nhất là các giống cây bông và
dâu tằm tơ có năng xuất, chất lượng tốt, đảm bảo đáp ứng nguyên liệu cho nghề dệt tại
địa phương. Vừa đảm bảo tận dụng nguồn lao động lúc nông nhàn, vừa tăng thêm thu
nhập cho người dân; vừa giữ gìn, phát triển được ngành nghề thủ công truyền thống của
dân tộc Mường trong tỉnh.
Trong điều kiện hiện nay, công nghiệp dệt trong nước rất phát triển, nhu cầu mặc
của các đối tượng trong xã hội được đáp ứng tốt; những sản phẩm dệt may cổ truyền rất
khó cạnh tranh nếu cùng mục đích sử dụng. Thiết nghĩ, các chủ thể lãnh đạo trực tiếp tại
địa phương cần định hướng và có biện pháp chuyển đổi, biến các sản phẩm dệt may cổ
truyền của người Mường thành các sản phẩm phục vụ du lịch. Tổ chức giới thiệu, quảng
bá sản phẩm tại trung tâm hội trợ Hùng Vương, khu du lịch Đền Hùng, suối nước khoáng
Thanh Thuỷ…từng bước tìm chỗ đứng cho sản phẩm trên thị trường.
Trong vấn đề quản lý đất đai
UBND Tỉnh (đặc biệt là UBND hai huyện Thanh Sơn và Yên Lập) cần chỉ đạo làm
tốt công tác kiểm tra, quy hoạch, phân loại quỹ đất và hướng dẫn người dân sử dụng
nguồn đất một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả.
Luật đất đai ra đời thực sự đã tạo điều kiện cho người lao động phát huy hết khả
năng và nguồn lực phát triển sản xuất. Nhưng trên thực tế, tập tục phân chia ruộng đất
theo gia đình, dòng họ của người Mường từ xưa đến nay, cộng với những bất cập trong
quản lý ruộng đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý, chăm sóc và chất lượng cây
trồng của các hộ gia đình. Việc cần làm ngay là UBND các xã cần kiểm tra số người
chuyển đi, người chết, số nhân khẩu tăng thêm của các hộ gia đình, căn cứ vào nguyện
vọng của các hộ trên địa bàn, trên cơ sở đó điều chỉnh lại quỹ đất, đảm bảo cân đối giữa
số nhân khẩu và diện tích đất được giao. Khắc phục tình trạng phân chia đất các loại đất
canh tác đồng đều cho các hộ gia đình thành nhiều thửa, nhiều mảnh, sản xuất manh mún
như hiện nay; việc chuyển đổi, dồn điền, liền thửa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ
canh tác. Mặt khác, cũng phải đẩy mạnh công tác khuyến nông ở cơ sở, từ làm điểm rồi
nhân ra diện rộng, có kiểm tra, giám sát, hỗ trợ kỹ thuật, tránh hiện tượng hô hào hình
thức. Đối với đất đồi rừng cũng đang trong tình trạng manh mún, thiếu quy hoạch cụ thể,
thiếu đầu tư, mạnh ai nấy làm, nên tình trạng “trồng cây mà vẫn không có rừng” là khá
phổ biến. Lãnh đạo các địa phương cần hoàn thành sớm việc giao đất, giao rừng cho các
cá nhân, hộ gia đình và tập thể quản lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kịp thời;
cắt chuyển đất và phân định ranh giới quản lý giữa các nông, lâm trường, công ty khai
thác quặng đá và chính quyền địa phương, tránh việc canh tác xâm lấn và chồng chéo
giữa các chủ sở hữu mới có thể quản lý và khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu, nguồn
đất. Khuyến khích các hộ trong khu vực thị trấn, thị tứ, và nơi tập trung đông dân cư mở
mang các loại hình dịch vụ, trao đổi hàng hoá, tiếp chuyển sản phẩm trong vùng, giữa các
vùng trong tỉnh và khu vực.
Phối kết hợp giữa nguồn vốn ngân sách nhà nước với huy động vốn trong dân, đầu
tư, mở rộng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong tỉnh và vùng Mường.
Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định 135 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu và vùng
xa. Kết hợp huy động các nguồn vốn khác từ các tổ chức trong và ngoài quốc doanh,
nguồn vốn trong dân để đầu tư nâng cấp, phát triển mạng lưới điện, giao thông, trường
học, trạm y tế, công trình nước sạch, thuỷ lợi nội đồng, thông tin liên lạc… cho vùng
Mường. Đảm bảo chất lượng và hiệu quả sử dụng của các công trình; xây dựng tâm điểm
là các thị trấn, thị tứ, khu trung tâm của các xã, từ đó phát triển nhân diện lên các khu vực
vùng cao và vùng sâu. Ngoài việc tăng cường đầu tư cho các công trình cộng đồng,
UBND các cấp cũng phải có kế hoạch đầu tư trực tiếp cho các hộ đói, nghèo; tập trung
xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh và đặc biệt là địa bàn nhạy cảm trong vùng Mường
và các dân tộc khác; hướng dẫn người dân sử dụng hiệu quả đồng vốn, từng bước xử lý
nguyên nhân dẫn tới nghèo đói trong các gia đình và khu vực.
Thứ hai, cùng với phát triển kinh tế cần phải nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc
Mường ở Phú Thọ.
Nâng cao trình độ cho người dân các dân tộc thiểu số ở Phú Thọ nói chung, người
dân Mường nói riêng đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Những hạn chế về kinh tế, trình
độ dân trí, đã làm cho nhận thức về ý nghĩa, giá trị, ý thức giữ gìn, phát triển các giá trị
văn hoá của người dân Mường cũng hạn chế theo.
Nâng cao trình độ cho người dân không chỉ dừng lại ở phổ cập, nâng cao trình độ
học vấn mà còn mở rộng phổ biến kiến thức xã hội như: Luật pháp, đạo đức, khoa học kỹ
thuật, kế hoạch hoá gia đình, quan hệ giao tiếp, quan điểm hưởng thụ văn hoá, nghệ
thuật…cho các tầng lớp nhân dân.
Trong giáo dục mầm non: củng cố hệ thống trường mẫu giáo, trường mầm non sẵn
có, thực hiện việc sắp xếp chuyển đổi các trường mầm non theo quyết định 161/
2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch số 2484/KH-UB
ngày 23/11/2004 của UBND Tỉnh về kế hoạch phát triển công tác giáo dục mầm non ở
các xã vùng dân tộc Mường còn khó khăn. Tiếp tục xã hội hoá giáo dục theo Nghị quyết
05 của Chính phủ và đề án của Tỉnh xây trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, đầu tư
trang thiết bị đảm bảo cho dạy và học ở các trường. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ
biến kiến thức nuôi dạy, chăm sóc trẻ…Xây dựng cơ chế thuận lợi, mối quan hệ giữa gia
đình – nhà trường – xã hội, tạo điều kiện cho cha mẹ học sinh tham gia cùng chính quyền
cơ sở, tích cực chăm sóc, giáo dục trẻ, đóng góp xây dựng cơ sở vật chất và quản lý các
cơ sở giáo dục mầm non.
Phát triển, ổn định hệ thống mạng lưới trường phổ thông hiện có, đảm bảo hợp lý
giữa các vùng, địa bàn dân cư, đáp ứng nhu cầu học của học sinh, nâng cao hiệu quả giáo
dục đào tạo. Những năm trước mắt cần tăng cường hệ thống giáo dục các cấp về mọi mặt,
cần mở rộng loại hình giáo dục bán công, tránh hiện tượng chạy theo thành tích trong cả
chương trình phổ cập và giáo dục phổ thông; điều chỉnh quy chế tuyển sinh với các
trường vùng núi, các khu vực thuộc diện hưởng chính sách 135 không có trường, lớp bán
công, trong khi đó chỉ tiêu tuyển sinh của tỉnh đối với tất cả các trường trung học phổ
thông công lập không quá 70%, do vậy mỗi năm sẽ có 30% học sinh vùng cao hết trung
học cơ sở không được đến trường học tiếp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các
trường, chú trọng quan tâm các điều kiện cần thiết về đội ngũ như: chính sách thu hút, hỗ
trợ với giáo viên đang công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.
Tiếp tục lãnh đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch dạy và học theo nội dung chương
trình sách giáo khoa mới, tiến hành triển khai tốt việc đổi mới phương pháp dạy học và
đánh giá xếp loại học sinh; triển khai nghiên cứu và vận dụng chương trình, đổi mới công
tác thi, kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục; thực hiện có hiệu quả các chương trình
lồng ghép giáo dục…Đổi mới phương pháp dạy học đi đôi với củng cố, chấn chỉnh trật
tự, kỷ cương, dân chủ hoá trường học, chăm lo giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống, giáo dục nhân văn, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chú trọng tổ chức hoạt động tập thể,
đoàn đội, thể thao, văn nghệ và vui chơi…cho học sinh; ngăn chặn các tệ nạn xã hội ảnh
hưởng xấu đến thế hệ trẻ, trang bị cho thế hệ trẻ kỹ năng thực hành, xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh.
Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các Trung tâm dạy
nghề, chú ý phát triển các ngành nghề đang phổ biến ở vùng đồng bào dân tộc như nghề
dệt, nghề mộc, mây tre đan…phối hợp với chính quyền cơ sở mở các lớp bồi dưỡng kiến
thức khoa học - kỹ thuật, kiến thức quản lý nhà nước và pháp luật cho cán bộ thôn bản,
thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, tăng cường giáo dục sức khoẻ cộng đồng, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc
sức khoẻ cho người dân cũng là một trong những biện pháp xoá bỏ dần các hủ tục cúng
bái chữa bệnh và các tập tục mê tín dị đoan. Hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở, cung cấp
trang thiết bị và đào tạo chuyên môn cho đội ngũ y, bác sĩ thuộc các trạm xá xã; tăng mức
trợ cấp cho cán bộ y tế thôn bản (mức phụ cấp 50.000đ/ người/ tháng như hiện nay là quá
thấp). Hình thức chữa bệnh bằng cây thuốc nam của người Mường cũng khá hiệu quả,
nhưng phải có kế hoạch kiểm tra, giám sát và cấp phép hoạt động cho một số Ông (bà)
lang có uy tín trong mỗi khu vực. Tiếp tục công cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch,
không sinh con thứ ba trong đồng bào Mường; thành lập mới và duy trì hoạt động có hiệu
quả các câu lạc bộ: “Gia đình trẻ”, “Tiền hôn nhân”, “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế”…
tạo động lực phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội cho cả vùng Mường.
3.2.2. Gắn tuyên truyền, vận động với những hoạt động thích hợp nhằm nâng
cao ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc Mường ở Phú Thọ
giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện đời sống kinh tế, trình độ dân trí của người dân vùng Mường ở Phú
Thọ còn nhiều hạn chế; những ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động rất
lớn đến tư tưởng, tình cảm và tư duy của người dân Mường nơi này, đặc biệt là lớp trẻ.
Vì nhu cầu mưu sinh, vì miếng cơm manh áo, vì mục đích vươn lên làm giàu (đôi khi rất
tự do) của một bộ phận không nhỏ người Mường, đã làm xáo trộn đời sống văn hoá tinh
thần của người dân vùng Mường, khiến cho nguy cơ “Kinh hoá” nền văn hoá Mường ở
Phú Thọ đang ở mức báo động. Do vậy, nhiệm vụ hàng đầu trong công tác văn hoá tư
tưởng ở Phú Thọ hiện nay là tuyên truyền, vận động, giáo dục cho người dân Mường
hiểu được những giá trị văn hoá độc đáo của dân tộc mình; vai trò, chức năng và ý nghĩa
của những di sản văn hoá ấy trong đời sống vất chất và tinh thần của con người, trong sự
nghiệp phát triển chung của cả tỉnh và cả nước; giúp họ hiểu được vai trò quan trọng của
chính họ trong sự khai thông dòng chảy văn hoá của dân tộc mình qua các thế hệ từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai; giúp họ hiểu được không ai khác ngoài chính họ sẽ làm cho
nền văn hoá của dân tộc mình trở nên tích cực, tiến bộ và có ích trong môi trường và
cuộc sống công nghiệp hiện nay.
Để có thể tác động đến khách thể nhận thức một cách hiệu quả thì công tác tuyên
truyền, vận động, giáo dục tư tưởng của tỉnh Phú Thọ nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy
các giá trị văn hoá Mường thời gian tới cần tập trung vào những hình thức sau:
Một là, tiếp tục thực hiện chương trình hành động cụ thể hoá Nghị quyết Trung
ương năm (khoá VIII) và Kết luận Hội nghị lần thứ 10, Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá IX) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”. Liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa Sở VH - TT - TT với các ban ngành đoàn thể
trong tỉnh phát triển mạnh mẽ và rộng khắp phong trào thi đua “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá”, phong trào xây dựng “Làng văn hoá”, “gia đình văn hoá”, “Xoá
hộ đói, giảm hộ nghèo”; đưa các tiêu chí về bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá của dân
tộc vào quy ước xây dựng làng văn hoá, và tiêu chuẩn gia đình văn hoá v.v…, nhằm mục
đích xây dựng một môi trường văn hoá cơ sở lành mạnh, một đời sống văn hoá phát triển,
phát huy được tính chủ động sáng tạo của người dân trong tổ chức và hưởng thụ văn hoá,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Làng xóm là cộng đồng dân cư ở nông thôn, nơi chứa đựng những phong tục tập
quán truyền thống… ở Phú Thọ, có những làng xóm tới 90% là người Mường. Mục đích
xây dựng làng, xóm văn hoá là làm cho nhân dân Mường có đời sống tinh thần phát triển,
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc; nâng cao mức hưởng thụ những giá trị văn hoá đó, loại bỏ
các hiện tượng mê tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu, các hiện tượng phi văn hoá trong các làng
Mường.
Vì vậy, vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường cần phải được cụ
thể hoá trong từng “quy ước làng xóm”, đó là một trong những tiêu chuẩn cơ bản để xét
và phong tặng danh hiệu làng, xóm văn hoá. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể
nhân dân, đặc biệt là ngành VH - TT - TT cần tập trung chỉ đạo xây dựng mô hình điểm
một số làng xóm văn hoá, tạo cơ sở để phổ biến, nhân rộng mô hình này. Đồng thời, đúc
rút kinh nghiệm, chỉnh lý mô hình tạo phong trào xây dựng làng, xã văn hoá, gia đình văn
hoá, tạo hiệu ứng dây chuyền trong vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Hai là, các cấp, ngành chức năng cần có kế hoạch đầu tư cho công tác thống kê, sưu
tầm, bảo vệ những di sản văn hoá của người Mường trên địa bàn tỉnh một cách có hệ
thống và thích đáng. Những di sản đang được lưu giữ tại các gia đình cũng cần được
thống kê và bảo tồn tại chỗ như: Nhà sàn, Cồng, Chiêng; khắc phục và hạn chế đến mức
thấp nhất tình trạng “chảy máu cổ vật” và sự hoán đổi vị trí “Nhà sàn về xuôi, nhà xây
lên miền núi” như hiện nay. Đồng thời, có kế hoạch quảng bá các giá trị văn hoá đó trong
các chương trình tuyên truyền tại chỗ “Tuổi trẻ với văn hoá cổ truyền dân tộc”, “Tuổi trẻ
tìm về với cội nguồn văn hoá”…cùng với các hình thức giao lưu văn nghệ quần chúng
của các tổ chức đoàn thể, nhằm tạo điều kiện cho người dân Mường tìm hiểu tiếp xúc với
di sản văn hoá truyền thống. Qua đó, hình thành niềm tin và lòng tự hào, xoá bỏ những
mặc cảm tự ti, xem việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống là nhiệm vụ
thiêng liêng, vinh dự của dân tộc mình.
Ngoài ra, các hình thức, biện pháp tuyên truyền phải phù hợp với lối tư duy kinh
nghiệm của người dân Mường, cần phải gắn với lợi ích thiết thân của họ; các hình thức
tuyên truyền kiểu so sánh “tốt - xấu”, “xưa - nay”, “nên - không nên” cũng là những biện
pháp đã từng đem lại hiệu quả, nhưng không nên quá lạm dụng, nhất là khi tư duy kinh
tế, trình độ dân trí, khả năng xử lý những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống của người
dân đã được nâng lên.
Ba là, cần sử dụng và phát huy triệt để hệ thống các phương tiện tuyên truyền của
các cơ quan thông tin đại chúng và hệ thống các thiết chế văn hoá như: Đài phát thanh -
truyền hình các cấp, các ấn phẩm báo chí, các trung tâm văn hoá - thể thao, bảo tàng,
phim ảnh v.v…trong việc tuyên truyền, quảng bá các giá trị văn hoá truyền thống các dân
tộc trong tỉnh; nêu những gương điển hình trong vấn đề xây dựng, phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá độc đáo của dân tộc.
Bốn là, ở các vùng đồng bào dân tộc Mường của Phú Thọ, phong trào toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư của Mặt trận tổ quốc cần có kế hoạch vận động
tập hợp những người cao tuổi để truyền lại những giá trị truyền thống cho các thế hệ
(những tinh hoa văn hoá hiện tồn như sử thi, truyện cổ, tục ngữ, ca dao, dân ca, nghệ
thuật kiến trúc của người Mường trong làm nhà ở, tri thức về sản xuất, các nghề thủ
công…) đã được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Tuy những người cao tuổi nằm ngoài
hệ thống chính trị, nhưng vai trò và tiếng nói của họ có tác động mạnh mẽ đến các cư dân
Mường. Vì vậy, sự kết hợp hài hoà giữa các thiết chế xã hội và các yếu tố truyền thống
(có phần đóng góp của những người cao tuổi) là những biện pháp tích cực trong việc
củng cố hệ thống chính trị, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường ở Phú
Thọ hiện nay.
Năm là, trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, các di sản văn hoá của
người Mường cần được mọi người nhận biết và cổ vũ để nó chứng tỏ bản sắc độc đáo,
đích thực của riêng mình. Người Mường nói chung, người Mường ở Phú Thọ nói riêng
luôn đề cao tính cộng đồng và bình đẳng, nên các loại hình văn hoá mà quần chúng vừa
là tác giả, vừa là diễn viên, vừa là khán giả; đáp ứng được cả nhu cầu hưởng thụ, nhu cầu
sáng tạo của nhân dân luôn được hưởng ứng và thu hút được đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia. Do đó, các ngành chức năng cần quan tâm tổ chức các hoạt động tái hiện
các giá trị văn hoá vật chất, tinh thần trong chính cộng đồng mà nó được sinh ra như:
Liên hoan văn hoá quần chúng, các lễ hội dân gian, các hội thi tay nghề thủ công truyền
thống…làm cho các giá trị văn hoá truyền thống sống dậy, sinh động và hấp dẫn hơn
trong cuộc sống công nghiệp hiện đại hôm nay.
3.2.3. Bảo tồn, khôi phục, phát huy các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần phải
trở thành hoạt động thường nhật của cả ccộng đồng dân tộc Mường trong tỉnh.
Trước hết, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với các
di sản văn hoá; việc phổ biến những thể chế, chính sách về bảo tồn, lưu giữ, phát triển
các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mường ở Phú Thọ nói riêng là rất
cần thiết. Luật di sản văn hoá ra đời đã mở rộng hành lang pháp lý cho các cơ quan, tổ
chức xã hội và cá nhân trong vấn đề phân cấp quản lý, bảo tồn, lưu giữ các di sản văn hoá
độc đáo trong cộng đồng; những quy định đối với các chủ sở hữu bảo quản và giữ gìn tài
sản văn hoá. Nhưng luật chỉ có ý nghĩa khi người dân hiểu và thực hiện theo luật, vì thế
song song với việc xây dựng, hoàn thiện luật là công tác tuyên truyền, phổ biến luật trong
cộng đồng, mức phạt và hình thức phạt với các tội xâm phạm, đánh cắp, phá hoại các di
sản văn hoá dân tộc.
Đối với các di sản văn hoá vật thể của người Mường, muốn bảo tồn có hiệu quả
trước hết cần giao trách nhiệm khảo sát hiện trạng thực tế cụ thể cho phòng văn hoá
huyện. Đối với những sản vật cần bảo tồn tại chỗ như Nhà sàn, Cồng, Chiêng…phải có
kế hoạch đầu tư kinh phí và xây dựng những quy định cụ thể, tổ chức tập huấn kinh
nghiệm cho các chủ di sản, giúp người dân có kiến thức tự bảo tồn những di sản văn hoá
đó.
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh cần có kế hoạch chi ngân sách kịp thời cho những
điểm đã kiểm tra, khảo sát và có kế hoạch bảo tồn, bảo dưỡng, thu mua như cụm nhà sàn
Xóm Mít, thuộc thị trấn Tân Long, huyện Yên Lập; cụm nhà sàn thuộc làng Mường trong
vườn quốc gia Xuân Sơn, huyện Thanh Sơn v.v…Những di chỉ có tuổi đời trên 700 năm
như Đình Thạch Khoán, Đền Lưa kế hoạch tu bổ và bảo vệ phải chặt chẽ, tránh hiện
tượng “hiện đại hoá” đền cổ gây nhiều lãng phí tiền của và phản cảm trong nhân dân.
Những di sản văn hoá phi vật thể (như: tiếng nói, những làn điệu ví, giang, những
điệu múa…), là tài sản khó bảo tồn, nhưng lại gắn với sự tồn vong của mỗi dân tộc, khi
các hình thức sinh hoạt truyền thống bị mai một, tiếng nói không còn thì cũng đồng nghĩa
với việc dân tộc ấy đang trong tiến trình đồng hoá với một dân tộc khác. Nên Sở VH - TT
- TT và Bảo tàng tỉnh cần gấp rút hoàn thành đề án “Điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, hệ
thống hoá và bảo tồn các di sản văn hoá phi vật thể” trong tỉnh, đã đệ trình và được Bộ
Văn hoá – Thông tin, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh thông qua năm 2005, từ đó có kế
hoạch cải tạo, phục hồi, phát triển các giá trị văn hoá độc đáo đã và đang tồn tại trong
cộng đồng dân tộc thiểu số, cộng đồng người Mường một cách phù hợp, hiệu quả. Bên
cạnh đó, các cấp ủy Đảng và đoàn thể ở địa phương, cơ sở, các tổ chức đoàn đội ở các
trường Phổ thông trung học và nội trú cần mở rộng các hình thức giao lưu văn hoá, hát
những câu ví bằng tiếng dân tộc; khơi dậy ý thức bảo vệ và phát huy những giá trị văn
hoá độc đáo của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mường nói riêng trong thế hệ trẻ.
Hiện nay, Phú Thọ là tỉnh duy nhất trong cả nước chưa có Trung tâm văn hoá thông
tin/ Nhà triển lãm văn hoá, Bảo tàng tỉnh, Khu vui chơi giải trí cho cộng đồng. Do vậy,
việc phối kết hợp thực hiện cơ chế, chính sách, đề án, dự án xây dựng các thiết chế văn
hoá đã được Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh phê duyệt cần nhanh và đồng bộ hơn. Có như
vậy, cộng đồng các dân tộc tỉnh Phú Thọ (trong đó có người Mường) mới có điều kiện
trưng bày, giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hoá độc đáo của dân tộc mình; có điều
kiện thăm quan, giao lưu, học hỏi làm giàu thêm các giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc. Đảm bảo sự phong phú, đa dạng; đảm bảo tính lịch sử và phát triển trong việc giữ
gìn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc thiểu số trong tỉnh nói chung,
dân tộc Mường nói riêng.
3.2.4. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là người Mường phải đáp
ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường.
Để tạo ra được sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt trong vùng Mường, nhằm góp
phần phát triển kinh tế, giữ vững và ổn định chính trị, giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hoá, đảm bảo được an ninh quốc phòng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, thì chỉ có
thể tận dụng và phát huy chính nguồn lực con người trên địa bàn. Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ:
“Cán bộ là gốc của mọi việc” [42, tr.269], công tác đào tạo, phát triển đội ngũ các cán bộ
người dân tộc là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng, của Nhà nước và của
Nhân dân trong chính sách dân tộc và trong sự nghiệp đổi mới.
Những năm qua, nhiều cán bộ người dân tộc Mường có năng lực đã và đang giữ
những vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan đảng, nhà nước của địa phương. Đó là
niềm tự hào của Đảng, Nhà nước và nhân dân, các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc
Mường. Thực tế cho thấy, việc bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt có phẩm chất, năng lực, có
trách nhiệm với nhân dân, là người dân tộc thiểu số (đặc biệt là người dân tộc Mường)
trên địa bàn Phú Thọ thì sẽ phát huy được nhiều thế mạnh hơn so với những cán bộ ở
vùng khác chuyển đến. Đối với cán bộ người Kinh được Đảng và Nhà nước cử đến công
tác ở vùng dân tộc Mường, tuy họ có phẩm chất, năng lực và trách nhiệm với nhân dân,
nhưng do hạn chế về tiếng Mường nên trở ngại lớn trong công tác, nhất là những điều cần
kiêng kỵ trong luật tục, tập quán của người Mường, họ chưa thực sự nắm bắt và hiểu biết
được một cách cặn kẽ, do vậy những vấn đề nảy sinh trong đời sống người Mường, họ
không thể tiếp cận và không thể giải quyết được. Chính vì vậy, việc bố trí cán bộ chủ
chốt là người dân tộc Mường là tạo được thế mạnh cho họ trong quá trình công tác.
Cán bộ người Mường sinh ra và lớn lên trên đất của họ, hơn ai hết họ là người hiểu
được những nét đặc thù trong giá trị văn hoá của dân tộc mình. Điều đáng mừng là chính
sách dân tộc của Đảng đã phát huy tác dụng trong cuộc sống và do sự nỗ lực phấn đấu
của đội ngũ cán bộ là người dân tộc Mường, sự tích cực đầu tư của Trung ương và các
cấp chính quyền của địa phương ở phú Thọ, nên các địa phương trong tỉnh đã khắc phục
được tình trạng thiếu cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở. Tính đến hết năm 2005, trong toàn
tỉnh Phú Thọ có 759 cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số (chiếm 15,3%), trong đó
chiếm tới 97% là người dân tộc Mường. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ này trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, có tinh thần đoàn kết, gắn bó với
địa bàn, nhiệt tình và yên tâm công tác. Tuy nhiên, trình độ văn hoá và năng lực chuyên
môn có nhiều hạn chế: trình độ văn hoá cấp tiểu học và trung học cơ sở là 50,2%, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ chủ yếu là sơ cấp và trung cấp (Có 31,07% chưa qua đào tạo),
tuổi đời bình quân tương đối cao (43,4) [68, biểu 1]. Vì vậy, công tác quy hoạch, đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người dân tộc trong vùng
Mường cần được tập trung vào những vấn đề sau đây:
Một là, kiện toàn cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và
tăng số lượng tuyển đầu vào, nâng cao chất lượng đầu ra của học sinh trong các trường
dân tộc nội trú, các trường phổ thông của tỉnh và các huyện trong vùng Mường. Đây là cơ
sở đào tạo và cung cấp nguồn cán bộ cho các dân tộc thiểu số miền núi trong tỉnh, trong
đó có người Mường. Chất lượng đào tạo của hệ thống giáo dục phổ thông có tốt thì mới
có nhiều học sinh trúng tuyển vào các trường bồi dưỡng, trường đào tạo nghề của tỉnh và
Trung ương; nguồn cán bộ dân tộc bổ sung cho hệ thống chính trị các cấp ở địa phương
mới được đảm bảo.
Hiện nay, kinh tế của các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Phú Thọ nói
riêng đều chậm phát triển, nguồn ngân sách cấp cho giáo dục - đào tạo còn hạn chế. Do
vậy, Trung ương cần hỗ trợ thêm một phần kinh phí cho các trường vùng núi (đặc biệt là
trường dân tộc nội trú) hoạt động. Từ những hạn chế trong chỉ tiêu tuyển sinh đầu vào
cấp THPT, các huyện vùng núi cần có kế hoạch mở thêm các lớp xoá mù chữ, lớp bổ túc
văn hoá tại địa phương, bổ sung chỉ tiêu các loại hình đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ thuộc các trường cao đẳng kỹ thuật, trường chính trị của tỉnh, tạo điều kiện cho
con em người dân tộc và các cán bộ cơ sở học tập nâng cao kiến thức văn hoá và chuyên
môn nghiệp vụ. Một điều thuận lợi là người Mường sử dụng thành thạo tiếng phổ thông
(tiếng Kinh) nên ít trở ngại trong việc tiếp thu kiến thức ở trường, nhưng trong chương
trình ngoại khóa của các trường vùng núi cần bổ sung chương trình giao lưu văn hoá giữa
các dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao hiểu biết của cả giáo viên và học sinh về bản sắc
văn hoá của mỗi dân tộc, tạo không khí bình đẳng, đoàn kết, động viên giúp đỡ nhau
cùng học tập trong các em học sinh; sớm hình thành ý thức tự tôn, tự bảo tồn các giá trị
văn hoá dân tộc trong người cán bộ tương lai.
Trong 5 năm (1999-2004) Phú Thọ đã cử tuyển đi học tại các trường Đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp là 290 học sinh; số đã tốt nghiệp ra trường là 78 học sinh,
nhưng sau khi tốt nghiệp về địa phương công tác chỉ đạt 80%. Do vậy, chính sách chọn
lựa con người để cử đi học, chính sách thu hút và tạo việc làm cho học sinh sau khi tốt
nghiệp ra trường của các địa phương cũng cần được nghiên cứu và quan tâm đúng mức
hơn.
Hai là, tập trung tổng rà soát, đánh giá chất lượng cán bộ cơ sở, từ đó xây dựng
chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong đó có cán bộ người Mường, sát
với thực tế địa phương.
Chúng ta không phủ nhận những thuận lợi khi tận dụng nguồn cán bộ là người
Mường trong vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội; nhưng tuổi đời, trình độ học
vấn, chuyên môn nghiệp vụ, phong cách sống cũng có những hạn chế nhất định. Muốn
đảm bảo cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ này đòi hỏi phải có thời gian. Trước
mắt cần có biện pháp khắc phục tác phong sinh hoạt tự do, đơn giản, vô nguyên tắc của
một số cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số nói chung và người Mường nói riêng, như:
thích uống rượu, đi làm không đúng giờ v.v…, có kế hoạch tiếp tục bồi dưỡng năng lực
cho cán bộ lãnh đạo quản lý; đào tạo và đào tạo lại về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ chuyên trách, khắc phục tình trạng hụt hẫng về trình độ và nhận thức của cán bộ
đương nhiệm hiện nay. Bố trí xen kẽ các cán bộ là người Kinh và người Mường cùng
công tác trong một lĩnh vực, động viên họ giúp đỡ, bổ sung cho nhau những mặt mạnh về
kiến thức khoa học kỹ thuật, về phong tục tập quán cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Hiện
nay, một số cơ sở trong vùng Mường, cán bộ quản lý thiếu và yếu, Tỉnh và Huyện đã có
giải pháp đưa cán bộ cấp trên về tăng cường cũng đem lại hiệu quả tốt, nhưng đây chỉ là
giải pháp tạm thời. Về lâu dài cần có chính sách đào tạo con em người dân tộc Mường
trên địa bàn, học xong bố trí công tác ngay tại địa phương với phương châm: địa chỉ
tuyển sinh ở đâu thì địa phương đó tuyển dụng. Chính sách cử tuyển học sinh dân tộc đã
tốt nghiệp trung học phổ thông, Dân tộc nội trú, Dự bị đại học vào các trường chuyên
nghiệp của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là một giải pháp tốt, bổ sung được một lượng
lớn cán bộ cho vùng dân tộc và vùng cao, nhưng chất lượng phục vụ của lớp cán bộ ấy lại
phụ thuộc vào khâu chọn đối tượng cử đi học của địa phương. Do vậy, việc lựa chọn để
cử đi học phải hết sức chặt chẽ, những người được cử đi học phải có đủ phẩm chất đạo
đức, năng lực phù hợp với chuyên ngành đào tạo; có kế hoạch kiểm tra, quản lý sinh
viên, học viên trong suốt thời gian đào tạo, trên cơ sở đó để bố trí việc làm và đề bạt sau
này.
Thứ ba, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở cũng phải đổi
mới, đảm bảo tính khoa học, hệ thống; đào tạo theo từng lĩnh vực chuyên môn, gắn với
nhiệm vụ và chức danh cán bộ. Đồng thời tỉnh Phú Thọ cũng phải có kế hoạch ưu tiên
đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ làm công tác nghiên cứu văn hoá, cán bộ hoạt động
chuyên trách văn hoá các cấp từ tỉnh đến cơ sở, có chế độ đãi ngộ thích hợp. Bổ sung cán
bộ là người dân tộc Mường cho phòng quản lý văn hoá dân gian thuộc sở văn hoá và cơ
quan bảo tàng tỉnh, tạo sự đồng bộ, hợp lý, khoa học cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc Mường trong tỉnh thời gian tới.
KẾT LUẬN
Mỗi nền văn hoá đều là sản phẩm của quá trình lao động sáng tạo của một cộng
đồng dân tộc trong lịch sử, thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và
xã hội xung quanh. Chính trong các quan hệ đó con người đã sáng tạo ra các giá trị văn
hoá, các tiêu chí chân, thiện, mỹ và các chuẩn mực nhân văn. Những biến động của lịch
sử, những tác động của hoàn cảnh đã làm cho mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau giữa
kinh tế với văn hoá và các mặt khác của đời sống xã hội trở nên rõ nét hơn; vai trò tác
động của NTCQ trong sự tồn vong của mỗi nền văn hoá cũng được khẳng định. Trong sự
nghiệp đổi mới, việc khẳng định hệ giá trị văn hoá của mỗi dân tộc sẽ góp phần phát huy
nội lực, thúc đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi quốc gia.
Hai mươi năm đã qua, đồng bào và nhân dân các dân tộc tỉnh Phú Thọ đã cùng với
nhân dân cả nước không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên; đổi mới để vừa nâng cao đời
sống vật chất, vừa phát triển nhu cầu hưởng thụ văn hoá tinh thần. Trong xu thế xích lại
gần nhau của cộng đồng các dân tộc Việt Nam hiện nay, việc tập trung nghiên cứu, tìm
hiểu tính đặc thù và biện pháp giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của tộc người
Mường trên địa bàn một tỉnh không phải là thủ phủ của người Mường như tỉnh Phú Thọ,
không có nghĩa là để tô đậm, nhấn mạnh tính độc đáo của một tộc người, coi nhẹ tính
thống nhất và đa dạng của quy luật hoà hợp dân tộc trong lịch sử; càng không phải là
khuynh hướng ly tâm, tự ty dân tộc, mà với tư cách là một trí thức, đang sống và sinh
hoạt trong cộng đồng của người Mường, chứng kiến sự mờ dần rồi biến mất của những di
sản văn hoá độc đáo đã được các thế hệ người Mường trong tỉnh xây dựng nên bằng cả
ngàn năm lao động, sáng tạo. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự mai một, biến thái
và đồng hoá văn hoá của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mường ở Phú Thọ nói
riêng có nguyên nhân ở sự tác động khách quan nhưng tiêu cực của kinh tế thị trường; có
nguyên nhân nằm trong sự nhận thức thấp kém, sự thờ ơ, coi thường của một bộ phận thế
hệ hậu sinh đối với những di sản văn hoá mà các thế hệ cha ông họ đã dày công tạo nên.
Việc khôi phục, giữ gìn, phát huy những di sản văn hoá độc đáo của người Mường
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và cả nước
đang nỗ lực vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như hiện nay, đòi hỏi
phải tiến hành nhiều biện pháp tích cực. Trong đó nhấn mạnh yếu tố tác động bằng thể
chế, chính sách của các chủ thể chính trị, các cơ quan chức năng liên quan đến đời sống
văn hoá của nhân dân và của dân tộc, nhấn mạnh vai trò chủ động sáng tạo của các tầng
lớp quần chúng nhân dân, các thế hệ người Mường đã và đang tiếp nối sự nghiệp sáng
tạo, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình.
Những giải pháp đã nêu ra trong luận văn về vấn đề phát triển kinh tế, nâng cao dân
trí, tăng cường các hình thức tuyên truyền vận động, khôi phục, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hoá độc đáo, các giải pháp về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
đảng viên trong chính quyền cơ sở và cộng đồng người Mường ở Phú Thọ như đã nêu là
những giải pháp có ý nghĩa phương pháp luận, nhằm mục đích đẩy nhanh tốc độ, nâng
cao chất lượng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy những giá trị văn
hoá độc đáo của ngưòi Mường tỉnh Phú Thọ trong điều kiện hiện nay.
Sự thành công trong hiện thực nằm ở sự đồng bộ và linh động của chủ thể tác động
và các giải pháp, nhưng nhất thiết đời sống kinh tế của người Mường và các dân tộc thiểu
số khác trong tỉnh Phú Thọ phải được nâng lên. Sự ổn định và phát triển về kinh tế, về
thể chế chính trị sẽ là một trong những tiêu chuẩn quan trọng giúp người dân Mường nói
riêng và các dân tộc thiểu số ở tỉnh Phú Thọ nói chung ổn định tư tưởng, nâng cao hiểu
biết, góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn sôi động trong các
lĩnh vực kinh tế - văn hoá – xã hội; giữ gìn và phát huy tốt nhất những giá trị độc đáo của
văn hoá truyền thống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- NÂNG CAO VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN TRONG VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC MƯỜNG TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY.pdf