Đội ngũ công chức phường là người đại diện cho Nhà nước, nhân danh
Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo thực
thi pháp luật và là người trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn
phường, là nhân tố quyết định hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính ở địa
phương. Xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp, trách nhiệm và
trong sạch là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam. Để
mục tiêu này được thực hiện, trước tiên phải có một đội ngũ cán bộ, công
chức chính qui, chuyên nghiệp, năng động và có năng lực công tác trong thực
thi công vụ phục vụ nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, với yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập
quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới như nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân,
chịu sự giám sát của Nhân dân, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, tuân
thủ luật pháp, cam kết quốc tế, các cơ chế, hiệp định, thông lệ quốc tế.Cho
nên đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ CCCX nói riêng phải có
đủ phẩm chất, trình độ và đặc biệt phải có đủ năng lực để tham mưu, đề xuất
đúng, có thể nghiên cứu dự báo các xu hướng phát triển của mọi mặt đời sống
xã hội, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, đồng thời phải tổ chức triển
khai, thực hiện tốt và có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, tác giả mong muốn từ kết quả thực hiện đề
tài này, đề xuất những giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi nhằm
nâng cao năng lực công chức phường thành phố Quảng Ngãi góp phần tích
cực vào quá trình hoàn thiện bộ máy hành chính, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn thành phố trong thời gian đến.
Qua nghiên cứu và khảo sát hiện nay đội ngũ công chức phường ở thành
phố Quảng Ngãi nhìn chung đại đa số vẫn còn yếu về năng lực, kinh nghiệm
thực tiễn và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về thái độ, tinh98
thần phục vụ, kết quả làm việc của đội ngũ công chức còn thấp. Do đó, đội
ngũ công chức phường ở thành phố Quảng Ngãi phải có những thay đổi tích
cực theo hướng hiện đại, đủ trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và phẩm chất để
thực hiện nhiệm vụ. Để có thể đáp ứng những yêu cầu này, không thể quan
niệm về năng lực đội ngũ công chức phường một cách chung chung mà phải
có những tiêu chí để xác định một cách cụ thể, gồm: Trình độ kiến thức cơ
bản, kỹ năng nghề nghiệp và thái độ của công chức trong việc thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định.
111 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 647 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực thực thi công vụ của công chức phường ở thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến
nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng những người công
chức phường có thành tích và đề nghị kỷ luật, miễn nhiệm đối với những
người công chức phường vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, tác phong.
Ngoài ra, trong quan hệ giữa nhà nước và người công chức phường cũng phải
được xác lập theo tinh thần dân chủ.
Nguyên tắc công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền: Điều 3 của Luật
Cán bộ, công chức đã quy định các nguyên tắc trong thi hành công vụ: "Công
khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát", "Bảo đảm thứ
bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ". Các nguyên tắc này đều xuất phát từ
yêu cầu hoạt động công vụ, bảo đảm thẩm quyền phải gắn với chức trách
được giao. Điều đó tạo tiền đề và cơ sở nâng cao trách nhiệm của CBCC
trong thực thi công vụ.
Theo nguyên tắc này, tất cả các nội dung nâng cao năng lực công chức
phường và những quy định của pháp luật có liên quan đến nghĩa vụ, quyền và
các hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của công chức phường cần phải
được công khai, chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân. Đồng thời, trong
77
thực thi nhiệm vụ, công vụ phải tuân thủ tính thứ bậc, kỷ cương và trật tự
hành chính, đúng thẩm quyền; nghiêm túc thực hiện công việc, nhiệm vụ
được giao, không để quá hạn, bỏ sót nhiệm vụ được phân công; không đùn
đẩy trách nhiệm, không né tránh khi thực hiện nhiệm vụ.
Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật: Đội ngũ công chức phường
là những người thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước ở phường
nhằm quản lý điều hành mọi mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ, thì rõ ràng tất cả mọi điều trong hoạt
động công vụ của công chức đều phải được pháp luật điều chỉnh và phải được
tuân theo môt cách vô điều kiện, trong đó Hiến pháp là tối thượng. Mọi công
chức khi thực hiện công vụ nhà nước phải tôn trọng Hiến pháp, pháp luật, đặc
biệt là tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến
pháp và pháp luật. Vì vậy, các nội dung về công chức phường và hoạt động
công vụ của họ phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy định pháp lý có
hiệu lực cao, không được bước ra khỏi giới hạn thẩm quyền mà pháp luật đã
quy định; nếu không sẽ dẫn tới tùy tiện, lạm quyền trong thi hành nhiệm vụ,
công vụ. Mặt khác, mọi vi phạm pháp luật phát sinh trong quá trình thực thi
công vụ của công chức phường đều phải được phát hiện kịp thời và xử lý
nghiêm minh, mà trước hết là những vi phạm pháp luật của chính công chức
trong thực thi công vụ [8]. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm thiết lập trật tự kỷ
cương trong đội ngũ công chức phường, góp phần xây dựng chính quyền nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
Nguyên tắc thi tuyển, sát hạch: Trong nền công vụ hiện đại, việc tuyển
chọn, bổ nhiệm vào ngạch công chức đều phải thực hiện theo nguyên tắc này.
Nguyên tắc cạnh tranh trong các kỳ thi tuyển công chức phường là chủ trương
lớn của Nhà nước về cải cách chế độ công vụ, công chức nhằm nâng chất đội
ngũ công chức ngay từ khâu tuyển dụng, bởi mọi người đều phải cạnh tranh
với nhau một cách bình đẳng, công bằng, đánh giá dựa trên năng lực cá nhân
78
sẽ là điều kiện sàng lọc và lựa chọn ra những người nổi trội nhất. Bên cạnh đó
để phát huy tính tích cực của công chức, nâng cao hiệu suất công tác của cơ
quan cũng như đánh giá chính xác và toàn diện về tố chất chính trị, kiến thức
chuyên môn, năng lực công tác và thành tích thực tế trong công tác của công
chức, các cơ quan nhà nước cần tiến hành sát hạch định kỳ hoặc không theo
định kỳ về kết quả làm việc và tố chất chính trị, kiến thức chuyên môn, năng
lực công tác của công chức trực thuộc, để thực thi việc thưởng phạt, cất
nhắc và điều chỉnh một cách hợp lý, công bằng đối với các công chức, kịp
thời điều chỉnh những công chức có thành thích bình thường, loại ra khỏi bộ
máy công chức kém cỏi. Vì vậy, cần xây dựng một quy trình chặt chẽ để bảo
đảm tính khách quan và công bằng, tạo điều kiện cho mọi công dân đều có cơ
hội gia nhập công vụ, trở thành người công chức phường thông qua thi tuyển
theo quy định của pháp luật, mọi công chức phường thực sự có tài năng đều
có cơ hội để thăng tiến và thể hiện tài năng của mình.
Để thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc trên đòi hỏi chính quyền địa
phương phải có quyết tâm chính trị cao để cùng hướng tới mục tiêu chung của
công cuộc cải cách hành chính. Thực hiện thành công các nhiệm vụ nêu trên
sẽ góp phần tạo chuyển biến tích cực trong thực thi công vụ của đội ngũ công
chức phường trong thời gian tới. Từ đó, xây dựng một nền công vụ chuyên
nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả vì Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
phòng chống tham nhũng và bảo đảm sự thành công của công cuộc cải cách
mà Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm thực hiện [42].
3.3. Giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức phường
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức phường là
một quá trình lâu dài, với những nỗ lực tổng thể, liên quan đến nhiều yếu tố,
nhiều khâu, từ công tác tuyển dụng, sắp xếp, bố trí, quy hoạch, đào tạo, bồi
79
dưỡng đến chế độ, chính sách, công tác quản lý, đánh giá, thi đua - khen
thưởngvì vậy tác giả xin đề cập đến một số giải pháp quan trọng sau:
3.3.1. Nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức
Công tác tuyển dụng có ý nghĩa, vai trò quan trọng nhằm hình thành
đội ngũ công chức phường có đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng là công
bộc của nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là khâu đầu tiên có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng công chức sau
này. Để có được đội ngũ công chức phường có chất lượng cao thì trước hết
việc tuyển chọn công chức phải được thực hiện một cách chặt chẽ trên cơ
sở Luật CBCC và các văn bản quy định của Chính phủ [11] nhằm đảm bảo
tuyển dụng được người có đủ năng lực, phẩm chất bổ sung cho đội ngũ
công chức phường, do vậy hàng năm thành phố Quảng Ngãi phải xây dựng
kế hoạch tuyển dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn của thành phố như:
tuyển dụng những người tốt nghiệp đại học chính quy ở các trường công
lập; ưu tiên tuyển dụng đối với sinh viên có chuyên ngành phù hợp với
công việc mà thành phố đang cần như luật, hành chính, kiến trúc, quản lý
đô thị, môi trường, giao thông Các tiêu chuẩn tuyển chọn phải xuất phát
từ mục đích thực hiện công việc, phải được đưa ra trên cơ sở những tiêu
chuẩn trong bản tiêu chuẩn chức danh công chức. Thực hiện nguyên tắc
công khai, minh bạch trong công tác tuyển dụng theo hướng công khai,
minh bạch nội dung thi tuyển và ra đề thi theo hướng mở, tự luận để đánh
giá đúng thực tài của ứng viên và đảm bảo chất lượng đầu vào của đội ngũ
công chức. Bên cạnh đó trong công tác tuyển dụng công chức phường cần
thiết phải ứng dụng công nghệ tin học vào thi tuyển công chức nhằm đảm
bảo được nguyên tắc cạnh tranh khách quan, công bằng, minh bạch, không
chịu bất cứ áp lực nào can thiệp vào kết quả tuyển dụng và hạn chế được
tiêu cực trong thi cử. Có như thế mới lựa chọn và tuyển được những người
80
có năng lực. Với xu thế hiện nay, thành phố Quảng ngãi cần bổ sung khâu
phỏng vấn trong thi tuyển để lựa chọn được người phù hợp nhất , bởi vì
hoạt động công vụ của công chức bao gồm cả các kỹ năng giao tiếp, ứng
xử giữa công chức với công chức, giữa công chức với nhân dân, tổ chức.
Do vậy, thông qua phỏng vấn mới có thể nhận biết, lựa chọn được ứng viên
có phẩm chất, năng lực, kỹ năng thực sự trong quan hệ giao tiếp, ứng xử
phù hợp nhất cho vị trí việc làm cụ thể cần tuyển dụng. Ngoài ra, công tác
tuyển dụng cần phải mang tính “động” và “mở” nghĩa là có tuyển dụng vào
nếu đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm và vị trí việc làm còn trống,
có cơ chế chuyển ra (cho thôi việc, chuyển vị trí công tác khác) nếu
không còn đáp ứng được yêu cầu công việc.
Một trong những mục tiêu của CCHC trong giai đoạn tới là tăng mức
độ hài lòng của người dân khi giải quyết các thủ tục hành chính. Việc làm
hài lòng người dân sẽ ngày càng khó hơn bởi đời sống kinh tế - xã hội ngày
càng phát triển, dân trí ngày càng cao và theo đó, yêu cầu của người dân về
chất lượng dịch vụ công sẽ ngày một cao hơn. Để có thể tăng mức độ hài
lòng của người dân, việc đầu tiên là phải làm tốt khâu tuyển dụng. Tuyển
dụng tốt mới có thể có được những công chức làm việc hiệu quả, có khả
năng liên tục tự học tập, thay đổi để thích ứng với công việc mới, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
3.3.2. Đổi mới quy hoạch, sử dụng và luân chuyển công chức
Quy hoạch nhằm phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có đức, có tài, có
triển vọng về khả năng lãnh đạo quản lý đưa vào quy hoạch các chức danh
lãnh đạo, quản lý. Công chức chuyên môn có tài năng nhưng không muốn
hoặc không có sở trường lãnh đạo, quản lý thì cần quy hoạch, bồi dưỡng để
nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức.Việc xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức phường là
nhiệm vụ và trách nhiệm của các cấp ủy đảng theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo
81
toàn diện, trực tiếp và tuyệt đối về công tác cán bộ, trong đó có công tác quy
hoạch cán bộ. Có làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối
với công chức phường thì mới khắc phục tình trạng bị động, hụt hẫng về công
tác cán bộ của chính quyền phường. Tuy nhiên, thời gian qua có phường chưa
coi đây là việc làm thường xuyên, trực tiếp và là trách nhiệm của mình. Khi
lựa chọn công chức kế cận chưa đi sâu nghiên cứu phát hiện những năng
khiếu, sở trường của công chức để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cho phù hợp.
Hàng năm, chưa xem xét đánh giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời nên tác dụng
quy hoạch còn hạn chế. Chưa dựa vào chức danh quy hoạch để xác định con
người. Trong quá trình làm quy hoạch còn giản đơn, hình thức. Quy hoạch
chưa gắn với thực trạng đội ngũ công chức và nhu cầu thực tế nên hiệu quả
quy hoạch không cao. Tỷ lệ công chức được đề bạt từ nguồn quy hoạch thấp.
Công chức sau khi được đưa vào diện quy hoạch chưa được cấp ủy và cơ
quan thực sự quan tâm giúp đỡ, đào tạo vào bảo vệ khi có những thông tin sai
lệch do tính chất phức tạp của cuộc sống. Việc tiến hành quy hoạch chưa có
cơ sở khoa học vì chưa xây dựng được cơ cấu chức danh tiêu chuẩn.
Để thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, sử dụng và luân chuyển
công chức phường ở thành phố Quảng Ngãi cần triển khai các giải pháp sau:
Một là, công tác quy hoạch cần chú ý đưa vào những công chức có triển
vọng nhưng phải trẻ tuổi để có quỹ thời gian cho việc đào tạo bồi dưỡng về lý
luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và kinh qua thực tiễn để đến khi bố trí
vào chức danh quy hoạch bảo đảm các tiêu chí theo quy định.
Hai là, hàng năm cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải đưa công
tác quy hoạch thành nhiệm vụ thường xuyên, có tổng kết, đánh giá kết quả,
tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp thích hợp. Việc lựa chọn công chức đưa
vào quy hoạch phải thận trọng, kỹ lưỡng, dân chủ, công khai, minh bạch trên
cơ sở giới thiệu của cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị. Không đưa vào
quy hoạch những công chức trong quá trình công tác mà uy tín cá nhân thấp,
82
trong quy hoạch cán bộ cấp thành phố phải đứng trên đại cục, tổng thể của
thành phố, phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đến
năm 2020 và sau năm 2020. Cấp dưới phải có độ tuổi trẻ hơn cấp trên, nguồn
quy hoạch mới phải có độ tuổi trẻ hơn cán bộ đương chức, bảo đảm cơ cấu
hợp lý.
Ba là, luân chuyển công chức nhằm tạo điều kiện rèn luyện bồi dưỡng,
thử thách công chức ở những địa bàn, lĩnh vực công tác mà công chức cần
tích lũy kinh nghiệm thực tiễn và rèn luyện bản lĩnh công tác, nhất là những
công chức trẻ, công chức là nữ có triển vọng, đáp ứng yêu cầu công tác cán
bộ trước mắt và lâu dài. Do vậy thành phố cần nghiên cứu thực hiện thí điểm
luân chuyển các bộ giữa các xã, phường hoặc luân chuyển cán bộ lãnh đạo
các phòng, ban của thành phố có kiến thức, năng lực và kinh nghiệm về giữ
các chức danh chủ chôt sở xã, phường để củng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Bốn là, việc bố trí, sử dụng công chức phải căn cứ trên cơ sở quy hoạch
và khả năng hoàn thành nhiệm cụ của công chức đó, cần thực hiện tốt chế độ
cho thôi việc đối với công chức hai năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ
để thay thế công chức kém phẩm chất, năng lực.
3.3.3. Tăng cường quản lý công chức
Trọng tâm của việc đổi mới chế độ quản lý công chức trong Luật
CBCC hiện nay là nhằm xây dựng đội ngũ CBCC các cấp từ trung ương
đến cơ sở có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh, đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấunăm 2008 đã từng bước chuyển việc quản lý công chức theo vị trí
việc làm. Luật CBCC năm 2008 (khoản 2 Điều 5) chính là tạo căn cứ cho
việc tuyển chọn, sử dụng người theo năng lực. Tại Chương VII, nghị định
112/2011/NĐ-CP có nêu về nội dung và thẩm quyền quản lý công chức cấp
xã trong các điều 45,46. Trong đó đã nêu quyền hạn và nhiệm vụ quản lý
cơ bản đối với công chức ở các cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương
83
và cấp cơ quan sử dụng công chức [12]. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện
nay, đất nước đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, việc phân cấp quản lý sẽ ngày càng phải tăng
cường thẩm quyền cho cơ sở. Công chức cấp cơ sở ngày càng được giao
nhiệm vụ nhiều hơn trong hoạt động quản lý hành chính ở địa phương. Dựa
vào tình hình thực tế của từng phường, nhận thấy nếu chỉ dừng phân cấp từ
thành phố xuống đến cơ sở sử dụng trực tiếp công chức thì với số lượng
công chức phường quá lớn trên một địa bàn rộng thì khả năng quản lý
không được đảm bảo. Do đó cần phân cấp quản lý cho cấp xã trong sử
dụng công chức nhằm tạo điều kiên cho việc thực thi công vụ của công
chức được kiểm soát chặt chẽ.
Bên cạnh đó cần nghiên cứu chuyển chế độ chức nghiệp hiện nay sang
kết hợp với chế độ việc làm, nhấn mạnh đến năng lực thực thi công vụ,
đồng thời ban hành chế định sát hạch công chức, chuyển từ chế độ biên chế
sang chế độ hợp đồng trong quản lý công chức nhằm khắc phục cách quản
lý cứng nhắc làm triệt tiêu tính năng động của bộ máy cũng như thiếu các
động lực kích thích công chức phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ khi chỉ
có vào mà không có ra và “chế độ biên chế” suốt đời đối với công chức. Sát
hạch là một khâu quan trọng, có tính nền tảng trong toàn bộ công tác quản lý
công chức, xét về một ý nghĩa nhất định, nó có thể được coi là cốt lõi của toàn
bộ công tác quản lý công chức. Đó là công việc mà các cơ quan nhà nước tiến
hành kiểm tra, khảo sát, thẩm định theo định kỳ hoặc không theo định kỳ về
kết quả làm việc và tố chất chính trị, kiến thức chuyên môn, năng lực công
tác của công chức để thực thi việc thưởng phạt, cất nhắc và điều chỉnh một
cách hợp lý, công bằng đối với các công chức [23], đồng thời đảm bảo việc
thực hiện đổi mới công tác quản lý công chức theo quy định của Luật CBCC
là phải căn cứ vào tiêu chuẩn, đặc biệt chú trọng đến năng lực, tài năng.
3.3.4. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức
84
Đào tạo, bồi dưỡng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng
lực thực thi công vụ của CBCC nói chung và công chức phường nói riêng.
Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp công chức có khả năng phân tích, xử lý
các tình huống, hình thành phương pháp nhận thức khoa học và giải quyết các
vấn đề nhanh, nhạy và làm tốt công việc được giao [10].
Như vậy, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hướng
chuẩn hóa, gắn với quy hoạch, kế hoạch và việc sử dụng công chức là một
biện pháp quan trọng góp phần nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức phường. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết định đến khả
năng phân tích, luận giải những vấn đề thực tiễn từ những chủ trương, đường
lối, nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào thực tiễn của
đơn vị, của lĩnh vực mà cá nhân đang được phân công phụ trách. Tuy nhiên,
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức phường của thành phố Quảng Ngãi nói
chung chưa được quan tâm đúng mức, có phần xem nhẹ trình độ của công
chức phường mà chưa thấy hết được tính phức tạp, sự đa dạng trong hoạt
động của họ.
Khác với công chức xã, thị trấn, công chức phường đòi hỏi có tính
chuyên môn hóa khá cao, bởi do đặc thù của chính quyền đô thị, chủ yếu quản
lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường,
trật tự đô thị.Hơn nữa, mật độ dân số ở phường thường rất cao nên mỗi lĩnh
vực có số lượng khá lớn đối tượng quản lý nên công chức phường phải có
kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực mình phụ trách nhưng cũng cần có sự hiểu
biết nhất định về kiến thức ở những lĩnh vực khác để có thể phối hợp tốt hơn
trong quá trình thực thi công vụ. Do đó, cần đào tạo, bồi dưỡng công chức
phường có kiến thức chuyên ngành về lĩnh vực mình phụ trách và các kiến
thức có liên quan. Đặc biệt là các kiến thức về pháp luật, về quản lí nhà nước,
khả năng vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và áp dụng pháp luật vào
cuộc sống. Đây cũng là lĩnh vực chưa được chú trọng thời gian qua, thể hiện
85
rất rõ ở trình độ lý luận chính trị, trình độ bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước, trình độ tin họccủa công chức phường ở thành phố Quảng Ngãi còn
khá thấp như trong phần thực trạng đã phân tích.
Để khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng còn nặng tính lý luận, không
sát thực tế, trong khi trình độ công chức phường còn hạn chế, cần chú ý đổi
mới mạnh mẽ nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công chức
theo chức danh chuyên môn, ưu tiên đào tạo những công chức có khả năng
phát triển nhưng chưa đạt chuẩn về trình độ. Trong đó cần chú ý nội dung,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cơ sở theo hướng giảm nội
dung lý thuyết, tăng cường các nội dung mang tính thực tiễn, cập nhật đầy đủ
các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến
hoạt động ở cơ sở, chú ý tăng cường bồi dưỡng các kỹ năng hành chính cho
từng loại công chức [1], các chuyên đề tình huống, ứng xử, giao tiếp; phong
cách miệng nói tay làm, những kỹ năng thuyết trình trước đám đông, điều
hành, soạn thảo, xử lí văn bản Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng nâng cao
chất lượng đào tạo là chất lượng giáo viên, bởi đội ngũ giảng viên không chỉ
truyền tới học viên kinh nghiệm lãnh đạo, quản lí, cách xử lí tình huống mà
còn truyền cho họ lửa nhiệt tình, tâm huyết, tình cảm gắn bó với quê hương,
tinh thần sống và làm việc theo pháp luật, thái độ tôn trọng dân, phục vụ dân,
tinh thần học tập, tự rèn luyện, học để mở mang kiến thức, học để làm
việcnên đội ngũ giảng viên cần được mở rộng và tăng cường các giảng viên
trường đại học, học viện, cán bộ công tác trong ngành, địa phương có kinh
nghiệm thực tiễn để truyền đạt kiến thức, hướng dẫn kỹ năng theo từng vị trí
việc làm tham gia giảng dạy. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong đào tạo
bồi dưỡng cán bộ công chức hiện nay, khi mà theo đánh giá của đảng và nhà
nước thì một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức sa sút về phẩm chất chính
trị về đạo đức lối sống, tham ô, tham nhũng hiện nay.
86
Việt Nam đang đứng trước nhu cầu bức xúc của quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, hội nhập khu vực và toàn cầu hóa là xu thế tất
yếu. Để chủ động hòa nhập vào xu thế ấy một cách có hiệu quả nhất, nhanh
nhất, sớm thoát ra khỏi thực trạng chậm phát triển, tụt hậu, cần phải có một
đội ngũ công chức cấp xã có trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo để tác
động trực tiếp quá trình chuyển đổi này, nhằm khai thác triệt để các yếu tố
tiềm năng tàng ẩn ở cơ sở. Thực tiễn cho thấy, mọi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước có được thực hiện nghiêm chỉnh, đạt hiệu quả
cao hay không phụ thuộc không chỉ vào chất lượng cao hay thấp của đội ngũ
công chức cấp xã mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí. Vì thế, đổi
mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức phường không chỉ
góp phần xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp mà còn có tác động tích cực đến nhiều
mặt của đời sống kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở địa
phương.
3.3.5. Đổi mới đánh giá, phân loại công chức
Đánh giá công chức là một công việc quan trọng trong quá trình quản lý
công chức. Kết quả đánh giá công chức sẽ giúp cho cán bộ quản lý có phương
án bố trí, sử dụng công chức hợp lý, phát huy được năng lực cá nhân của mỗi
công chức. Đồng thời việc đánh giá công chức sẽ khuyến khích được đội ngũ
công chức nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của mình để có hướng phấn đấu,
hoàn thiện bản thân, đáp ứng yêu cầu công việc. Thực tiễn thời gian qua cho
thấy công tác đánh giá CBCC nói chung và ở thành phố Quảng Ngãi nói riêng
vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc, một bộ phận CBCC còn e dè, nể nang,
thiếu trung thực, thẳng thắn trong quá trình kiểm điểm, tự phê bình và phê
bình; tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tập trung chủ yếu ở đội ngũ lãnh
đạo, quản lý do vậy đổi mới công tác đánh giá công chức sẽ góp phần thực
87
hiện thành công cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo
ra một hệ thống giá trị để phục vụ tốt hơn nền hành chính công vụ.
Các quy định về đánh giá công chức thời gian qua đã có những cải tiến
quan trọng trong Luật Cán bộ, công chức năm 2008, chuyển từ cách thức tự
kiểm điểm và bình bầu sang đánh giá trên các nội dung: chấp hành đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làmviệc; năng lực lãnh đạo, điều
hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm trong công tác; chú
trọng đến kết quả thực hiện được giao; phương pháp đánh giá kết hợp giữa
hình thức tự đánh giá của công chức, các góp ý của tập thể đơn vị công tác, và
ý kiến của thủ trưởng đơn vị để xếp loại công chức hàng năm theo 4 mức
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoànthành nhiệm vụ
nhưng còn hạn chế về năng lực và không hoàn thành nhiệm vụ [13].
Tuy nhiên để tiếp tục hoàn thiện và đổi mới công tác đánh giá công chức
gắn với việc đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức cần sớm hoàn
thiện danh mục hệ thống vị trí việc làm và cơ cấu theo ngạch công chức, từ đó
xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá của từng vị trí việc làm. Bởi một số vị trí
việc làm nhất định có thể sử dụng kết hợp phương pháp đánh giá trong nội bộ
và đánh giá từ bên ngoài, đánh giá chéo ... Ví dụ: vị trí việc làm nào mà có
liên quan trực tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ công, có sự giao tiếp giữa
công chức với nhân dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thì cần có ý kiến
đánh giá từ các nhóm đối tượng khách hàng, người dân, người hưởng thụ dịch
vụ do công chức đó trực tiếp giao dịch.
Hai là, phải hướng tới đánh giá công chức dựa trên kết quả thực thi công
vụ của công chức; coi đó là thước đo chính để đánh giá phẩm chất, trình độ,
năng lực của công chức dựa vào kết quả công việc. Đây là nguyên tắc, là
phương pháp chung để đánh giá chất lượng hoạt động của mỗi công chức và
đội ngũ CBCC. Tuy nhiên, khi vào từng trường hợp cụ thể, cần dựa vào các
88
tiêu chí cơ bản của năng lực như trình bày trên, đó là trình độ đào tạo, kỹ năng
nghề nghiệp, về thái độ hành vi và kinh nghiệm thực tiễn của cá nhân. Các
yếu tố trong hệ thống năng lực cá nhân có phù hợp với công việc và mang lại
kết quả cao là biểu hiện cao nhất năng lực thực sự của cá nhân. Do vậy cần
phải có những quy định chặt chẽ và lượng hóa được thế nào là phẩm chất tốt,
năng lực tốt, chứ không nói chung chung, có như thế những công chức tốt
mới được trọng dụng.
Ba là, đánh giá công chức phải xác định vai trò của người đứng đầu, chú
trọng vai trò của người thủ trưởng trong phân công, sử dụng, đánh giá và chịu
trách nhiệm với kết quả thực hiện công việc của mỗi CBCC nhằm đảm bảo
việc đánh giá vừa khách quan, toàn diện, minh bạch mà vẫn giữ được vai trò
của người đứng đầu trong kết luận đánh giá. Vì vậy cần quy định cụ thể về
trách nhiệm và xem xét trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác này, gắn đánh giá đội ngũ cán bộ với
những quan điểm của Nghị quyết trung ương 4 khóa XII là việc làm cần thiết
nhằm thực hiện mục tiêu“khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và
quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm,
năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi
ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ
của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng”.
Bốn là, dựa trên trình độ hiện có của đội ngũ công chức. Đây là một
trong những căn cứ quan trọng để đánh giá năng lực của đội ngũ công chức.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, yêu cầu người
CBCC phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo tiêu chuẩn chức danh cán
bộ, công chức và cả kiến thức pháp luật, về quản lý hành chính Nhà nước,
quản lý kinh tế, lý luận chính trị, sử dụng tin học... mới có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Cho nên sử dụng căn cứ này để đánh giá năng lực công
89
chức thì cần quan tâm không chỉ kiến thức chuyên ngành mà cả những kiến
thức, hiểu biết chung hiện có của đội ngũ công chức. Đây chính là một trong
những biện pháp để quản lý và xây dựng đội ngũ công chức chính quy,
chuyên nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả của bộ máy chính quyền cơ sở.
3.3.6. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và kỷ luật công chức
Công tác thanh tra, kiểm tra công chức là một công tác cần thiết trong
quá trình hoạt động công vụ nhằm tăng cường chức năng pháp chế, răn đe
công chức, hướng người công chức thực sự trở thành người công bộc của
nhân dân, trung thành với Đảng, tận tụy với nhân dân, thanh tra, kiểm tra giúp
phát hiện kịp thời những sai phạm để có biện pháp uốn nắn, kỷ luật nghiêm
minh, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của công chức. Mục tiêu
của công tác này là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan trong
hệ thống chính trị, nâng cao ý thức, trách nhiệm thực thi công vụ của đội ngũ
công chức trong việc giải quyết công việc, phục vụ các tổ chức, công dân
được nhanh chóng, thuận lợi, đúng pháp luật, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật hành
chính và tính chất nghiêm minh của pháp luật. Qua đó, động viên khen
thưởng những nhân tố tích cực, xử lý kịp thời những sai phạm, củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền.
Nội dung của thanh tra, kiểm tra công vụ tập trung chủ yếu vào tinh thần
trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của CBCC trong việc tiếp nhận và giải
quyết hồ sơ công việc của tổ chức, cá nhân về tinh thần thái độ, thời gian làm
việc, về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức đối với nhân dân.
Đây được xem như một sự xác lập bình đẳng giữa công vụ với hoạt động kinh
tế - xã hội, công vụ cũng được thanh tra như các hoạt động khác (điều 74), bởi
nếu không có sự thanh tra, kiểm tra thì không có cơ sở để đánh giá hoạt động
của cơ quan, các quyết định hành chính sẽ không đảm bảo thực hiện. Thông
qua thanh tra, kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm,
90
gây nhũng nhiễu, gây phiền hà, tham nhũng của CBCC trong khi giải quyết
công việc.
Để tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý CBCC cần
đảm bảo phương châm: Mọi hoạt động của cán bộ công chức phải được quản
lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ; việc kiểm tra, giám sát công chức
phải bảo đảm nội dung, quy trình theo quy định, công khai, dân chủ với tiêu
chuẩn rõ ràng, minh bạch. Gắn kiểm tra, giám sát với công tác tự phê bình,
phê bình, tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia giám sát, đánh giá và
góp ý cho đội ngũ công chức cấp xã. Kiên quyết xử lý nghiêm những công
chức vi phạm, nhiều khuyết điểm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, lấy
đó làm gương răn đe, đồng thời cũng phải bảo đảm việc xử lý nhanh nhất,
hiệu quả nhất, nếu có vi phạm nghiêm trọng thì công chức đó có thể bị đình
chỉ công việc ngay, điều này sẽ tạo thêm hiệu lực cho việc chấp hành kỷ luật
hành chính.Vì vậy, có thể xem thự hiện thanh tra, kiểm tra đối với CBCC là
khâu có tính quyết định trong việc giữ gìn sự trong sạch của bộ máy tổ chức.
Khen thưởng, kỷ luật là nhằm tạo động lực để cán bộ, công chức phấn
đấu hoàn thành nhiệm vụ. Để động viên công chức phấn đấu hoàn thành tốt
nhiệm vụ cần phải có các hình thức khen thưởng kịp thời, xứng đáng với
thành tích họ đã đạt được. Vì vậy cần quy định cụ thể các hình thức khen
thưởng tương ứng với thành tích đạt được đối với những công chức có công
trạng và thành tích xuất sắc trong thực thi công vụ Bằng khen, Giấy khen,
kèm theo đó là những phần thưởng vật chất nhất định xứng đáng với công sức
họ đã lao động, cống hiến. Đồng thời, công chức được khen thưởng do có
thành tích và công trạng cần được xét nâng bậc lương trước thời hạn; được ưu
tiên khi xem xét cửa giữ các vị trí khác cao hơn nếu cơ quan, tổ chức, đơn vị
có nhu cầu.
Việc khen thưởng kịp thời, xứng đáng không những có tác dụng biểu
dương người đã có thành tích, khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu mà còn trở
91
thành động lực thúc đẩy những người khác noi gương, phấn đấu theo. Do vậy
cần đưa công tác thi đua khen thưởng vào nền nếp, thực chất, thực sự là một
nguồn lực tinh thần mạnh mẽ trong chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức..
chú trọng các hình thức khen thưởng, khen thưởng kịp thời thoả đáng những
công chức có thành tích, cống hiến xuất sắc để động viên, khích lệ sự cống
hiến của họ nhằm thúc đẩy công chức nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên
bên cạnh đó khắc phục “bệnh thành tích”, hình thức, lãng phí. Bên cạnh các
hình thức khen thưởng, cũng cần phải quy định rõ những chế tài nghiêm khắc
đối với công chức vi phạm pháp luật có như vậy, biện pháp kỷ luật mới đạt
được mục đích là khuyến khích công chức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa việc
xảy ra vi phạm kỷ luật, một việc mà cả người công chức, Nhà nước và nhân
dân đều không mong muốn, vì nếu xảy ra thì vừa phải xử lý cán bộ, công
chức, vừa làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà nước. Khi xử lý kỷ luật
công chức cần phải chính xác, rõ ràng, minh bạch, kết quả của một quyết định
kỷ luật phải thoã mãn người vi phạm và phù hợp với quy định của pháp luật.
3.3.7. Đổi mới chế độ, chính sách đối với công chức
Luật CBCC năm 2008 đã quy định các điều kiện bảo đảm thi hành công
vụ như công sở, trang thiết bị làm việc và phương tiện đi lại, nhà ở công
vụ...nhằm khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm các điều kiện thuận lợi cho CBCC thực thi công vụ có hiệu quả, vừa góp
phần khắc phục lối sống thực dụng, vừa động viên sự nhiệt tình hăng hái,
củng cố sự đoàn kết thống nhất trong đội ngũ công chức, đồng thời cũng là
thực hiện công bằng xã hội.
Việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách công chức trong thời kỳ
mới phải quán triệt, thể hiện được những quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta; đảm bảo quyền lợi gắn liền với trách nhiệm, quyền
lợi càng lớn, trách nhiệm càng cao. Tiền lương và phụ cấp công vụ phải thực
sự đúng với nguyên tắc hưởng theo năng lực, đặc biệt đối với công chức có
92
tài năng và cống hiến nhiều. Tăng thu nhập cho công chức có năng lực
chuyên môn để họ có đủ nhu cầu sinh hoạt và tái sản xuất sức lao động là
trách nhiệm của các ngành, các địa phương cần vận dụng các chính sách
khoán sản phẩm, khoán chi hành chính thưởng Cần chú ý phân biệt điều
kiện và tiêu chuẩn để xác định tiêu chuẩn chức danh, trong đó bằng cấp, học
vị là điều kiện; trình độ, năng lực, hiểu biết kỹ năng nghiệp vụ và kinh
nghiệm thực tiễn là tiêu chuẩn. Đặc biệt, tiêu chuẩn cho từng chức danh phải
dựa trên cơ sở mô tả đặc điểm, yêu cầu của từng công việc và chức năng,
nhiệm vụ cụ thể... nhằm làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, thực sự có
tính khoa học, đảm bảo cho đội ngũ công chức thống nhất theo nguyên tắc,
chuẩn mực chung để họ yên tâm công tác. Bởi lẽ nếu chính sách không phù
hợp, không đồng bộ dễ dẫn đến nhiều tiêu cực, thiếu động lực để công chức
phường ở cơ sở hăng hái làm việc, tạo tâm lý không ổn định, làm việc cầm
chừng, muốn chuyển đi nơi khác có chế độ tốt hơn. Đó là chưa nói đến những
trường hợp chế độ không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, dễ làm cho công
chức sa ngã, xâm phạm đến tài sản của Nhà nước và công dân, làm mất uy tín
của Đảng và chính quyền.
Hiện nay, các chính sách đãi ngộ theo quy định của Chính phủ đối với
CBCC xã, phường đã có những điểm nổi bật, nhưng bên cạnh nó còn có
những tồn tại như: Một số chính sách, chế độ của Nhà nước đối với CBCC
phường, xã chưa động viên, khuyến khích để lực lượng trẻ tham gia công tác
ở phường, xã nhiều hơn, từ đó, nguồn cán bộ tại chỗ gặp khó khăn. Các chính
sách đãi ngộ của Tỉnh, thành phố Quảng ngãi chỉ tập trung ở một bộ phận
công chức theo diện thu hút của thành phố, như công chức về công tác xã,
phường theo Đề án 8738, những sinh viên khá, giỏi được Sở nội vụ phân công
công tác tại xã, phường, đã làm cho một bộ phận cán bộ, công chức chưa yên
tâm công tác. Việc đưa ra chính sách như: gói vay ưu đãi xây nhà cho CBCC
có thu nhập thấpđã được triển khai nhưng việc giải quyết nhu cầu cho các
93
đối tượng này thường rất ít, hoặc nếu có giải quyết thường thủ tục rất rườm rà
và chờ đợi rất lâu mới được nên rất khó khăn cho đời sống của đội ngũ
CBCC.
Để có thể thu hút được những người tài năng, người trẻ tuổi về công tác
tại phường, trước mắt các cấp uỷ, chính quyền thành phố Quảng Ngãi nói
riêng, tỉnh Quảng Ngãi nói chung cần nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tác dụng
của việc sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ từ đại học trở lên đối với việc
đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức phường. Quan tâm, tạo điều
kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ trẻ phụ thuộc rất nhiều vào cách nhìn nhận,
đánh giá của lãnh đạo địa phương; thực tế cho thấy ở đâu quan tâm giao việc
cho đội ngũ cán bộ trẻ, nơi đó hiệu quả công việc được nâng lên. Một thực tế
hiện nay, tâm lí sinh viên trẻ có trình độ đại học (hệ chính quy) không muốn
làm việc ở phường, do đó để thu hút được lực lượng này cần có chính sách
thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi, hấp dẫn đơn cử như chính sách thu hút sinh
viên mới tốt nghiệp. Đặc biệt ưu tiên đối với sinh viên tốt nghiệp đại học hệ
chính quy, loại khá trở lên hoặc có trình độ sau đại học. Do vậy, Nhà nước
cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số
chính sách, chế độ đối với công chức phường theo hướng:
Thứ nhất, cần có chế độ khuyến khích để thu hút số sinh viên tốt nghiệp
đại học về công tác tại cơ sở, đồng thời có chính sách hỗ trợ việc đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ công chức cấp xã như: biên chế dự phòng cao hơn, được hỗ trợ
kinh phí khi đi học nâng cao trình độ, v.v từ đó chuẩn bị từng bước về quy
hoạch, bố trí công chức cấp xã theo yêu cầu phát triển của địa phương và yêu
cầu Nghị quyết về công tác cán bộ của Trung ương và của tỉnh đã đề ra.
Thứ hai, cần đánh giá đúng khối lượng và tính chất phức tạp của quản lý
nhà nước ở cơ sở để bố trí đủ nhân lực phù hợp với thực tế, mạnh dạn giao
quyền và trách nhiệm, đầu tư đầy đủ cho cơ sở vật chất, phương tiện, chế độ
chính sách đãi ngộ và đào tạo bồi dưỡng. Cần xóa bỏ tư duy rằng ở cấp xã,
94
phường yêu cầu thấp hơn về trình độ, năng lực so với cấp huyện, cấp tỉnh mà
đặt chỉ tiêu về chuẩn thấp hơn.
Thứ ba, tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương,
bởi chế độ tiền lương và phụ cấp không được chi trả hợp lý sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến tâm lý, thái độ và tinh thần trách nhiệm của họ đối với công
việc được giao. Đồng thời, đây còn là mầm mống của các biểu hiện tiêu cực,
cửa quyền, tham nhũng, hạch sách tổ chức, công dân, doanh nghiệp khi đến
liên hệ công tác. Do vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải có cơ chế, chính sách
tiền lương, chế độ kiêm nhiệm gắn với chế độ phụ cấp thỏa đáng cho đội ngũ
công chức phường để đảm bảo nhu cầu của họ có thể sống bằng lương. Đổi
mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với CBCC trong thực thi công
vụ, có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích với những công chức
hoàn thành xuất sắc công vụ và có cơ chế loại bỏ những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
Thứ tư, cần khắc phục sự phân biệt hệ số lương, phụ cấp dựa trên tiêu
chí là công chức cấp xã, phường hay cấp huyện, thành phố. Theo Luật Cán
bộ, công chức hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là một bộ phận tách
biệt so với cán bộ, công chức hành chính, được tuyển dụng, quản lý riêng. Do
vậy Trung ương cần sớm điều chỉnh Luật CBCC 2008, Nghị định
92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP của Chính phủ theo hướng
không phân biệt CBCC từ ở cấp xã, cấp huyện trở lên, chỉ quy định chính
sách chung cho CBCC để đảm bảo sự liên thông, công bằng trong thực hiện
chế độ, chính sách và tính đồng bộ tron thực hiện các khâu trong công tác cán
bộ và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có trình độ về
chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên được hưởng lương theo ngạch, bậc
tương ứng với trình độ được đào tạo và được nâng lương theo thời hạn nhằm
đảm bảo cuộc sống, tạo động lực cho CBCC trong thực thi công vụ và tạo
nguồn cán bộ lâu dài cho địa phương .
95
Như vậy có thể nói, chế độ, chính sách đối với đội ngũ công chức cấp xã
là chính sách rất quan trọng, nó vừa là công cụ, vừa là động lực làm việc cho
công chức vừa là cơ sở để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới và
hoàn thiện chính sách này có ý nghĩa thúc đẩy quá trình cống hiến, bảo đảm
công bằng xã hội, khắc phục tình trạng bình quân trong việc trả lương và
không ngừng nâng cao mức sống cho dội ngũ CBCC, khuyến khích công
chức sáng tạo trong thực thi công vụ.
96
Tiểu kết chương 3
Việc đổi mới, nâng cao năng lực của công chức phường ở Thành phố
Quảng Ngãi không chỉ góp phần xây dựng một nền hành chính trong sạch,
vững mạnh, thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả mà còn có tác động tích
cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố. Năng
lực thực thi công vụ của công chức phường thành phố Quảng Ngãi, tỉnh
Quảng Ngãi chỉ có thể được nâng cao khi có một hệ thống lý thuyết hoàn
thiện để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá trạng, qua đó rút ra những kết luận
khoa học về năng lực công chức công chức phường. Theo đó, luận văn đã đề
ra các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao lực thực thi công vụ của công chức
phường thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi như cập nhật kiến thức
chuyên môn, kỹ năng quản lý hành chính, kỹ năng giao tiếpcòn cần phải
kết hợp hài hòa các nội dung khác trong công tác quản lý CBCC như việc
tuyển dụng, đào tạo, đồi dưỡng công chức; đổi mới quy hoạch, sử dụng, đánh
giá, phân loại; các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật... đối với công chức
cũng như cần phải tăng cường quản lý công chức nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng đội ngũ công chức phường chính quy, hiện đại góp phần thực hiện mục
tiêu xây dựng một nền công vụ trách nhiệm, chuyên nghiệp và trong sạch.
Do vậy, những giải pháp nêu trên cần phải được tiến hành một cách
đồng bộ để tăng hiệu quả trên thực tế, đồng thời căn cứ những kết quả đạt
được chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, kịp thời có giải pháp để giải quyết
những phát sinh nếu có nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức phường thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến.
97
KẾT LUẬN
Đội ngũ công chức phường là người đại diện cho Nhà nước, nhân danh
Nhà nước để thực thi quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo thực
thi pháp luật và là người trực tiếp triển khai, tổ chức thực hiện các đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trên địa bàn
phường, là nhân tố quyết định hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính ở địa
phương. Xây dựng nền hành chính hiệu quả, chuyên nghiệp, trách nhiệm và
trong sạch là mục tiêu của công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam. Để
mục tiêu này được thực hiện, trước tiên phải có một đội ngũ cán bộ, công
chức chính qui, chuyên nghiệp, năng động và có năng lực công tác trong thực
thi công vụ phục vụ nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, với yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập
quốc tế đặt ra nhiều vấn đề mới như nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân,
chịu sự giám sát của Nhân dân, thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, tuân
thủ luật pháp, cam kết quốc tế, các cơ chế, hiệp định, thông lệ quốc tế...Cho
nên đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung và đội ngũ CCCX nói riêng phải có
đủ phẩm chất, trình độ và đặc biệt phải có đủ năng lực để tham mưu, đề xuất
đúng, có thể nghiên cứu dự báo các xu hướng phát triển của mọi mặt đời sống
xã hội, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, đồng thời phải tổ chức triển
khai, thực hiện tốt và có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, tác giả mong muốn từ kết quả thực hiện đề
tài này, đề xuất những giải pháp đồng bộ, khoa học và có tính khả thi nhằm
nâng cao năng lực công chức phường thành phố Quảng Ngãi góp phần tích
cực vào quá trình hoàn thiện bộ máy hành chính, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn thành phố trong thời gian đến.
Qua nghiên cứu và khảo sát hiện nay đội ngũ công chức phường ở thành
phố Quảng Ngãi nhìn chung đại đa số vẫn còn yếu về năng lực, kinh nghiệm
thực tiễn và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về thái độ, tinh
98
thần phục vụ, kết quả làm việc của đội ngũ công chức còn thấp. Do đó, đội
ngũ công chức phường ở thành phố Quảng Ngãi phải có những thay đổi tích
cực theo hướng hiện đại, đủ trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và phẩm chất để
thực hiện nhiệm vụ. Để có thể đáp ứng những yêu cầu này, không thể quan
niệm về năng lực đội ngũ công chức phường một cách chung chung mà phải
có những tiêu chí để xác định một cách cụ thể, gồm: Trình độ kiến thức cơ
bản, kỹ năng nghề nghiệp và thái độ của công chức trong việc thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định.
Mặc dù đây không phải là một vấn đề mới đối với các tỉnh, thành phố
khác trong cả nước, nhưng đối với thành phố Quảng Ngãi vấn đề này hầu như
chưa được nghiên cứu, đề cập đến. Do đó trong luận văn này, tác giả mạnh
dạn đề cập những vấn đề mang tính khái quát về công chức phường và năng
lực thực thi công vụ của họ; phân tích thực trạng năng lực thực thi công vụ
của công chức 9 phường trên địa bàn thành phố để tìm ra những nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế về năng lực. Từ đó, chú trọng đến những giải pháp
nâng cao năng lực của công chức phường như: nâng cao chất lượng tuyển
dụng công chức phường theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp với tình
hình thực tiễn; tăng cường quản lý công chức, đổi mới quy hoạch, sử dụng và
luân chuyển, đánh giá phân loại công chức phường; đổi mới chế độ chính
sách đối với công chức phường. Các giải pháp đưa ra chỉ có thể phát huy hiệu
quả trên thực tế nếu chúng ta được thực hiện một cách đồng bộ và nhận được
sự đồng lòng nhất trí, sự nỗ lực thực hiện của tất cả các ngành, các cấp, các cá
nhân có liên quan. Vì vậy, tác giả hy vọng rằng trong những năm tới các giải
pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ công chức phường ở thành phố
Quảng Ngãi sẽ được triển khai có hiệu quả, khắc phục những tồn tại trong quá
trình triển khai thực hiện góp phần xây dựng một nền hành chính dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, từng bước hiện đại hóa và hoạt động
có hiệu quả./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-----------------
1. Lê Thị Tường Anh (2016), Nâng cao năng lực thực thi công vụ của
đội ngũ CCCX ở tỉnh Quảng trị.
dong-khoa-hoc.pdf
2. Phạm Thị Kim Anh (2016), Đổi mới công tác đánh giá công chức
phường hiện nay,
3. Ban thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2008), ban hành Đề án số
8738/ĐA-TU ngày 02/12/2008 về đào tạo, tuyển chọn, chuẩn hóa cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn.
4. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30/10/2012
của Bộ nội vụ về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụ và tuyển dụng công
chức xã, phường, thị trấn.
5. Bộ Nội vụ (2014), Thông tư số: 11/2014/TT-BNV ngày 09 tháng
10 năm 2014 của Bộ nội vụ về chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp
vụ chuyên môn các ngạch công chức chuyên ngành hành chính.
6. Bộ Thông tin và truyền thông (2014), Thông tư số 03/2014/TT-
BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về chuẩn kỹ năng
sử dụng công nghệ thông tin.
7. Ngô Thành Can (2010), Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán
bộ, công chức - Tạp chí Tổ chức Nhà nước Số 4 – 2010, tr 39-41.
8. Lương Thanh Cường, Xây dựng nguyên tắc hoạt động công vụ nhà
nước trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
9. Chính phủ nước CHXHCNVN (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ, về chức danh, số lượng, một số
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
10. Chính phủ nước CHXHCNVN (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP
ngày 05 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng CBCC.
11. Chính phủ nước CHXHCNVN (2010), Nghị định số 24/2010/NĐ-CP
ngày 15 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý
công chức.
12. Chính phủ nước CHXHCNVN (2011), Nghị định số 112/2011/NĐ-
CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ, về công chức ở xã, phường,
thị trấn.
13. Chính phủ nước CHXHCNVN (2015), Nghị định số 56/2015/NĐ-CP
ngày 09/6/2015 của CP về đánh giá, phân loại cán bộ,công chức, viên chức.
14. Chuyên đề “nền công vụ, công chức”, Thông tin khoa học pháp lý,
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý ấn hành, tr.17
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, trang 133- Nhà XBCT Quốc gia-sự thật 2016.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban
chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày
18/3/2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 03-NQ/TW, khóa
VIII ngày 18 tháng 6 năm 2007 về chiến lược cán bộ, công chức thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
19. Nguyễn Thị Hồng Hải "Một số vấn đề về phát triển năng lực thực thi
công vụ của công chức nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính".
20. Trần Kim Hoàng (2014), Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã trong bộ máy chính quyền cơ sở.
21. Vũ Thúy Hiền (2016), Xác định năng lực của công chức cấp xã
trong thực thi công vụ
22. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, kỳ họp
thứ 6, thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
23. Thanh Loan (2017) Về năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công
chức hành chính, bài đăng trên Tạp chí cộng sản điện tử ngày 24/1/2017
24. Hồ Chí Minh (2002). Toàn tập, tập 5, Nxb. CT quốc gia , Hà Nội.
25. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2011), Nghị quyết số 22/2011
ngày 27/11/2011 về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ngãi giai
đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020.
26. Lê Phương Nguyên (2016), Luận văn Thạc sỹ quản lý công về Chất
lượng công chức cấp xã thành phố Kontum, tỉnh Kontum.
27. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ công chức số 22/2008/QH12 ngày 13
tháng 11 năm 2008.
28. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương số
77/2015/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2015.
29. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
30. Diêp Văn Sơn (2012), Xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cho bộ máy hành chính, bài trên Tạp chí phát triển nhân lực số 1-27/2012.
31. Ngọc Thành (2016), Cải cách chế độ công vụ, công chức góp phần
thực hiện thành công nhiệm vụ CCHC
32. Nguyễn Thị Thanh Trà (2016), Luận văn thạc sỹ quản lý công về
Năng lực công chức phường Thành phố Huế.
33. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên): Từ điển Pháp- Việt: Pháp luật Hành
chính, nxb Thế giới, Hà nội, 1992,tr.135.
34. Thành ủy Quảng Ngãi (2015), Nghị quyết số 05-NQ/ĐH ngày
08/7/2015 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Quảng Ngãi lần thứ XV,
nhiệm kỳ 2015-2020.
35. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1557/QĐ-TTg của
TTCP ngày 18/10/2012 phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ,
công chức”.
36. Từ điển Tiếng Việt . NXB Khoa học - xã hội HN 1997
37. Từ điển “Năng lực” của đại học Harvard
38. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2011), Quyết định số 1752/QĐ-
UBND ngày 02 tháng 12 năm 2011 của UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Ngãi giai
đoạn 2011-2015).
39. Ủy ban nhân dân Thành phố Quảng Ngãi (2016) Báo cáo tổng kết
tình hình thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 13/11/2011 của Tỉnh ủy
(Khóa XVIII) và Đề án 8738 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về đào tạo, tuyển
chọn, chuẩn hóa các bộ chủ chốt xã, phường.
40. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Quyết định số 201/QĐ-
UBND ngày 29/01/2016 về việc ban hành Kế hoạch tuyên truyền cải cách
hành chính giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
41. Ủy ban nhân dân thành phố Quảng Ngãi (2015), “Báo cáo chất
lượng cán bộ, công chức, viên chức năm 2015
42. Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận (2015), Thực trạng
và định hướng văn hóa công vụ trong các cơ quan hành chính Nhà nước tỉnh
Ninh Thuận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nang_luc_thuc_thi_cong_vu_cua_cong_chuc_phuong_o_th.pdf