Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố còn được thể hiện
tác phong, ngôn phong và kỷ năng đọc cáo trạng, kỷ năng đặt câu hỏi để xét hỏi, kỷ năng
trình bày luận tội, phát biểu quan điểm kết luận, kỷ năng tranh luận, đối đáp nhất là
nhanh nhạy qua ứng xử khi bị phía bào chữa có thái độ, lời lẽ không đúng mực. Đây là sự
rèn luyện, phấn đấu ở mỗi cá nhân, kinh nghiệm riêng được tích luỷ học tập qua thực tiễn.
Cũng cần lưu ý, tuy đều là những vụ án thuộc lĩnh vực hình sự, nhưng tính chất của từng
vụ việc có khác nhau, đối tượng phạm tội cũng không giống nhau về nhân thân, về trình độ
nhận thức pháp luật, kiến thức xã hội; trình độ tranh tụng của Luật sư cũng được nâng lên;
công luận ngày càng quan tâm đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
90 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3305 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủy quyền xét xử sơ thẩm cho
Tòa án cấp tỉnh ở một số nơi đã có tác dụng răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Nhưng do
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố không được tiếp cận ngay ban đầu của quá trình tố
tụng trong giai đoạn điều tra; không lập cáo trạng truy tố; hồ sơ có vụ thu thập hằng ngàn
bút lục phải được đọc, nghiên cứu chuẩn bị trước những vấn đề thẩm vấn, dự thảo luận tội,
và dự kiến tình huống tranh luận đối đáp ... và thường là những vụ có nhiều bị cáo, nhiều
luật sư và đông người tham gia tố tụng; thời gian xét xử kéo dài nhiều ngày là những thử
thách đối với năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử vụ
án, nhất là tranh luận, đối đáp bảo vệ cáo trạng, cân nhắc đề xuất hình phạt, quy buộc
nghĩa vụ đối với bị cáo do hành vi phạm tội gây ra ... Do vậy, nếu có thiếu sót về năng lực
tranh tụng, phải rút bớt phần nào của cáo trạng truy tố hoặc tranh luận không hết theo yêu
cầu của phía bào chữa nêu ra ... sẽ gây phản cảm và bị công luận chê trách, nghi ngờ cho
công tác đấu tranh chống tội phạm hoặc nếu án có kháng cáo, Bản án của Tòa cấp phúc
thẩm xử khác thêm nữa so với cáo trạng truy tố, lại gây ra việc chê trách càng nhiều thêm
về chất lượng trong giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra và cả trong
thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tuy các vụ án có ủy quyền nêu trên
không nhiều, nhưng đang có các vấn đề tồn tại trong thực tiễn nên cần sớm có nghiên cứu,
ghi nhận trong luật.
Để đảm bảo nâng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và
yêu cầu tăng trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa cần nghiên cứu Điều 19 và 22
của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự (ban hành
kèm theo quyết định số 121 ngày 16 tháng 9 năm 2004 của Viện trưởng viện Kiểm sát
nhân dân tối cao) với việc áp dụng Điều 194 quy định về “Thời hạn hoãn phiên tòa” của
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Theo Điều 19 Quy chế, nếu tại phiên tòa mà phát hiện có căn cứ dẫn đến có thể thay
đổi quan điểm truy tố theo hướng kết luận về tội danh khác nặng hơn hoặc phát hiện có
tình tiết mới, khác với nội dung truy tố của Viện Kiểm sát đối với bị cáo thì Kiểm sát viên
đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để xin ý kiến của lãnh đạo Viện Kiểm sát. Đối
chiếu với Điều 194 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc hoãn phiên tòa chỉ ở những trường hợp
do cần phải thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc do vắng người tham gia tố tụng (Quy
định tại Điều 45, 46, 47, 187, 189, 190, 191, 192, 193), Bộ luật tố tụng hình sự không quy
định trường hợp hoãn để Kiểm sát viên xin ý kiến lãnh đạo Viện Kiểm sát hoặc để bổ sung
chứng cứ.
Hoặc, tại Điều 22 của Quy chế nên trên cũng quy định trong quá trình xét hỏi, nếu
người tham gia tố tụng cung cấp thêm tài liệu mới và thấy rằng chưa có cơ sở xác định, kết
luận thì Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh. Bộ luật tố tụng cũng không quy
định hoãn phiên tòa trong trường hợp này.
Như vậy, tại phiên tòa Bộ luật tố tụng hình sự không quy định hoãn phiên tòa xét xử
sơ thẩm trong những trường hợp như Điều 19 và Điều 22 như Quy chế quy định cho Kiểm
sát viên được đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để có thời gian báo cáo xin ý kiến
lãnh đạo Viện Kiểm sát do phát sinh tại phiên tòa những vấn đề mà chủ quan Kiểm sát
viên thấy rằng phải hoãn phiên tòa mới có thể giải quyết được. Do đó, để nâng tính chịu
trách nhiệm về quyết định của mình, thể hiện chất lượng hoàn thành nhiệm vụ qua năng
lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa, thì một mặt cần xem xét bổ sung điều 19
của Quy chế giao quyền cho Kiểm sát viên được đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc
đề nghị hoãn phiên tòa; mặt khác có nghiên cứu đề xuất bổ sung các trường hợp hoãn
phiên tòa ở Điều 194 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Đổi mới công tác xây dựng về tổ chức, nghiên cứu đổi mới về hình thức và nội dung
đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ của ngành.
Chủ trương định hướng cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp của Đảng và Nhà nước đã được khẳng định trong các Nghị quyết và có đánh giá:
Thực trạng tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan
tư pháp còn nhiều bất cập nhưng chậm được đổi mới, kiện tòa cho phù hợp. Công tác cán
bộ cũng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình hiện nay; đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về
số lượng, yếu về trình độ chuyên môn và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu
trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức ... làm ảnh hưởng đến kỷ cương,
pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước.
Về phương hướng: Đảng cũng đã chỉ ra yêu cầu tổ chức các cơ quan tư pháp và các
chế định bổ trợ tư pháp phải hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức, trong đó cần
xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội ... và đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Tại hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu ra các chuẩn mực về năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của người làm
công tác tư pháp “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ dĩ nhiên các
bạn cần phải nêu cao gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi
theo” [20, tr.47].
Với những quan điểm nêu trên cho thấy nhiệm vụ quan trọng hiện nay là phải xây
dựng được mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp thế nào để đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và có cơ chế hoạt động phù hợp để phát huy hiệu quả, trong đó tập trung là xây dựng
được một mô hình tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng theo hướng kiện toàn, củng cố, sắp
xếp lại tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp thứ ba (cấp Huyện),
đảm bảo các cơ quan này đủ khả năng giải quyết toàn bộ những vụ án hình sự xãy ra tại
địa phương; các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh và Trung ương chủ yếu thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, hướng dẫn và hỗ trợ cho cấp dưới để nâng chất lượng hoạt động và có
đủ điều kiện, khả năng độc lập thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật,
thực hiện tốt hơn yêu cầu tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự.
Đồng thời, với việc nghiên cứu thông suốt các chủ trương của Đảng, Nhà nước và
hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự cần xác
định nguyên tắc tranh tụng trở thành một trong những nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình
sự; đổi mới việc đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng
nâng trách nhiệm nghiệp vụ, chuyên môn, phục vụ cho hoạt động tranh tụng là yêu cầu cấp
thiết.
* Thực hiện theo tinh thần cải cách tư pháp, ngành kiểm sát cũng đang tự rà soát lại
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quan tâm về công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và
công tác cán bộ, nhất là Kiểm sát viên ở cấp Huyện. Từ đó, trước hết cần có biện pháp
nâng nhận thức của Kiểm sát viên một cách đầy đủ, đúng đắn vai trò, trách nhiệm trong
hoạt động chứng minh tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa và đặc biệt là trong hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa cùng với các chủ thể tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ mọi tình
tiết của vụ án, chống bỏ lọt tội phạm và không để xảy ra truy tố oan. Xét xử ở cấp tỉnh
cũng cần nâng chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên
tòa xét xử án hình sự; bên cạnh vai trò đó, Kiểm sát viên tỉnh còn có trách nhiệm kiểm tra,
hướng dẫn và chỉ đạo tác nghiệp qua những vụ, việc có vướng mắc về chứng cứ, tội danh
..., trao đổi kỷ năng tranh tụng tại phiên tòa cho Kiểm sát viên cấp huyện.
Muốn vậy, đòi hỏi Kiểm sát viên phải thực sự có năng lực cả về kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, về kinh tế - xã hội và phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trong sáng về đạo đức
nghề nghiệp, tránh bị tha hóa, cám dổ, tiêu cực.
Để góp phần phục vụ cho việc nâng cao năng lực tranh tụng tại phiên tòa, kích thích
sự phấn đấu của Kiểm sát viên và khắc phục tình trạng
Một số cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử nhưng nhận thức chưa chắc, chưa đầy đủ về vị trí vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của ngành ... chỉ là theo thói quen, làm theo kinh
nghiệm hoặc chỉ là theo lối mòn của những người đi trước chứ không có cơ sở
lý luận vững chắc và cũng không chịu khó học tập nghiên cứu tìm tòi sáng tạo
[14, tr.71].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành kiểm sát đối với Kiểm sát viên về kỷ năng
thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự cần xây dựng nội dung, chương
trình theo hướng tập trung đào tạo, bồi dưỡng các kỷ năng nghiệp vụ như nghiên cứu hồ sơ
vụ án chuẩn bị thực hành quyền công tố và kỷ năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa
mà trong đó có kỷ năng xây dựng bản cáo trạng, kỷ năng xây dựng bản luận tội, xây dựng
đề cương xét hỏi, kế hoạch đối đáp; kỷ năng đọc cáo trạng, kỷ năng xét hỏi, kỷ năng trình
bày lời luận tội, kỷ năng tranh luận. Đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử ...
Các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành kiểm sát cũng cần có nội
dung đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức tổng hợp về mọi lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu
phòng chống tội phạm trong điều kiện hội nhập hiện nay, thường xuyên tổ chức tập huấn,
rút kinh nghiệm chuyên sâu theo các chuyên đề trực tiếp phục vụ cho nhu cầu công việc
hoặc chuyên đề của từng lĩnh vực mới phát sinh của tội phạm, loại tội phạm mới và kỷ
năng tranh tụng tại phiên tòa đối với các loại tội phạm đó.
Cùng với công tác đào tạo nâng chất lượng qua bồi dưỡng nhận thức chuyên sâu thì
cần chú ý công tác rà soát chất lượng và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên;
từ đó có quy hoạch nguồn Kiểm sát viên bổ sung cho lĩnh vực thực hành quyền công tố tại
phiên tòa, mạnh dạn điều chuyển hợp lý giữa các đơn vị cùng cấp của Viện Kiểm sát
huyện và cán bộ, Kiểm sát viên tỉnh về huyện, huyện lên tỉnh, tạo nên sự đồng đều về năng
lực hoàn thành nhiệm vụ trong các đơn vị.
Để thực hiện các yêu cầu nêu trên, phải nhận thức về chủ trương, chính sách của
Đảng, chỉ thị nhiệm vụ công tác của ngành cấp trên, tạo sự thông suốt và nhất quán trong
toàn ngành; từ đó tập trung nâng chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh
đạo Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh và từng đơn vị cấp huyện, sự phối hợp và chỉ đạo của
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao với Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, giữa các ngành
có liên quan ở từng cấp ... và sự nổ lực phấn đấu của từng cá nhân Kiểm sát viên mới bảo
đảm cho năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên ngày càng đáp ứng tốt hơn theo yêu cầu
nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử.
* Nhưng qua nghiên cứu cũng cho thấy, tăng cường các giải pháp bảo đảm năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố không thể chỉ riêng ở ngành kiểm
sát là đủ, mà cần có sự cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng tinh
thần trách nhiệm của cán bộ tư pháp trong công tác điều tra của cơ quan điều tra, công tác
xét xử của Tòa án, vai trò trách nhiệm của người bào chữa mà chủ yếu là vai trò của Luật
sư tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, mối quan hệ tố tụng được phản ảnh bởi năng lực hoạt
động tranh tụng của các chủ thể và được chứng minh qua bản án quyết định của Tòa án.
Để đảm bảo thực hiện tranh tụng trong xét xử án hình sự thì Hội đồng xét xử cần
thay đổi nhận thức về vấn đề án tại hồ sơ và phải nhận thức đúng nguyên tắc: Bản án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không
nên can thiệp quá nhiều vào quá trình tranh tụng giữa các bên mà nên đóng vai tròn chủ
yếu là hướng dẫn các bên về thủ tục, đặt vấn đề có tính gợi mở cho các bên tranh luận.
Theo trình tự xét hỏi quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 cần nhận thức rằng việc Chủ tọa phiên tòa chủ động xét hỏi chỉ mang tính chất nêu
vấn đề, gợi mở ý kiến để các bên tranh luận, khắc phục tình trạng kiểu xét hỏi để đấu tranh
làm rỏ hay kết tội đến cùng đối với những nội dung mà cáo trạng đã quy kết. Chủ tạo
phiên tòa điều khiển phù hợp theo diễn biến của từng vụ án, đồng thời tạo điều kiện cho
Kiểm sát viên, Luật sư biện hộ và các bên tham gia phiên tòa được hỏi lẫn nhau. Đặc biệt,
Hội đồng xét xử không được đưa ra những nhận xét, đánh giá về chứng cứ ngay tại phiên
tòa mà chỉ thẩm tra lại tất cả các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để bị cáo, các người tham
gia tố tụng xác nhận một cách công khai về việc đồng ý hay không, từ đó lưu ý, yêu cầu
Kiểm sát viên, Luật sư phân tích, tranh luận. Mặt khác, cần đề cao vai trò của người bào
chữa với tư cách là một bên có quyền bình đẵng tranh tụng trong phiên tòa. Từ kết quả
tranh tụng bình đẵng, công khai, dân chủ, Hội đồng xét xử xem xét một cách toàn diện và
khách quan mọi chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa cả
những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và đã được đưa ra tranh luận, đối đáp giữa phía Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố và phía bào chữa để chứng minh tính sự thật khách quan của vụ án.
Về công tác cán bộ, ngành tòa án đang tập trung nâng chất lượng thẩm phán ở Tòa án
cấp huyện nhằm đáp ứng yêu cầu tăng thẩm quyền xét xử theo khoản 1 Điều 170 của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 và năng lực điều hành hoạt động xét xử theo nguyên tắc
tranh tụng. Nhưng thực tế cho thấy vẫn đang gặp khó khăn chung là vẫn còn thiếu thẩm
phán; việc áp dụng, vận dụng pháp luật cũng chưa nhuần nhuyễn; kỹ năng nghiệp vụ còn
yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, “Một bộ phận thẩm phán phẩm chất,đạo
đức bị thoái hóa,biến chất” [11, tr.110].
Đáng chú ý là vai trò Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử tại phiên tòa sơ thẩm
còn thụ động, mờ nhạt. Thực tế, nhiều Hội thẩm còn thiếu năng lực, hạn chế trình độ chuyên
môn, kinh nghiệm công tác pháp lý còn ít, có phần do thiếu nghiên cứu văn bản pháp luật do
bị chi phối bởi công việc khác.
Ngành Tòa án cũng có trung tâm đào tạo, bồi dưỡng, cho cán bộ, thẩm phán trong
ngành,; Tổ chức rút kinh nghiệm theo chuyên đề và nghiệp vụ xét xử nhiều lượt. Hầu hết
Thẩm phán nhất là Thẩm phán trẻ đã có trình độ đại học, cử nhân luật và qua lớp đào tạo
thẩm phán. Đáng chú ý là với yêu cầu cải cách tư pháp mà trọng tâm của hoạt động xét xử
là mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, do vậy cần có đổi mới, bổ sung nội dung chương trình
giảng dạy cho phù hợp như kỷ năng lập kế hoạch xét hỏi; kỷ năng điều khiển phiên tòa,
thái độ ứng xử tình huống theo diễn biến phiên tòa nhất là điều hành việc tranh luận đối
đáp giữa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với phía bào chữa; kỷ năng phân tích,
tổng hợp và giải quyết các vấn đề cụ thể và đáng chú ý là cần xây dựng sâu về nội dung
chuyên đề có liên quan đến các quy tắc đạo đức nghề nghiệp ...
Đối với người bào chữa, mà chủ yếu là Luật sư là một trong những người tham gia tố
tụng quan trọng nhất đối với phiên tòa áp dụng tố tụng tranh tụng và có thể thấy rằng, dù
bị cáo có khả năng đến đâu nhưng có Luật sư bên cạnh cũng giúp cho họ có thái độ bình
tĩnh và được giúp những vấn đề pháp lý mà họ chưa thể hiểu biết đầy đủ được.
Thực tế cho thấy, đội ngũ Luật sư còn quá ít, chất lượng còn thấp, thiếu kinh nghiệm;
vai trò Luật sư tại phiên tòa vẫn còn chưa được trọng thị đúng mực, lập luận, phản biện
tranh luận của Luật sư cũng chưa được quan tâm nghiên cứu khi cân nhắc qua bản án ... đã
phần nào gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa ...
Nhưng cá biệt, cũng có Luật sư nhận thức pháp luật chưa đầy đủ, biện luận thiếu căn cứ,
kỷ năng tranh luận chưa tốt, văn hóa ứng xử theo tình huống, diễn biến tại phiên tòa nhất
là thái độ và ngôn phong gây phản cảm đối với yêu cầu phiên tòa phải văn minh, tôn
nghiêm, trật tự ... Nhưng cũng không phải do vậy mà xem nhẹ vai trò tranh tụng của Luật
sư và thiếu sự quan tâm chăm sóc nâng chất cho đội ngũ người làm công tác bổ trợ tư
pháp. Nói cách khác, cùng với việc đào tạo để tạo nguồn nhân lực đạt chuẩn đối với những
người có chức danh pháp lý thì Luật sư cũng phải xác định đó là nguồn được quan tâm đào
tạo, phát triển đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị và đạo đức, có trình độ chuyên môn,
có cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Và công tác đào
tạo phải có chương trình phù hợp để cung cấp các kỷ năng nghề nghiệp cần thiết cho Luật
sư tham gia tố tụng theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật tổ chức luật sư.
Đối với các trung tâm đào tạo chuyên ngành; đào tạo các chức danh tư pháp cũng
cần xây dựng nội dung các chuyên đề đào tạo, bồi dưỡng về lĩnh vực văn hóa trong quan
hệ tranh tụng tại phiên tòa xét xử án hình sự. Đây cũng là vấn đề mới và cần thiết cho yêu
cầu nâng cao chất lượng tranh tụng. Bởi vì, năng lực tranh tụng của các chủ thể tại phiên
tòa còn biểu hiện ở văn hóa tranh tụng. Tuy nó được khuôn lại trong từng lúc và ở từng
phiên tòa cụ thể về ngôn phong, tác phong, thái độ ứng xử bộc lộ qua tranh tụng giữa
những người được Nhà nước giao quyền tiến hành tố tụng và một bên là những người
tham gia tố tụng, nhất là kỷ năng điều hành của Chủ tọa phiên tòa, tranh luận đối đáp giữa
Kiểm sát viên và Luật sư, người bào chữa ... cần được chú ý rèn luyện, bồi dưỡng nhiều
hơn vì chưa được xây dựng thành nội dung bồi dưỡng chính thức ở các trung tâm đào tạo
chuyên ngành; đào tạo cách chức danh tư pháp trong đó có Luật sư.
3.2.2. Một số giải pháp bảo đảm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang
- Tổ chức bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ Kiểm sát viên theo hướng tiêu chuẩn hóa
nhằm nâng năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa
xét xử án hình sự.
Với các giải pháp chung nêu trên được thực hiện tốt sẽ thúc đẩy nhanh yêu cầu “...
nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ
với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ...” theo tinh thần chỉ
đạo của Nghị quyết 08 của Bộ chính trị.
Quán triệt Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Nhà nước, chỉ đạo của ngành cấp
trên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tổ chức thực hiện theo nhiều nội dung của
Nghị quyết, trước hết là rà soát nâng chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên ở hai cấp trong tỉnh,
đối chiếu với tiêu chuẩn theo luật quy định; xây dựng quy hoạch cán bộ 5 năm và đề ra
chương trình hàng năm để chuẩn hóa theo yêu cầu quy hoạch và xây dựng, thực hiện theo
phương châm gắn chặc công tác xây dựng Đảng với công tác xây dựng ngành, tập trung rà
soát xây dựng chuẩn chất đội ngũ Kiểm sát viên đạt theo quy định. Từ năm 1998 đến khi
có Nghị quyết 08 của Bộ chính trị (02-01-2002); Kiểm sát viên Huyện có trình độ trung
cấp năm 1998 có 15 Kiểm sát viên, đến năm 2002 còn 01 Kiểm sát viên; Trình độ cao
đẳng năm 1998 có 36 Kiểm sát viên, đến năm 2002 có 53 Kiểm sát viên; Trình độ đại học,
cử nhân Luật năm 1998 có 04 Kiểm sát viên, đến năm 2002 có 06 Kiểm sát viên.
Kiểm sát viên tỉnh có trình độ trung cấp năm 1998 có 03 Kiểm sát viên, đến năm
2002 còn 01 Kiểm sát viên; Trình độ cao đẳng năm 1998 có 19 Kiểm sát viên, đến năm
2002 có 22 Kiểm sát viên; Trình độ đại học, cử nhân Luật năm 1998 có 06 Kiểm sát viên,
đến năm 2002 có 12 Kiểm sát viên.
Từ năm 2003 đến năm 2007: Kiểm sát viên huyện có trình độ trung cấp năm 2003 có
02 Kiểm sát viên, đến năm 2007 không còn; Trình độ cao đẳng năm 2003 có 46 Kiểm sát
viên, đến năm 2007 còn 02 Kiểm sát viên; Trình độ đại học, cử nhân Luật năm 2003 có 12
Kiểm sát viên, đến năm 2007 có 55 Kiểm sát viên.
Kiểm sát viên tỉnh có trình độ trung cấp năm 2003 có 02 Kiểm sát viên, đến năm
2007 không còn; Trình độ cao đẳng năm 2003 có 21 Kiểm sát viên, đến năm 2007 không
còn; Trình độ đại học, cử nhân Luật năm 2003 có 12 Kiểm sát viên, đến năm 2007 có 36
Kiểm sát viên.
Tính chung đến nay, Kiểm sát viên hai cấp trong tỉnh đều có trình độ Đại học và Cử
nhân Luật, đạt và vượt trước thời gian quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội cho
phép tất cả cán bộ được bổ nhiệm chức danh Tư pháp đến tháng 9 năm 2009 phải có trình
độ Cử nhân Luật. Đồng thời với đó, sắp xếp công việc và tạo điều kiện cho cán bộ bồi
dưỡng về lý luận chính trị qua nhiều hình thức, tất cả Kiểm sát viên hiện nay có hơn hai
phần ba trong tổng số Kiểm sát viên đã đạt trình độ cao cấp và cử nhân chính trị, còn lại
sắp xếp để tạo điều kiện nâng dần theo yêu cầu chuẩn hóa, đáp ứng về tiêu chuẩn bổ nhiệm
lại theo thời hạn, đảm bảo nguồn dự bị của các chức vụ cho các năm tiếp theo trong quy
hoạch. Một số Kiểm sát viên cũng nghiêm túc chấp hành sự lãnh đạo của Đảng về công tác
cán bộ và được đồng thuận của lãnh đạo ngành cấp trên điều chuyển sang nhận nhiệm vụ
chủ chốt ở một số ban, ngành của tổ chức Đảng, chính quyền, ngành chuyên môn ... cùng
cấp và đều phát huy tốt năng lực, vững vàng và phát triển trong công việc. Hiện nay, có 9
trong 11 Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân huyện đương nhiệm là cấp ủy viên Huyện,
Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân tỉnh cũng là cấp ủy viên tỉnh. Các nhiệm kỳ đại hội
Đảng bộ huyện, tỉnh đều đạt như vậy.
Nhiệm vụ chuẩn hóa cán bộ Viện Kiểm sát hai cấp trong tỉnh cơ bản đạt theo chương
trình đề ra, nhưng trong công tác tổ chức, cán bộ do yêu cầu vẫn còn những tồn tại, yếu
kém cần được nghiên cứu khắc phục, nhất là về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự.
Tuy đã chọn lọc, điều chuyển Kiểm sát viên tập trung cho khối công tác giải quyết án
hình sự, nhưng so với yêu cầu và thực trạng đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm
trong tỉnh thì có lúc, công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và giai
đoạn xét xử bị quá tải do thiếu Kiểm sát viên. Nếu bình quân chung hàng năm (từ 1998 -
2007), mỗi Kiểm sát viên phải thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự cấp sơ thẩm
99 vụ, tại phiên tòa hình sự cấp phúc thẩm 184 vụ, chưa kể phải thực hiện một số công
việc như phân loại xử lý, khám nghiệm hiện trường thực hành quyền công tố tại các phiên
tòa xét xử lưu động; kiểm sát án văn, xem xét kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm ...
Trong tình trạng luôn thiếu hụt về biên chế do khó khăn nguồn tuyển dụng, đến nay vẫn
vậy. Ngoài ra còn, phải thay phiên nhau đi học để đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cán bộ ...
nên có những tháng Kiểm tra viên phải thực hành quyền công tố 12 đến 14 vụ tại phiên tòa
sơ thẩm. Do đó, phần nhiều Kiểm sát viên sử dụng chủ yếu là kinh nghiệm sẵn có, chủ
quan trong nghiên cứu hồ sơ, vạch đề cương xét hỏi, chuẩn bị để trình bày luận tội còn sơ
sài, tranh luận, đối đáp có lúc còn bị động, ứng xử tình huống tại phiên tòa chưa linh hoạt,
nhạy bén; văn hóa tranh tụng tại phiên tòa có trường hợp còn nóng nải về lời lẽ và thái độ
...
Nhìn chung, công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng, rút kinh nghiệm về kỷ năng tranh
tụng tại phiên tòa của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh chưa kịp thời, chưa đáp ứng nâng chất
lượng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên. Thời gian gần đây, có tổ chức Hội thi
Kiểm sát viên tiêu biểu ở hai cấp trong tỉnh, qua đó đã rút ra những mặt được, mặt tiến bộ
đang tiếp tục củng cố, nâng chất, những mặt tồn tại, hạn chế ở công tác này đang nghiên
cứu, đề ra những giải pháp và dựa vào đó để xem xét, nâng chất lượng về năng lực tranh
tụng của Kiểm sát viên trong tỉnh:
Thứ nhất là nâng cao nhận thức về tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố
tại phiên tòa xét xử án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
Qua đào tạo ở các trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành Kiểm sát, của
các trung tâm đào tạo các chức danh tư pháp thì vấn đề thực hành quyền công tố, kiểm sát
xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm án hình sự đã được bồi dưỡng và Kiểm sát viên đã
nhận thức được. Mặt khác, trong thực tiễn thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên cũng đã
phân định những công việc nào thuộc chức năng thực hành quyền công tố, công việc nào
thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp tại phiên tòa xét
xử án hình sự.
Vấn đề đặt ra tại phiên tòa cần làm rỏ là hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên được
bắt đầu tư khi nào và kết thúc từ đâu; tranh tụng có khác gì với tranh luận; Kỷ năng tranh
tụng gồm những kỷ năng nào; đánh giá năng lực tranh tụng dựa vào những tiêu chí gì để
xác định ... Nói chung, nếu hệ thống lại những vấn đề đã nêu thì ở mức độ nhất định, từng
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đều có thực hiện và được thể hiện, nhưng với yêu
cầu mở rộng tranh tụng tại phiên tòa thì những kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng theo
tinh thần cải cách tư pháp.
Vì vậy, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, thông qua công tác tổ chức cán
bộ cần tiếp tục nâng kết quả từ cuộc thi Kiểm sát viên tiêu biểu để nâng nhận thức cho
Kiểm sát viên thông suốt và kích thích “tìm hiểu để tự soi rọi” lại những thao tác nghiệp
vụ của mỗi cá nhân còn thiếu sót những gì khi thực hiện yêu cầu tranh tụng trong giai đoạn
xét xử án hình sự tại phiên toà.
Nhận thức là một quá trình, sự nhận thức không đồng đều ở vấn đề nào đó của những
con người trong một tổ chức cũng không có gì phải nặng nề chê trách, yêu cầu là tổ chức
có biện pháp giúp cho từng cá nhân trong tổ chức đó nhận thức tốt hơn và kích thích cho
cá nhân tự tìm tòi nhận thức nhiều hơn nữa để đảm bảo năng lực thực hiện nhiệm vụ được
giao cho họ.
Thứ hai là xây dựng các tiêu chí cơ bản làm cơ sỏ để đánh giá năng lực tranh tụng
của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử án hình ở tỉnh An Giang.
Nói đến năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà
hình sự là muốn tìm hiểu, xem xét về khả năng hoàn thành nhiệm vụ tố tụng được giao
trong giai đoạn xét xử vụ án mà chủ yếu là bảo vệ việc quy buộc tội trạng đối với người
phạm tội. Nó được thể hiện tổng hợp bởi kỷ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật, khả
năng biện luận, ứng xữ, đối đáp trực tiếp với phía bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác tại phiên toà. Để xác định khả năng đó, cần xem xét trên những kết quả sau đây:
Một là, cần có đủ lập luận và lập luận có căn cứ để bảo vệ quan điểm truy tố của
Viện Kiểm sát đã nêu trong cáo trạng.
Bởi vì, cáo trạng là văn bản pháp lý của Viện Kiểm sát nhân dân để truy tố bị can, là
căn cứ làm phát sinh hoạt động xét xử của Toà án trên cơ sở phân tích, đánh giá nhiều mặt
từ các chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội. Sẽ không thuyết phục được Hội
đồng xét xử, bên bào chữa cùng những người dự phiên toà nếu Kiểm sát viên không chuẩn
bị đưa ra các lập luận cần thiết để bảo vệ quan điểm truy tố.
Phiên Toà là một cuộc điều tra công khai. Ngay phần xét hỏi sẽ xuất hiện những tình
tiết có thể có giá trị củng cố quan điểm của Viện Kiểm sát nêu trong cáo trạng hoặc phản
bác một phần hay toàn bộ cáo trạng. Vì vậy, Kiểm sát viên phải quan tâm theo dõi, ghi
chép những vấn đề qua kết quả của phần xét hỏi, từ đó sử dụng kiến thức của mình trong
nhiều lĩnh vực khác nhau để bảo vệ cáo trạng và xử lý tình huống diễn ra khi tranh luận,
đối đáp.
Trong phòng xét hỏi, Kiểm sát viên đặt câu hỏi đối với bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác là có sự chuẩn bị quan điểm tranh tụng qua đối chiếu với nội dung cáo
trạng và dựa vào đó, Kiểm sát viên sẽ sử dụng chứng cứ, tài liệu, viện dẫn, áp dụng các
Điều luật nào làm căn cứ để tranh luận hoặc sẽ đề xuất với Hội đồng xét xử cân nhắc cho
phù hợp khi nghị án và tuyên án.
Hai là, Kiểm sát viên có đưa ra được các căn cứ pháp lý vững chắc hay không để bác
bỏ ý kiến đối lập của Luật sư bào chữa tại phiên toà.
Luật Tố tụng hình sự quy định phần tranh luận là phần tiếp nối của phần xét hỏi.
Ngay trước khi thực hiện việc đó, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội.
Như vậy, về nguyên tắc khác với bản cáo trạng là Kiểm sát viên đọc, còn đối với lời
luận tội thì Kiểm sát viên phải trình bày, do đó bản dự thảo luận tội đã được chuẩn bị trước
khi vụ án đưa ra xét xử và được chỉnh sửa trong quá trình xét xử, chủ yếu là dựa vào phần
xét hỏi. Vấn đề chỉnh sửa, bổ sung bản luận tội không chỉ liên quan đến quan điểm, đường
lối truy tố của Viện Kiểm sát mà còn ảnh hưởng đến tính dân chủ, công bằng và dư luận xã
hội đối với việc giải quyết vụ án. Lập luận của Kiểm sát viên được coi là có căn cứ khi
Kiểm sát viên sử dụng kiến thức của mình trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lý tội
phạm, khoa học dấu vết, khoa học chứng cứ và kiến thức được nghiên cứu của một số
chuyên ngành có liên quan … nếu hành vi phạm tội và tội phạm phát sinh có liên quan tới
lĩnh vực đó để bảo vệ quan điểm buộc tội nêu trong cáo trạng. Nhưng cũng cần lưu ý rằng
những lập luận và đề xuất của Kiểm sát viên trước phiên toà luôn phải có viện dẫn các điều
luật, khoản luật, văn bản luật cụ thể đang có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, lập luận có
căn cứ khi nó phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Đây cũng là vấn đề đáng
lưu ý khi trong quá trình xét hỏi tại phiên toà, bị cáo, người bị hại, người làm chứng,
nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác có thể
đưa ra các tài liệu, những ý kiến phản bác nội dung bản cáo trạng. Vì vậy, cần chú ý khi
đưa ra ý kiến lập luận của mình về đồng tình hay phản bác các ý kiến đó với những căn cứ
vững chắc, có tính thuyết phục.
Theo quy định của Luật tố tụng hiện hành, Luật sư luôn được quyền phát biểu sau ý
kiến phát biểu luận tội của Kiểm sát viên, từ đó phát sinh tranh luận, đối đáp.
Tranh luận tại phiên toà là một phần quan trọng của phiên toà hình sự và cần nhận
thức rằng đây là phần thể hiện tập trung nhất, rõ nét nhất của bản chất tranh tụng. Tuy Luật
tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia
tranh luận như yêu cầu bên tranh luận giải thích những vấn đề chưa rõ; các bên có quyền
sử dụng các chứng cứ, tài liệu đã có trong hồ sơ hoặc mới thu thập được để bảo vệ ý kiến
của mình và phản bác lại ý kiến của bên kia; Luật cũng cần quy định rõ hơn trách nhiệm
của Chủ tọa phiên toà phải đảm bảo cho việc tranh luận diễn ra thật sự dân chủ, khách
quan không hạn chế thời gian tranh luận và chú ý lắng nghe ý kiến của các bên với thái độ
của người trọng tài … Tuy vậy, Kiểm sát viên cũng cần phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến
của bên bào chữa và phải đối đáp lại ý kiến của bên đối lập, không né tránh, thái độ tranh
luận đối đáp cần bình tĩnh, tự tin, ngôn phong chuẫn mực và lập luận có căn cứ, logic sẽ có
tách dụng thuyết phục tốt hơn.
Ba là, đối chiếu xem ý kiến đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm về tội
danh, mức hình phạt, mức độ trách nhiệm dân sự … được Hội đồng xét xử ra quyết định
chấp nhận ở mức nào. Và tranh tụng tiến hành tại phiên toà phúc thẩm thì Viện Kiểm sát
cấp trên có thuyết phục được Hội đồng xét xử thuộc Toà án cùng cấp giữ nguyên quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm khi Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận đề nghị của Kiểm sát
viên thuộc Viện Kiểm sát cấp dưới ở hay không. Trường hợp Viện Kiểm sát kháng nghị,
Kiểm sát viên có đưa ra được các căn cứ qua tranh luận để bảo vệ cho quan điểm trong
kháng nghị hay không ?
Để xem xét năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử án hình sự sơ
thẩm, án hình sự phúc thẩm thì vấn đề chung nhất là dựa vào kết quả phán quyết của Hội
đồng xét xử qua các bản án quyết định đã có hiệu lực thi hành và không bị kháng nghị theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Bởi vì, tại phiên toà hình sự, hoạt động tranh tụng được thực hiện suốt trong quá trình
xét xử. Tại phiên toà xét xử án hình sự sơ thẩm, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên là
nhằm bảo vệ quyết định truy tố qua bản cáo trạng, kết quả tranh tụng đó về mặt pháp lý
được Hội đồng xét xử công nhận và được ghi nhận qua bản án quyết định.
Tại phiên toà xét xử án hình sự phúc thẩm, khi bản án, quyết định của cấp sơ thẩm do
Viện Kiểm sát của cấp sơ thẩm kháng nghị phúc thẩm, có nghĩa là đã có sự khác biệt giữa
cách đánh giá và nhận định của Hội đồng xét xử và Viện Kiểm sát về toàn bộ hay một
phần nội dung cáo trạng. Chẵng hạn như Viện Kiểm sát cho rằng có đủ các chứng cứ buộc
tội các bị cáo nhưng Hội đồng xét xử lại cho rằng không có đủ chứng cứ buộc tội nên đã
tuyên các bị cáo không phạm tội; hay có vụ Viện Kiểm sát kháng nghị vì cho rằng việc đề
nghị áp dụng điều luật nặng hơn, hình phạt nặng hơn, mức bồi thường cao hơn nhưng Hội
đồng xét xử lại quyết định ngược lại … Vì vậy, việc Viện Kiểm sát cùng cấp đã thể hiện
quan điểm của mình đối với các quyết định kháng nghị theo trình tự phúc thẩm và Viện
Kiểm sát cấp trên phải tham gia phiên toà phúc thẩm để bảo vệ quan điểm của Viện
Kiểm sát cấp dưới mặc dù không phải khi nào việc kháng nghị của Viện Kiểm sát cấp
dưới cũng có căn cứ. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử phúc
thẩm theo kháng nghị của Viện Kiểm sát phải tranh luận với Luật sư bào chữa, lập luận
bác bỏ các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đã bị kháng nghị, thuyết phục Hội đồng
xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị và kết quả tranh tụng đó cũng được thể hiện
bằng bản án quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Như vậy, để đánh giá đầy đủ và chính xác kết quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên toà xét xử án hình sự, việc cần thiết là có những tiêu chí cụ thể làm cơ sở
xem xét một cách tổng quát về diễn biến phiên toà và cũng phải xem xét trong mối tương
quan giữa lời đề nghị của Kiểm sát viên và quyết định của Hội đồng xét xử.
Thứ ba là, tham mưu cho Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh, chỉ đạo: Tăng cuờng
mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để thúc đẩy hoạt động theo chức
năng của từng ngành, từng tổ chức và rút kinh nghiệm nâng chất lượng về hoạt động tranh
tụng tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang..
Như chúng ta đã biết, tội phạm diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khi giải quyết một vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng nói chung và Kiểm sát
viên nói riêng bắt buộc phải tiếp xúc với nhiều tình huống khác nhau liên quan đến nhiều
lĩnh vực chuyên ngành khác nhau. Yêu cầu đó đòi hỏi qua các giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử những người tiến hành tố tụng cũng phải cùng nghiên cứu phát hiện các vấn đề liên
quan để góp phần vừa xử lý vụ việc cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ, vừa tham mưu cho
Đảng, tư vấn cho chính quyền … có chỉ đạo, điều hành xử lý tình hình chung ở địa
phương.
Để đảm bảo chất lượng tranh tụng tại phiên toà đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Luật sư phải nắm vững pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và khả năng thực hành
tốt, có kiến thức tổng hợp ở nhiều lĩnh vực, ý thức chính trị, có khả năng tham mưu ở từng
lĩnh vực … để góp phần xử lý các vấn đề chung.
Nhìn chung, những khó khăn, tồn tại ở các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh An Giang
tương tự như nhau: Đang hụt hẫng cán bộ có chức danh tư pháp, trình độ năng lực kỷ năng
thực hành của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm ở từng ngành không
đồng đều. Tổ chức bổ trợ tư pháp cũng đang hụt thiếu người làm chuyên môn giám định,
nhận thức chưa đầy đủ về chức trách, nhiệm vụ, phương tiện hoạt động thiếu; đội ngũ Luật
sư hoạt động phân tán, vai trò quản lý của tổ chức Đoàn luật sư khó khăn trong điều hành
và rút kinh nghiệm với các thành viên về tác nghiệp, trong số 37 Luật sư đăng ký hành
nghề bình quân tuổi đời xấp xỉ gần 60 tuổi, số luống tuổi đang hoạt động chủ yếu qua kinh
nghiệm có được từ hoạt động của đoàn bào chữa trước đây và ít được bồi dưỡng, nhất là về
nhận thức chính trị, Luật sư trẻ thì kỷ năng nghiệp vụ chưa tốt, kiến thức xã hội hạn chế,
văn hoá ứng xữ tranh tụng tại phiên toà chưa được rèn luyện nhiều …
Tình hình đó đã tác động nhiều đến việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp ở tỉnh. Chất lượng hoạt động tranh tụng tại từng phiên toà xét xử án
hình sự nói riêng chưa đáp ứng theo yêu cầu tranh tụng. Nhận thức chung về cải cách tư
pháp và tranh tụng tại phiên toà nói riêng chưa được quan tâm thúc đẩy để nghiên cứu
nâng chất lượng. Do vậy, Viện Kiểm sát cùng các ngành tích cực tham mưu, đề xuất Ban
chỉ đạo Cải cách tư pháp của tỉnh có nghiên cứu chỉ đạo tháo gở cũng là vừa thể hiện vai
trò, vừa là giải pháp bảo đảm về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét
xử án hình sự trong tỉnh được tốt hơn.
KẾT LUẬN
Cải cách tư pháp ở nước ta là một yêu cầu cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Những năm qua, Đảng ta có nhiều Nghị quyết định hướng về
tiến trình cải cách tư pháp. Trong đó, vấn đề tranh tụng và nâng chất lượng về năng lực
tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự là
những vấn đề cần nghiên cứu làm rõ và tìm giải pháp để nâng cao.
Những kết quả Luận văn đã trình bày có thể kết luận khái quát như sau :
1. Nội dung đề tài góp phần nghiên cứu làm rõ thêm lý luận về vận dụng nguyên tắc
tranh tụng vào tố tụng xét xử tại phiên toà hình sự, sự cần thiết bổ sung nguyên tắc tranh tụng
vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, so sánh và làm rõ
thêm về nhận thức và nên quan điểm nghiên cứu của các tác giả đối với những vấn đề có liên
quan đến đề tài như quyền công tố, thực hành quyền công tố, năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự, các yếu tố cấu thành và các yếu
tố đảm bảo năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét xử án hình sự, những tác
động trong hoạt động tố tụng tại phiên toà của các chủ thể và những tác động khác làm ảnh
hưởng đến năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên.
2. Về mặt thực tiễn, để năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố tại phiên toà xét xử án hình sự được thực hiện tốt hơn nữa, cần có sự thực hiện đồng bộ
về nâng cao trách nhiệm thực hiện chức năng theo Luật quy định đối với các chủ thể là
Thẩm phán với chức năng xét xử, hoạt động của Luật sư với trách nhiệm bào chữa cho các
chủ thể tham gia tố tụng … tranh tụng với Kiểm sát viên thực hành quyền công tố mà tập
trung nhất là phần đối đáp, tranh luận nhằm thực hiện đổi mới việc tổ chức phiên toà xét
xử, xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng … theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 Bộ chính trị (Khoá IX).
3. Kiểm sát viên cần phải thường xuyên nghiên cứu học tập nắm vững các quy định
của pháp luật, nhất là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, các luật có liên quan, các văn
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, quy chế nghiệp vụ của ngành, tích cực nghiên cứu các
chuyên đề có liên quan đến hoạt động tranh tụng tại phiên toà hình sự; nghiên cứu và nắm
vững các quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
vì đó chính là những cơ sở quan trọng để có thể thực hiện việc tranh tụng đạt chất lượng
tốt tại phiên toà xét xử án hình sự.
Kiểm sát viên cũng cần nâng trách nhiệm về mặt tác nghiệp như nghiên cứu hồ sơ để
nắm vững nội dung vụ án, hệ thống tài liệu, chứng cứ qua hồ sơ, trích cứu những chứng cứ
có liên quan, chuẩn bị đề cương xét hỏi, chuẩn bị các luận cứ để bảo vệ quan điểm truy tố
đối với bị cáo, dự kiến các tình huống phát sinh cần tranh tụng, dự thảo bản luận tội.
4. Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố còn được thể hiện
tác phong, ngôn phong và kỷ năng đọc cáo trạng, kỷ năng đặt câu hỏi để xét hỏi, kỷ năng
trình bày luận tội, phát biểu quan điểm kết luận, kỷ năng tranh luận, đối đáp … nhất là
nhanh nhạy qua ứng xử khi bị phía bào chữa có thái độ, lời lẽ không đúng mực. Đây là sự
rèn luyện, phấn đấu ở mỗi cá nhân, kinh nghiệm riêng được tích luỷ học tập qua thực tiễn.
Cũng cần lưu ý, tuy đều là những vụ án thuộc lĩnh vực hình sự, nhưng tính chất của từng
vụ việc có khác nhau, đối tượng phạm tội cũng không giống nhau về nhân thân, về trình độ
nhận thức pháp luật, kiến thức xã hội; trình độ tranh tụng của Luật sư cũng được nâng lên;
công luận ngày càng quan tâm đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng …Do vậy,
luôn đặt ra yêu cầu không được chủ quan, tự mãn trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát
viên, phải luôn cầu thị và lắng nghe các ý kiến phản hồi từ đồng nghiệp, từ ngành bạn, từ
công luận… để mỗi Kiểm sát viên tự hoàn thiện mình, có năng lục tranh tụng ngày càng
tốt hơn, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ cải cách tư pháp theo chỉ đạo của ngành cấp trên.
5. Thực tiễn ở An Giang, năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên toà xét xử án hình sự đang đạt những tiến bộ mới, đã chọn được những
Kiểm sát viên tiêu biểu có năng lực tranh tụng tốt làm điển hình để đồng nghiệp học tập rút
kinh nghiệm chung.
Tuy vậy, so với yêu cầu vẫn còn nhiều Kiểm sát viên phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Ở cấp Huyện, năng lực tranh tụng thể hiện qua hoạt động tranh tụng chưa đồng đều, cấp
tỉnh vẫn còn một ít Kiểm sát viên tuổi đời trên 50 tuổi đang chựng lại và ít chịu nghiên cứu
tìm hiểu thêm, chủ quan theo kinh nghiệm nên hạn chế kỷ năng tranh luận đối đáp, thiếu
tính nêu gương học tập cho lớp Kiểm sát viên bổ nhiệm sau.
6. Những giải pháp nâng cao năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên toà xét xử án hình sự, trong đó có những giải pháp mang tính kiến nghị
chung đến Đảng, Nhà nước và ngành cấp Trung ương sớm nghiên cứu những vấn đề
vướng mắc mà ở địa phương không tự tháo gỡ được, nhất là về sửa đổi, bổ sung Luật, giải
thích Luật, về quy chế nghiệp vụ, về đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư
pháp ở các trung tâm đào tạo chuyên trách, chế độ đãi ngộ, trụ sở và phương tiện hoạt
động; nêu ra những giải pháp cụ thể, định hướng qua xây dựng các tiêu chí làm cơ sở cho
việc kiểm tra nâng chất lượng về năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm án hình sự ở tỉnh, giải pháp vừa mang tính chất
kiến nghị và cũng vừa thúc đẩy các cơ quan tiến hành tố tụng tham mưu cho Ban chỉ đạo
cải cách tư pháp của tỉnh quan tâm chỉ đạo nâng chất lượng cho việc thực hiện cải cách tư
pháp ở địa phương vừa tạo điều kiện nâng chất lượng năng lực tranh tụng của Kiểm sát
viên tại các phiên toà xét xử án hình sự. Đây chỉ là những giải pháp còn hạn hẹp chủ quan
của tác giả và cũng tin rằng, với những giải pháp đó sẽ góp phần thúc đẩy và đạt tiến bộ
mới trong hoạt động tranh tụng trong đó tố tụng hình sự ở tỉnh An Giang.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư Pháp, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị Quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Diệp (2003), Tranh tụng tại phiên tòa - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Đề tài khoa học của Học viện Tư pháp, Hà Nội.
6. Lê Duẩn (1970), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Trần Văn Độ (1999), Một số vấn đề về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ
“Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công
tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Viện Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
8. Phạm Hồng Hải (1999), Bàn về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ
“Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công
tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Viện Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
9. Hoàng Bá Khuyến (2007), Chức năng của các chủ thể trong tranh tụng, “Cơ sở lý
luận và thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 liên
quan đến tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Một số kiến nghị và giải pháp”, Tòa
án nhân dân Tối cao, Hà Nội.
10. V.I.Lênin (1971), Toàn tập, Tập 44, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Nguyễn Đức Mai (2007), Bản chất và các giai đoạn của quá trình tranh tụng tại
phiên tòa hình sự, “Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Một số
kiến nghị và giải pháp”, Tòa án nhân dân Tối cao, Hà Nội.
12. C.Mác - Ph.Ăngghen (1971), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Văn Nam (2004), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Đinh Xuân Nam (2006), "Một số vấn đề về văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên tại
phiên tòa", Tạp chí Kiểm sát, (08), tr.25.
16. Đinh Văn Quế (2008), "Một số vấn đề cần chú ý đối với Thẩm phán-Chủ tọa phiên
tòa khi xét xử vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, (14), Tr.20.
17. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự
(bổ sung, sửa đổi).
18. Hoàng Thị Sơn (2007), "Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các Bộ luật Tố tụng
hình sự", Tạp chí Luật học, (01), Tr.40.
19. Nguyễn Xuân Thanh (1998), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
20. Phạm Quốc Thành (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh rèn luyện đạo đức cho cán bộ,
đảng viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Tỉnh ủy An Giang (2008), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW
của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Ban Chỉ đạo
cải cách tư pháp, (số 65) ngày 29/8/2008.
22. Từ Điển Luật học (1999), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
23. Đào Thị Úc (2003), "Về vị trí, vai trò, đặc trưng và các nguyên tắc của hoạt động tư
pháp", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7), tr.6.
24. Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Những quy định về Viện kiểm sát nhân dân
và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
26. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002.
27. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quy chế tạm thời về công tác thực hành
quyền công tố và Kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết
định 121/2004/QĐ-VKSTC ngày 16/9/2004) của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Hà Nội.
28. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2007), Thống kê án hình sự từ 1998 đến
2007.
29. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2000), Báo cáo công tác kiểm sát xét xử hình
sự năm 2000, Phòng kiểm sát xét xử hình sự (số 1877) ngày 20/12/2000, Tr.14.
30. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2004), Báo cáo công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm án hình sự, năm
2004, Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm án hình sự (số 1902) ngày 20/12/2004.
31. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2005), Báo cáo Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị , về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Ban cán sự (số 1527), ngày 03/7/2007.
32. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2006), Báo cáo công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm án hình sự, năm
2006, Phòng thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm án hình sự (số 1879) ngày 18/12/2006.
33. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang (2008), Báo cáo tổng kết Hội thi tuyển chọn
Kiểm sát viên tiêu biểu, (Số 1028) ngày 20/5/2008.
34. Viện Ngôn ngữ học (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
35. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
36. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
37. Nguyễn Thế Vụ (2005), "Một số vấn đề nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát
viên tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm hình sự", Tạp chí Kiểm sát, (22).
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA
KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ 8
1.1. Khái niệm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự 8
1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực của kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa hình sự 23
1.3. Các yếu tố bảo đảm năng lực tranh tụng của kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự 30
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TRANH TỤNG CỦA KIỂM
SÁT VIÊN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TẠI
PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ Ở TỈNH AN
GIANG 37
2.1. Thực trạng năng lực tranh tụng của kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang 37
2.2. Nguyên nhân của những thiếu sót, tồn tại về năng lực tranh tụng của
kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự
ở tỉnh An Giang 62
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NĂNG LỰC
TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ ÁN HÌNH
SỰ 69
3.1. Quan điểm bảo đảm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự 69
3.2. Những giải pháp bảo đảm năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang 74
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang.pdf