Nghệ thuật tạo dựng ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của Mạc Can rất đa
dạng. Ngôn ngữ nhân vật chủ yếu là ngôn ngữ đời sống, vì thế bớt đi vẻ sang trọng
nhƣng rất gần gũi với sinh hoạt hàng ngày. Điều này góp một phần vào việc phát
triển ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ. Còn ngôn ngữ ngƣời kể chuyện với tƣ
cách là một dạng ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rất giàu xúc cảm. Tác giả sử dụng
nhiều từ ngữ chỉ các trạng thái tâm lý khi miêu tả con ngƣời hay thiên nhiên. Mặc
dù vậy cũng có khi giữa ngôn ngữ nhân vật và ngƣời kể chuyện đan xen vào nhau
mà chủ thể là “tôi” điển hình là tiểu thuyết Tấm ván phóng dao. Đó là dụng ý của
tác giả khiến ngƣời đọc nhƣ bị lôi cuốn vào tác phẩm. Dù ở dạng ngôn ngữ nào nhà
văn đều thể hiện khá thành công tính cách của mỗi nhân vật. Mặt khác, những đặc
trƣng của ngôn ngữ thơ đƣợc ông dụng công khai thác để tạo nên vẻ đẹp riêng cho
ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết. Ngôn ngữ có khi đƣợc trau chuốt, tinh lọc, đôi
khi mang sắc thái của ngôn ngữ kịch nghệ, lắm khi lại đậm nét Nam Bộ. Ông đã tạo
ra đƣợc một ngôn ngữ cho riêng mình. Đó là thứ ngôn ngữ vừa đậm chất hiện thực
- đời thƣờng, vừa mang tính triết lý đa dạng về giọng điệu.
105 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đánh tao, hả thằng
chó đẻ”. “Xin lỗi tao đái trong quần” [9, 432]
77
Nhà văn Mạc Can đã sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau: từ ngữ khẩu ngữ, địa
phƣơng, sinh hoạt hàng ngày... Điều này góp một phần vào việc phát triển ngôn ngữ
mang đậm sắc thái Nam Bộ trong thời kì đƣơng đại.
3.2.3. Ngôn ngữ trau chuốt, tinh lọc
Ngoài hai dạng ngôn ngữ kịch nghệ và ngôn ngữ Nam bộ, còn có dạng ngôn
ngữ khác đƣợc tác giả tạo nên bởi sự phức điệu mang màu sắc khách quan và chủ
quan trong giọng nói của nhân vật. Đó là những ngôn ngữ đƣợc trau chuốt và tinh
lọc trong từng câu văn, từng lời nói. Cụ thể, tiểu thuyết của Mạc Can có sự đan xen
giữa những thể loại ngôn ngữ khác nhau nhằm thể hiện nội tâm nhân vật rất sâu sắc
thông qua Tấm ván phóng dao, nhân vật tôi kể lại cuộc đời mình: “Tôi đã đứng suốt
thời thơ ấu của tôi sau tấm ván phóng dao, hàng đêm tôi nhìn những lƣỡi dao bay,
rồi tôi tập phóng những lƣỡi dao, trên những bờ sông vắng, để mà nhìn cho tỏ tƣờng
đƣờng bay của nó. Chỉ cần lệch một chút thôi, thì chuyện sẽ khác hẳn, nhƣ tôi đã
hết sức chứng minh, một con ngƣời không cách nào tránh khỏi một vài lần vô ý
phân tâm Tôi tiếc là đã không hành động ngay từ đầu, để ngăn chận. Bây giờ em
tôi đã quỵ xuống ôm cái đầu nhỏ của nó, chút tóc lƣa thƣa bê bết máu, máu thấm đỏ
chiếc áo sơ mi sa-ten trắng của nó, thấm xuống tận đôi chân mang đôi giày bata
trắng tinh, cánh hoa lục bình trên tóc nó cũng nhuộm máu” [8, 174-175]. Và “Tôi
nhận ra một cách thản nhiên và muộn màng. Tôi đã không chọn mà có cuộc đời bất
trắc và khổ ải cho mình, tuy nhiên điều đó thú vị thật, số vốn này quá lớn mà lại ít ai
có! Ông tôi, cha tôi, mẹ tôi, anh em tôi, nào đã chọn tất cả đều trong thế bị động” [8,
186].
Mạc Can thƣờng chủ yếu khai thác những biểu hiện của tâm lý nhân vật trong
những tình huống tâm trạng, nên ngôn ngữ nhà văn sử dụng là thứ ngôn ngữ giàu
cảm xúc rất trau chuốt. Con ngƣời, cảnh vật thiên nhiên trong các truyện đƣợc nhà
văn tập trung khắc hoạ ở chiều sâu tâm hồn, nội tâm của nó. Thế giới nội cảm của
con ngƣời, bức tranh ngoại giới đƣợc bộc lộ qua mật độ những từ ngữ chỉ các trạng
thái cảm xúc tham gia với tần số tƣơng đối cao. Qua đó nhà văn gửi gắm tình cảm
78
của mình và luôn có ý thức tạo nên những áng văn thấm đẫm chất trữ tình. Vì thế
ngƣời đọc cảm nhận đƣợc những tình cảm chủ quan của tác giả đƣợc gửi gắm sau
cách miêu tả, cách kể, cách cảm nhận, có khi đƣợc biểu cảm một cách trực tiếp
nhƣng cũng nhiều khi biểu cảm một cách gián tiếp. Mạc Can cũng sử dụng nhiều từ
ngữ chỉ các trạng thái tâm lý cả khi miêu tả con ngƣời hay thiên nhiên. Trong Tấm
ván phóng dao, thiên nhiên ngoại giới đƣợc nhìn qua tâm trạng nhân vật: “Không
có gì làm tôi sợ hơn là cơn mƣa lúc nửa đêm, vì với riêng tôi nhìn giọt mƣa rơi long
lanh, nghe tiếng mƣa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắc
nhở lại quá nhiều nỗi buồn của cuộc đời đã qua Mƣa làm cho sân khấu phông
màn buông rũ buồn hiu. Con hát đói lạnh không biết ngày mai sẽ ra sao. Mƣa rơi
lộp độp trên mái nhà lồng chợ vắng tanh, chợ không ngƣời, sân khấu không ánh
đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nƣớc. Tiếng mƣa rơi
hoài não ruột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi, bàn tay
lạnh vô tình ” [8, 9]. Trong cùng một thiên truyện thế nhƣng ngƣời đọc bắt gặp
đoạn văn này tiếp nối đoạn văn khác với những từ ngữ chất chứa tâm trạng: “Những
vết thƣơng không bao giờ lành, đau đớn, ẩm ƣớt. Ngoài kia một khoảng không gian
u ám còn một mình tôi trơ trọi, ngơ ngác, mộng du, nửa thức nửa ngủ, tôi đi, mơ
hồ giữa trời đêm. Buổi sáng nào, ở đâu nơi tôi ngang qua cũng đƣợm buồn” [8, 10].
Tâm trạng của nhân vật đƣợc biểu cảm một cách trực tiếp: “Tôi trộm nghĩ đầu tiên,
sau khi tôi làm một phôi thai, tôi làm một trái tim nhỏ, lo lắng, hồi hộp, tự thân tôi
không thể nghe đƣợc nhịp đập của tôi tôi khóc vì một vết cắt đau nhói nơi nào
trong thân thể tôi” [8, 13]. Những đoạn văn ấy xuất hiện liên tiếp trong tiểu thuyết
Tấm ván phóng dao thấm đẫm cảm xúc buồn. Dƣờng nhƣ nỗi buồn đeo bám con ngƣời
mọi nơi, mọi lúc, tràn lên cả cảnh vật nhƣng buồn nhất là những đêm mƣa.
Có không ít các tác giả đã vận dụng thật khéo léo những kinh nghiệm từ nghệ
thuật thơ ca để trau chuốt làm cho lời văn của mình ngân lên những giai điệu riêng.
Trong nghệ thuật thơ ca, chất nhạc đƣợc tạo dựng từ sự hòa phối ngữ âm nhờ các
thao tác tƣơng ứng nhƣ phối thanh điệu, ngắt nhịp, sử dụng từ láy, điệp từ, điệp
ngữ, sử dụng phép lặp, điệp cấu trúc cú pháp, phép sóng đôi Và Mạc Can trong
79
rất nhiều truyện của mình đã sử dụng khá linh hoạt các biện pháp nghệ thuật nói
trên và đã đạt đƣợc những hiệu quả đáng kể. Vì thế, ngôn ngữ truyện trong các tác
phẩm của Mạc Can luôn có sự trau chuốt và tinh lọc.
Nhìn chung, ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của Mạc Can đƣợc thể hiện
một cách độc đáo mà tự nhiên, đó là ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội
tâm của nhân vật. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện với tƣ cách là một loại ngôn ngữ của
nhân vật trong tác phẩm cũng đƣợc thể hiện phong phú. Hai ngôn ngữ này luôn thể
hiện một cách thƣờng trực trong sáng tác của Mạc Can, đặc biệt là tiểu thuyết. Tuy
nhiên cũng có khi giữa ngôn ngữ nhân vật và ngƣời kể chuyện đan xen vào nhau mà
chủ thể là “tôi”. Đó là dụng ý của tác giả khiến ngƣời đọc nhƣ bị lôi cuốn vào tác
phẩm.
3.3. Giọng điệu trong tiểu thuyết Mạc Can
3.3.1. Giọng bông lơn
Văn chƣơng Mạc Can có một điều rất đặc biệt, đó là giọng bông lơn trong
ngòi bút. Giọng điệu ấy giúp ngƣời đọc nhận ra một cái tôi tác giả Mạc Can nhân
hậu, yêu thƣơng nhƣng cũng hài hƣớc hóm hỉnh nhƣ cái nghiệp diễn, cái danh hài
đã ăn sâu vào trong mỗi “tế bào” của con ngƣời tác giả, biết thắp lên những niềm tin
tốt đẹp vào tình đời, tình ngƣời trong cuộc sống.
Cuộc đời Mạc Can trải qua vô vàn chuyện trái ngƣợc và buồn cƣời. Nhƣng
những khi chán chƣờng nhất trong cuộc đời ông vẫn cƣời lạc quan. Ông chia sẻ:
“Cƣời là biểu hiện của cảm xúc, nó bắt nguồn từ bên trong nhƣng đôi khi cũng từ
những thứ bên ngoài tác động vào. Tôi đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc
sống, tinh thần lạc quan là chiếc phao giúp tôi bơi vào bờ những lúc bế tắc nhất.
Hiện thực trƣớc mắt tôi nhiều lúc rất chua chát nhƣng không thể lảng tránh đƣợc, cứ
nhìn thẳng vào mà cƣời và khi cƣời trƣớc những tình huống không thể cƣời đƣợc là
80
xem nhƣ mình đã chiến thắng đƣợc hoàn cảnh” [66]. Văn ông là con ngƣời ông, hài
hƣớc cả trong những tình huống bi kịch, thƣơng tâm.
Tiểu thuyết của Mạc Can, nhƣ nhiều lần chúng tôi đã nhắc đến, man mác một
giọng trữ tình buồn thƣơng, bởi chính những gì nhà văn đã chứng kiến, và bởi chính
những gì thuộc về tự nghiệm của nhà văn từ số phận của mình - một số phận nhiều
trắc trở, nhiều lận đận, nhàu nát về tinh thần, và nhàu nát ngay cả trên gƣơng mặt
từng trải. Tuy nhiên, vốn là một diễn viên, một danh hài, dƣờng nhƣ ở tình huống
nào, bên cạnh cảm nhận về cái buồn, cái đau Mạc Can vẫn nhận ra một khía cạnh
hài hƣớc nào đó để bông đùa. Hoặc, cũng có thể, trong tột cùng nỗi buồn thƣơng,
nhà văn cố gắng tìm ra những điều có thể bông lơn đƣợc, dẫu biết rằng, đôi khi “vui
là vui gƣợng kẻo mà”. Nhiều khi chính giữa những câu chuyện buồn, giữa những éo
le, ngang trái, đau đớn, Mạc Can vẫn gửi vào trong đó những nụ cƣời hóm hỉnh
nhƣng không phải vì vui mà cƣời. Bằng chất giọng ấy, Mạc Can đã khéo léo chỉ ra
mặt trái của xã hội. Không mỉa mai phê phán một cách gay gắt, quyết liệt nhƣ các
tác phẩm của các tác giả khác, giọng điệu hài hƣớc hóm hỉnh trong văn xuôi Mạc
Can có phần nhẹ nhàng hơn. Chính cái cƣời nhẹ nhàng trong chua chát ấy góp phần
tạo nên một cái gì đó nhƣ là những tin yêu còn sót lại của Mạc Can đối với cuộc
đời.
Ngay cả hình thức hài hƣớc trong tiểu thuyết của Mạc Can cũng là một suy
nghiệm về con ngƣời và cuộc đời, một tự nghiệm về số phận mình. Cái cƣời của
Mạc Can đôi khi nhƣ vung vãi một cách bâng quơ, một cách vô thức, vô định nhƣng
thực ra lại đầy chủ ý. Trong Phóng viên mồ côi, với chất giọng khá hài hƣớc Mạc
Can đã đƣa vào trong truyện vô vàn cảnh bắt bớ, tù đày, bom đạn loạn lạc, buôn bán
thuốc phiện kể cả vài cuộc đảo chính trong chính quyền Sài Gòn cũ trƣớc năm
1945. “Sao tự nhiên mày bắt tao vào đây? Má mày chửa hoang hả? Sao tự nhiên
mày đánh tao, hả thằng chó đẻ” [10, 17]. So sánh cái nỗi sợ của một viên đại tá
trong ban lễ tân tác giả viết: “Chỉ có anh là số một - báo với anh là nhờ vậy mà
thằng đại tá bƣng bô cho ngƣời ta đái này. Tôi - Chính tôi sẽ còn lo cái chuyện lễ
81
tân, giúp vui cho câu lạc bộ Tổng tham mƣu ít nhất là một thời gian dài”. Thỉnh
thoảng nhà văn lại đƣa vào những so sánh bất ngờ, thú vị: “Ngƣời ta nói Võ Đại
Lang, thì phải có Phan Kim Liên và Tây Môn Khánh. Võ Đại Lang tân thời không
bán bánh bao, mà giặt ủi. Phan Kim Liên bán bia ôm. Còn Tây Môn Khánh có gác
cho thuê, có bàn bi da cho mƣớn” hay “Chiếc ghế lạnh chỉ có thể hẹn hò với cô gái
nào trong cảnh thanh bình. Nhƣng nó đã giúp Tuấn, vừa mới 16 tuổi rƣỡi, cao hơn
và hứng đầu một viên đạn mồ côi” [10, 35].
Giọng điệu bông lơn tự nhiên ấy có đƣợc còn nhờ nhà văn sử dụng phƣơng
ngữ Nam Bộ với tần số khá cao. Văn của Mạc Can mang hơi thở mộc mạc, hồn hậu
của đời sống. Vì thế không câu nệ sự trau chuốt, gọt giũa ngôn từ cầu kỳ, không coi
trọng kỹ thuật nên nhà văn cũng tạo nên giọng điệu theo kiểu nghĩ sao nói vậy, thấy
sao kể vậy rất đặc trƣng của ngƣời miền Nam.
Tác phẩm của Mạc Can sử dụng chất giọng mỉa mai, hài hƣớc nhƣ một liều
thuốc hữu hiệu để lột tả bản chất sự việc. Các hình ảnh lặp đi lặp lại một cách có
chủ ý khiến cho ngƣời đọc nhƣ đƣợc chứng kiến những màn kịch ngắn chứa đựng
đầy mâu thuẫn hài hƣớc.
3.3.2. Giọng tâm tình
Mạc Can viết văn chƣa lâu song ông đã thử sức ở nhiều thể loại khác nhau với
nhiều giọng điệu khác nhau, nhƣng dù thể loại nào thì giọng điệu trong các tác
phẩm của Mạc Can cũng là giọng tâm tình. Đành rằng, mỗi tác phẩm, mỗi tác giả có
một giọng điệu khác nhau nhƣng nó luôn thống nhất trong một giọng điệu cơ bản và
chủ đạo nào đó. Giọng tâm tình đã xuất hiện từ lâu trong các thời kỳ văn học trƣớc.
Ở mỗi thời kỳ văn học, giọng điệu này luôn đƣợc thể hiện với những sắc thái riêng
để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của ngƣời viết. Không phải đến Mạc Can thì giọng điệu
tâm tình này mới đƣợc phát huy tác dụng nhƣng Mạc Can đã vận dụng những gì sẵn có
để biến tấu theo những dụng ý nghệ thuật riêng của mình. Giọng tâm tình, thủ thỉ
dƣờng nhƣ có mặt hầu hết trong các thiên truyện của Mạc Can, nó thẩm thấu vào tất cả
82
những yếu tố lời văn, hình tƣợng của tác phẩm. Giọng điệu ấy nhiều khi đƣợc tạo ra từ
những khoảng trống, từ những điều không đƣợc nói tới trong tác phẩm. Ngƣời đọc chỉ
có thể lĩnh hội và cảm nhận đƣợc thông qua chính quá trình đọc, cảm nhận từng câu,
từng chữ, qua lời diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh, sự cộng hƣởng giao thoa,
xuyên thấm vào nhau của tất cả những bình diện trong tác phẩm.
Mạc Can đã tối ƣu hoá chất liệu giọng điệu khá đặc biệt này. Giọng điệu thể
hiện cách nhìn đời, nhìn ngƣời thấm đẫm tinh thần nhân văn của Mạc Can. Truyện
của Mạc Can lại là loại truyện dƣờng nhƣ không có cốt truyện, mỗi câu chuyện là
một lời thủ thỉ tâm tình của tác giả về một số kiếp cơ cực nghèo hèn. Truyện của
ông không có cái giọng ồn ào, gay gắt với những mâu thuẫn, xung đột. Sinh ra và
lớn lên trong gia cảnh đói khổ, bần hàn, hơn ai hết Mạc Can thấm thía sâu sắc về
cuộc sống lam lũ của những số phận nghèo khổ bất hạnh. Ông không ƣa cái lối
“rống lên thống thiết” mà ƣa lối phô bày cái nôm na, thật thà, đáng yêu, cái thủ thỉ
tâm tình. Chất giọng ấy phù hợp với việc miêu tả đời sống của ngƣời dân nông thôn
và thành thị nghèo, những con ngƣời có cuộc sống giản dị. Giọng văn Mạc Can
trầm ấm, gần với giọng điệu cổ tích, nhịp văn chậm gọn, nhƣ thủ thỉ tâm tình kể cho
ta nghe về câu chuyện của cuộc đời.
Giọng tâm tình thể hiện đậm đặc trong Tấm ván phong dao và thể hiện trên
nhiều phƣơng diện. Toàn bộ câu chuyện gần nhƣ thống nhất với giọng điệu ấy. Từ
cách gọi tên các nhân vật: Anh Hai, cậu Ba, cô Tƣ, chú Tài say... đầy thân mật đến
các nhân vật trong tác phẩm về lai lịch, nguồn gốc xuất thân, phác hoạ về ngoại
hình rồi gợi tả về tính cách. Qua đó, Mạc Can kín đáo thể hiện cái nhìn về cuộc đời,
về số phận của họ. Tấm ván phóng dao thực sự là một câu chuyện man mác buồn về
một kiếp ngƣời với thân phận nổi trôi nay đây mai đó. Nhân vật nhiều khi phải đặt
cƣợc đời mình cho cái trò phóng dao nguy hiểm để mƣu sinh, để tồn tại. Truyện đã
tạo đƣợc sự hấp dẫn cuốn hút độc giả đi theo không ngừng từ đầu đến cuối bởi
những tình tiết và tâm lý nhân vật đã mật thiết lồng vào nhau trong một bố cục, một
hình thức văn phong phong phú, một giọng điệu tâm tình thu hút.
83
Câu chuyện nhiều đoạn thấm đẫm màu sắc tự truyện, nhiều lúc ta cứ ngỡ nhƣ
đang nghe tác giả kể lại về cuộc đời mình. Một anh hề gánh xiếc đam mê chữ nghĩa,
một anh hề với những suy tƣ chiêm nghiệm, những rung động tình cảm, tinh tế
nhiều vẻ. Giọng văn chậm rãi tâm tình thủ thỉ:
“Tôi cũng đã quen cách sống này, sạp chợ hay thớt thịt cũng xong buồn cƣời
là tôi chƣa hề có một cái gối, tôi luôn gác đầu lên khuỷu tay rồi ƣớc mơ. Tôi mơ
nhiều nhất là đƣợc tới trƣờng học, mà suốt cuộc đời trôi sông lạc chợ của tôi, tôi
thƣờng thấy ở nhiều thị trấn hay những làng quê, đó là ngôi trƣờng làng với tiếng
trống thôi thúc vui tai. Có lẽ “kiếp trƣớc” tôi cũng giỏi chữ và rất chăm học, cho
nên trong những giấc mơ tôi nhìn chữ rất quen thuộc, mới đó tôi đã thuộc, điều kỳ
dị là dù học trong giấc mơ (trƣớc đó không đƣợc học một chữ cái làm thuốc) tôi...
cũng gần nhƣ biết chút chữ rồi” [8, 38-39].
Cái tâm tình về giấc mơ khát chữ cháy lên trong lòng nhân vật tôi. Nó thƣờng
trực mọi nơi, mọi lúc cả lúc tỉnh và cả trong mơ. Đó là khát vọng của một kiếp
ngƣời, một thân phận mà cuộc đời nổi trôi trên sông nƣớc, nay đây mai đó tiếc thay
cuộc đời không có những trƣờng học, lớp học “lƣu động” để cho những đứa trẻ nhƣ
“tôi” đến lớp đƣợc học chữ. Giọng điệu tâm tình thủ thỉ ấy có lúc thảng thốt, da diết
trên suốt cả trang văn: “Tôi ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác, một cõi thiên đƣờng trong
mơ đã mất, trƣờng học của tôi đâu mà tôi còn lẩm bẩm đánh vần. Tôi cố nhớ lại
những dòng chữ đã học, nó nhạt hoà trong nắng đỏ mƣa dầm của những chuyến đi
dài thăm thẳm. Ngôi trƣờng thân yêu của tôi, cây bàng, tiếng trống, bạn bè, chỉ là
trong hƣ không. Tôi nhớ tôi có một ngƣời bạn gái nhỏ trong một lớp học nào đó” [8,
39].
Trong dòng tâm tình của nhân vật, giấc mơ nối tiếp giấc mơ và trong những
giấc mơ ấy là những trăn trở về nỗi buồn thấm thía của kiếp làm ngƣời: “Lúc nào
cũng vậy, khi tôi nhắm mắt, ban đầu thƣờng có những đốm sáng lập loè, đó chính là
ánh lửa trong ánh đèn bão, thời thơ ấu của tôi, rồi là chữ, chỉ có chữ, tôi khát chữ
đến độ điên cuồng, ở kiếp nào đó, ở một thế giới nào đó tôi là nhà thông thái. Tôi
84
biết quá nhiều điều nhƣng rồi tôi đã làm sai một điều gì đó khiến cho tôi bị xoá đi,
cả tôi và cả những điều tôi học, giờ đây tôi biến thành kẻ lƣu đày u tối, tôi là kẻ tội
đồ, một kẻ thủ ác. Tôi nhìn thấy một cột khói hình nấm, với ngọn lửa phủ trùm vạn
dặm, quá nhiều ngƣời bị thiêu cháy, tàn độc. Đúng vào năm tôi sinh ra, năm một
ngàn chín trăm bốn mƣơi lăm, còn tôi hoá kiếp trốn đi nhƣ một kẻ đào tẩu”[8, 40].
Đoạn văn với liên tiếp những câu dài, nhịp điệu gấp gáp, dồn dập góp phần đắc lực
trong việc thể hiện diễn biến tâm trạng nhân vật.
Giọng tâm tình là giọng điệu chủ đạo của tác phẩm Tấm ván phóng dao. Vì thế
liên tiếp những đoạn văn nối dài trong cái giọng điệu ấy. Đây là lời thủ thỉ, tâm tình
với gió của bà Tƣ: “Gió ơi, nói nầy, nghe nè, biết không, ngƣời anh thứ ba của tôi
có vẻ khác thƣờng với mọi ngƣời, vì vậy mà anh cô độc, tội nghiệp anh phải chịu
đựng quanh năm suốt tháng với những ánh mắt trêu chọc của tất cả thế gian. Tới
nhƣ tôi là em một nhà với anh mà cũng có khi mỉm cƣời, lúc nào trông thấy anh,
chuyện anh từ chối làm thằng hề đi rao bảng là anh từ chối xuất hiện trƣớc đám
đông một cách lố bịch, không ra hình ngƣời, tôi nghĩ anh có quyền đƣợc từ chối cái
điều ấy một cách chính đáng một cách khiêm tốn, phải chƣa?” [8, 66]. Lời tâm tình
thủ thỉ ấy, những dòng suy tƣ tràn ra thành chuỗi, thành dòng chảy cảm xúc, có
những đoạn lời tâm tình trải dài trên năm, sáu trang sách.
Khi ba anh em còn nhỏ, anh Ba là ngƣời gần em nhất, anh cõng em qua những
vũng nƣớc mƣa, anh hái cho em những trái bần xanh và những nhánh bông lục
bình, em thƣờng nhìn anh nói chuyện với tấm ván, bạn thân nhất của anh, nó cũng
khổ nhƣ anh và em. Anh nói: “Tấm ván ơi mầy khổ quá, đúng là tấm ván khổ, suốt
bao năm trên thân mày hằn bao vết dao, không khác tấm thớt” nhƣng một ngƣời nói
chuyện với tấm ván vô tri là ít có và khiến cho ai cũng tức cƣời khó hiểu! Song anh
còn nói với ai đƣợc, bởi vì suốt ngày anh chỉ có nó nhƣ là em chỉ có xâu chuỗi, anh
thƣơng tấm ván nhƣ một ngƣời, anh thƣơng em nhƣ trái tim anh, khuôn mặt đầu
tiên em nhìn thấy là anh, lúc đó anh cúi xuống nhìn em, anh nheo mắt làm hề với
em, em cƣời, từ lúc đó và lúc nào em cũng nhìn anh không chán, anh thật ngộ
85
nghĩnh, ít ngƣời nhƣ anh, với em chỉ có anh là vui. Đó là gƣơng mặt của một ngƣời
tử tế, có ánh mắt dịu dàng, ánh mắt là tấm gƣơng soi tâm hồn của một ngƣời, anh có
đôi mắt cƣời nhƣng ƣu tƣ phiền muộn. Đôi khi anh chợt trở nên vui tính thái quá
sau đó nỗi buồn phiền lại xâm chiếm anh, em thì lúc nhớ khi quên, duy chỉ một
chuyện em nhớ rõ nhất là khi Cha rã gánh xiếc rong, ông lại về trong một khu nghĩa
địa. Tức cƣời là cả gia đình mình không có nổi một mái nhà, mặc dù đôi khi Cha
cũng có ý định đó nhƣng rồi ông lại quên đi, Cha nhƣ ngƣời du mục hẩm vận, em
nhớ là Mẹ luôn nói Cha không biết lo xa, ông cũng biết nhƣng ông là vậy, đã là vậy.
Em không nhớ lúc nào tự nhiên em đứng trƣớc tấm ván phóng dao, nó xa xôi quá,
nhƣng em nghĩ rằng do em không bao giờ khóc, Mẹ thƣờng nói em lỳ, có lẽ đó là
nguyên nhân em đƣợc chọn làm cô đào con của tiết mục này. Em có nhiều tƣởng
tƣợng hơn ngƣời, em cho rằng những lƣỡi dao không thể chạm vào ngƣời em đƣợc,
em nghĩ nó là một nghệ thuật giúp cho khán giả giải trí giây lát, thậm chí có lúc
nhìn những lƣỡi dao bay về phía mình em còn nghĩ nó là những cánh hoa, em thật là
mơ mộng Nhƣng có một hôm em nhìn Mẹ làm những con cá, em thấy những lƣỡi
dao này không khác cho lắm những lƣỡi dao kia, sau đó em bắt đầu thấy sợ, càng
đứng nhiều buổi với trò phóng dao em càng sợ, em là con cá trên tấm thớt không
khác.Tim em cứ rộn ràng nhƣ một ngƣời thiếu nữ sợ ai đó họ sẽ xuất hiện thình
lình, ngƣời đòi món nợ chính là những lƣỡi dao, em không có cách nói nào khác,
bởi nó là nhƣ vậy. Một buổi em mở cái rƣơng của anh Hai tò mò coi những lƣỡi
dao, nó hoàn toàn khác, khác hơn nhiều lúc nó ở trên sân khấu, nó nặng và thô kệch
điều đó em không nói, nhƣng nó vô tri, vật vô tri có biết gì mà không gây tội, anh
biết không đó là một ngày khá đẹp trời, Mẹ đang ngồi bói bài, em bỗng lạnh toát cả
ngƣời, trời đất tối xầm đi, đó là cơn chóng mặt khó hiểu, em thấy những lƣỡi dao
gần nhƣ nhảy tƣng, nó hết sức hiếu động trên tay em, nó không phải là cánh hoa,
mà là sắt thép bén nhọn lạnh lùng, con ngƣời thật khổ vì trí tƣởng tƣợng và ngây
thơ. Em ít nói dần và chỉ nghĩ một ngày nào đó lƣỡi dao sẽ xuyên qua ngƣời em,
tim em đập nhanh những lần nhìn lƣỡi dao bay tới, rồi khi không có biễu diễn tim
em vẫn đập khác thƣờng, em hay chóng mặt và cơ thể yếu dần, em thấy những oan
86
hồn vẫy gọi em, có khi ban ngày, em chết khi còn sống. Không chỉ là sợ những lƣỡi
dao, em còn sợ cả những ngƣời đang sống chung quanh em, con ngƣời sao mà ác
cứ thế mỗi đêm biểu diễn em nhìn thấy biết bao khuôn mặt vô tình, những nụ cƣời
và những tràng pháo tay, nhƣng có gì vui khi nhìn một đứa con gái trƣớc những mũi
dao. Em biết anh đang ở ngoài sau tấm ván, vì em nghe nhịp thở của anh, sự nổi
giận của anh, kể cả sự thụ động tới chai lỳ của anh, anh không dám nói, vì vậy càng
ngày anh càng khác thƣờng hơn em sợ cái tâm thiện của anh mà sự bất nhẫn làm
cho ngƣời ta đôi khi trở thành ác tính, có khi là vậy. Em đã làm cô đào đứng trƣớc
tấm ván phóng hết một thời con gái. Ngày cha mỏi mòn phải rã gánh hát của ông,
anh em mình cũng đã có tuổi những ngày tƣơi đẹp nhất của đời ngƣời qua mau một
cách phí hoài, sau đó là một chuỗi ngày truân chuyên mình không có một cái nghề
trong tay, không có một đồng xu khởi nghiệp. Cha không chuẩn bị gì cho các con
chỉ có Mẹ tiên liệu mọi bề, bà chắt chiu từng cắc vốn trong con heo đất của bà.
Nhƣng em đã mất sự bình thƣờng do em chƣa bao giờ có niềm vui, chƣa có một
ngày hạnh phúc, nhƣ những ngƣời con gái khác, em cảm thấy em kỳ lạ mà ngƣời
khác cũng nói vậy, em không sống gần ai đƣợc, em biết mình cố chấp nhƣng không
thể khác, một ngày một giờ nào mà chung quanh có ngƣời em thấy tủi thân, phiền
muộn, em xin lỗi mọi ngƣời, tại cái số của em là vậy. Ai nói em không cần sống gần
con ngƣời, nhƣng biết sao bây giờ, em nhƣ ngƣời bị bỏ quên, em sợ, một chiếc lá
rơi nhẹ em cũng giật mình, một cơn gió thoảng qua thềm cũng làm cho em co ngƣời
lại, một lời nói thông thƣờng cũng làm em lạnh ngƣời huống chi là một lời tỏ tình
đã quá muộn màng đối với em. Lời tỏ tình dù êm dịu, và thực lòng đi nữa, nhƣng
tim em làm sao chịu nổi, nó sẽ làm em chết đi vì hạnh phúc, em xác xơ không ra
hình ngƣời nữa, tâm can em bấn loạn bất thƣờng em tìm một nơi hiu quạnh, chỉ
mong sống yên cho tới cuối đời, em ít ra khỏi nhà, em sợ phải đi qua đƣờng, mặc dù
nơi em ở chỉ có con đƣờng nhỏ síu siu, hầu nhƣ không có một dấu chân. Con
đƣờng, anh em mình đã đi qua biết bao là con đƣờng, hầu nhƣ mọi ngã đƣờng, vậy
mà con đƣờng síu siu một vài gang tay trƣớc nhà em, em chỉ nhìn nó, vì biết rằng
nó cũng chẳng còn đƣa mình tới đâu hơn là nơi cuối cùng mọi ngƣời đều phải tới
87
Nỗi đau của riêng em không còn là chuyện bị sát thƣơng da thịt, nỗi đau lớn hơn
nhiều, nó ở đâu nơi sâu thẳm nhƣ những hạt cát tội nghiệp dƣới lòng biển, nơi mà
ngàn năm trƣớc, triệu năm sau, có khi nào ánh mặt trời soi rọi tới, nó là một cõi im
lặng trầm ngâm vĩnh hằng” [8, 66-70] Có khi bà Tƣ trò chuyện, tâm tình với con
mèo hay chiếc lá vàng rơi rơi: “Lá ơi, năm em 16 tuổi thì cha em rã gánh hát, cả nhà
phải vô ở đậu nhà chú út trong một nghĩa địa, chú là em một cha khác mẹ với cha
em. Nghĩa địa hoang vu, cỏ dại mọc cao hơn đầu ngƣời với hàng trăm ngôi mộ xƣa
cũ, có cái sạt lở không ngƣời chăm sóc, có cái còn nguyên vẹn hình khối nặng nề
bằng đá ong màu đỏ xậm. Ban ngày nắng chói chang, gió đùa những chiếc lá khô
rơi trong đám bụi hồng nhƣ phấn, một cách điểm trang muộn màng, còn đêm về
lạnh buốt xƣơng, ẩn hiện trên những tàn cây đen sì là bầy đom đóm lập loè, hàng
triệu chiếc lá lao xao phát ra tiếng thì thào, nhƣ một đám đông tranh nhau trò
chuyện. Chú út làm nghề chở lu từ lò nung xuống tận Sài Gòn bán, chú chở bằng xe
đạp, lúc nào về cũng say mềm. Cha em tóc bạc trắng, lúc nào cũng ngồi trƣớc thềm
nhà nhìn quanh quẩn, còn mẹ thì cứ cằn nhằn cha từ sáng tới tối. Anh Hai em đi biệt
tăm, còn anh Ba lang thang ngoài những ngôi mộ, có đêm anh ngủ luôn ngoài đó,
anh ngồi viết rồi vẽ những cái hình kỳ lạ trên cát, anh cứ chắc lƣỡi rồi khẽ lắc lắc
đầu, cũng có lúc hình nhƣ anh nói chuyện với ai thì ra anh nói chuyện với cái bóng
của mình Một hôm em bỗng nhìn thấy thấp thoáng qua đầu ngọn cỏ, trong đêm
nhà ai leo lét ánh đèn dầu, nơi đó trong sƣơng khói có một ngƣời học trò, vẻ mặt
đăm chiêu về sau này chính anh dạy cho em và anh Ba của em một vài chữ, em chợt
bâng khuâng khi nào trông thấy anh, còn anh Ba thì khác thƣờng hơn, anh nhƣ mẩu
viết chì vụn trên bàn, sau đó mẩu chì này biến mất. Bỗng nhiên da em cứ trắng dần,
nếu nhƣ ai nhìn thấy em trong đêm ngƣời ta sẽ sợ, em không biết em bị bệnh gì, có
lẽ em quá suy kiệt, mọi ngƣời nhìn em lo ngại, từ đó em ở suốt trong nhà, em nghĩ
em ở trong nghĩa địa coi bộ thích hợp với em hơn. Chính em cũng không dám soi
gƣơng nhìn mình, nhƣng đúng vào lúc này em lại gặp một ngƣời, khổ thay đó là
mối tình đầu cũng là mối tình duy nhất vắt vai của em, nó vẫn không trọn, nhƣ tất
cả mọi việc trong đời em, vì em có giám nói gì với ngƣời ta đâu! Em nhƣ chiếc lá
88
khô rơi muộn màng, trang điểm làm gì với bụi phấn, nhƣng mỗi lần nhớ tới ngƣời
đó, em vẫn khóc, mặc dù lúc đó hay sau này năm tháng qua mau em có còn nhớ rõ
khuôn mặt anh đâu [8, 72-74].
Trong các trang truyện của Mạc Can giọng điệu tâm tình ngấm vào từng hình
ảnh, từ ngữ. Giọng điệu ấy giúp nhà văn thể hiện đời sống bằng con đƣờng riêng.
Mạc Can sử dụng giọng điệu này nhƣ là cách để ông gián tiếp trò chuyện với cuộc
đời.
Và đằng sau những dòng hội thoại của nhân vật nhiều khi ngƣời đọc nhận ra
giọng điệu tâm tình sâu lắng: “Chớp xanh lè. Hình nhƣ tôi với thằng con trong phim
của tôi không phải về Long An mà đi đâu đó, đi hoài không thấy tới” [8, 138]. “Tôi
rùng mình vì lạnh, mà cũng vì rƣợu của thằng nhỏ rót cho tôi, trong đêm trƣờng,
nửa đƣờng về nơi nào đó, hình nhƣ nó còn ngồi với tôi mà nhƣ đã tới nơi đó rồi
sao?” [8, 141]. “Ai cũng dự một cuộc chạy ma ra ton dài, tôi cũng vậy, nhƣng có
ngƣời lại tới trƣớc. Tôi có cảm giác thằng nhỏ hết sức cố gắng trong phần đƣờng
còn lại”[8, 142]. “Lần đầu trong cuộc đời đã hầu nhƣ mất hết cảm giác thật của
tôi, tôi âm thầm khóc. Cái chết của ngƣời diễn viên trẻ này là một sự kiện lớn
trong giới điện ảnh, ai cũng thƣơng nó, còn tôi thƣơng nó nhƣ cha với con, ai cũng
trách nó, nhƣng chỉ tôi biết nó không thể sống bằng các thủ đoạn, kể cả với ngƣời
nó thật lòng yêu thƣơng” [8, 142]. “Cuộc sống trôi qua, cho tới một ngày nào đó tôi
cũng sẽ tới đích đến trong cuộc chạy đua đƣờng dài mà tôi cùng đi trên một đoạn
đƣờng với con tôi” mỗi lần xuôi ngƣợc trên khắp nẻo đƣờng lƣu diễn, tôi còn nghe
văng vẳng lại câu nói sau cùng của ngƣời diễn viên trẻ “có khi mình chết vì yêu
thƣơng mới ngộ” [8, 143].
Mạc Can đã khéo léo tạo ra sức mạnh của giọng điệu tâm tình bằng cách kể
các sự việc trƣớc mắt không cần lấp liếm dƣới những vỏ bọc ngôn từ hoa mỹ.
Không cần lên gịong giảng đạo mà những bài học nhân sinh vẫn man mác tình
ngƣời, tình đời.
89
Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhƣng nó luôn thống
nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo nào đó. Giọng thủ thỉ tâm tình
với tƣ cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ trƣớc, và trong các thời kỳ văn học
giọng điệu này luôn đƣợc sử dụng và mang sắc thái riêng. Điều đó cho thấy giọng
thủ thỉ tâm tình không phải là sản phẩm “mới toe” của Mạc Can. Ở đây Mạc Can đã
vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý riêng của mình. Giọng
điệu thủ thỉ tâm tình hiện diện trong tác phẩm nhƣng rất khó nắm bắt. Nó thẩm thấu
vào tất cả những yếu tố trong tác phẩm. Nó có thể đƣợc tạo ra từ những khoảng
trống, từ những điều không đƣợc nói tới trong tác phẩm. Vì thực chất giọng điệu thủ
thỉ tâm tình chỉ có thể lĩnh hội, cảm nhận thông qua chính quá trình đọc, cảm nhận
từng câu từng chữ, qua lối diễn đạt, ngôn ngữ của những hình ảnh, sự cộng hƣởng
giao thoa thẩm thấu, xuyên thấm vào nhau của tất cả những yếu tố trong tác phẩm.
Soi chiếu vào những tác phẩm văn xuôi Mạc Can, ta thấy ông đã thể hiện loại
giọng điệu đặc biệt này. Đây là hệ quả của cách nhìn ngƣời nhìn đời đầy tính nhân
văn của Mạc Can. Mạc Can không thích “nống lên thống thiết” (Lại Nguyên Ân)
mà thích phô bày cái nôm na, thật thà đáng yêu, cái thủ thỉ, tâm tình. Chất giọng ấy
phù hợp với việc miêu tả đời sống của ngƣời dân nông thôn và thành thị nghèo,
những con ngƣời có cuộc sống giản dị. Giọng văn Mạc Can trầm, sáng, gần với
giọng truyện cổ tích, nhịp văn chậm gọn, nhƣ thủ thỉ tâm tình kể cho ta nghe về câu
chuyện của cuộc đời
3.3.3. Giọng chua chát
Đọc truyện của Mạc Can, ngƣời đọc còn bắt gặp cái giọng điệu ngậm ngùi
thƣơng cảm đến chua chát. Đó là sự cảm thƣơng đối với cuộc sống lao động vất vả,
cực khổ, trân trọng lối sống nghĩa tình của con ngƣời đồng thời xót xa ngậm ngùi
cho những cuộc đời bất hạnh, những số phận, những cuộc đời luôn phải chịu những
mất mát, thiệt thòi, phải gánh chịu những uẩn khúc, những ngang trái éo le trong
cuộc sống. Viết về họ, nhà văn bày tỏ niềm cảm thƣơng sâu sắc, nỗi xót thƣơng
chân thành với những bất hạnh của con ngƣời, nhƣng nhiều khi cũng chƣa tìm thấy
90
một lối thoát nào để giúp họ vƣợt ra khỏi những bất hạnh ấy. Bởi thế, tấm lòng của
tác giả ngƣng đọng lại thành giọng điệu cảm thƣơng, ngậm ngùi chua chát. Giọng
điệu ấy không phải đƣợc biểu hiện hài hoà trên nhiều khía cạnh của văn bản nghệ
thuật: “Từ ngữ, hình ảnh, cú pháp, bút pháp”. Tất cả đã tạo nên tiếng lòng đồng điệu
giữa ngƣời kể với nhân vật. Làm cho ngƣời đọc nhiều lúc cứ ngỡ nhƣ nhà văn đang
tự kể chuyện đời mình, tự trải lòng mình lên trang viết với những sự chuyển giọng
tinh tƣờng đã góp phần tạo nên nét đặc sắc trong truyện Mạc Can.
Tấm ván phóng dao, viết về sự day dứt, dằn vặt đầy nhân tính bằng giọng điệu
ngậm ngùi chua chát. Cảm thƣơng cho kiếp ngƣời lang thang, phiêu bạt “tối đâu là
nhà, ngả đâu là giƣờng”. Xót thƣơng những số phận hẩm hiu của con ngƣời: “Cuộc
sống trôi dạt, giả thật qua nhiều năm tháng, điều tôi nhớ nhất là trái tim quá đỗi
nhạy cảm của tôi, nó thổn thức từ khi tôi chƣa đủ hình hài, trôi theo tôi sau chiếc
ghe hát, trên những dòng sông là tấm ván phóng dao đầy thƣơng tích nhƣ nỗi đau
của kiếp ngƣời.” Và: “Thời thơ ấu của tôi, của anh em tôi cứ vậy, chầm chậm trôi
theo những dòng sông vui buồn, trong cơ khổ đói khát, với hoàn cảnh riêng biệt
không giống ai” [8, 26].
Tác giả nhƣ hoá thân vào nhân vật tôi, để trần tình những đau xót: “Mẹ đâu có
biết con rơi nƣớc mắt vì những điều khổ tâm quá sức con, ngƣời mẹ bình thƣờng
nầy nào đâu đã biết mình sinh ra một con ngƣời dị tật, nó có một trái tim quá lớn.
Mƣa vẫn rơi vào những tháng mƣời với tiếng trống và trò phóng dao, bên bãi sông
cuối chợ sáng chiều, nỗi đau buồn trở lại bất cứ lúc nào trong cuộc đời sau nầy của
tôi, một vở bi hài kịch trúc trắc” [8, 26].
Chất giọng cảm thƣơng đƣợc thể hiện thật rõ nét khi tác giả miêu tả ngƣời em.
Cô Tƣ trong tác phẩm: “Nhƣng em đã mất sự bình thƣờng, do em chƣa bao giờ có
niềm vui, chƣa có một ngày hạnh phúc nhƣ đứa con gái khác, em cảm thấy kỳ lạ mà
ngƣời khác cũng nói em nhƣ vậy, em không thể sống gần ai đƣợc, em biết mình cố
chấp nhƣng không thể khác, một ngày, một giờ nào mà chung quanh có ngƣời em
thấy tủi thân, phiền muộn, tại cái số em là vậy. Số em không cần sống gần con
91
ngƣời. em nhƣ một ngƣời bị bỏ quên, em sợ” [8, 69]. Nhà văn thấu hiểu những cảm
xúc tâm trạng của nhân vật, hiểu cái điều mà nhân vật lo sợ “Không chỉ là sợ những
lƣỡi dao, em còn sợ những ngƣời đang sống chung quanh em... mỗi đêm biểu diễn
em nhìn thấy bao khuôn mặt vô tình, những nụ cƣời và những tràng pháo tay,
nhƣng có gì vui khi nhìn một đứa con gái trƣớc những mũi dao” [ 8, 68]. “Nỗi đau
của riêng em không còn là chuyện bị sát thƣơng da thịt, nỗi đau lớn hơn nhiều, nó ở
đâu nơi sâu thẳm nhƣ những hạt cát tội nghiệp dƣới lòng biển, nơi mà ngàn năm
trƣớc triệu năm sau, có khi nào ánh mặt trời soi rọi tới, nó là một cõi im lặng trầm
ngâm vĩnh hằng” [8, 70]. Giọng văn nhƣ nghẹn lại một nỗi xót thƣơng, ngậm ngùi.
Ở đây tâm trạng của tác giả nhƣ nhập làm một với tâm trạng nhân vật rung lên
những xúc cảm từ tận sâu thẳm tâm hồn. Chính sức mạnh của sự đồng cảm sâu sắc
đó đã làm cho ngƣời đọc khó phân biệt đƣợc rạch ròi đâu là giọng ngƣời kể, đâu là
giọng nhân vật. Vì thế nhân vật của Mạc Can luôn tạo đƣợc ám ảnh sâu sắc trong
lòng ngƣời đọc.
Hãy nghe cái giọng bùi ngùi thƣơng cảm trong Những bầy mèo vô sinh: “Có
lẽ, không nơi nào buồn hơn bệnh viện, nơi những ngƣời còn sống nhìn bạn bè thân
nhân chết, có lúc vô phƣơng cứu chữa. Nỗi buồn lan rộng, dính chặt lên chiếc bàn,
cái ghế, những mảng tƣờng trắng toát chung quanh” [11, 151]. Những số phận,
những mảnh đời, cảnh đời, những suy tƣ về kiếp ngƣời đƣợc tác giả kể lại, với
giọng điệu ngậm ngùi, thƣơng cảm. Đó chính là thành công trong việc thể hiện thái
độ nhân văn trƣớc cuộc đời. Giọng điệu chua chát đƣợc tác giả gửi gắm qua hình
tƣợng ngƣời kể chuyện bằng những suy ngẫm của nhân vật hay qua những lời nhận
xét trực tiếp góp phần làm cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời nghe,
ngƣời đọc. Nếu không có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng chi chút yêu thƣơng,
cảm thông thấu hiểu, luôn rộng mở với những kiếp ngƣời nhỏ bé, Mạc Can không
thể hoà nhập vào nỗi đau lớn của họ để rồi viết lên những trang văn với giọng điệu
sâu lắng, thiết tha đến vậy. Chỉ có nỗi buồn, nỗi đau ngƣời ta mới cần văn chƣơng
chạm tới. Mạc Can đã chạm tới những vỉa tầng sâu xa trong tâm hồn con ngƣời,
ngân lên những nhịp đập rung cảm tha thiết yêu thƣơng.
92
Những mảnh đời vẫn diễn ra ấy đƣợc tác giả kể lại với giọng điệu ngậm ngùi
chua chát. Đó chính là thành công trong việc thể hiện thái độ nhân văn trƣớc cuộc
đời. Giọng điệu đó đƣợc tác giả gửi gắm qua hình tƣợng ngƣời kể chuyện bằng
những suy ngẫm của nhân vật, hay qua những lời nhận xét trực tiếp, góp phần làm
cho nghệ thuật tự sự thêm hấp dẫn, làm cho ngƣời đọc truyện dù trong hoàn cảnh
nào cũng không thể dửng dƣng.
Với việc sử dụng linh hoạt các kiểu giọng điệu và một hƣớng thể nghiệm ngôn ngữ
mới trong văn chƣơng, có thể nói, cùng với những cây bút khác nhƣ Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái Mạc Can đã tạo nên một động hình ngôn ngữ mới
và giọng điệu ngôn ngữ khác với văn xuôi 1945 – 1975.
93
ẾT LUẬN
1. Mạc Can là một nhà văn xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam so với
cái tuổi thật của ông. Tuy xuất hiện muộn, nhƣng tác giả đã bằng những nỗ lực và
đam mê không mệt mỏi, tạo đƣợc ấn tƣợng khá đặc biệt với bạn đọc, và mang đến
những đóng góp nhất định cho văn xuôi Việt Nam đƣơng đại, nhất là đặt trong dung
môi của văn học Nam Bộ đƣơng đại.
2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong tiểu thuyết của Mạc Can khá
phong phú, phức tạp, nhƣng nhìn chung, nổi lên với ba quan niệm cơ bản, xuyên
suốt: con ngƣời kiếm tìm, con ngƣời bị hắt hủi, con ngƣời cô đơn, lƣu đày. Con
ngƣời kiếm tìm trong tiểu thuyết của Mạc Can trƣớc hết là con ngƣời kiếm tìm
trong cuộc mƣu sinh khốn khổ, chật vật. Nhƣng quan trọng hơn, đấy là con ngƣời
luôn cố gắng hƣớng đến một niềm tin nào đó đang ở phía trƣớc, kiếm tìm lẽ phải, sự
thật, chân lí và cái đẹp, và những giá trị chân chính. Và cao hơn hết, đấy là con
ngƣời kiếm tìm lời giải đáp cuối cùng cho câu hỏi: ta là ai trên cõi đời này. Con
ngƣời bị hắt hủi trong tiểu thuyết của nhà văn hiện thân bằng những nhân vật nhỏ
bé, những nhân vật buôn bán nhỏ, những ngƣời dƣới đáy hay nghệ sĩ vô danh...
Trong con ngƣời bị hắt hủi, ta bắt gặp mối tƣơng cảm giữa phận ngƣời bình thƣờng
phổ biến trong xã hội đƣơng đại và kiếp nghệ sĩ phù du trong thời đại mà nhiều giá
trị bị đảo lộn. Con ngƣời lƣu đày trong tiểu thuyết của Mạc Can biểu hiện ra trƣớc
hết và phổ biến ở những nhân vật tha hƣơng. Có khi, đó là sự lƣu đày thể hiện ra
một cách cụ thể, cảm tính ở những cuộc thiên di của số phận; nhƣng có khi, nó lại
thể hiện trong những hồi ức, những suy cảm về số phận, về kiếp ngƣời. Con ngƣời
lƣu đày không chỉ ở mặt thể xác, mà còn quan trọng hơn, là ở số phận, thân phận.
Đây là một ám ảnh nói chung của con ngƣời hiện đại, đã từng đƣợc thể hiện một
cách sâu sắc trong tác phẩm của nhiều tác giả khác. Sự thể hiện rất tập trung ba kiểu
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời kể trên trong tiểu thuyết của Mạc Can, xét đến
cùng là một cuộc trải nghiệm, một sự tự nghiệm, một sự mổ xẻ bản thân của tác giả.
Những con ngƣời ấy dƣờng nhƣ luôn tồn tại trong bất cứ nghệ sĩ chân chính nào.
94
3. Cốt truyện tiểu thuyết Mạc Can phổ biến ở ba dạng: cốt truyện sinh hoạt -
tâm lí, cốt truyện phiêu lƣu và cốt truyện mang màu sắc trinh thám. Sự phân định
các loại cốt truyện ở đây, tuy nhiên chỉ có tính chất tƣơng đối. Nhiều khi, trong mỗi
dạng cốt truyện ta đều thấy bóng dáng của hai dạng cốt truyện còn lại. Trong tác
phẩm mà cốt truyện sinh hoạt - tâm lí là nổi bật, tác giả cố gắng hƣớng đến miêu tả
những con ngƣời bình thƣờng, đời thƣờng với những sinh hoạt bình thƣờng hƣớng
đến công cuộc mƣu sinh nhƣ một nỗ lực cơ bản để tồn tại. Ở đấy ta bắt gặp một
hiện thực tủn mủn, những toan tính tủn mủn, những lo âu tủn mủn, nhƣng tối hậu,
nó bật lên những lo âu lớn lao về số phận con ngƣời. Cốt truyện phiêu lƣu thƣờng
hƣớng đến mô tả những số phận lƣu lạc, đặc biệt là những số phận nghệ sĩ vô danh,
tha phƣơng cầu thực. Cốt truyện phiêu lƣu là nơi thể hiện một cách tập trung nhất
ám ảnh lƣu đày của con ngƣời hiện đại, nhất là những ngƣời có cái tâm trong sáng,
có khát vọng mãnh liệt hƣớng đến những giá trị nhân văn cao cả. Cốt truyện mang
màu sắc trinh thám thƣờng mang đến cảm giác về sự bất trắc, khó lƣờng trong sự
tồn tại của con ngƣời.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời không chỉ chi phối việc xây dựng cốt
truyện mà còn chi phối việc xây dựng nhân vật. Tuy rằng luận văn không bàn sâu
và thực sự cụ thể tất cả mọi bình diện của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu
thuyết Mạc Can, nhƣng với một hình dung sơ bộ thông qua các kiểu nhân vật thuộc
thế giới loài vật, nhân vật là con ngƣời và nhân vật siêu nhiên, có thể thấy những
đóng góp nhất định của Mạc Can cho việc xây dựng nhân vật trong nền tiểu thuyết
Việt Nam đƣơng đại, đặc biệt là ở cách đƣa ra những nhân vật siêu nhiên nhằm mở
rộng thêm chiều kích của quan niệm về cái huyền thoại, tạo cảm giác về sự nhòe lẫn
giữa cái huyền thoại và cái thế tục trong một quan niệm mang tính đối thoại về thế
giới. Khi xây dựng nhân vật, điểm nổi bật ở Mạc Can là ông không đi sâu vào tạo
tác những tính cách mà tập trung khai thác số phận có tính chất bi kịch tinh thần của
họ với những suy tƣ về hạnh phúc, tình yêu, ý nghĩa cuộc sống. Vì vậy nhân vật
trong truyện thƣờng là những nhân vật rơi vào những trạng huống bi kịch của cuộc
sống nhân sinh. Nhà văn ít chú ý đến việc miêu tả ngoại hình, hành động, tƣ tƣởng
95
mà chú trọng khai thác đời sống tình cảm với những biến thái tinh vi của nó. Thông
qua nghệ thuật xây dựng nhân vật, tác giả đã thể hiện năng lực khám phá và miêu tả
tâm lý nhân vật ở hầu hết những trang viết của mình. Ngoài việc phân tích diễn biến
nội tâm nhân vật, nhà văn còn sử dụng những thủ pháp ngoại hiện để khắc sâu thế
giới tâm hồn nhân vật. Khám phá những bi kịch trong đời sống nhân vật Mạc Can
thể hiện cách nhìn mới về hiện thực, điều này góp phần mang đến cho tác phẩm giá
trị nhân văn sâu sắc.
4. Nghệ thuật tạo dựng ngôn ngữ trong các tiểu thuyết của Mạc Can rất đa
dạng. Ngôn ngữ nhân vật chủ yếu là ngôn ngữ đời sống, vì thế bớt đi vẻ sang trọng
nhƣng rất gần gũi với sinh hoạt hàng ngày. Điều này góp một phần vào việc phát
triển ngôn ngữ mang đậm sắc thái Nam Bộ. Còn ngôn ngữ ngƣời kể chuyện với tƣ
cách là một dạng ngôn ngữ của nhân vật thể hiện rất giàu xúc cảm. Tác giả sử dụng
nhiều từ ngữ chỉ các trạng thái tâm lý khi miêu tả con ngƣời hay thiên nhiên. Mặc
dù vậy cũng có khi giữa ngôn ngữ nhân vật và ngƣời kể chuyện đan xen vào nhau
mà chủ thể là “tôi” điển hình là tiểu thuyết Tấm ván phóng dao. Đó là dụng ý của
tác giả khiến ngƣời đọc nhƣ bị lôi cuốn vào tác phẩm. Dù ở dạng ngôn ngữ nào nhà
văn đều thể hiện khá thành công tính cách của mỗi nhân vật. Mặt khác, những đặc
trƣng của ngôn ngữ thơ đƣợc ông dụng công khai thác để tạo nên vẻ đẹp riêng cho
ngôn ngữ trần thuật trong tiểu thuyết. Ngôn ngữ có khi đƣợc trau chuốt, tinh lọc, đôi
khi mang sắc thái của ngôn ngữ kịch nghệ, lắm khi lại đậm nét Nam Bộ. Ông đã tạo
ra đƣợc một ngôn ngữ cho riêng mình. Đó là thứ ngôn ngữ vừa đậm chất hiện thực
- đời thƣờng, vừa mang tính triết lý đa dạng về giọng điệu.
Giọng điệu trong truyện Mạc Can rất đa dạng. Đó là giọng điệu bông lơn,
giọng điệu tâm tình và giọng điệu chua chát. Đằng sau mỗi kiểu giọng điệu ấy,
ngƣời đọc bao giờ cũng cảm thấy một cái tôi hồn hậu, da diết yêu thƣơng, gắn bó
với con ngƣời và quê hƣơng xứ sở, một cái tôi giàu lòng cảm thƣơng và trắc ẩn
trƣớc những buồn đau của cuộc đời. Giọng điệu ấy hiện ra ở nhiều biến thể khác
nhau: khi tâm tình, khi chua chát, khi bông lơn, khi trữ tình triết lý nhƣng tất cả đều
96
là biểu hiện của cảm hứng cảm thƣơng sâu sắc cho số phận con ngƣời. Đó là niềm
cảm thông, thƣơng xót trƣớc những mất mát bi kịch của con ngƣời trên hành trình
kiếm tìm hạnh phúc và ý nghĩa đích thực của cuộc sống để con ngƣời biết vƣơn tới
ƣớc mơ khát vọng. Giọng điệu trữ tình có thể đƣợc xem là một trong những nét đặc
sắc nhất, nổi bật nhất làm nên chất trữ tình trong truyện của nhà văn này. Giọng
điệu ấy làm nên nét phong cách riêng hấp dẫn, thú vị và tạo nên độ lắng sâu của suy
tƣ, cảm xúc trong những trang truyện của Mạc Can.
97
TÀI LIỆU THAM HẢO
Sách, báo, tạp chí
1. Thái Phan Vàng Anh (2011), “Trần thuật từ điểm nhìn bên trong ở tiểu thuyết
Việt Nam đƣơng đại”, Tạp chí Non nước (158).
2. Vũ Tuấn Anh (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Chính trị Quốc
gia.
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Bakhtin. M (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng Viết văn Nguyễn Du
xuất bản.
5. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí Văn học,
(9).
6. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 - những vấn đề đổi
mới căn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục - Cục Đào tạo và Bồi dƣỡng (1977), Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
8. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, Nxb Trẻ.
9. Mạc Can (2006), Tạp bút, Nxb Trẻ.
10. Mạc Can (2007), Phóng viên mồ côi, Nxb Trẻ.
11. Mạc Can (2008), Những bầy mèo vô sinh, Nxb Trẻ.
12. Mạc Can (2010), Quỷ với Bụt và Thần Chết, Nxb Trẻ.
13. Trƣơng Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
14. Trƣơng Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
15. Trần Quốc Dũng (2009), Giá trị đặc sắc trong văn xuôi Mạc Can, Đại học Vinh.
16. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1 và 2, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
98
17. Phan Cự Đệ (2001), “Mấy vấn đề phƣơng pháp luận khi nghiên cứu thể loại tiểu
thuyết”, Tạp chí Văn nghệ quân đội 2 - 2001, tr. 101 - 105.
18. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kì đổi mới”,
Tạp chí Văn nghệ quân đội 3 - 2001, tr. 99 - 104.
19. Thảo Điền (2009), “Mạc Can và cuộc chia tay không hẹn trƣớc”, An ninh thế
giới giữa tháng, (18).
20. Nguyễn Tiến Đức (2011), “Về loại hình nội dung tiểu thuyết Việt Nam sau
1975”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (721), tr.83.
21. Gorki. M (1970), Bàn về văn học, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Griliet. A, Vì một nền tiểu thuyết mới (Lê Phong Tuyết dịch), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
23. Nguyễn Hà (2000), “Cảm hứng nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau
thập niên 80”, Tạp chí Văn học (3).
24. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2000), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
26. Khravchenko.M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam,
Hà Nội.
27. Khravchenko.M.B (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu, 2002), Những vấn đề
lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
28. Tôn Phƣơng Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con ngƣời trong văn xuôi thời kỳ
đổi mới”, Tạp chí Văn học (9).
29. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
30. Phong Lê (2005), “Từ cuộc thi tiểu thuyết 2002- 2004 của Hội Nhà văn Việt
Nam”, Tạp chí Văn nghệ (38).
31. Phƣơng Lựu (chủ biên, 2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
99
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học,
Hà Nội.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục.
34. Vũ Thị Tố Nga (2006), “Khả năng của truyện ngắn trong việc thể hiện con
ngƣời”, Nghiên cứu văn học, (5).
35. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau năm 1975 - Thử thăm dò đôi nét về quy
luật phát triển”, Tạp chí Văn học (4).
36. Nguyên Ngọc (2005), “Một giọng sôi động của văn xuôi trong thời kỳ đổi mới”,
Xưa và nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, (227 -228).
37. Nhiều tác giả (1997), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
38. Nhiều tác giả (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
39. Pautôpxki.K (2002), Bông hồng vàng và Bình minh mưa, Nxb Văn học, Hà Nội.
40. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn - hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học.
41. Trần Đình Sử, Phƣơng Lựu, Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên, Hà
Nội.
43. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Hồ Anh Thái (2005), Họ trở thành nhân vật của tôi, Nxb Hội Nhà văn.
45. Bùi Việt Thắng (1998), “Khuynh hƣớng giản lƣợc nhân vật trong tiểu thuyết
hiện đại”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11 - 1998), tr. 92-94.
46. Nguyễn Thị Thiêm (2011), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn thạc sĩ ngữ văn chuyên ngành VHVN, Đại học Cần Thơ.
47. Hữu Thỉnh (2005), “Cuộc tự vƣợt đáng trân trọng”,Văn nghệ (37).
48. Bích Thu (1999), “Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi
mới”, Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học, Hà Nội.
100
49. Phan Đặng Trung (2011), Đặc trưng nghệ thuật truyện và tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng, Đại học Vinh.
50. Tz.Todorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sƣ phạm.
51. Nguyễn Văn Tùng (2011), “Quá trình vận động của lí luận về tiểu thuyết ở Việt
Nam”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (729), tr.89.
Website (mạng)
52. Cao Hoài An (2008), Mạc Can: Phê bình ít thôi để tôi còn lớn,
53. Văn Bảy, Danh hài – nhà văn Mạc Can,
54. Kim Chi, Mạc Can: Sẽ hạnh phúc nếu được chết sớm,
55. Văn Giá, Tấm ván phóng dao - sức sống của giá trị nhân văn cổ điển,
56. Thoại Hà, Mạc Can - nhà văn, nghệ sĩ không nhà,
57. Đƣờng Lam, Khoảng lặng của Mạc Can,
58. Di Linh, Mạc Can: Cuộc đời của người không định viết văn, http://
maccan.com.vn.
59. Di Linh, Mạc Can: “Người nói tiếng chim bồ câu”,
60. Nguyễn Văn Lục (2005 - 2006), “Nhận diện một số nhà văn Việt Nam đầu thế
kỷ XXI”,
61. Dƣơng Bình Nguyên, Nhà văn Mạc Can: Hề già nhà văn trẻ,
62. Nhóm PV TTO, Mạc Can: Tin yêu nhứng người sống quanh mình,
63. Nguyễn Hƣng Quốc (2000), Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam,
64. Tiểu Quyên (2006), Nhà văn Mạc Can: Nhân vật có phần cuộc sống của tôi,
65. Bích Thu, Một số cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới,
www.irc.ctu.edu.vn/pdoc/52/72spnguvan.pdf.
101
66. Đăng Văn - Hà Hƣng, Mạc Can: Những thăng trầm trong đời người nghệ sĩ viết
văn, http:// nguoiduatin.vn.
67. Thanh Vân, Mạc Can: Con chữ đã ám vào tâm hồn tôi,
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........
1. Lí do chọn đề tài...................
2. Lịch sử vấn đề..
3. Đối tượng nghiên cứu.......
4. Phạm vi nghiên cứu..
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................
6. Phương pháp nghiên cứu..........
7. Đóng góp và cấu trúc của Luận văn
Chương 1. Mạc Can, một hiện tượng đáng chú ý trong văn xuôi tự sự
Nam Bộ đương đại
1.1. Tự sự học và tự sự trong văn xuôi Việt Nam đương
đại........................
1.1.1. Mấy nét về tự sự học.
1.1.2. Mấy nét về tự sự học trong văn xuôi Việt Nam đương đại ..
1.1.3. Quan điểm tiếp nhận nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Mạc
Can................................................................................................
1.2. Tự sự văn xuôi Nam Bộ đương đại
1.2.1. Mấy nét về văn xuôi Nam Bộ đương đại
1.2.2. Một vài điểm nổi bật trong nghệ thuật tự sự của văn xuôi Nam Bộ
đương đại...
1.3. Mạc Can – một trường hợp thú vị của văn xuôi tự sự Nam Bộ
đương đại.
1.3.1. Mạc Can – mấy nét về cuộc đời..
1.3.2. Mạc Can – gương mặt mới của làng văn xuôi Nam Bộ..................
1.3.3. Tiểu thuyết của Mạc Can.
Chương 2. Quan niệm nghệ thuật về con người, cốt truyện và nhân
vật trong tiểu thuyết Mạc Can...............
1
1
2
7
7
8
8
8
9
9
9
11
14
16
16
20
24
24
26
28
31
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Mạc
Can.....
2.1.1. Con người kiếm tìm..
2.1.2. Con người bị hắt hủi.
2.1.3. Con người lưu đày....
2.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết Mạc Can.
2.2.1. Cốt truyện sinh hoạt tâm lý..
2.2.2. Cốt truyện phiêu lưu.
2.2.3. Cốt truyện mang màu sắc trinh thám....
2.3. Nhân vật trong tiểu thuyết Mạc Can
2.3.1. Giới thuyết về nhân vật.
2.3.2. Nhân vật con người
2.3.3. Nhân vật loài vật
2.3.4. Nhân vật siêu nhiên...
2.3.5. Nhân vật lưỡng lập....
Chương 3. Bút pháp, ngôn ngữ, giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết
Mạc Can....
3.1. Bút pháp tự sự...
3.1.1. Bút pháp hiện thực
3.1.2. Bút pháp trữ tình..
3.1.3. Bút pháp huyền thoại...
3.2. Ngôn ngữ kể chuyện trong tiểu thuyết Mạc Can...
3.2.1. Ngôn ngữ mang tính chất “kịch nghệ”.
3.2.2. Ngôn ngữ của đời sống Nam Bộ......
3.2.3. Ngôn ngữ trau chuốt, tinh lọc..
3.3. Giọng điệu trong tiểu thuyết Mạc Can
3.3.1. Giọng bông lơn
3.3.2. Giọng tâm tình.
31
31
35
38
42
42
45
48
49
49
52
53
56
58
61
61
61
64
68
69
69
72
77
79
79
81
3.3.3. Giọng chua chát...
KẾT LUẬN...
TÀI LIỆU THAM KHẢO...
89
93
97
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghe_thuat_tu_su_trong_tieu_thuyet_cua_mac_can1_9122.pdf