Các kết quả của nghiên cứu cho thấy khi tiện tinh thép 9XC bằng dao 
PCBN mòn mặt trước và mặt sau là hai dạng mòn chủ yếu. trong giai đoạn 
đầu, cơ chế mòn mặt trước chủ yếu là biến dạng dẻo do tác dụng cào xước 
của các hạt cứng trong thép và sự tách ra khỏi bề mặt của các hạt CBN. Cơ 
chế mòn mặt sau là quá trình bóc tách của các hạt CBN do pha thứ hai của vật 
liệu dụng cụ bị yếu đi khi tương tác với vật liệu gia công. Trong giai đoạn 
sau, cơ chế mòn mặt trước là do mỏi dính với sự bóc tách của từng mảng vật 
liệu trên mặt trước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 105 trang
105 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3048 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu ảnh hưởng của vận tốc cắt tới cơ chế mòn dụng cụ PCBN sử dụng tiện tinh thép 9XC qua tôi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật phát 
triển nhiệt độ trong vùng cắt và đến mòn mặt sau. Liu và đồng nghiệp [35], 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
53 
nghiên cứu ảnh hưởng của độ cứng (từ 30 ÷ 64HRC) đến quy luật mòn mặt 
sau của dao PCBN khi tiện thép GCr15 cho thấy mòn xảy ra với tốc độ cao 
nhất trong khoảng độ cứng của vật liệu gia công 40 ÷ 50HRC và thấp hơn 
trong dải độ cứng 64 ÷ 60HRC. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ảnh 
hưởng của vận tốc cắt đến dụng cụ PCBN ít hơn nhiều so với dụng cụ cácbít 
và ceramics. 
Các nghiên cứu của Poulachon và đồng nghiệp [36] cho thấy các rãnh 
mòn trên mặt sau của dụng cụ cùng cỡ với các hạt cácbít trong vật liệu gia 
công có cấu trúc tế vi mịn và cùng cỡ với các hạt martensite với vật liệu gia 
công có cấu trúc tế vi thô. 
Thông qua nghiên cứu về các cơ chế mòn của dụng cụ cắt, đồng thời 
qua hình 1.24 ta thấy rằng, trong tiện cứng ( đó là quá trình cắt liên tục) sử 
dụng mảnh PCBN do vận tốc cắt cao nên mòn dụng cụ xảy ra theo cơ chế 
mòn do hạt mài là chủ yếu, ngoài ra dụng cụ còn bị mòn do khuếch tán, hoặc 
xảy ra đồng thời với cả hai cơ chế mòn và mòn do dính là không hoặc rất khó 
xảy ra vì mòn do dính chỉ xảy ra khi gia công ở vận tốc cắt thấp. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
54 
CHƯƠNG II 
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ 
MÒN DỤNG CỤ PCBN VÀ NHÁM BỀ MẶT 
2.1. Thí nghiệm 
2.1.1. Yêu cầu đối với hệ thống thí nghiệm 
 Trong nghiên cứu khoa học việc xây dựng hệ thống thí nghi ệm cần 
đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật sau: 
- Đáp ứng được yêu cầu của vấn đề lý thuyết cần nghiên cứu. 
- Đảm bảo độ chính xác, độ tin cậy và độ ổn định. 
- Đảm bảo việc thu thập và xử lý các số liệu thí nghiệm thuận lợi. 
- Đảm bảo tính khả thi. 
- Đảm bảo tính kinh tế. 
Hệ thống thiết bị thí nghiệm phục vụ cho đề tài được đặt tại xưởng cơ 
khí của Thầy Cô giáo Thạc sỹ Lê Viết Bảo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Quốc Dung 
- Khoa cơ khí - Trường ĐHKTCNTN 
2.1.2. Mô hình thí nghiệm 
 Mô hình thí nghiệm đã sử dụng thể hiện trên hình 2.1 
t
nct
1
4
2
3S 
Hình 2.1: Mô hình thí nghiệm 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
55 
 1.Mâm cặp 
 2. Mũi chống tâm 
 3. Dao 
 4. Chi tiết gia công 
2.1.3. Thiết bị thí nghiệm 
2.1.3.1. Máy 
 Thí nghiệm được tiến hành trên máy tiện CNC – HTC 2050 (Trung 
Quốc) hình 2.2 
Hình 2.2: Máy tiện CNC – HTC 2050 
2.1.3.2. Dao 
 Mảnh dao PCBN hình tam giác ký hiệu TPGN 160308 T2001, EB28X 
chỉ ra trên hình 2.3 với L = 16 mm, LC = 9,25 mm, T = 3,18mm, 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
56 
R = 0,8 mm. Hàm lượng CBN là 50%, chất kết dính TiC, cỡ hạt 2 µ m, 
γ = - 11o, α =22o, λ = -11o (góc sau khi đã gá mảnh dao lên thân dao và thân 
dao lên máy). 
 (T: mảnh tam giác, P: góc sau 11o, G: cấp dung sai của mảnh, N: kiểu 
cơ cấu bẻ phoi, L = 16mm, 03 ≈ chiều dày, T = 3,18mm, R = 0,8mm) 
 Sử dụng thân dao: MTENN 2020 K16 – N (hãngCANELA) hình 2.4 
 Hình 2.3: Mảnh dao PCBN sử dụng trong nghiên cứu 
 Hình 2.4: Thân dao MTENN 2020 K16 – N 
2.1.3.3. Phôi 
 Thép 9XC là thép hợp kim dụng cụ thường sử dụng chế tạo các dụng 
cụ cắt với vận tốc thấp và các chi tiết có yêu cầu về khả năng chịu ma sát, 
mòn cao. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
57 
 Phôi thép hợp kim 9XC sử dụng trong thí nghiệm có chiều dài: 
L = 300mm, đường kính: φ 62, tôi thể tích đạt độ cứng 54 ÷58 HRC. Thành 
phần hoá học của phôi được xác định bằng phương pháp phân tích quang phổ 
tại nhà máy Z159 trong bảng 2.1. Cấu trúc kim tương của thép trên hình 2.5. 
Bảng 2.1: Thành phần hoá học của phôi thép 9XC (%) 
Nguyên tố 
hoá học 
C Si P Mn Ni Cr Mo 
Hàm lượng 
(%) 
0,8623 1,2351 0,0241 0,58613 0,03216 1,113 0,01917 
Nguyên tố 
hoá học 
V Cu W Ti Al Fe 
Hàm lượng 
(%) 
0,14987 0,28763 0,1768 0,0299 0,0011 95,4722 
Hình 2.5: Cấu trúc kim tương của thép 9XC sử dụng trong thí nghiệm. 
a. Trong mặt cắt song song. 
b. Vuông góc với trục (x400). 
Từ hình 2.5 có thể thấy trong cấu trúc kim tương của phôi tồn tại các 
hạt các bít (FeCr)3C với mật độ cao và đường kính tới khoảng 3 µm. 
2.1.3.4. Chế độ cắt 
 Vận tốc cắt: v = 180 m/p; 160 m/p; 140 m/p; 120 m/p; 100 m/p. 
 Lượng chạy dao: s = 0,1 mm/vòng; chiều sâu cắt: t = 0,12 mm. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
58 
2.1.3.5. Thiết bị đo nhám bề mặt 
 Sử dụng máy đo nhám Mitutoyo SJ – 201 của Nhật Bản. Các thông số 
kỹ thuật cơ bản; 
- Hiển thị LCD. Tiêu chuẩn DIN, JIS, ANSI. 
- Thông số đo được: Ra, Rs, Rt, Rq, Rp, Ry, Pc, S, Sm. 
- Độ phân giải: 0,03 µm/300 µm, 0,08 µm/75 µm, 0,04 µm/9,4 µm. 
- Bộ chuyển đổi A/D: RS232. 
- Phần mềm điều khiển và sử lý số liệu MSTATW324.0 
2.1.3.6. Thiết bị phân tích bề mặt và kim tương 
Sử dụng kính hiển vi điện tử TM -1000 Hitachi, Nhật Bản có độ phóng 
đại dến 1000 lần, tại phòng thí nghiệm Vật lý trường Đại học Sư phạm Thái 
Nguyên. 
Kính hiển vi quang học AXOVOC – 1000 của Nhật Bản tại phòng thí 
nghiệm vật liệu của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. 
2.2. Trình tự thí nghiệm 
 Phôi thép 9XC sau khi được tiện thô bằng mảnh dao hợp kim cứng K01 
đảm bảo độ côn không vượt quá 0,05 mm/ 100 mm chiều dài phôi. Sau đó sử 
dụng mảnh dao PCBN tiện tinh qua một lượt trước khi tiến hành thí nghiệm 
và trước mỗi lần thay mảnh dao mới. 
 Quá trình thí nghiệm tiến hành như sau: 
- Đánh số thứ tự các mảnh dao từ số 1 đến số 5. 
- Gá phôi vào chấu cặp sao cho đảm bảo độ đồng tâm cao (do quá trình 
tạo chuẩn thô trên máy khi tiện thô phôi thép về φ 60). 
- Gá mảnh dao số 1 vào thân dao trên máy, kẹp chặt, chọn điểm chuẩn 
phôi, dao và chế độ cắt trên màn hình điều khiển. Cho dao chạy hết chiều dài 
ứng với một lần cắt L1 = 250 mm. Dừng máy tiến hành đo nhám bề mặt (chi tiết 
vẫn phải kẹp chặt trên chấu cặp). Ở đây, nhám được đo theo phương đường sinh 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
59 
tại 4 vị trí khác nhau trên phôi, lấy giá trị trung bình của 4 lần đo ta được trị số 
Ra, Rz. Tháo m ảnh dao và đặt vào vị trí đã được đánh dấu trước. 
- Gá mảnh dao số 2 vào thân dao trên máy, quá trình lặp lại tương tự, 
chỉ khác số lần cắt tăng gấp 2 ứng với L2 = 500 mm,… đo nhám tương tự lần 
1, và tiếp tục tiến hành theo quy luật này tới mảnh dao số 5. 
 Năm mảnh dao được sử dụng để tiện tinh phôi thép 9XC, nhám bề mặt 
được đo sau 5 khoảng thời gian cắt nhất định: 2,61 phút; 5,19 phút; 7,69 phút; 
10,09 phút; 12,36 phút tương ứng với chiều dài cắt trên phôi: 250mm; 500 
mm; 750 mm; 1000 mm; 1250 mm.Sau đó các mảnh dao được tháo ra, quan 
sát và phân tích trên kính hiển vi điện tử TM – 1000. 
 Bảng 2.2: Vận tốc cắt và các thông số nhám 
Mảnh 
dao 
số 
Số 
lần 
cắt 
Chiều 
dài cắt 
(mm) 
Vận tốc 
cắt 
(m/p) 
Thông số nhám Ra (Rz) [µm] 
Lần đo 
1 
Lần đo 
2 
Lần đo 
3 
Lần đo 
4 
Trung 
bình 
1 1 250 160 
0,39 
(2,28) 
0,41 
(2,35) 
0,39 
(2,28) 
0,42 
(2,45) 
0,40 
(2,34) 
2 2 500 160 
0,38 
(2,47) 
0,40 
(2,23) 
0,41 
(2,31) 
0,37 
(2,12) 
0,39 
(2,28) 
3 3 750 140 
0,42 
(2,41) 
0,46 
(2,86) 
0,46 
(2,73) 
0,44 
(2,70) 
0,45 
(2,68) 
4 4 1000 140 
0,72 
(3,04) 
0,80 
(3,57) 
0,76 
(3,25) 
0,79 
(3,69) 
0,77 
(3,39) 
5 5 1250 120 
0,72 
(3,40) 
0,70 
(3,14) 
0,66 
(2,80) 
0,70 
(3,20) 
0,70 
(3,14) 
2.3. Kết quả thí nghiệm 
2.3.1. Tương tác ma sát giữa phoi và mặt trước 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
60 
 Sau khi tiện 2,61 phút, trên mặt trước của dao xuất hiện bám dính của 
vật liệu gia công trên bề mặt với bề rộng xấp xỉ 150 µm, cung mòn bắt đầu 
xuất hiện trên lưỡi cắt chính. Sau khi tiện 5,19 phút, vật liệu gia công bám 
dính trên mặt trước của dao tăng lên với bề rộng khoảng 200 µm, cung mòn 
mặt trước trên lưỡi cắt chính kéo dài về phía đỉnh cung tròn của lưỡi cắt. Sau 
7,69 phút cắt, bề rộng của vùng vật liệu gia công dính trên mặt trước vẫn giữ 
không đổi khoảng 200 µm, chiều dài cung tròn trên lưỡi cắt chính tăng chút ít. 
Khi thời gian cắt tăng lên đến 10,09 phút chiều dài cung tròn mặt trước tiến 
tới đỉnh cung tròn mũi dao, chiều rộng vùng mòn mặt trước giữ không đổi xấp 
xỉ 200 µm. Có thể thấy vật liệu gia công dính nhiều nhất trên vùng phoi tách 
ra khỏi mặt trước. 
Hình 2.6: Hình ảnh mặt trước của mảnh dao PCBN khi cắt với vận tốc cắt 
180 m/p chụp trên kính hiển vi điện tử 
a. Sau khi tiện 2,61 phút b. Sau khi tiện 5,19 phút 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
61 
c. Sau khi tiện 7,69 phút d. Sau khi tiện 10,09 phút 
 Hình ảnh vùng mặt trước sau 7,69 và 10,09 phút gia công được thể hiện 
trên hình 2.6a và 2.6b. Có thể thấy rõ vật liệu gia công dính tập trung ở vùng 
phoi thoát khỏi mặt trước của dụng cụ chứ không phải vùng gần lưỡi cắt thể 
hiện rõ trên hình 2.7(c). Hình 2.7(d) thể hiện bề mặt của vùng mòn trên lưỡi 
cắt với các rãnh biến dạng dẻo của bề mặt do cào xước của các hạt cứng. Vật 
liệu dụng cụ trên vùng này hầu như chỉ còn pha thứ hai là TiC và Co, các hạt 
CBN hầu như bị bóc tách khỏi bề mặt mòn. 
Hình 2.7: Hình ảnh phóng to vùng vật liệu gia công dính trên mặt trước của 
dụng cụ khi cắt với vận tốc cắt 180 m/p 
a. Sau 7,69 phút gia công 
b. Sau 7,69 phút gia công 
c. Hình ảnh phóng to của (b) 
d. Hình ảnh vùng mòn trên lưỡi cắt chính sau 2,61 phút gia công. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
62 
Từ các kết quả thí nghiệm có thể thấy vùng mặt trước của dụng cụ có 
thể chia thành ba vùng rõ rệt theo phương thoát phoi thông qua mức độ dính 
của vật liệu gia công với mặt trước. Hình 2.6c và hình 2.7b thể hiện rất rõ mô 
hình ba vùng này. Chiều dài tiếp xúc giữa phoi và mặt trước thay đổi tăng dần 
từ mũi dao đến vùng tiếp xúc giữa bề mặt tự do của phoi với mặt trước. Vùng 
một nằm sát lưỡi cắt với những vết biến dạng dẻo bề mặt do các hạt cứng 
trong vật liệu gia công gây nên (hình 2.7d), vùng hai tiếp theo với sự dính nhẹ 
của vật liệu gia công trên mặt trước, vùng ba là vùng phoi thoát ra khỏi mặt 
trước, ở đây vật liệu gia công dính nhiều trên bề mặt (hình 2.7b và hình 2.7c). 
Theo các kết qủa nghiên cứu của Tren [11] thì vùng một ngay sát lưỡi 
cắt là vùng mà các lớp vật liệu gia công sát mặt trước dính và dừng trên mặt 
trước tạo nên vùng biến dạng thứ hai trên phoi. Tuy nhiên, các hình ảnh bề 
mặt cho thấy hiện tượng biến dạng dẻo bề mặt do cào xước theo hướng thoát 
phoi gây mòn tạo nên mặt trước phụ mới với góc trước phụ âm. Từ cấu trúc 
kim tương của thép 9XC trên hình 2.5 có thể thấy rằng trong thép có chứa 
một hàm lượng lớn các hạt các bít cứng (Fe Cr)3C. Những hạt các bít này khi 
di chuyển qua vùng ma sát một vừa lăn vừa trượt dưới tác dụng của ứng suất 
pháp rất lớn ở vùng lưỡi dao là nguyên nhân tạo nên các rãnh biến dạng dẻo 
do cào xước trên bề mặt của vùng này. Sự mòn bề mặt này tạo nên một mặt 
trước phụ với góc trước phụ âm tự nhiên. Vật liệu gia công ở vùng gần mặt 
sau do hiện tượng tự hãm có thể bị trượt ngược lại tạo nên lớp trắng trên bề 
mặt gia công. Đây là một phát hiện mới về bản chất của tương tác giữa vật 
liệu gia công và vật liệu dụng cụ ở vùng kề lưỡi cắt cần tiếp tục nghiên cứu. 
Vùng hai là vùng dính của vật liệu gia công với mức độ tăng dần về 
phía vùng phoi thoát khỏi mặt trước. Trên vùng này hệ số ma sát giữa vật liệu 
gia công và mặt trước tăng dần phù hợp với các kết quả nghiên cứu của 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
63 
Loladze [24]. Do ứng suất pháp giảm mạnh trên vùng này nên các hạt cứng 
không thể tạo nên các rãnh biến dạng dẻo trên bề mặt. 
Vùng ba vật liệu gia công dính nhiều trên mặt trước với các vết trượt 
của vật liệu phôi đây là vùng ma sát thông thường với hệ số ma sát f = const 
phù hợp với mô hình của Zorev [38] và Loladze [24]. Tuy nhiên, mòn không 
xuất hiện đầu tiên ở vùng này như trong kết quả của các nghiên cứu gần đây 
khi sử dụng mảnh dao tiện PCBN gia công thép hợp kim qua tôi. Điều này 
chứng tỏ mòn vật liệu PCBN ít chịu ảnh hưởng của nhiệt độ cao phát sinh trên 
vùng ma sát thông thường trong nghiên cứu này. 
Hình 2.8: Hình ảnh mặt trước của mảnh dao PCBN chụp trên kính 
 hiển vi điện tử 
a. Khi cắt với vận tốc cắt 160 m/p sau khi tiện 12,36 phút 
b. Khi cắt với vận tốc cắt 140 m/p sau khi tiện 19,72 phút 
Khi giảm vận tốc cắt từ 180 m/p xuống 160 m/p,140 m/p, 120 m/p 
tương tác ma sát giữa phoi và mặt trước thay đổi không nhiều. Vùng tiếp xúc 
giữa phoi và mặt trước vẫn chia làm hai vùng rõ rệt: vùng một sát lưỡi cắt và 
vùng hai với sự bám dính của vật liệu gia công. Ở vùng một sát lưỡi cắt, vẫn 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
64 
xuất hiện các vết biến dạng dẻo (hình 2.8), nhưng những vết biến dạng dẻo 
này không có dạng sóng rõ rệt như trên hình 2.7d. 
Vùng bám dính của vật liệu gia công trên mặt trước với mức độ bám 
dính nhiều nhất ở vùng phoi tách ra khỏi mặt trước không thay đổi khi thay 
đổi vận tốc cắt. 
2.3.2. Tương tác ma sát giữa phôi và mặt sau dụng cụ 
 Tương tác ma sát giữa bề mặt gia công và bề mặt sau của dụng cụ là 
tương tác ma sát thông thường kèm theo sự bám dính của vật liệu gia công và 
các vết cào xước trên bề mặt sau của dụng cụ. Mòn trên bề mặt này là mòn 
dưới dạng sliding wear. 
2.3.3. Kết luận 
 Kết quả nghiên cứu bản chất tương tác ma sát giữa vật liệu gia công và 
mặt trước sử dụng dao PCBN tiện tinh thép 9XC qua tôi cho thấy ma sát trên 
mặt trước của dụng cụ được chia làm ba vùng rõ rệt: vùng một sát lưỡi cắt, 
tiết theo là vùng chuyển tiếp hai và vùng ma sát thông thường ba. Khi mật độ 
các hạt các bít trong thép tăng đến một mức độ nào đó hiện tượng dính - dừng 
của các lớp vật liệu gia công sát mặt trước có thể bị thay đổi bằng hiện tượng 
trượt. Đây là nguyên nhân gây mòn do cào xước trên vùng lưỡi cắt và có thể 
là nguyên nhân tạo thành lớp trắng trên bề mặt gia công. Mòn mặt trước hầu 
như không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao trong vùng ma sát thông thường. 
2.4. Mòn dụng cụ PCBN và nhám bề mặt 
2.4.1. Phân tích thí nghiệm 
Độ cứng của vật liệu gia công ảnh hưởng trực tiếp đến quy luật phát 
triển nhiệt độ trong vùng cắt và tốc độ mòn mặt sau. Nghiên cứu của Lui và 
đồng nghiệp [35] cho thấy khi tiện tinh thép vòng bi GCr15 mòn mặt sau tăng 
nhanh khi tăng vận tốc cắt. Khi thay đổi độ cứng của phôi từ HRC = 30 đến 
HRC = 64 mòn đạt tốc độ cao nhất ở độ cứng HRC = 50. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
65 
 Các nghiên cứu của Kevin và đồng nghiệp [39], cho thấy kích cỡ của 
các hạt các bít trong thép gia công đóng vai trò quyết định với tốc độ mòn do 
cào xước trên mặt sau của dao. Poulachon và đồng nghiệp [15,14] khẳng định 
cơ chế mòn chính của dụng cụ PCBN là mòn do cào xước do các hạt các bít 
trong vật liệu gia công gây ra. Tốc độ mòn do cào xước phụ thuộc chủ yếu 
vào bản chất của các hạt các bít, cỡ hạt và sự phân bố của chúng. 
 Cơ chế mòn khuếch tán được quan sát trên mặt trước của dụng cụ CBN 
khi tiện thép tôi cứng bề mặt, pha CBN bị suy giảm trên vùng mòn mặt trước 
do CBN bị khuếch tán vào mặt dưới của phoi [16]. 
 Các vấn đề về cơ chế mòn mặt trước và sau của mảnh dao PCBN khi 
tiện thép hợp kim 9XC qua tôi và ảnh hưởng của mòn dao đến nhám bề mặt 
sẽ được đề cập chi tiết trong nghiên cứu này. 
 Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đây ch ưa đề cập nhiều đến ảnh hưởng 
của nhiệt cắt tới mòn và cơ chế mòn dụng cụ. Nghiên cứu của tác giả về vấn 
đề này khi gia công tinh thép 9XC qua tôi được trình bày dưới đây. 
2.4.2. Kết quả thí nghiệm mòn dụng cụ PCBN 
 Kết quả quan sát các mảnh dao sau khi tiện tinh trên kính hiển vi điện 
tử cho thấy các mảnh dao đều bị mòn cả mặt trước và mặt sau. Sau 2,61 phút 
cắt, tương ứng với chiều dài cắt là 250 mm, dọc theo lưỡi cắt chính xuất hiện 
vòng cung mòn với chiều rộng xấp xỉ 10 µm. Trên vùng mòn mặt trước này 
không nhìn thấy hình ảnh của các hạt CBN như vùng chưa bị mòn, lớp bề mặt 
có cấu trúc sóng chỉ ra trên hình 2.9a và 2.9b. Đây là hình ảnh mòn vật liệu 
dòn theo cơ chế biến dạng dẻo bề mặt do hạt cứng “ cày” trên bề mặt dưới tác 
dụng của ứng suất pháp rất lớn ở vùng lưỡi cắt gây ra. Sau 5,19 phút cắt, 
tương ứng với chiều dài cắt là 500 mm, bản chất mòn trên mặt trước không 
thay đổi tuy chiều dài cung mòn trên lưỡi cắt chính tăng lên nhưng chiều rộng 
của vùng mòn vẫn giữ không đổi khoảng 10 µm. Sau thời gian cắt 7,69 phút, 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
66 
tương ứng với chiều dài cắt là 750 mm, vùng mòn trên lưỡi cắt chính lan rộng 
gần đến đỉnh nhưng vẫn giữ chiều rộng khoảng 10 µm. 
Hình 2.9: 
(a): Hình ảnh mòn mặt trước của mảnh dao PCBN sau khi tiện 2,61 
phút với các vết biến dạng dẻo bề mặt. 
 (b): Hình ảnh phóng to của (a). 
(c): Mòn mặt trước của mảnh dao PCBN sau khi tiện 12,36 phút cho 
thấy bề mặt bị mòn rất ghồ ghề. 
(d): Hình ảnh cơ chế mòn mặt trước với sự bóc tách của các lớp vật liệu 
dụng cụ do dính - mỏi. 
 Sau 10,09 phút cắt, tương ứng với chiều dài cắt là 1000 mm, vùng mòn 
mặt trước phát triển đến đỉnh cung tròn của lưỡi cắt và chiều rộng vùng cắt 
đạt tới 20 µm. Sau thời gian cắt 12,36 phút tương ứng với chiều dài cắt là 
(a) (b) 
(c) (d) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
67 
1250 mm, hiện tượng mòn mặt trước thay đổi căn bả n như trên hình 2.9(c) 
với chiều rộng vùng mòn tới 120 µm, không còn hiện tượng dính của vật liệu 
gia công trên bề mặt vùng mòn mà chỉ có vùng mòn rất ghồ ghề. Từ hình 
2.9(d) có thể thấy những mảnh vật liệu dụng cụ bong ra khỏi mặt trước theo 
cơ chế của mòn dính hoặc dính kết hợp với mỏi. 
Hình 2.10: 
(a) Mòn mặt sau của mảnh dao PCBN sau khi tiện 7,69 phút cho thấy 
vật liệu gia công dính trên vùng mòn tương đối phẳng. 
(b) Ảnh mòn mặt sau, sau 10,09 phút gia công. 
(c) Ảnh phóng to vật liệu gia công bám lên vùng mòn mặt sau (b). 
(d) Góc mòn bên trái của (b). 
(a) (b) 
(c) ( 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
68 
Mòn trên mặt sau được thể hiện trên hình 2.10(a) sau 7,69 phút, hình 
2.10(b) sau 10,09 phút cắt và hình 2.11(a) sau 12,36 phút cắt. Kết quả quan 
sát trên kính hiển vi điện tử cho thấy vùng mòn mặt sau phát triển chậm từ khi 
bắt đầu cắt đến 7,69 phút đạt chiều cao mòn mặt sau hs ≈50 µm với bề mặt 
tương đối bằng phẳng và vật liệu gia công dính nhẹ trên bề mặt mòn này. Sau 
10,09 phút cắt thì chiều cao mòn mặt sau cũng chỉ đạt tới hs ≈60 µm. Hình 
ảnh vật liệu gia công dính trên vùng mòn mặt sau chỉ ra trên hình 2.10(c) Tuy 
nhiên trên mặt sau suất hiện hai mảng dạng vẩy nằm ngay phía dướí vùng 
giao của cạnh tự do của phoi khi thoát khỏi mặt trước với các lưỡi cắt. Hình 
ảnh phóng to của khối bên trái thể hiện trên hình 2.10(d). Đến 12,36 phút gia 
công thì trên toàn bề mặt sau của dụng cụ bị biến dạng theo một kiểu rất đặc 
biệt với các mảng vật liệu dụng cụ dạng vẩy (Hình 2.11(a) và 2.11(b)).Vật 
liệu dụng cụ bị dồn nén tạo nên các mảng vẩy nhẵn, rộng với chiều cao hs 
≈750 µm và vật liệu gia công dính trên bề mặt mòn là không đáng kể. 
Hình 2.11: 
(a) Mòn mặt sau của mảnh dao PCBN sau khi tiện 12,36 phút cho thấy 
hình ảnh gồ ghề của vùng mòn. 
(b) Hình ảnh phóng to của (a). 
(a) (b) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
69 
2.4.3. Thảo luận kết quả 
Theo Trent và Wight [11], khi gia công bằng dao CBN hiện tượng biến 
dạng lưỡi cắt không xảy ra, mòn mặt trước và mặt sau đồng thời tồn tại, vùng 
mòn mặt trước rất gần lưỡi cắt. Trong nghiên cứu này, mòn dụng cụ xuất hiện 
cả trên mặt trước và mặt sau chỉ sau 2,61 phút gia công. Tuy nhiên vùng mòn 
mặt trước không nằm gần lưỡi cắt mà phát triển từ lưỡi cắt tạo thành mặt 
trước phụ tương đối phẳng và phát triển dần theo hướng thoát phoi như trên 
hình 2.9(a). Trên vùng mòn nhiều hạt PCBN bị tách ra khỏi bề mặt do tương 
tác của vật liệu gia công làm yếu pha thứ hai của vật liệu dụng cụ theo như 
kết quả nghiên cứu của Kevin và đồng nghiệp [13]. Tuy nhiên cơ chế mòn do 
khuếch tán kết hợp với cào xước do Poulachon và đồng nghiệp [15] đề xuất 
dường như không phù hợp với các kết quả của nghiên cứu này. Hình ảnh các 
rãnh biến dạng dẻo trên vùng mòn mặt trước trên hình 2.9(b) khẳng định biến 
dạng dẻo bề mặt do các hạt cứng (các bít (FeCr)3C) và các ôxít khác trong 
thép 9XC dưới tác dụng của ứng suất pháp rất lớn ở vùng gần lưỡi cắt gây nên 
là cơ chế mòn chính trên mặt trước. 
Tuy nhiên sau thời gian cắt đủ lớn, khi mòn phát triển dần vào phía 
trong vùng mặt trước theo hướng thoát phoi, ứng suất pháp trên mặt trước 
giảm đi nhanh chóng, hiện tượng dính trở nên phổ biến ở vùng phoi thoát 
khỏi mặt trước thì cơ chế mòn do mỏi kết hợp với dính là nguyên nhân mòn ở 
vùng này gây bóc tách từng mảng vật liệu dụng cụ ra khỏi vùng bề mặt như 
trên hình 2.9(d). Đây là một phát hiện mới về cơ chế mòn mặt trước trong tiện 
tinh cứng. Hơn nữa từ hình 2.9(c) có thể thấy khi mòn mặt trước phát triển 
trên hầu hết diện tích tiếp xúc giữa phoi và mặt trước thì cơ chế mòn do bóc 
tách các mảnh vật liệu trở nên chiếm ưu thế thay cho cơ chế mòn do cào xước 
làm cho mòn mặt trước phát triển với tốc độ cao hơn. Bề mặt vùng mòn trở 
nên ghồ ghề và không nhẵn như bề mặt vùng mòn mặt trước thông thường. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
70 
Điều này có thể giải thích do cơ tính của PCBN ít bị suy giảm bởi nhiệt độ 
cao trong vùng cắt, tuy nhiên tác dụng có chu kỳ của các hạt cứng trong thép 
lên bề mặt kết hợp với dính đã làm cho bề mặt của dụng cụ bị phá huỷ theo cơ 
chế dính mỏi kết hợp sau một thời gian gia công nhất định. 
Mòn mặt sau cũng phát triển theo quy luật thông thường trong cắt kim 
loại cho đến 7,69 phút (Hình 2.10(a)). Cơ chế mòn mặt sau tương đối phù hợp 
với kết quả nghiên cứu của Kenvin [13] như trên hình 2.10(c). Tuy nhiên sau 
10,09 phút gia công trên mặt sau xuất hiện hai mảng dạng vẩy cục bộ (Hình 
2.10(b)). Đây là vùng tương ứng với các rãnh mòn sâu trên dụng cụ khi cắt 
các hợp kim có nhiệt độ nóng chảy cao và theo Shaw [20], thì các rãnh mòn 
sâu trên mặt trước và sau ở vùng này có liên quan đến tác dụng truyền nhiệt 
mạnh ở hai bên rìa của phoi vào bề mặt dụng cụ cắt. Đây là hiện tượng mòn 
phức tạp liên quan nhiều đến nhiệt độ cao. Theo Trent [11] nhiệt độ cao kết 
hợp với biến cứng của phoi, tác dụng của ôxi trong môi trường cắt đã tạo nên 
các rãnh mòn sâu ở vùng này trên dao tiện các bít khi tiện thép. Khi thời gian 
cắt tăng lên đến 12,36 phút các mảng dạng vẩy này phát triển trên toàn mặt 
sau và một số mảng bong ra tạo nên mòn. Đây cũng là một phát hiện mới về 
cơ chế mòn mặt sau trong tiện tinh cứng. 
Từ các kết quả đo nhám bề mặt có thể thấy cho đến 7,69 phút cắt, Ra 
gần như không thay đổi Ra = 0,53 ÷0,60 µm, nhưng khi thời gian cắt đạt tới 
10,09 phút có sự thay đổi đột biến về nhám bề mặt. Ra tăng ≈23%, sau đó Ra 
giữ gần như không thay đổi tới 12,36 phút cắt. Nhám bề mặt tăng nhanh khi 
mòn mặt trước và mặt sau đạt tới một mức độ nào đó và sau đó giữ gần như 
không đổi. Điều này có thể liên quan trực tiếp tới sự phát triển bề rộng của 
vùng mòn trên mặt trước tới 20µm và sự xuất hiện các mảng dạng vẩy trên 
mặt sau như đã phân tích ở phần trên. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
71 
Có thể thấy rằng nếu như mòn trên mặt trước và sau phát triển theo cơ 
chế khuếch tán, suy yếu pha thứ hai dẫn đến bóc tách các hạt CBN như các 
nghiên cứu mới đây thì tuổi bền của mảnh dao CBN có thể sẽ cao hơn nhiều 
lần so với thực tế. Hiện tượng bong từng mảng vật liệu dụng cụ trên mặt 
trước, tạo thành dạng vẩy và bong từng mảng vật liệu dụng cụ trên mặt sau là 
nguyên nhân cơ bản làm rút ngắn tuổi bền của dụng cụ. Các cơ chế mòn này 
có thể liên quan đến nhiệt, số chu kỳ cào xước của hạt cứng trong vật liệu gia 
công và dính trên bề mặt tiếp xúc của mặt trước và mặt sau cũng như kết hợp 
với tác dụng ôxi hoá của ôxi từ môi trường. 
2.4.4. Kết luận 
 Các kết quả của nghiên cứu cho thấy khi tiện tinh thép 9XC bằng dao 
PCBN mòn mặt trước và mặt sau là hai dạng mòn chủ yếu. Trong giai đoạn 
đầu, cơ chế mòn mặt trước chủ yếu là biến dạng dẻo do tác dụng cào xước 
của các hạt cứng trong thép và sự tách ra khỏi bề mặt của các hạt CBN. Cơ 
chế mòn mặt sau là quá trình bóc tách của các hạt CBN do pha thứ hai của vật 
liệu dụng cụ bị yếu đi khi tương tác với vật liệu gia công. Trong giai đoạn 
sau, cơ chế mòn mặt trước là do mỏi dính với sự bóc tách của từng mảng vật 
liệu trên mặt trước. Cơ chế mòn mặt sau có thể liên quan đến nhiệt, số chu kỳ 
cào xước của hạt cứng và dính kết hợp với tác dụng ôxi hoá của ôxi từ môi 
trường tạo nên các mảng dạng vẩy và bong ra khỏi mặt sau. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
72 
CHƯƠNG III 
 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ ẢNH HƯỞNG 
CỦA VẬN TỐC CẮT ĐẾN CƠ CHẾ MÒN DỤNG CỤ PCBN 
3.1.Nghiên cứu thực nghiệm 
 Nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành nhằm xác định vận tốc cắt tối 
ưu để đạt độ chính xác gia công, chất lượng lớp bề mặt và độ mòn của dao. 
 Tuy chất lượng lớp bề mặt được đánh giá bằng nhiều thông số như 
nhám bề mặt, mức độ biến cứng lớp bề mặt, ứng suất dư trong lớp bề mặt, cấu 
trúc tế vi của lớp bề mặt…nhưng trong các yếu tố này thì nhám bề mặt được 
quan tâm nhiều nhất trong gia công lần cuối và trong phạm vi của nghiên cứu 
này, tác giả tập trung nghiên cứu về mối liên hệ giữa vận tốc cắt, độ nhám bề 
mặt gia công và cơ chế mòn dụng cụ PCBN khi tiện tinh thép 9XC. Tiện cứng 
thường gắn liền với quá trình tiện tinh, trong thực tế phôi trước khi nhiệt 
luyện đã được gia công cơ và để lại một lượng dư tối thiểu cho nhiệt luyện và 
gia công lần cuối. Lựa chọn vận tốc cắt để đạt được tuổi thọ của dụng cụ cắt 
cao cũng là một mục tiêu của nghiên cứu, tuổi thọ của dụng cụ cắt ở đây được 
xác định theo độ nhám bề mặt chi tiết gia công khi thực hiện một vận tốc cắt 
nhất định. 
 Về mặt lý thuyết nghiên cứu thực nghiệm phải được tiến hành trong 
phòng thí nghiệm với điều kiện rất khắt khe về chế độ công nghệ. Tuy nhiên, 
xuất phát từ những khó khăn về thiết bị thí nghiệm của trường, nghiên cứu 
của tác giả được tiến hành tại cơ sở sản xuất của doanh nghiệp. 
3.2. Thí nghiệm 
3.2.1. Thiết bị thí nghiệm và dụng cụ đo 
 Thiết bị thí nghiệm được mô tả như trong chương II. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
73 
3.2.2. Trình tự thí nghiệm 
 Phôi thép 9XC sau khi được tiện thô bằng mảnh dao hợp kim cứng K01 
đảm bảo độ côn không vượt quá 0,05 mm/100 mm chiều dài phôi. Sau đó sử 
dụng mảnh dao PCBN tiện tinh qua một lượt trước khi tiến hành thí nghiệm 
và khi thay mảnh dao mới. Sau một số lần chạy dao độ cứng của phôi được 
kiểm tra và nếu thấp hơn độ cứng cần thiết phôi sẽ được nhiệt luyện lại để 
đảm bảo độ cứng ban đầu. 
 Sáu mảnh dao sử dụng tiện tinh phôi thép 9XC theo 3 chế độ cắt như 
trên. Với bộ chế độ cắt thứ nhất và thứ hai, 4 mảnh dao cắt tới 7,69 phút và 
12,36 phút. Khi sử dụng bộ chế độ cắt thứ ba, 2 mảnh dao cắt tới 12,36 phút 
và 19,72 phút. Sau đó các mảnh dao được tháo ra, quan sát và phân tích trên 
kính hiển vi điện tử TM – 1000. 
3.3. Kết quả thí nghiệm 
Vận tốc cắt ảnh hưởng đến lực cắt, nhiệt cắt, đến biến dạng vật liệu gia 
công, đến ma sát ở mặt trước và mặt sau dao cụ với bề mặt gia công. Do đó 
nó ảnh hưởng nhiều đến độ nhám bề mặt gia công (hình 3.1). 
 Hình 3.1: Ảnh hưởng của vận tốc cắt đến độ nhám 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
74 
 Ở vận tốc cắt thấp nhiệt cắt nhỏ, biến dạng lớp bề mặt không lớn nên 
vận tốc cắt ít ảnh hưởng đến độ nhám. 
 Khi cắt ở vận tốc cao hơn từ 20 ÷ 40 m/p nhiệt cắt tăng, biến dạng dẻo 
tăng, lẹo dao phát triển rồi bị phá huỷ. Góc trước thay đổi, lực cắt biến thiên, 
do vậy ở vùng vận tốc cắt này giá trị Ra tăng. 
 Tiếp tục tăng vận tốc cắt, nhiệt cắt tăng, song lẹo dao giảm dần rồi triệt 
tiêu, độ nhám bề mặt gia công tăng. 
 Ở vận tốc cắt rất cao nhiệt cắt ổn định, lẹo dao không có, hệ số ma sát 
ổn định, độ nhám bề mặt gia công ít thay đổi. 
 Khi gia công các vật liệu dòn (ví dụ gang) tăng vận tốc cắt làm giảm 
quá trình bong tróc các hạt, độ nhám sẽ giảm. 
Thực hiện đo nhám bề mặt bằng máy đo Mitutoyo – 201 của Nhật Bản. 
Thay đổi vận tốc cắt, giữ nguyên chiều sâu cắt và lượng chạy dao. Nhám bề 
mặt được đo theo phương đường sinh, trong mặt phẳng đi qua đường tâm của 
phôi. Kết quả thí nghiệm được thể hiện trong bảng 3.1. Đồ thị quan hệ giữa 
vận tốc cắt và các thông số nhám trên hình 3.2 
Bảng 3.1: Kết quả đo nhám bề mặt tương ứng với các chế độ cắt thiết kế 
 TT 
TT V (m/p) S (mm/v) t (mm) Ra (µm) 
1 100 0,1 0,12 
0,33 
0,40 
0,34 
2 120 0,1 0,12 
0,45 
0,43 
0,46 
3 140 0,1 0,12 
0,38 
0,39 
0,37 
4 160 0,1 0,12 
0,40 
0,50 
0,51 
5 180 0,1 0,12 
0,53 
0,56 
0,60 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
75 
Hình 3.2: Đồ thị quan hệ giữa vận tốc cắt và nhám 
Ra,Rz 
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
100 120 140 160 180 v(m/p)
R
a,
 R
z 
Ra
Rz
Hình 3.3: Ảnh vùng mòn mặt sau của mảnh dao PCBN cắt với vận tốc cắt: 
 (a): v1 = 180 m/p sau 7,69 phút 
 (b): v2 = 160 m/p sau 12,36 phút 
 (c): v3 = 140 m/p sau 19,72 phút 
 [µm] 
(a) 
(b) 
(c) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
76 
 Khảo sát mặt sau các mảnh dao PCBN khi sử dụng ba chế độ công 
nghệ khác nhau với vận tốc cắt thay đổi từ 140 m/p đến 180 m/p (Hình 3.3(a); 
3.3(b); 3.3(c)) cho thấy mòn mặt sau luôn tồn tại từ lưỡi cắt chính với độ cao 
hs tăng dần từ phía mũi dao đến cuối chiều dài cắt trên lưỡi cắt chính và đều 
đạt hsmax ≈ 0,1 mm mặc dù thời gian cắt khác nhau rất nhiều. 
Hình 3.4: 
(a) Ảnh phóng to vùng mòn mặt sau trên lưỡi cắt chính từ hình 3.3(c) 
(b) Ảnh phóng to vùng “phồng” dưới lưỡi cắt phụ từ hình 3.3(b). 
(c) So sánh cấu trúc tế vi vùng “phồng” dưới lưỡi cắt phụ (c ’) với cấu 
trúc tế vi nguyên thuỷ của PCBN (c) 
(d) Ảnh phóng to vùng dính vật liệu gia công trên mặt sau dưới lưỡi cắt 
phụ từ hình 3.3(c). 
(c) (c’) 
(d) (b) 
(a) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
77 
Cấu trúc của bề mặt mòn này bao gồm lớp dính của vật liệu gia công 
trên bề mặt và các vết cào xước (Hình 3.4(a)). Các rãnh mòn có chiều sâu lớn 
hơn khi tăng vận tốc cắt. 
 Khi cắt với vận tốc cắt 180 m/p sau 7,69 phút trên mặt sau suất hiện hai 
vùng bị “phồng” phía dưới lưỡi cắt chính và phụ nhưng vùng bị “phồng” dưới 
lưỡi cắt phụ lớn hơn và gần mũi dao hơn (Hình 3.3(a)). 
 Hình 3.5: 
 (a) Ảnh mặt trước của mảnh dao PCBN cắt với vận tốc cắt 160 m/p sau 
12,36 phút. 
(b) Ảnh phóng to thể hiện cơ chế phá huỷ lưỡi cắt phụ từ hình 3.4(a) 
Khi giảm vận tốc cắt xuống 160 m/p sau 12,36 phút, trên mặt sau chỉ 
xuất hiện một vùng bị “phồng” ở phía dưới lưỡi cắt phụ. Tiếp tục giảm vận 
tốc cắt tới 140 m/p, sau 19,72 phút, trên mặt sau chỉ tồn tại vùng dính vật liệu 
gia công (Hình 3.3(c)). 
Kết quả phân tích vùng “phồng” dưới lưỡi cắt phụ chỉ ra trên hình 
3.4(b). Vật liệu dụng cụ trong vùng này bị “phồng” lên từng mảng và lần lượt 
bong ra khỏi mặt sau tạo thành những hốc rộng và nông trên bề mặt này. Hình 
3.4(c) là cấu trúc bề mặt nguyên thuỷ của mảnh dao PCBN và hình 3.4(c ’) là 
(a) 
(b) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
78 
cấu trúc bề mặt của mảnh dao PCBN trên vùng phồng. Rõ ràng mật độ các 
hạt PCBN trên vùng “phồng” cao hơn rất nhiều so với mật độ PCBN trên bề 
mặt nguyên thuỷ. 
Ảnh trên hình 3.4(d) phóng to vùng dính vật liệu gia công phía dưới 
lưỡi cắt phụ từ hình 3.3 (c). Trên vùng này, vật liệu gia công bám lên bề mặt 
sau thành lớp và sau đó bong ra từng mảng để lộ các mảng vật liệu dụng cụ 
bên dưới là hình ảnh của cơ chế mòn dính. 
Ảnh trên hình 3.5(a) thể hiện vùng lưỡi cắt phụ trên mặt trước gần mũi 
dao bị phá huỷ sau 12,36 phút cắt với vận tốc cắt 160 m/p. Cơ chế phá huỷ 
của vùng này là sự vỡ ra từng mảng vật liệu dụng cụ dưới tác dụng của lực cắt 
trong các mặt phẳng gần vuông góc với mặt trước (hình 3.5(b)). Quá trình phá 
huỷ bộ phận lưỡi cắt phụ phát triển dần đến mũi dao và làm tăng nhám bề mặt 
gia công. 
3.4. Phân tích kết quả thí nghiệm 
 Cơ chế mòn mặt sau trên lưỡi cắt chính hoàn toàn phù hợp với nghiên 
cứu [14,13, 39,15]. Đó là do tương tác giữa lớp dính vật liệu gia công trên 
mặt sau với chất dính kết của vật liệu dụng cụ làm các hạt PCBN bị tách ra 
khỏi mặt sau tạo nên nguồn hạt cứng và gây cào xước bề mặt sau. Các hạt các 
bít (FeCr)3C với mật độ cao và đường kính xấp xỉ 3 µm trong thép 9XC cũng 
là một nguyên nhân gây ra mòn do cào xước trên bề mặt sau. Mòn mặt sau từ 
lưỡi cắt chính xảy ra liên tục với tốc độ chậm. Chiều cao mòn hs tăng khi tăng 
vận tốc cắt, vận tốc cắt càng cao tốc độ mòn càng lớn. Khi giảm vận tốc cắt từ 
180 m/p xuống 140 m/p thời gian để mòn đạt tới giá trị hsmax tăng lên 2,5 lần. 
Mòn mặt sau trên vùng phía dưới lưỡi cắt chính và phụ khi cắt với vận 
tốc 180 m/p; và chỉ dưới lưỡi cắt phụ khi cắt với vận tốc 160 m/p là nguyên 
nhân chủ yếu gây phá huỷ lưỡi cắt phụ, làm tăng nhám bề mặt dẫn tới phá huỷ 
mũi dao. Mòn ở vùng này xảy ra với tốc độ cao do vật liệu của dao trên mặt 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
79 
sau bị bong ra từng mảng làm yếu vùng dưới lưỡi cắt, đặc biệt là vùng dưới 
lưỡi cắt phụ. Có thể thấy rõ cơ chế mòn này liên quan đến nhiệt độ phát triển 
trên mặt sau vì khi giảm vận tốc cắt từ 180 m/p xuống 160 m/p (tức là giảm 
nhiệt cắt) mòn dạng này chỉ còn tồn tại dưới lưỡi cắt phụ nhưng phát triển 
chậm hơn (sau 12,36 phút so với 7,69 phút) và gây phá huỷ lưỡi cắt phụ như 
trên hình 3.5(a) và 3.5(b). 
Từ ảnh trên hình 3.4(d) cho thấy, khi giảm vận tốc cắt tới 140 m/p, sau 
19,72 phút cắt, cơ chế mòn chính trên mặt sau dưới lưỡi cắt phụ là mòn do 
dính. Giảm vận tốc cắt là giảm nhiệt độ phát triển trên vùng mặt sau dẫn đến 
thay đổi cơ chế mòn từ mòn do nhiệt sang mòn do dính. 
Từ ảnh trên hình 3.4(b) có thể giải thích bản chất hình thành vùng 
“phồng” và sự bong ra các mảnh vật liệu dụng cụ do hai nguyên nhân. Thứ 
nhất, do khả năng dẫn nhiệt kém của vật liệu mảnh dao (PCBN và chất dính 
kết), vùng nhiệt độ cao xuất hiện trên mặt sau sẽ gây nên giãn nở không đồng 
đều so với vật liệu bên trong tạo nên vùng “phồng” làm yếu liên kết vùng đó 
với các lớp bên trong. Thứ hai, nhiệt độ cao thúc đẩy quá trình ôxi hoá chất 
dính kết của vật liệu dụng cụ trên bề mặt vùng “phồng” làm các hạt PCBN dễ 
bị bật ra khỏi vùng này và ôxi hoá sâu vào các lớp bên trong (hình 3.4(c’); 
3.4(c)). Sau đó từng mảnh vật liệu dụng cụ bị bong ra dưới tác dụng của lực 
ma sát trên mặt sau. Đây là kết quả nghiên cứu mới so với cá c nghiên cứu 
trước đây về cơ chế mòn dụng cụ khi tiện cứng. 
Từ hình 3.3 và hình 3.4 có thể thấy rằng vùng mặt sau dưới lưỡi cắt phụ 
là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của mòn kể cả mòn do nhiệt và mòn do dính 
khi vận tốc cắt thay đổi từ 140 m/p đến 180 m/p. Sự phát triển của mòn ở 
vùng này là nguyên nhân làm tăng nhanh nhám bề mặt chi tiết gia công, dẫn 
đến sự phá huỷ lưỡi cắt phụ và mũi dao. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
80 
Từ các kết quả thí nghiệm có thể thấy rằng với các vận tốc cắt sử dụng 
trong nghiên cứu, nhám bề mặt đạt được thay đổi t rong phạm vi từ 0,3 µm 
đến khoảng 0,6 µm theo thang đo Ra. Tuy nhiên xác định vận tốc cắt tối ưu để 
đạt được nhám bề mặt tốt nhất ta phải sử dụng phương trình hồi quy và xử lý 
số liệu thực nghiệm. 
3.5. Phương trình hồi quy 
 Quá trình tiện cứng bằng dao gắn mảnh PCBN là một quá trình gia 
công có cơ chế phức tạp, chịu nhiều ảnh hưởng của các thông số và sự tác 
động của các thông số đến quá trình là rất phức tạp. Để xác định vận tốc cắt 
mà tại đó nhám bề mặt đạt giá trị nhỏ nhất ta phải xử lý các số liệu thực 
nghiệm. Phương trình sử dụng làm phương trình hồi quy thích hợp nhất trong 
cắt kim loại được tác giả sử dụng trong nghiên cứu có dạng như sau: 
 lnRa = bo + b1lnV + b2lnS + b3lnt + b11(lnV)2 + b22(lnS)2 + b33(lnt)2 
 + b12(lnV)(lnS) + b13(lnVc)(lnt) + b23(lnS)(lnt) (3 - 1) 
Đây là phương trình bậc hai với ba biến độc lập lnS, lnV và lnt. Khi 
t = const và S = const ta có phương trình như sau: 
lnRa = β 1 + β 2lnV + β 3lnS + β 4(lnV)2 + β 5(lnS)2 + β 6(lnV)(lnS) (3 - 2) 
Trong nghiên cứu này, giá trị vận tốc cắt V = 160 m/p bị loại ra khỏi 
phần nghiên cứu hồi quy vì như trên, với sự hình thành của các vùng phồng 
rộp do nhiệt ở vùng dưới lưỡi cắt phụ làm suy giảm sức bền vật liệu dưới lưỡi 
cắt dẫn đến mũi dao bị phá huỷ tương đối nhanh. Vì thế vận tốc cắt V ≥ 160 
m/p không nên sử dụng khi tiện cứng thép 9XC. 
Để hồi quy các kết quả thí nghiệm về phương trình (3-2) và xác định 
vận tốc cắt tối ưu để đạt được nhám bề mặt nhỏ nhất, sử dụng phần mềm 
MatLab được kết quả hồi quy là: 
lnRa = - 171,038 + 6,4448lnS + 67,3917lnV + 2,1152lnS.lnV 
 + 0,44158 (lnS)2 – 6,0176 (lnV)2 (3 - 3) 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
81 
4.2
4.4 4.6
4.8
5
4.5
5
5.5
5.6
5.8
6
6.2
6.4
LnS
LnV
Ln
R
a
Kết quả chạy chương trình cho hệ số biến thiên giải thích: 
R2 = 0,85278 
Hệ số Fo = 17,3774 tương ứng với giá trị của p = 9,081e-006 
Đồ thị của phương trình (3 - 3) được thể hiện trên hình 3.6. 
Ứng với t = 0,12mm, Ra đạt min tại vận tốc cắt nhỏ nhất V = 100 m/p. 
Kết quả xác định vùng nhám có giá trị nhỏ chỉ ra trên hình 3.7. Giá trị nhỏ 
nhất của nhám bề mặt là Ramin = 0,221µm – 0,30 µm. 
Hình 3.6: Mặt hồi quy dạng Loga của nhám bề mặt Ra theo loga của 
 lượng chạy dao S và vận tốc V khi t = 0,12 mm. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
82 
50
100
150
90
100
110
120
130
140
150
200
400
600
S(mm/v)
V(m/p)
R
a(
m
m
.e
-6
)
211 300
350
400
400
S(mm.e-3/v)
V(
m
/p
)
60 80 100 120 140
95
100
105
110
115
120
125
130
135
140
Hình 3.7: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa nhám bề mặt Ra và S,V. 
 Các vùng nhám bề mặt Ra nhận giá trị tối ưu (t = 0,12 mm). 
Với chiều sâu cắt t = 0,12mm, kết quả hồi quy xác định vận tốc cắt tối 
ưu để đạt được tuổi bền cao nhất là Tmax = 49,37 cm2 tại vận tốc cắt lớn nhất 
V = 140m/p. Đồ thị của mặt hồi quy chỉ ra trên hình 3.8. Kết quả xác định 
vùng tuổi bền có giá trị lớn chỉ ra trên hình 3.9. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
83 
Hình 3.8: Mặt hồi quy dạng loga của tuổi bền T theo loga của lượng 
 chạy dao S và vận tốc V khi t = 0,12 mm. 
4.2
4.4 4.6
4.8
5
4.5
5
5.5
3
3.2
3.4
3.6
3.8
LnS
LnV
Ln
T
50
100
150
100
120
140
20
25
30
35
40
45
50
S(mm.e-3/v)
V(m/p)
T(
cm
2)
30
30
40
4
S(mm/p)
V(
m
/p
)
80 100 120
100
105
110
115
120
125
130
135
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
84 
Hình 3.9: Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa tuổi bền dụng cụ cắt T 
 và S, V. Các vùng tuổi bền T nhận giá trị tối ưu (t = 0,12 mm) 
3.6. Kết luận 
Ba cơ chế mòn chính khi tiện cứng thép 9XC qua tôi khi thay đổi vận 
tốc cắt từ 160 m/p đến 180 m/p là do mòn dính, mòn do cào xước và mòn do 
nhiệt. Mòn do nhiệt là dạng mòn chính do dãn nở nhiệt cục bộ của lớp vật liệu 
dụng cụ trên mặt sau kết hợp với quá trình ôxi hoá ở nhiệt độ cao làm bong 
các mảnh vật liệu dụng cụ ra khỏi bề mặt. Mòn phát triển nhanh hơn ở vùng 
dưới lưỡi cắt phụ làm tăng nhám bề mặt và phá huỷ mũi dao. Mòn mặt sau từ 
lưỡi cắt chính là mòn do dính và mòn do cào xước gây ra bởi các hạt PCBN 
khi bị bong ra từ vật liệu dụng cụ và các hạt các bít trong vật liệu gia 
công.Tốc độ mòn tỉ lệ thuận với vận tốc cắt. 
Khi giảm vân tốc cắt tới 140 m/p, cơ chế mòn do nhiệt không tồn tại 
mà chỉ còn cơ chế mòn do dính trên mặt sau dưới lưỡi cắt phụ. 
Mòn do nhiệt phát triển rộng hơn và nhanh hơn trên vùng mặt sau dưới 
lưỡi cắt phụ là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra bản chất của hiện 
tượng này. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
85 
CHƯƠNG IV 
KẾT LUẬN CHUNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU 
TIẾP THEO CỦA ĐỀ TÀI 
4.1. Kết luận chung 
 Các kết quả của nghiên cứu cho thấy khi tiện tinh thép 9XC bằng dao 
PCBN mòn mặt trước và mặt sau là hai dạng mòn chủ yếu. trong giai đoạn 
đầu, cơ chế mòn mặt trước chủ yếu là biến dạng dẻo do tác dụng cào xước 
của các hạt cứng trong thép và sự tách ra khỏi bề mặt của các hạt CBN. Cơ 
chế mòn mặt sau là quá trình bóc tách của các hạt CBN do pha thứ hai của vật 
liệu dụng cụ bị yếu đi khi tương tác với vật liệu gia công. Trong giai đoạn 
sau, cơ chế mòn mặt trước là do mỏi dính với sự bóc tách của từng mảng vật 
liệu trên mặt trước. Cơ chế mòn mặt sau có thể liên quan đến nhiệt, số chu kỳ 
cào xước của hạt cứng và dính kết hợp với tác dụng ôxi hoá của ôxi từ môi 
trường tạo nên các mảng dạng vẩy và bong ra khỏi mặt sau. 
Ba cơ chế mòn chính khi tiện cứng thép 9XC qua tôi khi thay đổi vận 
tốc cắt từ 160 m/p đến 180 m/p là do mòn dính, mòn do cào xước và mòn do 
nhiệt. Mòn do nhiệt là dạng mòn chính do dãn nở nhiệt cục bộ của lớp vật liệu 
dụng cụ trên mặt sau kết hợp với quá trình ôxi hoá ở nhiệt độ cao làm bong 
các mảnh vật liệu dụng cụ ra khỏi bề mặt. Mòn phát triển nhanh hơn ở vùng 
dưới lưỡi cắt phụ làm tăng nhám bề mặt và phá huỷ mũi dao. Mòn mặt sau từ 
lưỡi cắt chính là mòn do dính và mòn do cào xước gây ra bởi các hạt PCBN 
khi bị bong ra từ vật liệ dụng cụ và các hạt các bít trong vật liệu gia công.Tốc 
độ mòn tỉ lệ thuận với vận tốc cắt. 
Khi giảm vân tốc cắt tới 140 m/p, cơ chế mòn do nhiệt không tồn tại 
mà chỉ còn cơ chế mòn do dính trên mặt sau dưới lưỡi cắt phụ. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
86 
Mòn do nhiệt phát triển rộng hơn và nhanh hơn trên vùng mặt sau dưới 
lưỡi cắt phụ là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra bản chất của hiện 
tượng này. 
Từ kết quả nghiên cứu có thể thấy khi gia công tinh thép 9XC tôi cứng 
trên HRC = 50, không nên sử dụng vận tốc cắt ≥ 160 m/p vì ở vận tốc cắt này 
dụng cụ sẽ bị phá huỷ rất nhanh do nhiệt. 
4.2. Phương hướng nghiên cứu tiếp theo 
 Sử dụng phương pháp cắt trực giao để nghiên cứu bản chất tương tác 
ma sát trong tiện cứng. 
 Nghiên cứu mối quan hệ giữa trường nhiệt độ phát triển ở vùng mũi 
lưỡi cắt với nhám bề mặt và tuổi bền của dụng cụ. 
 Nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tế vi lớp bề mặt đến nhám bề mặt 
và tuổi bền của dụng cụ. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
87 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.Trần Văn Địch (2004), Gia công tinh bề mặt chi tiết máy, Nhà xuất bản 
khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 
2.Trần Văn Địch, Nguyễn Trọng Bình, Nguyễn Thế Đạt, Nguyễn Viết Tiếp, 
Trần Xuân Việt (2006), Công nghệ chế tạo máy, Nhà xuất bản khoa học và 
kỹ thuật, Hà Nội. 
3.Trần Văn Địch (2003), Nghiên cứu độ chính xác gia công bằng thực 
nghiệm, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. 
4.Trần Hữu Đà, Nguyễn Văn Hùng, Cao Thanh Long (1998), Cơ sở chất 
lượng của quá trình cắt, Trường ĐHKTCN Thái Nguyên. 
5. Nguyễn Văn Hùng (2003), Luận án tiến sỹ: “Nghiên cứu tối ưu các thông 
số của quá trình mài điện hoá bằng mài kim cương khi gia công hợp kim 
cứng, Trường ĐHBK Hà Nội. 
6. Bành Tiến Long, Trần Thế Lục, Trần Sỹ Tuý (2001), Nguyên lý gia công 
vật liệu, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật. 
7. Trần Thế Lục (1988), Giáo trình Mòn và Tuổi bền của dụng cụ cắt, Khoa 
cơ khí - Trường ĐHBK Hà Nội. 
8. Phan Quang Thế (2002), Luận án tiến sỹ: “Nghiên cứu khả năng làm việc 
của dụng cụ thép gió phủ dùng cắt thép các bon trung bình”, Trường 
ĐHBK Hà Nội. 
9. Nguyễn Quốc Tuấn (2005), Cơ sở chất lượng của quá trình cắt, Trường 
ĐHKTCN Thái Nguyên. 
10. Phan Quang Thế, Trần Ngọc Giang (2008), “Nghiên cứu cơ chế mòn dao 
gắn mảnh PCBN sử dụng tiện tinh thép 9XC qua tôi”, Tạp chí Khoa học và 
Công nghệ, tập 2, số 4 (48). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
88 
11.Trent E.M and Wright P.K (2000), Metal cutting, Butterworth – 
Heinemann USA. 
12. Kishawy H.A. Elbestawy (1999), “Effects of Process Parameters on 
Materials Side Flow during Hard Turning”, International Journal ơf 
Machine Tools and Manufacturing, Vol 39, pp. 1017 – 1030. 
13. Kevin Chou Y, Evans C.J, Barash M.M (2002), “Experimental 
Investigation on CBN Turning ơf Hardened AIAI 52100 Steel”,Journal 
of Materials Processing Technology, Vol 124, pp. 274 – 283. 
14. Poulachon.G, Moisan.A, Jawahir.I.S,(2001), “Tool Wear Mechanism in 
Hard Turning with Polycrystalline Cubic Boron Nitri Tools”, Wear, 
Vol.250, pp.576-586. 
15. Poulachon.G, Bandyopadhyay.B.P, Jawahir.I.S, Pheulpin.S, Seguin.E, 
(2004), “Wear Behavior of CBN while Turning Various Hardened 
Steels”, Wear, Vol. 256, pp.302-310. 
16. Zimmermann.M, Lahres.M, Viens.D.V, Laube.B.L,(1997), 
“Investigations of the Wear of Cubic Boron Nitride Cutting Tools Using 
Auger Electron Spectrocopy and X-ray analysis by EPMA”, Wear, 
Vol.209, pp.241-246. 
17. Liu.X.L, Wen.D.H, Li.Z.J, Xiao.L, Yan.F.G, (2002), “Experimental Study 
on Hard Turning Hardened GCr15 Steel with PBCN Tool”, Journal of 
Materials Processing Technology, Vol.129, pp. 217-222. 
18. Varadarajan. A.S, Philip. P.K, Ramamoorthy. B, (2002), “Investigastion 
of Hard Turning with Minimal Cutting Fluid Application (HTMF) and its 
Comparison with Dry and Wet Turning”, International Journal of 
Machine Tools and Manufacturing, Vol. 42, pp. 1993-2000. 
19. Stephenson D.A and Agapiou J.S (1997), Metal Cutting Theory and 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
89 
Practice, Marcel Dekker, Inc, USA. 
20. Shaw M. C, (1989), Metal Cutting Principles, Oxford University Press, 
New York. 
21. Loladze T. N, (1976), "Tribology of Metal Cutting and Creation of New 
Tool Materials", Annals of the CIRP, Vol. 25. Pp. 83-88. 
22. Boothroyd G, (1975), Fundamemtals of Machining Machine Tools, 
Scripta Book Company, USA. 
23. Loffler F. H.W, (1994), "Systematics Approach to Improve the 
Performance of PVD Coatings for Tools Applications", Surface and 
Coatings Technology, Vol. 68/69, pp. 729-740. 
24. Loladze T. N. (1958), Wear of Cutting Tools, Mashqiz, Moscow. 
25. Armarego E. J. A and Brown, R. H, (1969), The Machining of Metals, 
Prentice Hall, Inc, New Jersey. 
26. Colwell L. V, (1963), "Resume and Critique of Papers Part two", 
International Research in production Engineering, The American Society 
of mechanical Engineers, New York, pp. 83-88. 
27. Brierley R. G and Siekmann H. J, (1964), Machining Principles and Cost 
Control, Mc Graw-Hill Book Company, London. 
28. Min W and Youzhen Z, (1988), "Diffusion Wear in Milling Titanium 
Alloys", Materials Science and technology, Vol. 4. pp. 548-553. 
29. Trent E. M, (1967), “Metallurgical Changes at the Tool/Work Interface”, 
Machinability, ISI Special Report 94, The Iron and Steel Institute, 
Portsmouth, pp. 79-87. 
30. Ekemar. S, (1982), “Coated Indexable Cemented Carbide Inserts - A 
Development in Progress”, Modern Trends in Cutting Tool, Society of 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
90 
Manufacturing Engineers, Michigan, pp. 24-26. 
31. Hau-Bracamonte, J. L, (1981), “Partial Austenitisation within Flow Zone 
when Cutting a Low Carbon Steel”, Metals Technology, November, 1981, 
pp. 447- 450. 
32. Ahman L.. Stridh B and Wisell H, (1990), “Diffusion and Continuous 
Wear of High Speed Steel Cutting Tools”, Materials Science and 
Technology, Vol 43/44, pp. 1074-1085. 
33. Diniz.A.E, Ferreira.J.R, Filho.F.T, (2003), “Influence of Refrigeration/ 
Lubrication Condition on SAE 52100 Hardened Steel Turning at Several 
Cutting Speeds”, International Journal of Machine Tools and 
Manufacturing, Vol. 43, pp. 317-326. 
34. Ren.X.J, Yang.Q.X, James.R.D, Wang.L, (2004), “Cutting Temperature 
in Hard Turning Chromium Hardfacings with PCBN Tooling”, Journal of 
Materials Processing Technology, Vol. 147, pp. 38-44. 
35. Liu.X.L, Wen.D.H, Li.Z.J, Xiao.L, Yan.F.G, (2002), “Cutting 
Temperature and Tool Wear of Hard Turning Hardened Bearing Steel”, 
Journal of Materials Processing Technology, Vol. 129, pp. 200-206. 
36. Poulachon.G, Albert.A, Schluraff. M, Jawahir.I.S, (2005), “An 
Experimental Investigation of Work Material Microstructure Effects on 
White Layer Formation in PBCN Hard Turning”, International Journal of 
Machine Tools and Manufacturing, Vol. 45, pp. 211-218. 
37. Hua.R and others, (2005), “Effects of Feeds Rate, Workpiece Hardness 
and Cutting Edge on Subsurface Residual Stress in the Hard Turning of 
Bearing Steel Using Chamfer + Hone Cutting Edge Geometry”, Journal 
of Materials Processing Technology, Vol. 394, pp. 238-248. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
91 
38. Zorev N.N, (1966), Metal Cutting Mechanics, Pergamon Press, New 
Your. 
39. Kevin Chou Y, Evans Chris J, (1997), Tool Wear Mechanism in 
Continuous Cutting of hardened Tool Steels, Wear, Vol. 212, pp.59 – 65. 
40. Rezhicob A.N, (1969), Heat Generation in Metal Cutting, Mosscow. 
41. Tay A.O. Stevenson M.G and De Vahl G, (1976), A numerical method for 
calculating temperature distributions in machining from force an shear 
angle measurements, International Journal of machine Tools and 
Manufacture,Vol. 16, pp. 335 – 349. 
42. Zorev N.N, (1963), Interrelationship between shear processes occuring 
along tool face and on shear plane in metal cutting, International 
research in production engineering, The American Society of mechanical 
Engineers, New York, pp. 48 – 67. 
43. Jun C.K and Smith K.H, (1994), Alumina Silicon carbide whisher 
composite tools, Ceramic Cutting Tools, Noyes Publications, New Jersey, 
USA, pp. 86 – 111. 
44. Tay A.O. Stevenson M.G and De Vahl Davis G, (1974), Using the Finite 
Element Method to Determine temperature Distribution in orthogonal 
machining, Proceedings of Institutions Mechanical Engineers, Vol 188, 
pp. 627 – 638. 
45. Ivett Viktoria BANA, (2006), Manufacturing of high precision bores. 
46. J.M. Zhou, H. Walter, M. Andersson, J.E. Stahl, (2003), Effect of chamfer 
angle on wear of PCBN cutting tool, International Journal of Machine 
Tools & Manufacture 43, 301 – 305. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Luận văn- NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN TỐC CẮT TỚI CƠ CHẾ MÒN DỤNG CỤ PCBN SỬ DỤNG TIỆNTINH THÉP 9XC QUA TÔI.pdf Luận văn- NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN TỐC CẮT TỚI CƠ CHẾ MÒN DỤNG CỤ PCBN SỬ DỤNG TIỆNTINH THÉP 9XC QUA TÔI.pdf