Luận văn Một số đặc trưng tu tập của hệ phái khất sĩ từ khởi nguyên cho đến nay

8.Kính bạch Ni trưởng cho con hỏi: Trong Tứ Y pháp của Tổ Sư dạy trong Chơn Lý đến hôm nay có gì thay đổi không ạ. Nói chung do ngày xưa thời Tổ Sư mới khai đạo, với ý nguyện “ Nối truyền Thích Ca chánh pháp” vì thế Ngài hành đạo với hình bống Tăng xưa và pháp môn khất thực là một trong những pháp không thể thiếu của người tu Khất Sĩ. Ở đây Tổ Sư chủ yếu là dùng thân giáo để giáo hóa cho hàng để tử cả Tăng lẫn tục của Ngài dẹp bỏ chấp trước ngã mạn, vì con người sống ở đờihọ rất quan trọng vấn đề ăn mặc ở bịnh, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ thì cần phải thực hành “Tứ Y Pháp” sống một cuộc sống đơn giản thanh bần, không có gì ngoài tam y nhất bát mà thôi. Lấy màn trời chiếu đất làm nhà, ăn không cầu no, ngủ không cầu ấm êm. Mối đạo mới là chính, tuy hôm nay viêc hành đạo duy chuyển không được, pháp môn khất thực cũng tạm ngưng Tăng Ni tạm trú một chỗ nhưng phưng pháp tu tập của Tổ sư vẫn không bị mai một, nó có sự kế thừa và phát huy lên, nhân rộng ra thêm ở nhiều phương diện khác nhau như tổ chức các khóa tu truyền thống hay các khóa tu khác nhau. (Ni trưởng Hiệp Liên trụ trì TX Ngọc Trung An Khê) 9.(Ni Cô HL ở Long An) Thưa sư cô cho hỏi cho hỏi sau khi trãi qua khóa tu “ Đạo Hạnh” sư cô nhận thức được gì trong khóa tu này. Thưa là một Ni cô sắp được đi thọ giới con thấy khóa tu này rất bổ ích cho giới tử chúng con. Điiều đầu tiên là tạo cho chúng con một môi trường cùng nhau tu học trong bảy ngày, chúng con được quý Ni trưởng sát tấn dạy dỗ cho chúng con từ cách ăn, cách ngũ, hay cách nằm cũng nhu cách ăn mặc cho đúng cách khi ra đường. Từ những cái rất nhỏ ấy đã làm cho chúng con chỉnh đốn đạo hạnh oai nghi của chúng con trước khi được thọ giới pháp ( đây là khóa tu đạo hạnh dành cho giới tử trước khi thọ giới). Trong bảy ngày này tạo cho chúng con cách sống chung tu học trong tinh thần lục hòa cho nên đây là một khóa tu không thể thiếu cho những ai sắp được bước vào hàng xuất gia thực thụ. Cám ơn sư cô. 10. ( Ni cô Liên Trâm. ở TX Ngọc Chơn. Quận Bình Thạnh. Tp HCM) Ni cô cho hỏi là một Ni trẻ sống trong thời đại mới công nghệ Ni cô có thấy điều gì bất cập không. Dạ thưa là một tu sĩ trẻ đang sống trong thời đại vật chất dồi dào, được đi học rất nhiều thứ nhưng chúng con rất sợ, con cũng có duyên lành nên được ở một trú xứ có Quý Ni Trưởng nghiêm về giới luật,chúng con được rèn luyện thời khóa nên chúng con rất vui, vì khi ra đi học có được kiến thức nhưng cũng phải đánh đổi rất nhiều nếu không khéo biết giữ lấy chính mình thì dễ bị cám dỗ bởi vật chất ấy, rồi oai nghi tế hạnh cũng không còn ăn nói thì không kiên nể ai cả. Nên nếu được thì con xin những năm đầu mới xuất gia thì cần ở nhà để thầy tổ dạy oai nghi tế hạnh, tập sống đơn giản để khi đi ra vẫn con giữ được chút bóng dáng của người tu.

pdf95 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 605 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số đặc trưng tu tập của hệ phái khất sĩ từ khởi nguyên cho đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Dầu nói ít kinh điển Nhưng hànhpháp, tùy pháp Từ bỏ tham sân si Tỉnh giác, tâm giải thoát Không chấp thủ hai đời Dự phần Sa môn hạnh”. 2.2.5.3. Cái linh là phải tu chung: Hiện nay, Hệ phái đã thành lập khóa tu Bồi dưỡng Đạo hạnh dành cho Sa di, Tập sự, ít nhất mỗi năm một lần để các vị mới xuất gia được sống chung tu học theo lời dạy của Tổ sư. Đây là dịp để mỗi vị được sống theo thanh quy thiền môn, được trao dồi pháp học, pháp hành về đường lối tu tập của Hệ phái. Các vị Sa di, Tập sự phải hiểu đó là phúc duyên lớn, mà các vị được thọ nhận giáo pháp từ Đức Phật và Đức Tổ sư. Người xưa thường bảo: “Tu mà không học là tu mù/ Học mà không tu 47 là đãy sách”. Vấn đề học và tu được đức Tổ sư dạy một cách rõ ràng, đó là phải chú trọng ngang nhau giữa pháp học và pháp hành: Mặc dầu các sư tuy ít học, mà cái học chín chắn bằng sự tham thiền, học đến đâu tu hành theo kịp đến đó, chẳng là có kết quả hơn cái học mênh mông. Vả lại, học tuy được mà chưa hành được, thì chắc gì ai dám tin trọn lời nói đó. Tài học không bằng tu đức, đức trên tài dưới, tài đức phải nương nhau mới đặng. Các Phật Thánh xưa xuất gia là để tu, từ nơi chỗ thật hành tu đức mà sanh trí huệ toàn học, nhờ học chậm rãi, khó khăn, kinh nghiệm, mà pháp bảo đối với các Ngài hưởng được mùi vị hay quí thơm ngon lắm. Ngày xưa ít học mà nên nhiều, ngày nay học nhiều mà nên ít, là cũng bởi trọng học tài quên tu đức. (Chơn Lý: “Tông giáo”) [43]. Có thể thấy, giáo lý “Sống chung tu học” được đức Tổ sư trình bày rất nhiều lần trong nhiều quyển Chơn Lý. Sống chung- học chung - tu chung được xem như là một nguyên lý không thể tách rời đời sống phạm hạnh của một vị xuất gia. Cũng ở nội dung này, Tổ sư chỉ ra mỗi liên hệ mật thiết giữa chúng như sau: “Các ngươi có được cái biết là mục đích, phải cố gắng tìm học cho được toàn giác. Các ngươi có sẵn cái linh nên phải tập giữ sự yên lặng cho nó linh thiêng Hễ sống dai tu học lâu năm, ắt là đắc đạo”. (Chơn Lý: “Đi học”). Có “Sống chung tu học” thì Tăng đoàn mới vững mạnh, các giá trị đạo đức tâm linh của cá nhân và tập thể mới được nâng cao, và cũng để nhắc nhở các Sa di, Tập sự phải luôn tâm niệm: “Tu học đạo đức là món ăn về tinh thần lý trí, để đến với tâm chơn Phật, một lẽ sống tinh khiết hoàn toàn, rất cần hơn tất cả nghệ thuật và mọi sự học về bên ngoài thể chất, cùng sự dồi trau sắc thân, cái có, tô đắp sự vật hữu tình tan hoại, cần hơn cả thức ăn bổ dưỡng mỹ vị để nuôi sống thân”. (Chơn Lý: Sa di phải biết rằng). 2.2.6. Nhiếp phục, trau dồi Thân, Khẩu, Ý: 48 Một trong những ý pháp căn bản mà Tổ sư luôn luôn khuyên dạy hàng Tăng Ni Khất sĩ nhận biết trong Chơn Lý đó là tu tập thanh lọc, nhiếp phục thân, khẩu, ý trong sạch. Ý pháp này được Tổ sư dạy cụ thể trong quyển Chơn Lý “Tu và nghiệp”: Thân trong sạch ấy là xứ Phật Miệng trong sạch ấy là pháp Phật Ý trong sạch ấy là con Phật Tâm trong sạch chính là đức Phật. Lời dạy của Tổ sư súc tích, ngắn gọn nhưng khế hợp với giáo pháp của Đức Phật. Gìn giữ tam nghiệp thanh tịnh ấy mới được gọi là xuất gia chơn chánh, tức là vị Tăng Khất sĩ phải có giới đức trong sạch. Đối với Sa di, Tập sự, thân trong sạch là thân phải có giới luật “mới có thể phân biệt được nẻo chánh, đường tà”, và “phải trì giới phạm hạnh thanh tịnh, chớ đụng cọ với ai ai”. Khi đã hiểu được bản chất vô thường của kiếp sống, nhận diện các pháp vô ngã phát nguyện tu tập thì thân mới dừng lại những điều xấu ác, tâm mới không chạy theo thất tình lục dục: Đem thân làm kẻ tội đày Cho bao vật chất nó cai trị mình Để tâm làm vật hy sinh Suốt đời theo lịnh dục tình dắt lôi Cái tham bao thuở cho rồi Cái không may đến một hồi là xong Dã tràng xe cát biển đông Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn. (Kệ “Thân”) Và khi đó, người tu sẽ thực hành theo lời dạy trong điều luật Phật chế: “không làm việc sát sanh, trộm cắp tổn hại ai Chỉ làm việc đạo lý: viết sách, dịch kinh, tham thiền, nhập định, thuyết pháp, luận đạo, dạy học, khất 49 thực làm gương lành; giúp việc công cho Giáo hội, quét dọn chùa, tháp, cốc, sân, lượm rác, đóng cửa chùa; may áo vá y cho Giáo hội, sắc thuốc, nấu cháo nuôi người bệnh”. Một loạt những thiện pháp mà các vị Sa di, Tập sự cần phải ghi nhớ và thực hiện mỗi ngày để lắng dần những hành động bất thiện, từ đó, thân sẽ thuần thục, thích làm việc đạo. Thân có giới pháp Khất sĩ thì thân ấy trong sạch, tức là đã an trú nơi xứ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Tương tự, khẩu, ý tâm cũng theo giới, nhờ giới mà được thanh tịnh và an trú trong Chánh giác. 2.3. Hệ Phái Khất sĩ trong giai đoạn hiện nay 2.3.1. Tiếp nối truyền thống Trong giai đoạn hiện nay, Chư Tôn Hòa thượng vẫn giữ nguyên những gì mà Tổ Sư đã dạy về phương pháp tu tập. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội có nhiều phức tạp như hiện nay, để củng cố Tăng đoàn, cũng như để kẻ xấu không lợi dụng nên chư Tôn Đức tạm ngưng pháp môn đi khất thực mỗi sáng. Tuy vậy, trong những ngày tưởng niệm Tổ Sư hay những ngày tưởng niệm chư tôn trưởng lão vẫn tổ chức đi khất thực với số lượng rất đông lên đến cả 100 vị hoặc có thể hơn để ôn lại và để nhắc nhỡ cho hàng hậu tấn biết rằng đây là một pháp môn tu tập của chư Phật trong ba đời mà chủ yếu là chư Phật và chư Tổ dùng thân hành để cho chúng sanh đễ thấy dễ biết, cũng như nhớ lại hạnh xưa mà chư Phật và chư Tổ đã thực hành đem lại nhiều lợi lạc cho nhân sanh. Ngoài ra, kế thừa lời Tổ Sư dạy là tất cả các miền tịnh xá đều phải có hai ngày cúng hội thuyết pháp cho dân chúng nghe, cũng như hướng dẫn phật tử tu tập. Hiện nay chư Tôn đức vẫn có tu một ngày an lạc, hay những sự kiện của các ngày lễ vía Quan Âm, Di Đà, Đức Phật Đản Sanh, Vu Lan, hay một số khóa tu một với những chủ đề khác nhau do chư Tôn đức Tăng ni hướng dẫn cho hàng cư sĩ tu tâp để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mình và mọi 50 người. Ví dụ như: khóa tu một ngày chánh niệm tại TX Linh sơn (mùa vu lan báo hiếu) tại Nông Cống, Thanh Hóa do Đại Đức Giác Hoàng hướng dẫn. Tại đây, ngoài việc tụng kinh Phật tử còn được Đại đức giảng giải, hướng dẫn phương pháp tu tập Tứ Niệm Xứ. Đây là phương pháp tu tập quay về với chính mình, thoát khỏi khổ đau một cách hữu hiệu. 2.3.2. Mở rộng các khóa tu truyền thống của Tăng, Ni Hệ phái Khất sĩ: Thực hiện lời dạy của Tổ sư “Nên tập sống chung tu học” vì vậy chư Tôn Đức Tăng Ni đã tổ chức khóa tu truyền thống cho cư Tăng và chư Ni. Thể hiện tinh thần hòa hợp đoàn kết chia sẻ kinh nghiệm tu tập, cho đại chúng “kiến tức riêng chỉ vẽ cho nhau” cũng như ôn lại tinh thần thiền tập vào nếp sống sinh hoạt hằng ngày, lấy Giới, Định, Tuệ làm thầy cùng nhau tu học. Mỗi hành giả tự mình nhìn lại giới hạnh của mình mà tự sửa mình để có nếp sống đẹp đem lại an vui cho mình và người. 2.3.3. Các khóa tu dành cho hàng phật tử tại gia: Đây còn gọi là tu một ngày an lạc. Tại nhiều Tịnh xá đã tổ chức khóa tu dành cho hàng Phật tử tại gia, như tại Tịnh Xá Ngọc Trung ở An Khê do Ni Sư Hiệp Liên hướng dẫn với ý nguyện đưa đạo Phật đi vào cuộc đời và làm cho đời sống của người cư sĩ an lạc và hiểu sâu luật nhân quả. Theo Ni trưởng, một vị tu sĩ trong thời đại ngày nay phải giỏi về việc tổ chức và quản trị, phải nhớ trọng trách làm một vị đạo sư, một vị thầy tâm linh, hoàn thành tâm nguyện tự độ và độ tha; cần nâng cao tinh thần trách nhiệm với người Phật tử tại gia bằng việc tổ chức các khóa tu tùy theo độ tuổi, để giảng dạy dẫn dắt phật tử đi đúng giáo pháp của Phật Đà. Hay khóa tu Thiền ở Tịnh xá Trung Tâm Quận Bình Thạnh. Tp. HCM do Thượng tọa Thích Minh Thành và Đại đức Thích Giác Hoàng tổ chức, hướng dẫn. Tại đây, thời khóa tu tập tương đối nghiêm ngặt, cụ thể: 7 giờ, Phật tử lên Chánh điện, tụng kinh sám hối và được quý Đại đức truyền giới. 51 8 giờ, Thượng tọa Minh Thành và Đại đức Giác Hoàng cùng quý Đại đức bắt đầu khai khóa tại Giảng đường Minh Đăng Quang. Bắt đầu cho một ngày tu học, bằng sự kết hợp giữa thuyết giảng phương pháp tu tập và hướng dẫn thực hành, Thượng tọa Minh Thành dẫn dắt thiền sinh niệm thân ngang qua chú tâm trên hơi thở, từng bước quán sát tâm mình trong sự tỉnh giác. 9 giờ, ĐĐ. Giác Hoàng nhắc nhở và hướng dẫn thiền hành thiền tọa từng bước một để thiền sinh chú tâm tỉnh giác cao nhất mà tự thân có thể thực tập được. Hội chúng thực tập thiền cho đến 10 giờ 30 thì kết thúc buổi sáng. 10g45, thọ trai chánh niệm tại trai đường và nghỉ trưa. 13 giờ 30, bắt đầu thời khóa chiều, Đại đức Giác Hoàng hướng dẫn chi tiết về cách thiền hành. Đại đức theo dõi quan tâm đến từng bước chân giúp thiền sinh tu tập được tốt hơn buổi sáng. Hội chúng nhiếp tâm thanh tịnh, an lạc được hiện rõ từng người một. 14 giờ, trong giờ trao đổi pháp tu, thiền sinh được kiểm tra về khả năng thực tập, và được giải nghi những gì còn vướng mắc. 16 giờ, sau khoảng thời gian thực hành và hiểu được phần nào pháp hành, hội chúng đạt được an lạc, định tĩnh nội tâm. Trong thiền đường trang nghiêm như pháp, Đại đức dẫn dắt thiền sinh hướng tâm từ đến người thân thương của mình và hồi hướng phước lành đến vạn loại chúng sinh. Kết thúc một ngày tu tập trong niềm hoan hỷ trọn lành, hội chúng ra về vào lúc 17 giờ. Ai ai cũng mang cho mình hành trang và tự thiết lập mục đích sống tốt đẹp hơn qua 4 tiêu chí mà Đại đức mong muốn mọi người cùng hướng đến: Văn minh, Tinh tấn, Định tĩnh, Tuệ giác. Ngoài ra còn rất nhiều khóa tu khác được tu chức rộng rãi dành cho hàng Phật tử tại gia, trên cơ sở có sự kế thừa từ Tổ sư nhưng đã được thêm bổ sung nhiều cái mới, cũng nhằm cho đệ hàng đệ tử Phật ngày một tiến xa hơn. Và quý Thượng tọa, Ni sư cũng không quên đào tạo lớp kế thừa nên quý Ngài còn tổ chức một số khóa tu mùa hè cho các em thanh thiếu niên Phật tử từ 10 52 tuổi trở lên, như Khóa tu mùa hè ở Tịnh xá Ngọc Liên ở Cần Thơ do Đại đức Thích Minh Hiếu hướng dẫn. Khóa tu diễn ra trong 2 ngày với số lượng trên 200 khóa sinh. Khóa tu diễn ra vỏn vẹn trong 2 ngày nhưng đảm bảo đầy đủ các tiểu mục từ học pháp, sinh hoạt oai nghi, tụng kinh, thực tập thiền cho đến vui chơi, giải trí, sinh hoạt giao lưu văn nghệ; giúp cho các bạn khóa sinh vừa được tiếp thu và thực hành giáo pháp của chư Phật, và cũng được vui chơi giải trí trong khuôn khổ của người con Phật. Nét sinh hoạt này rất phù hợp cho lứa tuổi thanh thiếu niên, giúp cho các bạn trẻ có cơ hội tiếp xúc với Phật giáo hơn, dạn dĩ hơn trong các mối quan hệ xã hội, và đặc biệt là ươm mầm giác ngộ, để sau này chính những khóa sinh này sẽ là lực lượng nồng cốt, là thế hệ kế thừa, phát huy, làm cho Phật pháp ngày càng phát triển hơn nữa. Khóa tu mùa hè ở TX Phú Cường. Huyện Chư Sê, Tỉnh Gia Lai do TT Thích Giác Duyên hướng dẫn, đây là một sâu xa mà đa số là Đồng bào Dân Tộc. Các em ở Gia Lai, người con của đại ngàn vùng Chư Sê, Ayunpa, Krongpa, Ia Grai, Chư Prong, Iâp, Chư Pah, Đức Cơ, Pleiku, Đak Đoa, Krông Chro, An Khê, Đak Pơ Do nhiều thiện duyên, các em đã được dẫn về chùa ăn cơm chay và lạy Phật, quy ngưỡng, đón nhận ánh sáng Phật pháp. Các em đã được nhiều đạo hữu động viên, giúp đỡ từ tinh thần đến vật chất. Trong khóa tu, các em được an lạc, giải thoát trong ánh sáng hào quang của chư Phật như bao bạn hữu Phật tử. Các em cũng đã vui đến chùa, không nhiều lần nhưng hàng tháng vào ngày Rằm, Mồng Một. Theo hình thức khóa tu mùa hè còn có một số Tịnh xá nữa như Tịnh xá Ngọc Phước ở Lấp Vò, Đồng Tháp. TX Ngọc Như... 2.3.4. Công tác xã hội: Là người đệ tử Phật để thể hiện tinh thần “ban vui cứu khổ” nên trong các dịp lễ, Phật đản, Vu lan, các ngày lễ ở ngoài xã hội, hay các thiên tai ở miền Bắc, miền Trung, miền Tây Chư Tôn Đức Tăng Ni đã cùng Phật tử kịp thời hỗ trợ “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, Tịnh xá Ngọc Phúc đã 53 trao tặng 100 phần quà đến các hộ nghèo trên địa bàn.Về tham dự buổi lễ có sự tham dự của đại diện: chính quyền huyện K’Bang, Hội chữ thập đỏ huyện, lãnh đạo xã Kông Bờ La cùng đại diện chư Tôn đức Tịnh xá Ngọc Phúc (TP. Pleiku) và bà con đang sinh sống tại địa phương. Được biết, hoạt động tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” luôn được Hòa thượng Giác Thành. Trụ trì Tịnh xá quan tâm trong các hoạt động Phật sự những năm qua. Hòa thượng thường xuyên tổ chức các chuyến từ thiện, đến các vùng sâu, vùng xa để giúp các hoàn cảnh gia đình khó khăn.Qua đó góp phần chung tay cùng cộng đồng xã hội chăm lo cho người nghèo, động viên tinh thần cho các hộ gia đình vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Ni sư Hiền Liên, Trưởng ban Từ thiện thành phố Đà Lạt, trụ trì Tịnh xá Ngọc Tín, Đà Lạt là người đã làm cầu nối cho đoàn đến với đồng bào dân tộc tại đây. Tương tự, tại trại tâm thần Trọng Đức, Thanh Bình 1, Bình Thạnh, Đức đoàn đã thăm và tặng 400 phần quà, mỗi phần trị giá 50 ngàn đồng. Tại cơ sở bảo trợ xã hội Madagui, thị trấn Madaguoi, huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng, đoàn đã tặng 70 suất quà cho các em mồ côi tại đây. Mỗi phần quà trị giá 50 ngàn đồng. Còn rất nhiều công tác khác như cứu trợ cho đồng bào lũ lụt ở miền Trung, miền Tây, miền Cao Nguyên hay các lễ 27/7 tặng quà cho các anh thương Binh hay tặng quà cho các Mẹ Việt Nam Anh hùng; có một số trường hợp khó khăn cũng các ngày giỗ các Trưởng lão hay các Ni trưởng đều tặng quà cho các bịnh nhân ung thư, đồng bào khó khăn hoàn cảnh neo đơn, tặng một số học bổng cho các em có hoàn cảnh khó khăn nhưng ham học. 54 Tiểu kết Chương 2 Trải qua bao thăng trầm, hơn bảy mươi mấy năm qua, Hệ phái Khất sĩ đã và đang có những đóng góp đáng kể cho nước nhà nói chung, Giáo hội Phật giáo nói riêng. Sự ra đời và phương thức tu tập của Hệ phái Khất sĩ đã làm một bộ phận dân chúng thăng hoa trong nền đạo đức, ổn định làng xóm, cộng đồng những nơi mà Hệ phái Khất sĩ xuất hiện cả trong và ngoài nước. Để có được thành tựu như vậy là do Tổ sư Minh Đăng Quang đã nhu nhuyến sử dụng Tứ khế - tinh thần “tùy duyên bất biến” của Phật giáo để ứng dụng Phật giáo trên tinh thần nhập thế. Cụ thể đó là việc Tổ sư đã dạy truyền trên nền tảng Trung Đạo mà Đức Phật đã truyền dạy, kết hợp với việc vận dụng các pháp phương tiện như Tam y, nhất bát, khất thực, trì bình; Tứ y Pháp; Giữ Giới, Định, Tuệ; Sống chung tu học; Nhiếp phục Thân, Khẩu, Ý nhờ đó mà hành giả đạt được an lạc và giải thoát. Mặc dù bây giờ tinh thần khất thực trì bình đã được chư Tôn đức tạm ngưng để cũng cố lại nhưng trong những lần cúng giỗ hay có những sự kiện lớn thì hình ảnh chư Tôn đức tổ chức truyền thống đi khất thực để ôn lại lời dạy của Tổ Sư để Phật tử có dịp cúng dường. Cho đến nay, Hệ phái Khất sĩ vẫn tiếp nối được những đặc trưng cơ bản trong hoạt động tu tập thông qua nếp sống thanh bần của giới Tăng Ni, vẫn đều đặn tổ chức các khóa tu truyền thống cho hàng tăng, ni và khóa tu bồi dưỡng đạo hạnh cho giới Si Di cũng như các khóa tu cho các tín đồ thuận thành cũng như các tín đồ nói chung. 55 Chương 3 MỘT SỐ THÀNH QUẢ CỦAPHƯƠNG PHÁP TU TẬP 3.1. Điều phục được thân, khẩu ý Theo giáo lý Phật giáo, sở dĩ chúng sinh phải khổ đau, trôi lăn trong sanh tử luân hồi là vì bám víu, lầm chấp thân, khẩu, ý của mình là chắc thật, rồi từ đó sanh khởi phiền não tham sân si, gây tạo vô số nghiệp tội. Do không nhận biết bản chất vô thường, vô ngã của các pháp nên chúng sinh cứ mãi chạy ngược xuôi theo dòng xoáy cuộc đời đời, đắm chìm trong thất tình lục dục. Tổ sư có dạy chúng ta phải biết trân trọng những mà cha mẹ ta cho ta, được thân người không phải dễ mà biết được phật pháp lại khó hơn cho nên phải biết giữ gìn những gì đang có thì đó là một phúc duyên lớn mà chúng ta cần nên trân trọng. Một trong những ý pháp căn bản mà Tổ sư luôn khuyên dạy hàng Tăng Ni Khất sĩ xuyên suốt trong bộ Chơn Lý đó là tu tập thanh lọc, nhiếp phục thân khẩu ý trong sạch. Ý pháp này được Tổ sư dạy cụ thể trong quyển Chơn lý “Tu và nghiệp”: Thân trong sạch ấy là xứ Phật Miệng trong sạch ấy là pháp Phật Ý trong sạch ấy là con Phật Tâm trong sạch chính là đức Phật. [44, tr.85]. Lời dạy của Tổ sư súc tích, ngắn gọn nhưng khế hợp với giáo pháp của Đức Phật. Giữ tam nghiệp thanh tịnh mới được gọi là xuất gia chơn chánh, tức là vị Tăng Khất sĩ phải có giới đức trong sạch, tâm phải định tĩnh, thì trí huệ giác ngộ sẽ phát sanh, từ đó không còn phiền não nhiễm ô, xa lần nghiệp 56 tội. Ở đây, Tổ sư từng bước nâng sự tu của người học theo từng bậc, có thể được hiểu như sau: Thân gìn giữ giới luật khất sĩ, biết thu thúc lục căn, dứt sạch nghiệp trần – thân trong sạch, xứ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Miệng được nuôi dưỡng bởi giáo lý pháp bảo, dùng pháp bảo tiếp dẫn độ sanh Miệng trong sạch, Pháp Phật được hiển bày. Giữ Ý yên lặng, định tĩnh sáng suốt, không sở chấp, không phiền não nhiễm ô Ý trong sạch, do đó thân tâm lưu xuất những điều tốt đẹp an vui mãi mãi. Và khi tam nghiệp: Thân, Miệng, Ý trong sạch, tức là hình thành hạt giống Tâm chơn như, không vọng động. Điều này được Tổ sư nhấn mạnh trong quyển Chơn Lý “Võ trụ quan”: “Trau dồi thân khẩu ý lành tức là nuôi cây dưỡng hột, tạo cái ta, sanh ra cái biết, cái sống đời đời” [45, tr.14]. Phép thần thông có là do ba cái mật: thân mật, khẩu mật, ý mật. Thân mật là không hay làm. Khẩu mật là không hay nói. Ý mật là không hay tưởng nhớ. Ba cái mật là ba sự kín đáo bên trong, nói làm tưởng không cho phát lộ ra ngoài. Làm, nói sanh ra tưởng loạn. Không làm, không nói thì tưởng định. Thân khẩu sanh ra ý, và khi không còn thân khẩu là không còn ý. Cái ý của thân khẩu bên ngoài là ý loạn. Và cái ý của thân khẩu bên trong, hay là không còn thân khẩu thì ý định. Ý định gọi là chơn như, hay là không có ý, nghĩa là không có ý vọng động. Cũng như vỏ ruột sanh ra cái ngòi mộng. Ngòi mộng sanh cây, cây còn vỏ ruột mộng mất. Cái ý trước là ngòi mộng, cái ý sau là cây. Cây là phép thần thông, phép thần thông là do ý mật. Ma quỷ không có nói làm, ý mật mới 57 linh thiêng. Vậy nên phép thần thông có là do ý mật, mà ý mật phải do nơi thân mật, khẩu mật. Như vậy, Chơn Lý “Thần mật” chỉ ra rằng: Thần thông hay thần mật trong mỗi người chúng ta đều có sẵn hết, chứ không phải tìm cầu bên ngoài. Quan trọng là mỗi người phải nỗ lực tu tập thì thân, khẩu, ý mật tự nhiên sẽ hiển lộ. Khi biết tu rồi, chúng ta mới không còn bị chi phối bởi ba nhu cầu quan trọng ở đời là “Làm, Nói, Nghĩ tưởng”, ưa thích sự yên tịnh, không bận rộn với sự nói-làm dành trọn thời gian tịnh tâm. Thế nên, Tổ sư dạy trong bài kệ “Ý”: “Tịnh tâm, bớt nói, ngưng làm. Lần lần nhập Thánh siêu phàm từ đây. Đừng lòng cố chấp riêng tây Cũng đừng tính có ý này, ý kia Ta-người đừng tính phân chia Có-không đừng tính, đoạn lìa hai bên” Chưa biết tu, tâm niệm của mỗi người luôn nghĩ tưởng lăng xăng, hết chuyện này đến chuyện nọ từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Đó gọi là “tâm viên ý mã”. Trước tám ngọn gió đời, ít ai thản nhiên tự tại, tâm trở nên bất an, ô nhiễm. Như một bản năng, con người sẽ có những hành động đáp trả lại từ thân khẩu ý, tạo ra nghiệp để rồi nhận lãnh quả báo: “Đem thân làm kẻ tội đày Cho bao vật chất nó cai trị mình Để tâm làm vật hy sinh Suốt đời theo lịnh dục tình dắt lôi” (Kệ “THÂN”) Hay như: “Nói chi mắng nhiếc tưng bừng Miệng xây núi nghiệp biết chừng nào tan 58 Nói chi chửi rủa kêu vang Lưỡi đào hố nghiệp, biết đàng nào lên Họa tai vì miệng mà ra Bịnh căn vì miệng, mà rên phù trầm” (Kệ “KHẨU) Nay tập tu, hành giả biết dừng lại, tức là thân khẩu ý “không còn làm, nói, nghĩ tưởng” điều ác quấy, là giai đoạn đầu của sự tu. Đến một lúc nào đó ngay cả việc nói thiện, làm thiện mình cũng buông, không dính mắc; vì sự yên tịnh của thân, khẩu còn quý hơn là sự nói thiện, làm thiện. Vượt qua điều xấu quấy, tâm nghĩ nhớ điều thiện, đến một lúc buông sự nhớ tưởng điều thiện, hành giả sẽ đạt đến thanh tịnh. Sự thanh tịnh này quý hơn là nghĩ tưởng điều thiện. Chỉ có sự tu tập hành giả mới thân chứng được điều này. Vì thế, Tổ sư dạy: “Cái ý của thân khẩu bên ngoài là ý loạn. Cái ý của thân khẩu bên trong, hay là không còn thân khẩu thì ý định”. Sự linh nghiệm thần thông thiếu là bởi vọng động bên ngoài, mảng lo làm, nói nhớ tưởng, mất cái tự nhiên yên lặng. Tự nhiên yên lặng là linh có sẵn, chớ chẳng đợi tìm đâu. Ai ai cũng có linh thiêng hết, sống chết đều linh, không linh là tại người kia vọng động. Nơi chỗ tự nhiên yên lặng, hòn đá sẽ linh, cái cây sẽ linh. Cục đất còn linh, huống chi người ta sao lại chẳng linh? Đúng chơn lý sự thật của mỗi chúng sinh là tự nhiên yên lặng, chơn nguyên linh ứng, tất cả chúng sanh đều đang ở trong cái yên lặng phủ trùm, giờ phút nào không vọng động là tự nhiên yên lặng. (Chơn Lý: “Thần mật”) Trong bài kệ “Ý” có câu: “Tâm không vạn sự điều không/ Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn/ Học đòi theo bậc Thánh nhơn/ Phải trừ tâm vọng mới hoàn bổn nguyên”. Diệt trừ tâm vọng thì tâm chơn có mặt, thể tánh của nó là tự nhiên yên lặng. Tổ sư chỉ ra khả năng và trạng thái của người có ba cái mật: Vậy nên những kẻ tu tâm là giữ gìn ba cái mật cho thật hoàn toàn ẩn bên trong kín đáo. Tức là kẻ ấy biết sống bằng linh hồn, kẻ ấy sống trong hai 59 cảnh giới, có thân khẩu và không thân khẩu, người thông suốt trong cõi hữu vi và vô vi, người không còn tai nạn sợ sệt chi nữa hết. (Chơn Lý.“Thần mật”) Chư huynh đệ tham dự khóa tu thiền thấy rõ, trong một ngày tu phần lớn thời gian chúng ta đều thực tập sự yên lặng, chánh niệm trong bốn oai nghi. Sự yên lặng đó giúp tâm an trú ngay thân, tỉnh giác thấy biết mọi việc làm của mình. Thời gian tu thiền định giúp chư huynh đệ quay về soi sáng, làm chủ ba nghiệp thân khẩu ý. Một khi thân khẩu ý tự nhiên yên lặng thì nhất định sẽ có thần thông, và đạt được quả linh của chính mình. Thân khẩu ý mật kín đáo bên trong, tuy không thể nhìn thấy được nhưng nó có sức mạnh toàn năng, thấy biết muôn việc nơi mình và chúng sanh... Khi tâm định tĩnh thì ba cái mật tạo nên sự linh ứng. Nhưng để ba nghiệp trọn trong sạch phải miên mật trong việc tu, cần phải lựa chọn đề mục quán niệm, giữ một niệm hay đem một câu pháp nào đó để quán xét cho thấu đạt nghĩa lý. Nhờ sự ghi nhớ đề mục, sự định tâm vào pháp môn tu tập mà thân tâm được trong sạch, yên lặng. Ở đây, yếu tố tinh tấn là quan trọng nhất. Tổ sư dạy: Một cái hột nứt vỏ, ruột hôi, thúi mộng thì không còn dùng được. Một bông hoa quý giá là bởi nơi sự búp kín. Một cái tâm hồn tốt đẹp là bởi nơi ba cái mật, không ai xem thấy kiếm tìm nó được. Một viên ngọc vô giá là bởi món ít có và khó gặp... Một sức mạnh, một cứng rắn, ấy là ba cái mật của tự nhiên yên lặng, mà người ta thường gọi đó là phép thần thông. Mặt nước đặc là bởi không xao động. Một linh hồn cứng chắc là bởi không phiền não Một người chuyên môn quán tưởng một việc, lâu ngày cái ý định trụ, thành ra một sức mạnh linh thiêng Thân khẩu ý là tâm, là hột giống. Vậy nên tu tâm là thân khẩu ý phải giữ gìn trau sửa cho được tự nhiên vắng lặng, ẩn mật kín đáo trở lại, bởi chúng sanh là đã tập quen tánh xao động bên ngoài từ lâu, tự mình tạo sanh 60 khổ nạn. (Chơn Lý: “Thần mật”). Vai trò của định, sự kham nhẫn và đức tin trong việc tu tập thân khẩu ý mật: Trong định thì có quả linh và đạo lý, trong yên lặng thì có trí huệ và thần thông. Mà muốn định yên lặng thì phải nhớ niệm, có giữ một niệm, ghi nhớ một việc một chỗ, thì thân khẩu ý mới định, phát sanh thần mật. Có tầm tõi quán xét một câu một nghĩa lý, thấu đáo được nghĩa lý thì tâm mới được sự mừng vui trong sạch và yên lặng. Trong cái chơn như là ý yên lặng. Chăm chú một sự gì là thân khẩu ý yên lặng. Biết bao muôn ngàn triệu ức pháp, pháp nào cũng có thể làm cho phát sanh thần mật được, pháp nào cũng có thể làm cho lục căn thanh tịnh, pháp nào cũng có thể làm cho tam nghiệp yên lặng được. Nhưng mà khó nhứt là sự bền công, vì vậy nên phải mượn tạm đức tin hay là bổn nguyện... Muốn định thì phải giữ giới thiện lành trong sạch đã, thì mới mong phát đại trí huệ thành Phật. Trí huệ là sự quán xét diệt trừ phiền não, để bảo giữ cái định là thần mật. (Chơn Lý: “Thần mật”) Do bị lòng tham chi phối mạnh mẽ, nên con người dễ khởi lên những ý niệm sai lầm không phù hợp với đạo đức, với lẽ phải, với chơn lý; họ cống cao, ngã mạn... Đó là tà niệm, tà kiến và đó cũng là “tâm ma” trong mỗi người. Tâm này nếu tu tập cũng định cũng có thần thông, nhưng thần thông đó không bền lâu, vì bị ái dục chi phối. Ma quỷ kia cũng định, cũng đắc thần mật linh thiêng, nhưng khác hơn Phật là ma quỷ không có trí huệ, và không có giữ giới thiện lành trong sạch. Nếu không có giới huệ, thì định chẳng bền lâu, phép linh có ngày mất. Kẻ tà ác mà có phép linh thật là nguy hiểm cho tánh mạng nó. Nó sẽ tự cao, nó sẽ ham danh lợi. Người ta càng tôn nó thì tội ác của nó càng sanh, sự tà quấy của nó càng trội, tham sân si phiền não càng dấy, phép thần thông của nó sẽ mất, lại bị sa 61 vào địa ngục, vì tật chướng lậm mang, không thế gì ra khỏi đặng. Vậy nên, người tu phải biết rằng quả linh vốn sẵn có tự nhiên nơi yên lặng, chớ không phải tìm kiếm mong cầu theo niệm quấy! Người tu là nên phải biết quý tâm thần mật để diệt trừ phiền não, tội lỗi sái quấy thôi. Hay hơn nữa là tu để cho tâm hồn tốt đẹp quý báu, giúp ích cho đời, đặng đền ơn cho chúng sanh và Tam bảo, như thế mới được dứt trừ được nghiệp tội. Vì gốc của chúng sanh là tội khổ, cần phải tránh sự tự cao, đọa lạc. Như thế thì phép linh là phụ thuộc, chỉ có trí huệ, tâm chơn mới thật là của cải. Phép thần thông sẵn có nơi mỗi người. Nó có mãi là khi nào tâm người ta định mãi, nó mất đi là khi nào tâm người rối loạn. Tâm loạn là bởi không giới luật, cũng như nước bị gió, đục bùn, thì chẳng yên lặng chảy thông. Gió hết bùn lặng thì nước định trong như cũ. Như thế là chúng ta rất tiếc cho những người kia. Họ nào có chịu biết cái linh của họ, và chung quanh họ ai cũng vọng động cả thì làm sao mà thấy có cho họ. Họ đành quên lửng món của cải quý báu vĩnh viễn hạnh phúc ấy, mà chỉ ôm đeo theo các cái bọt nước rong rêu, tan hiệp, không có gì hết, mãi chịu khổ nhọc không công sợ sệt. (Chơn Lý: Thần mật). 3.2. Tinh thần lục hòa: Từ buổi sơ khai Tổ đã mong mỏi tăng ni có sự hòa hơp với nhau về một mối đạo. Trước hết là ý nghĩa của từ “chung” được nhìn từ vũ trụ quan duyên khởi. Tất cả đều do duyên sanh nên mọi hiện hữu đều do nhân duyên, kết nối trùng trùng, khiến tất cả đều liên hệ mật thiết với nhau. Chúng sanh liên hệ với vũ trụ, thiên nhiên, môi trường và nhất là liên hệ với nhau. Tổ sư giảng: “Tất cả với ta, ta cùng tất cả, đều liên lạc mật thiết với nhau bằng một lẽ sống.”. “Ta là tất cả, tất cả là ta; ta sống cho tất cả, tất cả sống cho ta; tiếng ta 62 đây là tất cả, đó tức là chơn lý võ trụ”. (Chơn Lý: Hòa Bình). “Võ trụ giống như bà mẹ, chúng ta là những kẻ sống chung, chúng sanhtất cả là con chung của võ trụ”. “Hãy sống với võ trụ! Hãy học hiểu thấu rõ chơn lý, ta sẽ thấy ta không còn cách biệt với vạn vật nữa.”. (Chơn Lý: Võ Trụ Quan). Vũ trụ hay thiên nhiên hiện hữu bằng sự tập hợp các mối liên hệ. Sự sống cũng vậy, là sự vay trả, xin cho. Chúng sanh cũng thế, các loài sống thở bằng không khí, ánh sáng, nước; có loài sống nhờ cây cỏ, hoa trái; có loài sống nhờ việc ăn thịt các chúng sanh khác; loài cây cỏ thì sống nhờ các chất dinh dưỡng trong đất, kể cả các xác sinh vật thảo mộc khác chết đi, bị phân rã Loài người cũng sống nhờ vào các thứ loại như trên và nhất là nhờ vào nhau. Tất cả đều theo lý trao đổi, xin cho Từ đó Tổ sư Minh Đăng Quang đưa ra một định nghĩa về Khất sĩ: “Khất ấy là xin. Sĩ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học đây rồi lại dạy. Xin phẩm thực để nuôi thân giả tạm, cho sự thiện lành phước đức để bảo giữ sự sống dài lâu. Học bằng cách lượm lặt phương pháp khắp nơi, rút nhiều kinh nghiệm. Dạy là đem kết quả thật hành đặc điểm chỉ lại cho người. Cái xin, cái học, cái dạy, cái cho, các pháp nương sanh, mở ra con đường xán lạn cho tất cả về sau tiến bước. Con đường ấy kêu là Đạo. Đạo của Sống là xin nhau sống chung, đạo của biết là học chung, đạo của linh là tu chung”.(Chơn Lý: Hòa Bình). Nhờ tinh thần sống lục hòa mà kiến thức riêng đem ra góp ý cho nhau trong tu học cùng sát tấn nhau tu học, biết tôn trọng quý nhau hơn, biết thông cảm biết chia sẽ, nhơ sống trong tinh thần lục hòa mà diệt trừ được tự ngã vô minh, bỏ được ích kỷ nhỏ hẹp, nhường chỗ cho lòng từ bi phát khởi tinh thần tự giác cao hơn làm lợi ích cho mọi người nhiều hơn. 3.3.Sống trong tinh thần bình đẵng, đạo đức, biết sợ nhân quả: Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả, Tổ Sư dạy phàm làm việc gì cũng 63 phải suy xét việc đó có hại cho mình và người không, và nhờ sống trong tinh thần tứ y pháp,nên không chấp chặt vào ăn mặc ở bịnh, không quá coi trọng thân mình, không quá se sua, biết tri túc, biết đủ, tất cả chỉ là phương tiện hỗ trợ thêm trong lúc hành đạo mà thôi,nên không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn đều tiếp độ, màsống bình đẵng lục hòa cộng trụ, tứ sự chia đồng, vì lợi ích của người khác, biến cái đau của người khác thành cái đau của mình, dạy cho họ phá chấp, nhận rỏ chân tướng của vô thường, nhờ có quán chiếu hằng ngày có nghiêm trì giới luật nên cuộc sống ít gây nghiệp xấu từ trong suy nghĩ cho đến hành động bên ngoài, biết kiểm soát hành vi của mình, sao cho chuẩn mực hơn có đạo đức hơn, ví dụ: lời nói không mất tiền mua lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhờ có định tỉnh mà lời nói không tạo khẩu nghiệp. Nhờ có giới, định, tuệ mà người hành giả biết tiết độ trong từng lời nói hành động, biết chia sẽ quyền lợi chung, sống hòa mình với người khác, không phạm những giới căn bản cho đến những điều to lớn hơn, xử lý công việc một cách sáng tỏ hơn, cho nên Giới, Định, Tuệ không thể thiếu trong suốt quá trình trở về bản thể thanh tịnh của mỗi tu sĩ. Tổ Sư dạy sau khi đạt được chơn lý rồi cần phải dấn thân làm lợi lạc cho mọi người thì mới đúng tâm nguyện của chư Phật, mới mong đền trả được tứ ân, giúp cho mọi người an vui hạnh phúc, có như vậy mới làm tốt đao đẹp đời. 64 Tiểu kết chương 3 Thật vậy qua một số nét cơ bản trong tu tập đã giúp cho hành giả sau khi tu tập đạt được những kết quả ngay trong hiện tại, đời sống được an vui hơn nhờ thân khẩu ý được thanh tịnh, diệt trừ từ từ tham sân si nhờ có giới định tuệ mà Tổ sư đã hướng dẫn một tinh thần đoàn kết. Giới, Định, Tuệ là con đường trung đạo, là cái kiềng ba chân, là nền tảng vững vàng để phát triển trí tuệ và thành tựu phạm hạnh giải thoát, trên bước đường tìm cầu giải thoát không thể thiếu. Nhờ có giới định tuệ mà tinh thần tăng chúng mỗi ngày được tăng trưởng trong nếp sống lục hòa, biết hỗ trợ cho nhau, chia sẽ thông cảm, 65 KẾT LUẬN Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ khoảng hai mươi sáu thế kỷ được truyền khắp nơi trên toàn thế giới đã đi vào lòng người một cách hài hòa bởi nét đẹp nhân bản của nó. Ban đầu đạo Phật được xem là nơi nương tựa tâm linh cho bao lớp người nhưng càng hiểu đạo Phật càng thấy rằng nếp sống của người tu Phật có thể trờ thành nếp sống đạo đức cho xã hội loài người. Nếp sống đó là một mô hình gắn kết có tổ chức theo một hình mẫu đầy trí tuệ mà Đức Phật đã xây dựng ngay từ khi Tăng đoàn mới thành lập. Qua bao thế hệ Tăng già, mô hình ấy vẫn được duy trì như một nét căn bản không thể thiếu của đời sống xuất gia. Chúng đưa đến đoàn kết, hòa hợp và thanh tịnh mang giá trị vượt không gian và thời gian. Dù Tăng đoàn trong thời đại nào, trú ngụ ở bất kỳ trú xứ nào cũng có thể áp dụng tu tập để cùng nhau đi đến giác ngộ và giải thoát. Nhìn lại chặng đường suốt mười năm hoằng hóa (1944-1954), từ buổi ban đầu cho đến khi thu nhận đệ tử Tăng Ni và tính đồ Phật tử, Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang vẫn với chiếc Y bá nạp, sống đời Du Tăng Khất sĩ, đem Chơn Lý phổ biến cho đời, sống với hạnh Y bát chơn truyền của Phật Tăng xưa - Nối truyền Thích Ca chánh pháp - Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Với tâm nguyện tự độ - độ tha: “Y bá náp, bức họa đồ thế giới Vẽ muôn ngàn đường lối bươc vân du Vì chúng sanh khai mở lắm công phu Nẻo giải thoát trờ về nơi cảnh cũ Bát Khất sĩ, bầu càn khôn vũ trụ Chứa muôn loài vạn vật một tình thương. Quyết tâm tu chứng ngộ đạo vô thường Bình nước tịnh nhúng nhành dương ban rưới. 66 Chỉ trong mười năm hành đạo ngắn ngủi của Ngài, mà trên nền tảng đó Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam đã phát triển không ngừng từ miền Nam cho đến miền Trung nước Việt. Đến khi Ngài thọ nạn và vắng bóng, các đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục hành trì dưới sự lãnh đạo của những bậc Tôn túc - Trưởng lão. Tuy nhiên, các pháp thế gian là duyên sinh : “Cái này có nên cái kia có...Cái này sanh nên cái kia sanh. Cho nên, bên cạnh sự phát triển của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam thì mặt tiêu cực cũng song hành, tức là truyền thống Khất thực đã bị ảnh hưởng của một số người giả danh, mượn hình thức đi Khất thực để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân, gây ảnh hưởng xấu trong xã hội và Đạo pháp, nhưng hình ảnh thiêng liêng thanh tịnh tay ôm bình bát khất thực của những bậc chân tu vẫn không bị phai mờ: “Chơn vẫn là chơn - thiệt chẳng sai”. Sự “Nối truyền Thích Ca chánh pháp” mà được Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang đã nhọc công gầy dựng lại qua con đường Phật Tăng xưa, vẫn mãi mãi được duy trì và truyền thừa lại trong thế hệhiện tại và tương lai, mà trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là nguyên nhân vững tồn cho Hệ phái Khất sĩ chính là phương thức tu tập của Hệ phái do Tổ sư truyền thừa, khởi sáng. Qua sự tu chứng của bản thân trên con đường thực nghiệm tâm linh tìm của giải thoát. Tổ Sư Minh Đăng Quang đã tùy duyên, tùy cảnh, tùy thời cuộc mà Tổ sư đã khai sáng mối đạo trong hoàn cảnh đất nước con người Việt Nam dần mất niềm tin vào cuộc sống, đạo đức không còn, Ngài xuất hiện như một ngọn đèn phá tan bóng tối trong đêm đen, Ngài đã dẫn dắt mọi người quay về với con đường sáng ở nơi mỗi người qua hình ảnh của một tu sĩ sống đời sống phạm hạnh, sống đơn giản không bị ràng buộc bởi cái ta và của ta. Đạo Phật Khất sĩ ra đời đúng thời đúng xứ được Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng mang đậm nét của người Việt Nam. Ngài đã tích hợp hai tư tưởng Nam truyền và Bắc truyền lấy cái ở giữa không quá ép xác, cũng không quá trưởng dưỡng mà tu tập để trở thành cái mới của riêng cho Hệ phái Khất Sĩ. 67 Tuy là một hệ Phái sanh sau ra đời muộn nhưng có một đường lối tu tập riêng không, bằng thân giáo, khẩu giáo mà Tổ sư đã uyển chuyển tùy theo căn cơ trình độ mà Ngài hóa duyên, Ngài kế thừa tư tưởng của chư Phật, Tổ tinh thần nhập thế làm lợi ích cho mọi người. Ngài đã vạch ra con đường trung đạo, con đường này là pháp môn tu tập duy nhất cho người tìm cầu giải thoát, phương pháp tu này như là một nghệ thuật sống đưa chúng ta từ mê sang bến giác, vượt ra khỏi mọi hệ lụy của đời thường, vượt lên sự chi phối của ngũ dục và tà kiến vô minh, không còn chấp giữ cho mọi cái là của ta nhận biết được các pháp là vô thường đều biến đổi, tan rã khi hết duyên, không bền chắc có gì là của ta nên từ đó bớt đau khổ, khi mọi việc đến đều bình tỉnh giải quyết rất khoa học. Ngài đã phương tiện chuyển từ ngữ sang tiếng Việt làm cho người Miền Tây Nam Bộ lúc bấy giờ nói riêng và người Việt nói chung đễ hiểu hơn, đây cũng là nét riêng của Hệ Phái Khất Sĩ, vì vậy mà trong mười năm Ngài hành đạo đã được mọi người tiếp nhận và hành trì, tạo niềm tin kiên cố trong lòng người phật tử thời bấy giờ. Đạo Phật Khất sĩ đã được chư Tôn đức tiếp nối và phát triển rất mạnh sau khi Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng đến nay hơn 70 năm đã được lan rộng, lan xa không những ở trong nước mà đã đến các nước Âu Châu, Úc Châu hay Mỹ Quốc. Ngày càng được mọi người tin tưởng hành trì theo nếp sống đơn giản, sống trong tinh thần lục hòa cọng trụ, qua hình ảnh của một nhà sư, tuy phương pháp khất thực không còn nhưng vẫn có những vị hành độc giác, nhưng với hình ảnh khất thực tuyệt đối không nhận tiền và đi trong chánh niệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bùi Trần Ca Dao ( 2014),Pháp môn khất thực của hệ phái Khất sĩ tại Nam Bộ trong bối cảnh xã hội đương đại. Luận văn Thạc sĩ - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TPHCM. [2] HT. Thích Minh Châu (1982) Kinh Tương Ưng, Viện NCPHVN. [3] TS. Thích Giác Duyên (2006),Tìm hiểu về hệ phái Khất sĩ. NXB Phương Đông. [4] NS. Thích nữ Trí Hải (dịch), Thanh Tịnh Đạo Luận. [5] Maha-Nara-Thera. Phạm Kim Khánh dịch (1989) Đức Phật và Thánh Chúng. [6] NT. Thích nữ Huỳnh Liên (2012) Đóa sen thiên. Nxb Tổng hợp TP.HCM [7] Tổ sư Minh Đăng Quang (1998) Chơn lý, Nxb TP.HCM. [8] Tổ sư Minh Đăng Quang (1998) Luật nghi Khất sĩ. Nxb TP.HCM. [9] Võ Kim Quyên (2004) Tôn giáo và đời sống hiện đại. Nxb Khoa học xã hội. [10] Lê Thọ Quốc (2006) Một số vấn đề về hệ phái Khất sĩ Việt Nam, Thông tin khoa sự Phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế. [11] Ánh Minh Quang (2004) Nxb. TP.HCM. [12] Hệ phái Khất sĩ (2008) Nghi thức tụng niệm. Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [13] HT. Thiện Tâm (1994) Niệm Phật thập yếu. Thành hội Phật giáo TP.HCM. [14] HT. Thích Quảng Tánh. Khất sĩ là gì? [15] HT. Thích Giác Toàn (2009) Tìm lại nguồn xưa. Lược sử tưởng niệm Đức tổ sư Minh Đăng Quang. Nxb Tổng hợp TP.HCM. [16] HT. Thích Giác Toàn (2002) Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện nối truyền Thích ca – chánh pháp. Hội thảo khoa học 300 năm PG Gia Định – Sài Gòn. Nxb TP.HCM. [17] HT. Thích Thanh Từ (2003) Kinh Kim Cang giảng giải. Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [18] Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012) Kỷ yếu hội thảo 300 năm thành lập giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nxb Tôn giáo Hà Nội. [19] Các bài tham luận. [20] Các trang Web : Đạo Phật Khất sĩ, Vườn Lộc Uyển, Ánh Nhiên Đăng. [21] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Đạo Phật khất sĩ, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [22] Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, (2013) Di Bảo. NXB Tổng Hợp, TP.HCM. [23] Thích Giác Duyên,(2014) Hệ Phái Khất Sĩ 70 năm Hình Thành và Phát Triển, Nxb Tôn giáo. [24] Nguyễn Lang, (2018) Việt Nam PG Sử Luận, NXB Văn Học, Hà Nội. [25] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý, Tr 764,767,Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [26] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý tập III, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [27] Hệ Phái Khất Sĩ,(1998) Chơn LýLuật Nghi Khất Sĩ, NXB, TP HCM. [28] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý,Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [29] Thích Giác Duyên,(2014) Hệ Phái Khất Sĩ 70 năm Hình Thành và Phát Triển, Nxb Tôn giáo. [30] Hệ Phái Khất Sĩ (1998) Luật nghi khất sĩ, Nxb Tp HCM. [31] Tổ sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [32] HT Quảng Độ(dịch)(2000), Phật Đại từ điển, tập 2, Nxb Đài Bắc. [33] Minh Đăng Quang(2009), chơn lý tập 1, bài Y bát chơn truyền, Nxb tôn giáo Hà nội. [34] Tổ sư Minh Đăng Quang(2009), Chơn lý, tập 1, bài Y Bát chơn truyền, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [35] Minh Đăng Quang (2009),Chơn lý tập 1, bài Trên mặt nước, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. [36] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2012) Luật nghi Khất sĩ. NXB Tổng hợp TP HCM. [37] Thích Đổng Minh ( dịch)(2012) Luật tứ Phần, Viện Nghiên cứu Phật Học Huệ Nghiêm. NXB Phương Đông. [38] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý tập 2, bài Chánh Pháp, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [39] Minh Đăng Quang (1965) Luật nghi Khất sĩ,Nxb Tp. HCM. [40] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 1,bài Nhập định,Nxb Tôn giáo, Hà nội. [41] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Hòa bình, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [42] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Đạo Phật khất sĩ, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [43] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 2, bài Tông giáo, Nxb Tôn giáo, Hà nội. [44] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Tu và nghiệp, Nxb Tôn giáo Hà nội. [45] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 1 bài Vũ trụ quan, Nxb Tôn giáo Hà nội. [46] Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, Đóa Sen Thiên, NXB. Tp.HCM, 2012, tr.223. [47] Thích Minh Châu (dịch) (2000), Kinh Tương Ưng, tập II, tr.129. PHẦN PHỤ LỤC 1. Kính bạch HT. GT. ở Tp. HCM. Phương pháp khất thực hiện nay không còn thực hiện được nữa vậy có ảnh hưởng gì đến Hệ Phái Khất sĩ không ? Đúng là phương pháp khất thực là hình ảnh Tăng xưa tu tập nhưng hiện nay bị lạm dụng quá nhiều vì vậy chư Tôn đức tạm cho ngưng để cũng cố, kiểm tra tăng chúng, tất nhiên cũng bị ảnh hưởng ít nhiều, vì đây là phương pháp thân giáo của Tổ Sư Minh Đăng Quang giúp cho mọi tầng lớp đều có thể cúng dường, giúp cho họ biết mở lòng mình ra, nhưng vì bị lợi dụng làm việc phi pháp quá nhiều của những tăng giả nhiều nên tạm ngưng. Nhưng trong nhưng sự kiện được tổ chức tại các Tịnh Xá đều co0s tổ chức hình ảnh tăng đoàn đi hóa duyên cả, có như vậy việc đi khất thực không bị lãng quên. 2. Hỏi: kinh bạch HT. GT. ở TP.HCM. Trong giới, định,tuệ của Tổ Sư Minh Đăng Quang, có điều gì khác với hai tu tưởng Phật Giáo hiện tai không ạ?. Giới, Định, Tuệ của Tổ Sư cũng được rút tỉa từ 2 tư tưởng lớn Bắc truyền và Nam truyền nhưng được rút gọn lại cũng như chuyển sang việt ngữ và có những phần điều chỉnh lại nên có phần dễ học dễ hành hành hơn, ví dụ: trong thức xoa ma na ni có luật 114, Tổ gói gọn Giới lại. Cũng vậy định Tổ dạy chủ yếu là điều thân, điều tức cái chính là điều phục thân, khẩu, ý tạo nghiệp. Thiền của Tổ sư dùng quán chiếu để quay trở lai với chính mình không khư khư dùng tứ niệm xứ hay thiền công án mà Ngài đã trãi dài ra tùy theo ai hợp phương pháp nào thì hành phương pháp đó. Nên khác hẳn với thiền của hai tông phái kia. Ngài chủ yếu dùng 40 đề mục quán chiếu tu tập. 3. Hỏi: Thưa sư cho con hỏi: (ĐĐ Thích Minh Sĩ. ở Tp. HCM) Trong phương pháp đi khất thực có theo quy luật nào không?. “Các quy định đó có ghi lại trong Luật Ghi khất sĩ (ở phần phụ lục). Vị khất sĩ được phép đi khất thực phải là Sa di đã thọ mười giới trở lên và phải được thầy dạy cho đạo Y bát chơn truyền. Tuy theo quy định thì người tu khất sĩ phải đi khất thực mỗi ngày vào buổi sáng, và chỉ nhận thức ăn chay và Tổ sư cũng đã quy định rõ cách đi khất thực với nhiều mục đích khác nhau: Để giữ gìn phẩm hạnh của người xuất gia, khi đi chân đạp đất,đầu không đội bất cứ cái gì, bước đi chậm rãi, mắt cách mặt đất một mét không nhìn ngang dọc, tâm luôn thanh tịnh niệm Phật.” Có thể nói mỗi hạnh kiểm của người hành trì khất thực đều toát lên một bài pháp không lời, qua bước đi, hình tướng. Làm cho người cúng rất hoan hỷ, đây là bài học Thân giáo mà Tổ đã dạy để giúp cho mọi người mở lòng mình ra, biết bố thí cúng dường. 4. Hỏi: Dạ thưa sư cho con hỏi sư đi khất thực có lợi ích gì trong pháp tu không? (ĐĐ Thích Minh Lợi ở Thủ Đức) Thưa có, đi khất thực giúp cho mình bỏ đi tánh mắc cỡ, nói thiệt nhà của sư cũng thuộc khá giả nên lúc ở nhà chưa bao giờ sư phải đi như vậy, sư rất sợ gặp người quen, dần sư lại thích đi khất thực vì nó tạo cho mình một niềm hạnh phúc, phật tử coi mình như một ông Phật vậy đó, họ rất cung kính, lúc cúng họ quỳ lạy nữa nên sư rất sợ vì mình tu chưa là gì mà có những phật tử đáng ông bà mình mà quỳ lạy. Đi khất thực tập cho mình tự chỉnh oai nghi cần có,giới hạnh được tăng trưởng, một khi đã khoát lên mình chiếc y ôm bình bát đi khất thực có cảm giác như mình đang sống trong thời Đức Phật vậy, ôm bát đi xin nhưng thấy nhẹ nhàng giải thoát lắm. Đi khất thực là tập cho mình diệt trừ cái ngã, bỏ bớt tâm tham, bớt đi cái lăng xăng bên ngoài, tập cho mình giữ hạnh kiểm của người tu. 5.Hỏi: Dạ thưa sư cho con hỏi: là một tu sĩ trẻ sư có quan niệm như thế nào trong việc đi khất thực? (ĐĐ Thích Minh Thanh ở Biên Hòa) Đây là pháp môn thiết thực nhất mà Tổ sư đã dùng thân giáo để giáo hóa mọi người. Chữ “Khất thực” ở đây có nhiều nghĩa lắm có thể xin ăn, hoặc là hóa duyên, hay nhập thế cũng được. Vì từ nào cũng đúng và có nghĩa riêng của nó, nếu xin ăn thì giúp cho người tu dẹp được bản ngã tự cao, biết quý trọng những vật thực mà người làm ra và nhớ ơn của đàn na thí chủ đã cúng dường. Còn hóa duyên là tạo cho phật tử biết bố thí cúng dường, và đi khất thực là để cho những phật tử không có điều kiện đến chùa biết mở lòng mình ra rồi lần lần họ sẽ đến chùa, không phân biệt giàu nghèo gì cả, cúng một gói xôi nhưng thành tâm cúng thì phước báu lớn hơn người cúng nhiều nhưng phân biệt, nghĩ mình cúng sẽ hưởng phước nhiều là sai, cách cúng đường quan trọng hơn của cúng. Nhập thế là lấy đó làm phương tiện mà tìm hiểu cách va chạm coi tâm ta có đủ sức chịu đựng trong chốn náo loạn của thế gian không, hay ta có đủ bình tỉnh để xử lý sự việc không, vì Tổ đưa ra phương pháp này cũng là tập cho người tu bình tỉnh trước mọi người, mọi việc. 6.Hỏi: Dạ thưa cô cho con hỏi tại sao cô phải quỳ giữa trời nắng để chờ cúng dường mà không đến chùa cúng (cô Ngọc Lành phật tử TX. Ngọc An). Hôm nay là ngày giỗ sư bà nên mấy Ni trưởng tổ chức đi khất thực. Đây là dịp để chúng con có cơ hội cúng dường chứ lâu lắm rồi chúng con không thấy quý sư đi khất thực. Con còn nhớ hồi đó sáng ra khoảng 7 giờ hơn là có quý sư đi khất thực, có bữa chúng con mấy chị em hùn lại mua được mấy gói xôi và mấy bịch chè để bát mà bữa đó chúng con vui lắm, tại vì sáng nào quý sư cũng như quý ni sư đi khất thực, nên chúng con phần thì ít tiền mà có mua cũng không thể cúng hết được, có bữa một nãi chuối mà chúng con cúng được nhiều người, nhưng nếu có cúng nhiều thì quý sư không nhận và quý sư có dạy con cúng ít thôi để người khác cúng với chứ, con cúng hết đầy bát quý sư về thì còn nhiều người không được cúng dường. Nhờ có quý sư cũng như quý ni sư đi khất thực mà chúng con mới biết đến chùa, cũng như biết bố thí cúng dường, biết cỡi mở hơn, biết đem của ra chia sẽ cho người khác, biết thông cảm cho người khác, nhờ vậy mà chúng con biết đến chùa lễ Phật. Con thấy hiện nay đi khất thực mà cái gì cũng nhận cả tiền cũng nhận luôn nên có lẽ vì vậy mà quý sư không đi khất thực nữa.Điều nầy làm cho chúng con không có dịp để cúng dường để bát nữa. 7.Pt: 78 tuổi ở Dĩ An Bình Dương: Cho hỏi pháp môn khất thực đã giúp gì cho một cư sĩ tu theo Hệ phái Khất sĩ ? Dạ con thưa Sư cô đây là hình ảnh của một vị tu sĩ thời đức Phật theo kinh sách mà con đã được đọc, và giúp cho hàng Phật tử chúng con được cúng dường vì chúng con nghĩ muốn cúng dường thì phải có nhiều tiền mới đến chùa cúng được nhưng có một số không có tiền nhiều nhưng có thể cúng một cái bánh vài cây kẹo nhưng với tâm thành chúng con cúng được, nhờ vậy mà chúng con đã dẹp được lòng tự ty, biết bố thí cúng dường và được dạy sự cúng dường 8.Kính bạch Ni trưởng cho con hỏi: Trong Tứ Y pháp của Tổ Sư dạy trong Chơn Lý đến hôm nay có gì thay đổi không ạ. Nói chung do ngày xưa thời Tổ Sư mới khai đạo, với ý nguyện “ Nối truyền Thích Ca chánh pháp” vì thế Ngài hành đạo với hình bống Tăng xưa và pháp môn khất thực là một trong những pháp không thể thiếu của người tu Khất Sĩ. Ở đây Tổ Sư chủ yếu là dùng thân giáo để giáo hóa cho hàng để tử cả Tăng lẫn tục của Ngài dẹp bỏ chấp trước ngã mạn, vì con người sống ở đời họ rất quan trọng vấn đề ăn mặc ở bịnh, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ thì cần phải thực hành “Tứ Y Pháp” sống một cuộc sống đơn giản thanh bần, không có gì ngoài tam y nhất bát mà thôi. Lấy màn trời chiếu đất làm nhà, ăn không cầu no, ngủ không cầu ấm êm. Mối đạo mới là chính, tuy hôm nay viêc hành đạo duy chuyển không được, pháp môn khất thực cũng tạm ngưng Tăng Ni tạm trú một chỗ nhưng phưng pháp tu tập của Tổ sư vẫn không bị mai một, nó có sự kế thừa và phát huy lên, nhân rộng ra thêm ở nhiều phương diện khác nhau như tổ chức các khóa tu truyền thống hay các khóa tu khác nhau. (Ni trưởng Hiệp Liên trụ trì TX Ngọc Trung An Khê) 9.(Ni Cô HL ở Long An) Thưa sư cô cho hỏi cho hỏi sau khi trãi qua khóa tu “ Đạo Hạnh” sư cô nhận thức được gì trong khóa tu này. Thưa là một Ni cô sắp được đi thọ giới con thấy khóa tu này rất bổ ích cho giới tử chúng con. Điiều đầu tiên là tạo cho chúng con một môi trường cùng nhau tu học trong bảy ngày, chúng con được quý Ni trưởng sát tấn dạy dỗ cho chúng con từ cách ăn, cách ngũ, hay cách nằm cũng nhu cách ăn mặc cho đúng cách khi ra đường. Từ những cái rất nhỏ ấy đã làm cho chúng con chỉnh đốn đạo hạnh oai nghi của chúng con trước khi được thọ giới pháp ( đây là khóa tu đạo hạnh dành cho giới tử trước khi thọ giới). Trong bảy ngày này tạo cho chúng con cách sống chung tu học trong tinh thần lục hòa cho nên đây là một khóa tu không thể thiếu cho những ai sắp được bước vào hàng xuất gia thực thụ. Cám ơn sư cô. 10. ( Ni cô Liên Trâm. ở TX Ngọc Chơn. Quận Bình Thạnh. Tp HCM) Ni cô cho hỏi là một Ni trẻ sống trong thời đại mới công nghệ Ni cô có thấy điều gì bất cập không. Dạ thưa là một tu sĩ trẻ đang sống trong thời đại vật chất dồi dào, được đi học rất nhiều thứ nhưng chúng con rất sợ, con cũng có duyên lành nên được ở một trú xứ có Quý Ni Trưởng nghiêm về giới luật, chúng con được rèn luyện thời khóa nên chúng con rất vui, vì khi ra đi học có được kiến thức nhưng cũng phải đánh đổi rất nhiều nếu không khéo biết giữ lấy chính mình thì dễ bị cám dỗ bởi vật chất ấy, rồi oai nghi tế hạnh cũng không còn ăn nói thì không kiên nể ai cả. Nên nếu được thì con xin những năm đầu mới xuất gia thì cần ở nhà để thầy tổ dạy oai nghi tế hạnh, tập sống đơn giản để khi đi ra vẫn con giữ được chút bóng dáng của người tu. 11. Sư MH ở tại TX Ngọc Đăng. Tp. HCM. Dạ thưa sư cho con hỏi trong tu tập hằng ngày sư có còn giữ các thờthiền hành không ạ theo con được biết buổi sáng không có tụng kinh mà chỉ có ngồi thiền. Dạ đúng rồi buổi sáng chủ yếu quý sư ngồi thiền là chính đây là một trong pháp tu chính của một ngày, vì từ xưa đến nay buổi tối có thời công phu tối nhưng buổi sáng là giờ tu tập của riêng chư Tăng cũng như chư Ni. Mỗi sáng phải tỉnh tâm trong một tiếng đồng hồ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_mot_so_dac_trung_tu_tap_cua_he_phai_khat_si_tu_khoi.pdf
Luận văn liên quan