Sức sinh sản của cá phụthuộc vào điều kiện môi trường sống (nhất là điều kiện dinh
dưỡng và điều kiện nhiệt độ), vào tập tính sinh sản của cá, những loài cá có trứng nhỏ,
lượng noãn hoàng ít và những loài không có tập tính bảo vệtrứng, không bảo vệcon
có sức sinh sản cao, những loài cá kích thước trứng lớn và có tập tính bảo vệtrứng và
con sẽcó sức sinh sản thấp (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Sức sinh sản tương đối và tuyệt đối khi quan sát và đếm trên 5 mẫu cá Nanh Heo được
thểhiện qua Bảng 4.7
44 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3528 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu đặc điểm sinh học cá nanh heo (botia modestableeker, 1865), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đàn cá (quần thể cá) có sự kiểm soát chặt chẽ của con người
(thường là cá trong ao nuôi) Nikolsky (1963).
Nghiên cứu gián tiếp
Sự tăng trưởng của cá không đều, biến đổi theo mùa, nhiệt độ, điều kiện sinh lý hình
thành vòng tăng trưởng. Xác định sinh trưởng dựa vào sự khác nhau giữa các vòng
tăng trưởng của cá. Phương pháp này thường được áp dụng đối với đàn cá (quần thể
cá) trong tự nhiên, ở những vùng có điều kiện môi trường thay đổi theo quy luật mùa
(thường là nhiệt độ) dẫn đến sự sinh trưởng không đều của cá theo thời gian. Phương
pháp này ít được áp dụng ở vùng nhiệt đới vĩ độ thấp mà thường áp dụng ở vùng vĩ độ
cao Nikolsky (1963).
Những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu sinh trưởng của cá được đề cập tới nhiều là
độ béo và độ mỡ của cá: Khi nghiên cứu độ béo của cá, thông thường người ta sử
dụng công thức của Fulton (%) = Wt*100/(SL)3 và Clack (%) = W0*100/(SL)3; Đó là
tỷ số giữa chiều dài lũy thừa 3 với khối lượng cá (không bỏ nội quan là độ béo Fulton,
có bỏ nội quan là độ béo Clack).
Độ mỡ của cá được xác định theo thang 6 bậc (thường được gọi là ball mỡ) từ bậc 0
đến bậc 5. Thang 6 bậc này được đề xướng bởi M.L.Prozorovxkaia được trích dẫn bởi
Nikolsky (1963).
Bậc 0: Ruột cá không có mỡ, đôi khi ruột non có một lớp màng trắng bao phủ. Giữa
những mấu của ruột non thấy rõ các sợi của màng này.
Bậc 1: Có một dãy mỡ mỏng giữa phần thứ hai và thứ ba của ruột non. Đôi khi ở mép
trên của phần thứ hai có một dãy mỡ rất hẹp đứt quãng.
17
Bậc 2: Có một dãy mỡ hẹp tương đối dày ở giữa phần thứ hai và thứ ba của ruột non.
Ở mép trên của phần thứ hai có dãy mỡ liên tục không đứt quãng. Ở mép dưới của
phần thứ ba có chổ thấy rõ mỡ nằm thành những phần nhỏ riêng biệt.
Bậc 3: Có một dãy mỡ rộng ở giữa phần thứ hai và thứ ba của ruột. Ở mấu ruột giữa
phần thứ hai và thứ ba dãy này rộng ra. Có một dãy mỡ rộng ở mép trên của phần thứ
hai và mép dưới của phần thứ ba. Ở chổ cong thứ nhất của ruột có một khối mỡ hình
tam giác. Ở phần ruột cuối hậu môn có lớp mỡ mỏng.
Bậc 4: Ruột cá hầu như hoàn toàn bị mỡ bao phủ, chỉ trừ có những chổ trống mà qua
đó ta có thể nhìn thấy ruột. Những chổ trống nhỏ này thường ở mấu thứ hai và thứ ba
của ruột cá. Đôi khi cũng gặp những chổ trống ấy ở phần thứ hai của ruột. Những u
mỡ ở hai bên mấu ruột rất lớn.
Bậc 5: Tất cả ruột cá đều bị phủ một lớp mỡ dày, không có chổ trống nào, những u mỡ
hai bên ruột rất lớn.
2.2.2 Về nghiên cứu sinh sản cá
Sinh sản là hoạt động sống đặc trưng cho cơ thể sống, là phương thức để duy trì giống
loài, là thể hiện cao độ nhất về sự thích nghi của cá với điều kiện môi trường. Hầu hết
cá đẻ trứng thụ tinh ngoài môi trường nước (Nikolsky, 1963). Cá có sức sinh sản
tương đối cao nhất trong nhóm động vật có xương sống.
Xác định giới tính
Có ba nguyên tắc chính để phân biệt cá đực và cá cái, đó là sự khác nhau của đặc điểm
sinh dục sơ cấp, đặc điểm sinh dục thứ cấp (sinh dục phụ) và đặc điểm hình thái do
gen nằm trên nhiễm sắc thể giới tính qui định. Tuy nhiên, chỉ có một số ít loài cá có
đặc điểm sinh dục phụ và có sự khác nhau về hình dạng bên ngoài giữa con đực và
con cái vào mùa sinh sản. Còn lại đa số các loài cá, đặc biệt các loài cá hoang dã sống
ngoài tự nhiên thì việc xác định giới tính bằng cách quan sát các đặc điểm sinh thái
bên ngoài thì rất khó và nhất là đối với cá chưa thành thục. Trong trường hợp không
xác định được giới tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài, cá phải được giải phẩu
để quan sát tuyến sinh dục bằng mắt hoặc có thể sử dụng kính lúp (Nguyễn Tường
Anh, 2005).
Tuổi thành thục của cá
Tuổi thành thục của cá khác nhau theo loài và phụ thuộc vào điều kiện sống, trong đó
nổi bật nhất là nhiệt độ và thức ăn.
Cá là động vật biến nhiệt nên đặc tính sinh sản theo mùa thể hiện rất rõ. Cá sinh sống
ở vùng nhiệt đới thì có thời gian sinh sản kéo dài hầu như quanh năm. Tuy nhiên vẫn
có những thời kỳ cá sinh sản nhiều (mùa vụ sinh sản chính). Có những loài cá có khả
18
năng sinh sản nhiều lần trong năm hoặc trong đời (gọi là cá có tuyến sinh dục đa chu
kỳ), cũng có những loài trong chu kỳ sống chỉ sinh sản một lần (gọi là đơn chu kỳ)
như cá Hồi.
Sức sinh sản của cá thay đổi theo kích thước trứng (những cá có trứng nhỏ thì sức sinh
sản cao), khả năng bảo vệ con cái (những loài có đặc tính bảo vệ con thì sức sinh sản
thấp).
Nghiên cứu đặc tính sinh sản của cá ở ĐBSCL đã khẳng định mùa vụ sinh sản của đa
số các loài cá ở ĐBSCL tập trung vào đầu mùa mưa (Lê Như Xuân và csv, 1994).
Chu kì sinh sản của cá thường được xác định bằng cách khảo sát về hình thái và tổ
chức của tuyến sinh dục. Phương pháp thông thường để đánh giá giai đoạn thành thục
của cá là dựa theo bậc thang thành thục (bậc thang chín muồi sinh dục). Có rất nhiều
tác giả đưa ra bậc thang thành thục theo đối tượng nghiên cứu của mình. Tuy khác
nhau giữa các tác giả nhưng cũng có nhiều điểm chung. Đó là giai đoạn I và II đặc
trưng cho thời kỳ non trẻ, giai đoạn III và IV đặc trưng cho thời kỳ trưởng thành. Đặc
biệt giai đoạn IV còn đặc trưng cho giai đoạn thành thục, giai đoạn V đặc trưng cho
thời kỳ đang đẻ, giai đoạn VI xuất hiện sau khi sinh sản.
Các giai đoạn phát triển của buồng trứng
Xác định các giai đoạn phát triển của buồng trứng theo thang bậc thành thục sinh dục
theo Kixelevits được trích dẫn bởi Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009),
với 6 giai đoạn
Giai đoạn I
Xuất hiện ở cá thể còn non của giai đoạn tiền trưởng thành (chỉ gặp ở cá thể chưa
thành thục lần nào). Noãn sào ở dạng sợi nhỏ, màu trắng nằm sát sống lưng và trên
bóng hơi. Ở giai đoạn này không thể phân biệt được cá đực và cá cái bằng mắt
thường.
Trên lát cắt mô học của buồng trứng ở giai đoạn này, trứng sắp sếp không có qui tắc,
đường kính trứng từ 10 – 80 µm (tùy từng loài cá). Thể tích nhân tế bào lớn, chiếm
phần lớn tế bào, xấp xỉ ½ thể tích của tế bào, mô liên kết và mạch máu không phát
triển. Giai đoạn này chủ yếu chứa tế bào trứng ở phase 1 và chỉ trải qua một lần trong
suốt chu kỳ sống của cá.
Giai đoạn II
Noãn sào dẹp hơi bằng, màu xám nhạt hoặc trắng hồng nhạt, số lượng mạch máu tăng
làm cho buồng trứng có màu hồng nhạt. Với cá thể sinh sản lần đầu tiên ở giai đoạn II
thì mạch máu và mô liên kết không phát triển nhưng có thấy mạch máu lớn ở đầu
buồng trứng, mắt thường không thể nhìn thấy tế bào trứng riêng biệt, nhìn bằng kính
lúp hoặc kính hiển vi mới nhìn thấy được đường kính tế bào trứng từ 90 – 200µm. Đối
19
với các cá thể đã sinh sản một lần trở lên trong buồng trứng có thể còn bắt gặp một số
ít trứng ở phase 3, mô liên kết và mạch máu lúc này rất phát triển. Trong ao nuôi nếu
không có điều kiện môi trường thích hợp hoặc ở những cá thể có tuổi thành thục cao
trong thời kỳ cá non thì tuyến sinh dục có thể dừng lại ở giai đoạn này trong thời gian
dài. Buồng trứng ở giai đoạn II chủ yếu chứa tế bào trứng ở phase 2. Buồng trứng ở
giai đoạn II cũng có thể do sự chuyển tiếp từ giai đoạn VI (sau khi cá đẻ).
Giai đoạn III
Buồng trứng tăng nhanh thể tích, có màu xanh làm nền. Màu xanh nâu, xanh vàng
hoặc màu xanh sẫm là tùy thuộc từng loài cá (đa số cá nuôi ở ĐBSCL có màu xanh
hơi vàng), mạch máu và mô liên kết rất phát triển. Tế bào trứng có thể được nhìn thấy
bằng mắt thường nhưng rất khó tách rời từng trứng riêng biệt do chúng liên kết với
nhau rất chặt chẽ. Ở cá mè trắng, đường kính trứng đạt tới 500µm, tế bào trứng bắt
đầu tích lũy noãn hoàng. Buồng trứng có thể dừng lại ở giai đoạn này 1 – 2 tháng tùy
điều kiện nhiệt độ. Giai đoạn III chủ yếu chứa tế bào trứng ở phase 3.
Giai đoạn IV
Mạch máu kém phát triển hơn giai đoạn III, buồng trứng đạt kích thước lớn nhất ở
nhiều loài cá chiếm 2/3 xoang bụng, hệ số thành thục cao. Buồng trứng của nhiều loài
cá có màu vàng làm nền (vàng nhạt hoặc vàng xanh đậm), màng buồng trứng có tính
đàn hồi, trong buồng trứng chứa đầy trứng, rất dễ tách rời từng trứng. Giai đoạn này
tùy theo cá đẻ một lần hay nhiều lần trong năm mà có các đặc điểm khác nhau. Buồng
trứng giai đoạn IV chiếm hầu hết thể tích xoang bụng, cá có hệ số thành thục (tỷ lệ
phần trăm giữa khối lượng buồng trứng với khối lượng cá) cao nhất.
Giai đoạn IV của cá đẻ một lần trong năm bao gồm những trứng thành thục đã tích lũy
đầy đủ noãn hoàng và có cùng một dạng hình (phase 4). Ở cá đẻ nhiều lần trong năm
bao gồm hầu hết những trứng phase 4 ngoài ra còn bắt gặp những trứng chưa tích lũy
noãn hoàng đầy đủ (ở phase 3 hoặc quá độ từ phase 3 đến phase 4) và những trứng ở
phase 2.
Căn cứ vào mức độ tích lũy noãn hoàng và vị trí nhân trong tế bào trứng mà người ta
phân chia giai đoạn IV làm các giai đoạn phụ là: Giai đoạn IVa, giai đoạn IVb, giai
đoạn IVc. Trong sinh sản nhân tạo, buồng trứng phát triển đến giai đoạn IVb hoặc IVc
mà cho cá đẻ bằng tiêm hormone thì thu được kết quả cao. Ở giai đoạn IVa mà cá
được tiêm hormone sinh dục thì khả năng sinh sản rất thấp. Trong trường hợp này có
thể thành công khi sử dụng phương pháp tiêm cho cá nhiều lần hoặc kéo dài thời gian
và cường độ khi cá được kích thích sinh sản bằng các tác nhân sinh thái.
Giai đoạn V
Khi trứng đã rụng, thì buồng trứng ở giai đoạn V bề mặt buồng trứng có hiện tượng
xung huyết (căng phồng), buồng trứng rất mềm, vuốt nhẹ bụng cá, trứng có thể chảy
ra thành dòng, trong thời gian cá đang sinh sản thì buồng trứng cũng thuộc giai đoạn
20
V. Đối với những cá đẻ nhiều lần trong năm, ngoài những trứng đã rụng, trong buồng
trứng còn nhiều tế bào trứng ở thời kỳ sinh trưởng nhỏ và sinh trưởng lớn (phase 2 và
phase 3) giành cho những đợt sinh sản sau. Giai đoạn này buồng trứng chứa tế bào
trứng ở phase 5.
Giai đoạn VI
Buồng trứng cá sau khi đã sinh sản, ở giai đoạn VI. Màng buồng trứng dầy lên, mạch
máu xung huyết có màu đỏ tím. Trong buồng trứng còn sót lại tế bào trứng ở phase 5
(chúng sẽ bị hấp thu nhanh chóng), có nhiều màng follicule rỗng và có nhiều thể vàng.
Sau khi sinh sản, buồng trứng trở lại giai đoạn II (đối với cá đẻ một lần trong năm)
hoặc giai đoạn III (đối với cá đẻ nhiều lần trong năm).
Các giai đoạn phát triển của tinh sào
Theo Xakun và N.A.Buskaia (1982), xác định thang bậc thành thục của tinh sào cá
thành 6 giai đoạn phát triển
Giai đoạn I
Tinh sào rất nhỏ, có hình sợi chỉ chưa phân biệt được đực cái. Nó như hai sợi chỉ nhỏ
nằm sát hai bên xương sống, bên trong không thấy các túi sinh tinh. Trên lát cắt dưới
kính hiển vi, có thể thấy tinh nguyên bào nằm trong các bào nang đang ở thời kỳ sinh
sản.
Giai đoạn II
Tinh sào có dạng hai dải mỏng có màu hồng nhạt (có thể từ giai đoạn I phát triển lên
hoặc từ giai đoạn VI sau khi thoái hóa). Về mặt tổ chức học thấy rõ các túi sinh tinh,
các tế bào sinh dục đực đang ở thời kỳ sinh trưởng.
Giai đoạn III
Tinh sào có màu hơi trắng phớt hồng, cuối giai đoạn này có màu trắng ngà. Trong các
ống dẫn tinh chứa đầy các bào nang có tế bào sinh dục ở cùng một thời kỳ phát triển.
Khoảng cách giữa các ống dẫn tinh rất hẹp.
Về mặt tổ chức học, trong các ống dẫn tinh có nhiều túi nhỏ và quá trình tạo tinh xảy
ra mạnh mẽ. Trong tinh sào có các tinh nguyên bào, tinh bào cấp I, tinh bào cấp II,
tinh tử và tinh trùng. Dùng dao cắt ngang tinh sào thì mép cắt phẳng (không bị tù) và
dao vẫn sạch (không dính tinh dịch).
Giai đoạn IV
Tinh sào có màu trắng sữa, đạt kích thước lớn nhất, bên trong chứa tinh tử và tinh
trùng, tinh bào sơ cấp, quá trình tạo tinh cơ bản kết thúc. Trong các ống dẫn tinh chứa
đầy tinh trùng chín muồi đã thoát ra khỏi bào nang và các tinh nguyên bào (là nguồn
dự trữ cho các chu kỳ sau). Ở giai đoạn này, tinh trùng dễ dàng thoát ra ngoài khi có
21
tác động cơ học ngay cả khi cá quẫy mạnh. Nếu dùng dao cắt ngang tinh sào thì mép
cắt không phẳng mà tù, trên dao có dính tinh dịch.
Giai đoạn V
Tinh sào cá ở trạng thái đang sinh sản. Tinh trùng chứa đầy các ống dẫn tinh. Ngoài ra
trong ống dẫn tinh còn có một lượng đáng kể các tế bào sinh dục ở các phase trước đó.
Giai đoan VI
Là giai đoạn tinh sào của cá đã sinh sản xong. Bề mặt tinh sào có màu đỏ hồng nhạt,
mềm nhão. Trong ống dẫn tinh ngoài tinh trùng đã chín, các bào nang còn có tế bào
sinh dục ở các phase phát triển khác nhau.
Hầu hết các tác giả đều có điểm chung nữa là khi tuyến sinh dục ở giai đoạn nào thì
trong đó có nhiều tế bào ở phase tương ứng.
2.2.3 Về nghiên cứu dinh dưỡng cá
Thức ăn là vật chất chứa các chất dinh dưỡng mà động vật có thể ăn, tiêu hóa và hấp
thụ được các chất dinh dưỡng đó để duy trì sự sống, xây dựng cấu trúc cơ thể. Thức ăn
là cơ sở để cung cấp vật chất dinh dưỡng và năng lượng cho quá trình dinh dưỡng
(Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009)
Vấn đề trung tâm khi nghiên cứu dinh dưỡng cá được nhiều tác giả quan tâm là tính
ăn của cá. Tùy theo những căn cứ khác nhau mà người ta chia tính ăn của cá làm
nhiều kiểu. Xác định tính ăn của cá, người ta căn cứ vào phổ dinh dưỡng của cá (thành
phần và tỷ lệ các loại thức ăn trong ống tiêu hóa). Khi dự báo tính ăn của cá, người ta
căn cứ vào cấu tạo cơ quan tiêu hóa bao gồm cấu tạo mang, miệng, hầu, thực quản, dạ
dày, hình thái ruột. Những cá có răng cửa thường là cá ăn động vật. Tỷ lệ chiều dài
ruột và chiều dài thân là căn cứ quan trọng để xác định tính ăn của cá. Những cá có
tính ăn thiên về động vật sẽ có giá trị Li/L0 ≤ 1, cá ăn tạp có Li/L0 = 1 – 3, và cá ăn
thiên về thực vật Li/L0 ≥ 3 (Nikolsky, 1963). Tuy vậy, phần lớn tác giả chia tính ăn
của cá làm ba hình thức: Đó là cá có tính ăn động vật (trong thành phần thức ăn có
hơn 70% là động vật), cá có tính ăn thực vật (trong khẩu phần thức ăn có hơn 70% là
thực vật), cá có tính ăn tạp (trong khẩu phần thức ăn có cả động vật, thực vật, chất hữu
cơ) theo Nikolsky (1963). Khi biểu hiện thành phần và tỷ lệ các loại thức ăn trong ống
tiêu hóa, người ta thường dùng khái niệm phổ dinh dưỡng. Loại thức ăn mà cá ăn vào
nhiều được gọi là thức ăn ưa thích, loại thức ăn cá phải ăn để duy trì sự sống khi trong
môi trường thiếu thức ăn ưa thích gọi là thức ăn bắt buộc, những loại vật chất vô tình
có trong ruột cá (không phải do cá chủ động ăn) gọi là thức ăn ngẫu nhiên.
Một chỉ số được dùng nhiều trong nghiên cứu dinh dưỡng cá là chỉ số độ no. Nó biểu
thị tỷ lệ phần trăm giữa lượng thức ăn trong ruột với khối lượng cá. Để biểu thị mức
độ tiêu thụ thức ăn của cá, người ta dùng khái niệm cường độ dinh dưỡng. Cường độ
22
dinh dưỡng của cá là lượng thức ăn mà một đơn vị trọng lượng cá ăn trong một đơn vị
thời gian (I. F. Pravdin, 1973). Cường độ dinh dưỡng thay đổi theo các giai đoạn phát
triển của cơ thể (cá non trẻ có cường độ dinh dưỡng lớn hơn cá trưởng thành), theo
điều kiện môi trường (nhất là nhiệt độ và mức độ phong phú của thức ăn), theo trạng
thái sinh lý của cơ thể.
Tính ăn của cá thay đổi theo giai đoạn phát triển của cơ thể. Điểm chung nhất của các
loài cá là khi mới nở từ trứng đều dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Đây là quá trình dinh
dưỡng bên trong. Hết noãn hoàng cá chuyển sang tìm kiếm thức ăn trong môi trường
nước. Thức ăn thích hợp cho giai đoạn này (ấu trùng) là động vật phù du có kích
thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá. Sau giai đoạn này, cá chuyển sang ăn
thức ăn của loài (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Phân tích thành phần thức ăn có trong ruột (dạ dày) của cá. Có ba phương pháp chính
để phân tích
Phương pháp số lượng
Đếm các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hóa của cá và được tính thành phần
phần trăm trên tổng số các loại thức ăn hiện diện trong ống tiêu hóa của cá.
Phương pháp thể tích
Thức ăn trong mẫu ruột cá được đưa về cùng một đơn vị thể tích, quan sát dưới kính
hiển vi để xác định phần trăm của loại thức ăn đó trong một đơn vị thể tích.
Phương pháp trọng lượng
Xác định trọng lương khô của mẫu thức ăn trong ruột cá, sau đó tính ra tỉ lệ phần trăm
trên tổng trọng lượng mẫu quan sát.
Theo Das và Moitra (1963), được trích dẫn bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định
(2004), phân chia các loài cá ở Ấn Độ ra thành 3 nhóm chính
Cá ăn thực vật với thành phần thức ăn chiếm hơn 75% là các loại thực vật.
Cá ăn tạp là nhóm cá ăn được cả thức ăn thực vật và động vật.
Cá ăn thịt với thành phần thức ăn động vật chiếm hơn 80%.
2.2.4 Về định danh cá
Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), dựa vào các đặc điểm hình
thái
Mô tả hình thái của loài như hình dạng cơ thể, các loại vi, vị trí miệng, kiểu vẩy.
Các chỉ tiêu số lượng: Số lượng tia vi, vẩy, đốt sống.
Các số đo hình thái như chiều dài đầu, cao thân.
23
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Vật liệu nghiên cứu
3.1.1 Dụng cụ thí nghiệm
Thùng nhựa, bocal
Ống đong hóa chất
Hóa chất cố định mẫu
Chai lọ nút mài 125 ml
Bộ tiểu phẩu
Bàn đo cá (board)
Cân điện tử (độ chính xác là 0,01g)
Kính hiển vi, đĩa Petri, lame
Các hóa chất và dụng cụ phân tích trong phòng thí nghiệm
3.1.2 Đối tượng nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu là cá Nanh Heo phân bố trong các thủy vực tự nhiên thuộc tỉnh
An Giang.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian thực hiện đề tài
Từ tháng 2/2011 đến tháng 6/2011.
Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm thu mẫu được xác định theo nguyên tắc đại diện cho vùng phân bố của cá
Nanh Heo thuộc tỉnh An Giang, bao gồm sông Tiền, sông Hậu và các chi nhánh của
nó thuộc Tân Châu, Phú Tân, Châu Đốc, Long Xuyên.
Điểm thu mẫu được xác định trên bản đồ ở hình 3.1.
Mẫu cá và mẫu môi trường được phân tích trong phòng thí nghiệm Khoa Sinh Học
Ứng Dụng - Trường Đại Học Tây Đô.
3.2.2 Phương pháp thu mẫu
Mẫu được thu theo định kỳ mỗi tháng thu một lần ở mỗi điểm thu mẫu. Số cá thể
trong mẫu tùy thuộc số lượng cá xuất hiện nhiều hay ít tại các điểm thu. Tuy nhiên số
cá thể trong mẫu phải đảm bảo từ 30 cá thể trở lên. Mẫu được giữ lạnh tại hiện trường
(bảo quản trong thùng nước đá).
24
Hình 3.1: Bản đồ điểm thu mẫu
Ghi chú: (1) Tân Châu; (2) Châu Đốc; (3) Phú Tân; (4) Long Xuyên
3.2.3 Phương pháp phân tích mẫu
Mẫu cá được phân tích tại phòng thí nghiệm Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại
Học Tây Đô. Phương pháp phân tích mẫu dựa theo: “Hướng dẫn nghiên cứu cá” của
I.F.Pravdin (1973); Method of fish Biology (Phương pháp nghiên cứu sinh học cá) của
C.B.Schreck et al (1990); “Sinh thái học cá” của Nikolsky (1963). Các phương pháp
cụ thể như sau
3.2.3.1 Đặc điểm sinh tưởng
Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng
Chiều dài tổng (TL) và chiều dài chuẩn (SL) được đo đạt với độ chính xác là milimet
(cm). Tổng trọng lượng (Wt) và trọng lượng tuyến sinh dục (Wg) được xác định bằng
cân điện tử với độ chính xác là 0,01g. Số lượng mẫu mỗi tháng trên 30 cá thể ở mỗi
điểm thu.
Để xác định mối tương quan giữa chiều dài tổng và trọng lượng ta dùng phương pháp
hồi qui, bằng cách sử dụng phần mềm ứng dụng của Microsoft Office Excel.
Quan hệ giữa chiều dài và trọng lượng của cá theo Huxley (1924), được trích bởi
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định (2004)
1
2
3
4
25
Phương trình hồi qui W = aLb
Trong đó
W: Trọng lượng (g).
L: Chiều dài (cm).
a: Hằng số tăng trưởng ban đầu.
b: Hệ số tăng trưởng.
Hệ số tương quan được dùng trong việc đánh giá mức độ liên quan, theo Đặng Văn
Giáp (1997)
Bảng 3.1: Hệ số tương quan
Giá trị |R| Mức độ
< 0,70 nghèo nàn
0,70 – 0,80 khá
0,80 - 0,90 tốt
> 0,90 Xuất sắc
Xác định độ béo và độ mỡ của cá
Để xác định độ béo của cá sử dụng rộng rãi hệ số Fulton và Clark dựa theo “Hướng
dẫn nghiên cứu cá” của I.F.Pravdin (1973) để xác định độ béo của Fulton và Clack.
Độ béo Fulton
Wt x 100
Fulton (%) =
(SL)3
Trong đó
Wt: Khối lượng cá (g)
SL: Chiều dài chuẩn (cm)
Độ béo Clark
W0 x 100
Clark (%) =
(SL)3
Trong đó
W0: Khối lượng không nội quan của cá (g)
SL: Chiều dài chuẩn (cm)
Độ mỡ (ball mỡ) của cá được xác định theo thang 6 bậc (từ bậc 0 đến bậc 5) của
M.L.Prozorovxkaia được trích dẫn bỡi Nikolsky (1963).
3.2.3.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân
Chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân được xác định theo Nikolsky
(1963)
26
Chiều dài ruột
RLG =
Chiều dài tổng cộng
Khi chỉ số RLG ≤ 1 cá thuộc nhóm cá có tính ăn thiên về động vật, RLG = 1 – 3 thuộc
nhóm cá ăn tạp và nhóm cá ăn thiên về thực vật có RLG > 3.
Phương pháp tần số xuất hiện
Kết quả phân tích thức ăn trong dạ dày để xác định tính ăn theo Biswas (1993).
Tiến hành mổ cá và giữ toàn bộ hệ tiêu hóa (bao gồm cả thức ăn) của cá trong dung
dịch Formol 10%, sau đó mẫu được đưa về phòng thí nghiệm lấy thức ăn trong dạ dày
hòa với nước cất lắc đều, sau đó dùng ống nhỏ giọt hút lấy dung dịch nhỏ một giọt vào
lame đưa lên kính hiển vi ở vật kính 10 và 40 để quan sát.
Phương pháp tính tần số xuất hiện: Xác định tần số xuất hiện của thức ăn bằng cách
ghi nhận thức ăn đó trong dạ dày của tất cả số mẫu quan sát. Phương pháp này cho
biết tỉ lệ % của số lần xuất hiện trong mẫu kiểm tra của một loại thức ăn tự nhiên nào
đó với tổng số mẫu kiểm tra.
Phương pháp số lượng
Trong phương pháp này số lượng của mỗi loại thức ăn sẽ được ghi nhận và được tính
thành phần phần trăm trên tổng số các loại thức ăn hiện diện trong dạ dày theo Biswas
(1993).
Phương pháp này rất có hiệu quả khi nghiên cứu trên nhóm cá ăn sinh vật nổi, tuy
nhiên khi nghiên cứu trên nhóm cá ăn tạp thì phương pháp này sẽ bộc lộ nhược điểm
do không chú ý đến kích cỡ khác nhau của các loại thức ăn (Phạm Thanh Liêm và
Trần Đắc Định, 2004).
Xác định số lượng trung bình của mỗi loại thức ăn: Lấy thức ăn trong dạ dày cá pha
loãng với nước cất. Sau đó cho buồng đếm 1 ml và quan sát trên kính hiển vi để đếm
số lượng từng loại thức ăn.
Tính lượng thức ăn từng loại, ta có công thức
T x 1000 x Thể tích nước pha loãng
Y =
A x N
Trong đó
Y: Số lượng từng loại thức ăn (cá thể)
T: Số lượng loại thức ăn đếm được
A: Hệ số thấu kính và vật kính (A = 1)
N: Số ô đếm
Thức ăn là động vật, đếm toàn bộ số lượng cá thể có trong ống tiêu hóa của cá.
27
3.2.3.3 Đặc điểm sinh sản
Xác định giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục
Quan sát đặc điểm hình thái bên ngoài kết hợp với khảo sát tổ chức mô học của tuyến
sinh dục để xác định các giai đoạn thành thục của tuyến sinh dục. Các giai đoạn phát
triển của tuyến sinh dục phân chia theo bậc thang 6 bậc của Nikolsky (1963).
Xác định hệ số thành thục sinh dục (GSR)
Là một trong các chỉ số để dự đoán mùa vụ sinh sản của cá và được xác định theo
công thức sau (Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004)
Wg
GSR = x 100
Wt
Trong đó
GSR: Là hệ số thành thục.
Wg: Trọng lượng tuyến sinh dục.
Wt: Tổng trọng lượng cá.
Xác định sức sinh sản tuyệt đối
Sức sinh sản tuyệt đối (F) của cá được xác định theo Banegal, 1967 (được trích dẫn
bởi I. F. Pravdin, 1973)
F = n G/g
Trong đó
G: là khối lượng buồng trứng (g)
g: khối lượng 1 mẫu trứng được lấy ra để đếm
n: số lượng trứng có trong 1 mẫu (mẫu trứng được lấy để đếm ở 3
vị trí: đầu, giữa và cuối của buồng trứng).
Xác định sức sinh sản tương đối
Sức sinh sản tương đối của cá được biểu thị bằng số lượng trứng trên một đơn vị trọng
lượng cá cái.
3.2.4 Phương pháp xử lý số liệu và đánh giá kết quả
Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm ứng dụng của Microsoft Office Excel.
Đánh giá kết quả: Dựa theo giá trị trung bình của các chỉ số nghiên cứu.
28
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Đặc điểm sinh trưởng
4.1.1 Tương quan giữa chiều dài tổng và trọng lượng
Sinh trưởng là quá trình gia tăng về kích thước và tích lũy thêm về năng lượng. Quá
trình này đặc trưng cho từng loài cá và thể hiện qua mối tương quan giữa chiều dài và
trọng lượng (Nikolsky, 1963).
Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng được xác định dựa vào số liệu của 360 mẫu
cá Nanh Heo có chiều dài tổng dao động TL = 6,51 – 15,8cm tương ứng với khối
lượng Wt = 4,18 – 59,32g, phương trình hồi qui được xác định là W = 0,0153L3,0432
với hệ số tương quan R2 = 0,9277.
y = 0.0153x3.0432
R2 = 0.9277
0
5
10
15
20
25
30
35
40
6 7 8 9 10 11 12 13 14
Chiều dài tổng (cm)
Tr
ọ
n
g
lư
ợ
n
g
(g
)
Hình 4.1: Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá Nanh Heo
Từ kết quả xác định được chứng tỏ sự tương quan giữa chiều dài và khối lượng của cá
Nanh Heo (R2 = 0,93) rất chặt chẽ. Theo Đặng Văn Giáp (1997), hệ số tương quan |R|
> 0,90 là rất chặt chẽ, kích thước cá thu được đã phản ánh đặc tính chung của chủng
quần cá Nanh Heo ngoài tự nhiên.
Số mũ b = 3,04 ≈ 3, điều đó có nghĩa là quần thể tăng trưởng đều. Dựa vào cặp chỉ số
TL và Wt có thể ghi nhận: Khi cá còn nhỏ TL < 9cm sinh trưởng về chiều dài nhanh
hơn sinh trưởng về trọng lượng; Khi TL = 9 – 10cm thì sự gia tăng về chiều dài và
trọng lượng có sự nhịp nhàng. Đến khi cá đạt chiều dài TL > 10cm thì có sự tăng
nhanh về trọng lượng.
29
1.66523734
1.727926945
1.689095781
1.63
1.64
1.65
1.66
1.67
1.68
1.69
1.7
1.71
1.72
1.73
1.74
Ftb (%) Tháng 3 Ftb (%) Tháng4 Ftb (%) Tháng 5
Tháng
Ft
b
Quá trình sinh trưởng này tuân theo qui luật phát triển chung của đa số các loài cá (I.
F. Pravdin, 1973), nghĩa là ở giai đoạn đầu trước khi thành thục sinh dục, cá chủ yếu
tăng nhanh về chiều dài, về sau chiều dài tăng chậm và trọng lượng tăng nhanh, khi cá
đạt kích cỡ gần tối đa thì trọng lượng và chiều dài tăng hầu như không đáng kể.
4.1.2 Xác định độ béo và độ mỡ của cá
4.1.2.1 Độ béo của cá
Độ béo thể hiện mức độ tích lũy dinh dưỡng của cá, nó thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển của cơ thể. Đặc biệt thay đổi theo sự phát triển của tuyến sinh dục và có ý
nghĩa quan trọng trong việc dự đoán thời gian đẻ trứng của cá, hệ số độ béo càng cao
thì thời gian đẻ trứng càng gần (I. F. Pravdin, 1973).
Bảng 4.1: Độ béo Fulton qua các tháng
Tháng thu mẫu Chiều dài chuẩn
(cm)
Trọng lượng có
nội quan (g)
Độ béo Fulton (%) Số mẫu
Tháng 3 4,47 – 9,50 4,18 – 37,07 3,82 ± 0,60 120
Tháng 4 5,11 – 11,83 5,50 – 59,32 3,82 ± 0,41 120
Tháng 5 6,09 – 9,80 8,69 – 37,26 3,85 ± 0,33 120
3,853,82
3,82
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
5
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng
Đ
ộ
bé
o
Fu
lto
n
(%
)
Hình 4.2: Độ béo Fulton của cá Nanh Heo qua các tháng
Bảng 4.2: Độ béo Clark qua các tháng
Tháng thu mẫu Chiều dài chuẩn
(cm)
Trọng lượng không
nội quan (g)
Độ béo Clark (%) Số
mẫu
Tháng 3 4,47 – 9,50 3,79 – 32,60 3,48 ± 0,53 120
Tháng 4 5,11 – 11,83 5,26 – 51,80 3,46 ± 0,38 120
Tháng 5 6,09 – 9,80 8,01 – 35,49 3,52 ± 0,29 120
30
3,48 3,46 3,52
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
4.5
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5
Tháng
Đ
ộ
bé
o
Cl
ar
k
(%
)
Hình 4.3: Độ béo Clark của cá Nanh Heo qua các tháng
Kết quả phân tích độ béo của cá Nanh Heo theo công thức Fulton và Clark thể hiện ở
Hình 4.2 và Hình 4.3 cho thấy: Độ béo trung bình cao nhất là vào tháng 5 (Fulton =
3,85%, Clark = 3,52%) và giảm dần qua các tháng sau, độ béo Fulton thấp nhất ở
tháng 3 (3,82%), độ béo Clark thấp nhất ở tháng 4 (3,46%). Điều này hợp lý khi kết
hợp với sự tương quan giữa chiều dài và trọng lượng được trình bài ở trên, nghĩa là ở
tháng 5 cá có sự tăng trưởng nhanh về trọng lượng.
Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), khi cá ở giai đoạn trưởng
thành có sự tích lũy vật chất dinh dưỡng phục vụ sự phát triển tuyến sinh dục, cho
những hoạt động di cư sinh sản của cá. Kết hợp với kết quả nghiên cứu về hệ số thành
thục và tỷ lệ thành thục của cá Nanh Heo được trình bài ở dưới cho thấy: Ở tháng 5 có
hệ số thành thục cao nhất (0,0021%), tỷ lệ thành thục cao nhất (27,5%) so với các
tháng còn lại. Như vậy, cá có sự tích lũy vật chất dinh dưỡng chuẩn bị cho quá trình
sinh sản.
4.1.2.2 Độ mỡ của cá
Độ mỡ (ball mỡ) của cá Nanh Heo được xác định theo bậc thang 6 bậc (từ bậc 0 đến
bậc 5) của Prozorovxkaia (được trích dẫn bởi Nikolsky, 1963) và được thể hiện qua
Bảng 4.3
Tháng 3 và tháng 4 ball mỡ chiếm tỷ lệ cao nhất ở bậc 3 (46,67%) và (41,67%), còn ở
tháng 5 ball mỡ chiếm tỷ lệ cao nhất ở bậc 5 (45,83%) và thấp nhất ở bậc 2 (0,83%).
Nghĩa là, khi cá thể còn non, cá tập trung vật chất dinh dưỡng cho quá trình tăng
trưởng về chiều dài hơn là trọng lượng. Khi cá bước vào giai đoạn trưởng thành, cá
tích lũy vật chất dinh dưỡng chuẩn bị cho quá trình thành thục sinh dục và quá trình
sinh sản. Điều này rất hợp lý với kết quả nghiên cứu về sự tương quan giữa chiều dài
31
và trọng lượng, kết quả nghiên cứu về độ béo được trình bày ở trên. Như vậy, độ mỡ
của cá Nanh Heo tăng theo sự phát triển của cơ thể.
Bảng 4.3: Sự thay đổi ball mỡ của cá Nanh Heo qua các tháng
Ball mỡ Tháng Bậc 0 Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4 Bậc 5 Số mẫu
Tháng 3 0 0 9,12% 46,67% 35,83% 8,33% 120
Tháng 4 0 0 6,67% 41,67% 33,33% 18,33% 120
Tháng 5 0 0 0,83% 25,83% 27,5% 45,83% 120
Tóm lại, độ béo và độ mỡ của cá Nanh Heo thay đổi theo kích thước và trọng lượng
cơ thể. Nói cách khác là cá lớn dần, độ béo và độ mỡ cũng tăng theo, khi cơ thể bắt
đầu bước vào quá trình thành thục thì chất dinh dưỡng tích lũy trong cơ thể cũng tăng
dần.
4.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Thức ăn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sống và tăng trưởng của sinh
vật. Nhờ hoạt động của hệ tiêu hóa mà các vật chất ding dưỡng từ môi trường ngoài
được chuyển vào cơ thể dưới dạng thức ăn nhằm cung cấp dinh dưỡng cho quá trình
trao đổi chất của cơ thể (Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010).
Khi nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá thì vấn đề tính ăn được chú ý nhiều. Có
nhiều cách để xác định tính ăn của cá, trong số đó thường được nhắc đến là: Cấu tạo
mang, miệng, hình thái ruột, và phân tích những loại thức ăn có trong cơ quan tiêu hóa
để nghiên cứu tính ăn của cá. Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh mối quan hệ khá
rõ ràng giữa hình thái cấu tạo cơ quan tiêu hóa với thành phần thức ăn của loài.
4.2.1 Hình thái giải phẫu hệ thống ống tiêu hóa cá Nanh Heo
Kết quả phân tích hệ thống ống tiêu hóa cá Nanh Heo (Botia modesta Bleeker, 1865)
cho thấy
Hệ thống tiêu hóa của cá Nanh Heo cũng đầy đủ các bộ phận như hầu hết các loài cá
khác. Cũng bắt đầu từ miệng và kết thúc là ruột thông qua ngoài qua hậu môn.
Miệng: Cá Nanh Heo có miệng dưới, nhỏ, rạch miệng ngắn (Hình 4.4).
Hình 4.4: Hình thái răng miệng cá Nanh Heo
32
Răng: Cũng giống như bộ Cypriniformes, cá Nanh Heo không có răng hàm, chỉ có
răng cửa, răng hầu, mặt răng nhám và không sắc nhọn (Hình 4.4).
Lược mang: Lược mang cá Nanh Heo cứng, nhọn, xếp thưa trên xương cung mang
hướng vào xoang miệng hầu. Ở cung mang thứ nhất có 22 – 28 lược mang.
Hình 4.5: Hình thái lược mang cá Nanh Heo
Thực quản: Là phần nối tiếp xoang miệng hầu. Thực quản ngắn, có vách dày, mặt
trong thực quản có ít nếp gấp.
Dạ dày: Là phần nối tiếp thực quản, dạ dày có hình chữ J, vách dày, có nhiều nếp gấp
nên có thể co giản được.
Hình 4.6: Hình thái ngoài dạ dày cá Nanh Heo
Ruột: Là đoạn cuối của ống tiêu hóa, có chức năng tiêu hóa thức ăn và hấp thu chất
dinh dưỡng. Ruột cá Nanh Heo ít nếp gấp, ngắn, có vách dày (Hình 4.7).
Hình 4.7: Hình thái ngoài ruột cá Nanh Heo
33
Kết quả xác định hình thái, cấu tạo hệ thống tiêu hóa sơ bộ có thể nhận xét cá Nanh
Heo là loài ăn động vật.
4.2.2 Tính ăn
4.2.2.1 Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân
Một chỉ số thường sử dụng để xác định tính ăn của cá là chỉ số tương quan giữa chiều
dài ruột và chiều dài thân. Theo Alikunhi và Rao (1951), được trích dẫn bởi Phạm
Phương Loan (2006), chiều dài ống tiêu hóa của các loài ăn động vật phụ thuộc vào
loại thức ăn tự nhiên mà chúng tiêu thụ, chiều dài ống tiêu hóa tăng theo sự gia tăng tỉ
lệ các loại thức ăn thực vật trong khẩu phần ăn của cá.
Bảng 4.4: Sự biến thiên tỷ lệ Li/L0 theo kích thước cá Nanh Heo (n = 360)
Các chỉ tiêu đo Trung bình Min Max
Chiều dài tổng (cm) 9,30 ± 1,24 6,51 15,80
Chiều dài ruột (cm) 8,40 ± 1,29 5,48 13.11
Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài tổng (RLG) 0,90 ± 0,01 0,84 0,83
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 4.4 cho thấy tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài
thân cá Nanh Heo RLG (Relative Length of Gut) là 0,90.
Theo nhận định của Nikolsky (1963), những loài cá có tính ăn thiên về động vật sẽ có
giá trị Li/L0 ≤ 1, cá ăn tạp có Li/L0 = 1 – 3, và cá ăn thiên về thực vật Li/L0 ≥ 3. Khi
đối chiếu với kết quả nghiên cứu ở trên RLG = 0,90 có thể kết luận rằng cá Nanh Heo
thuộc loài cá ăn động vật.
4.2.2.2 Phương pháp tần số xuất hiện
Phương pháp tần số xuất hiện bằng cách xác định các loại thức ăn hiện diện trong ống
tiêu hóa cá. Phương pháp này cho phép định tính thành phần thức ăn và tần số xuất
hiện của mỗi loại thức ăn trong số mẫu quan sát, giúp ta suy đoán được tính lựa chọn
thức ăn của cá.
Sau khi xử lý và phân tích 360 mẫu cá Nanh Heo với kích cỡ cá từ TL = 6,51 –
15,8cm, và trọng lượng Wt = 4,18 – 59,32g thu ngẫu nhiên ngoài tự nhiên. Kết quả
phân tích theo phương pháp tần số xuất hiện cho thấy thành phần thức ăn trong ống
tiêu hóa cá Nanh Heo không có sự khác biệt rõ rệt, và được thể hiện qua Bảng A1
(Phụ lục A) và Hình 4.8
Kết quả phân tích thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Nanh Heo theo
phương pháp tần số xuất hiện được trình bày ở Bảng A1 và Hình 4.8 cho thấy trong dạ
dày cá Nanh Heo có các loại thức ăn là: Hai mãnh vỏ, giáp xác, giun, ấu trùng côn
trùng, ốc, và thức ăn không xác định được thành phần. Trong số các loại thức ăn trên,
thức ăn là hai mãnh vỏ có tần số xuất hiện cao nhất (72,50%), ấu trùng côn trùng
(58,89%), các loại thức ăn không xác định được (21,94%), kế đó giun, giáp xác và ốc
với tỷ lệ lần lượt là (17,22%), (13,33%) và (6,94%). Ngoài ra, khi phân tích thành
34
phần thức ăn trong ống tiêu hóa còn thấy một ít cát, sỏi nhỏ hòa lẫn với thức ăn, đây
chỉ là thức ăn ngẫu nhiên mà trong quá trình bắt mồi cá ăn phải.
72,50
13,33
17,22
58,89
6,94
21,94
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Hai mãnh võ Giáp xác Giun Ấu trùng côn
trùng
Ốc Không xác
định Loại thức ăn
Tầ
n
số
x
u
ất
hi
ện
(%
)
Hình 4.8: Tần số xuất hiện các loại thức ăn cá Nanh Heo
Ốc hiện diện trong ống tiêu hóa cá với tần số thấp (6,94%), đây không phải là thức ăn
ưa thích của loài.
Giáp xác xuất hiện trong ống tiêu hóa cá với tần số (13,33%), chủ yếu là các loài giáp
xác nhỏ như tôm, tép. Loại thức ăn này hiện diện trong dạ dày cá Nanh Heo dưới dạng
một phần của cơ thể.
Thức ăn không xác định được thành phần chiếm tỷ lệ khá cao (31,94%), loại thức ăn
này đã bị tiêu hóa một phần, không thể xác định được là loại thức ăn gì. Qua kết quả
quan sát có thể suy đoán đây là thịt giáp xác, thịt hai manh vỏ đang bị phân hủy và
mùn bã hữu cơ.
Thức ăn là ấu trùng côn trùng hiện diện trong ống tiêu hóa của cá với tần số xuất hiện
khá cao (58,89%) bao gồm ấu trùng chuồn chuồn, ấu trùng muỗi, bọ gạo, kiến.
Thức ăn là hai mãnh vỏ xuất hiện trong ống tiêu hóa cá với tần số xuất hiện cao nhất
(72,50%), loại thức ăn này thường xuất hiện trong dạ dày của cá dưới dạng cả vỏ và
thịt, một phần vỏ và thịt, và bắt đầu bị phân hủy. Khi kết hợp với quan sát hệ thống
tiêu hóa, tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân, có thể kết luận rằng cá
Nanh Heo là loài ăn động vật. Kết quả này phù hợp với A.F. Poulsen et al (2004) và
Eric Baran et al (2007).
4.2.2.3 Phương pháp số lượng
Theo Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định (2004), trong phương pháp này số lượng
của mỗi loại thức ăn sẽ được ghi nhận và được tính thành phần phần trăm trên tổng số
35
các loại thức ăn hiện diện trong dạ dày. Thành phần số lượng của mỗi loại thức ăn
trong dạ dày cá Nanh Heo được thể hiện qua Bảng A2 (Phụ lục A).
1,810,52
30,72
1,871,11
63,97
0
10
20
30
40
50
60
70
Hai mãnh võ Giáp xác Giun Ấu trùng côn
trùng
Ốc Không xác
định
Loại thức ăn
Số
lư
ợ
n
g
th
ứ
c
ă
n
(%
)
Hình 4.9: Thành phần số lượng các loại thức ăn cá Nanh Heo
Bảng A2 (Phụ lục A) và Hình 4.9 cho thấy, hai manh vỏ chiếm tỉ lệ cao nhất (63,97%)
kế đến là ấu trùng côn trùng (30,72%), giun (1,87%), không xác định (1,81%), giáp
xác (1,11%) và thấp nhất là ốc (0,52%). Điều này cho thấy hai mãnh vỏ và ấu trùng
côn trùng là thức ăn quan trọng cho cá Nanh Heo
4.2.2.3 Kết hợp phương pháp tần số xuất hiện và phương pháp số lượng
Kết quả phân tích thức ăn trong ống tiêu hóa của cá Nanh Heo theo phương pháp kết
hợp giữa tần số xuất hiện và phương pháp số lượng được trình bày ở Bảng A3 (Phụ
lục A) và Hình 4.10
0,490,23
27,67
0,06
70,94
0,61
Hai mãnh võ
Giáp xác
Giun
Ấu trùng côn trùng
Ốc
Không xác định
Hình 4.10: Phổ thức ăn của cá Nanh Heo
36
Phương pháp này cũng cho kết quả tương tự, nghĩa là hai mãnh vỏ vẫn chiếm tỷ lệ cao
nhất (70,94%) trong ống tiêu hóa, kế đến là ấu trùng côn trùng (27,67%). Điều này
phù hợp với nhận định của A.F. Poulsen et al (2004) và Eric Baran et al (2007), cá
Nanh Heo là loài ăn động vật, thức ăn chủ yếu nhuyễn thể, ấu trùng côn trùng, giun và
giáp xác.
Theo Nikolxki (1963), thức ăn ưa thích là loại thức ăn mà cá thường xuyên sử dụng và
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong khối lượng thức ăn mà cá ăn vào. Hai mãnh vỏ luôn xuất
hiện với tần số cao nhất (70,94%), như vậy thức ăn ưa thích của cá Nanh Heo là hai
mãnh vỏ.
Thức ăn tự nhiên của cá phụ thuộc rất nhiều yếu tố, có những yếu tố quyết định như
cấu trúc ống tiêu hóa của cá, sinh vật ở môi trường ngoài và các giai đoạn phát triển
khác nhau của cá. Kết quả quan sát hình thái giải phẫu ống tiêu hóa, kết hợp chỉ số
RLG (RLG = 0,90) có thể khẳng định rằng: Cá Nanh Heo (Botia modesta Bleeker,
1865) có trọng lượng 4,18g và chiều dài 6,51cm trở lên là loài ăn đông vật, thức ăn ưa
thích của chúng hai mãnh vỏ.
4.3 Đặc điểm sinh sản
4.3.1 Xác định giới tính
Các dấu hiệu sinh dục phụ của cá Nanh Heo thể hiện không rõ ràng nên khó xác định
giới tính bằng các đặc điểm hình thái bên ngoài. Khi cá Nanh Heo thành thục thì màu
sắc trên vi có sự thay đổi, cá thành thục có màu đỏ đậm đến đỏ huyết, cá thể non có
màu đỏ cam. Kết quả giải phẫu của nhiều mẫu cá Nanh Heo để quan sát tuyến sinh
dục và kết hợp với quan sát hình thái bên ngoài của cá Nanh Heo đực và cái cho thấy
rằng, có một vài đặc điểm có thể xác định được giới tính của cá, sự xác định này có độ
chính xác cao trong mùa sinh sản của cá. Các đặc điểm hình thái bên ngoài của cá
Nanh Heo khi thành thục có thể mô tả như sau
Cá Nanh Heo đực thường nhỏ hơn và thon dài hơn cá cái.
Cá Nanh Heo cái có tuyến sinh dục phát triển thường có bụng to tròn hơn cá đực.
37
♂
♀
Hình 4.11: Hình dạng ngoài cá Nanh Heo đực và cái
Buồng trứng cá Nanh Heo hình dẹp bên, màu vàng nâu, có nhiều mạch máu. Đoạn
cuối của buồng trứng kết hợp với nhau và dẫn ra ngoài qua lỗ huyệt thông qua ống
dẫn trứng.
Buồng tinh có hai nhánh hình ống tròn dài, bên ngoài được bao phủ bởi lớp màng
mỏng. Một đầu dính vào lỗ sinh dục, một đầu tự do nằm trong xoang nội quan.
Hình 4.12: Buồng tinh cá Nanh Heo Hình 4.13: Buồng trứng cá Nanh Heo
4.3.2 Đặc điểm hình thái tuyến sinh dục cá Nanh Heo đã bắt gặp
Theo Xakun và N.A.Buskaia (1982), tinh sào có 6 giai đoạn phát triển tương tự như
noãn sào. Qua kết quả quan sát trực tiếp đặc điểm hình thái tuyến sinh dục đực của cá
Nanh Heo trong suốt thời gian thu mẫu, tinh sào có những đặc điểm của 3 giai đầu
phát triển và trong mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng, có thể mô tả tóm tắt qua
Bảng 4.5
38
Bảng 4.5: Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của cá Nanh Heo đực đã bắt gặp
Giai đoạn thành thục Đặc điểm các giai đoạn thanh thục sinh dục đực
Giai đoạn I Tinh sào như hai sợ chỉ nằm sát xương sống sau bóng hơi.
Giai đoạn II Tinh sào vẫn dạng hai sợi mỏng dẹp, dài, có màu hồng nhạt và
gia tăng kích thước.
Giai đoạn III Tinh sào có màu trắng phớt hồng, cuối giai đoạn có màu trắng
ngà.
Đối với cá cái, buồng trứng có 6 giai đoạn phát triển theo Kixelevits (được trích dẫn
bởi Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009). Trong thời gian thu mẫu, buồng
trứng có những đặc điểm của 4 giai đoạn đầu phát triển và được thể hiện qua Bảng 4.6
Bảng 4.6: Các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của cá Nanh Heo cái đã bắt gặp
Giai đoạn thành thục Đặc điểm các giai đoạn thanh thục sinh dục đực
Giai đoạn I Buồng trứng như hai sợ chỉ màu hồng nhạt, nằm dọc hai bên
xương sống.
Giai đoạn II Buồng trứng có dạng dẹp bằng, màu hồng nhạt, kích thước lớn
hơn nhiều so với giai đoạn I.
Giai đoạn III Trọng lượng buồng trứng tăng nhanh, có thể nhìn thấy hạt
trứng, có màu vàng nâu.
Giai đoạn IV Trọng lượng buồng trứng lớn (chiếm 2/3 thể tích xoang bụng),
buồng trứng có màu vàng nâu đậm, các hạt trứng tròn, dễ tách
khỏi tấm sinh trứng.
Kết quả khảo sát về sự biến đổi tỷ lệ thành thục sinh dục của cá Nanh Heo được trình
bày ở Bảng 4.5 và Bảng 4.6 cho thấy: Trong suốt thời gian thu mẫu luôn gặp những cá
thể chưa thành thục sinh dục (tuyến sinh dục ở giai đoạn I - II), chiếm tỷ lệ khá cao ở
tháng 3 (95%), tỷ lệ thành thục sinh dục rất thấp (5%) và chủ yếu ở giai đoạn III. Từ
tháng 4 đến tháng 5 tỷ lệ thành thục tăng dần, lần lượt là (11,67%) và (27,5%), cá có
tuyến sinh dục ở giai đoạn IV cũng tăng dần. Hơn nữa, trong cùng một thời điểm thu
mẫu thì tỷ lệ cá Nanh Heo cái luôn cao hơn cá Nanh Heo đực (Hình 4.15).
27,50
11,67
5,00
0
5
10
15
20
25
30
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5
Tháng
Tỷ
lệ
th
àn
h
th
ụ
c
(%
)
Hình 4.14: Tỷ lệ thành thục của cá Nanh Heo qua các tháng thu mẫu
39
4.3.3 Tỷ lệ đực cái trong quần đàn
Xác định sự biến động về tỷ lệ đực cái cũng là một chỉ tiêu cần thiết để dự đoán khả
năng phát triển quần đàn trong tự nhiên (I. F. Pravdin, 1973).
6,67
3,33
0,83
20,83
8,33
4.17
0
5
10
15
20
25
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng
Tầ
n
s
ố
(%
)
Đực
cái
Hình 4.15: Tỷ lệ đực cái cá Nanh Heo qua các tháng thu mẫu
10,76
10,32
11,07 10,83
12,50
11,39
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5
Tháng
Ch
iề
u
dà
i t
ru
n
g
bì
n
h
(cm
)
Đực
cái
Hình 4.16: Chiều dài trung bình cá Nanh Heo đực và cái qua các tháng thu mẫu
40
20,1719,7820,41
23,81
32,97
26,27
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng
Kh
ố
i l
ư
ợ
n
g
tr
u
n
g
bì
n
h
(g
)
Đực
cái
Hình 4.17: Khối lượng trung bình cá Nanh Heo đực và cái qua các tháng thu mẫu
Kết quả thống kê 3 đợt thu mẫu cá Nanh Heo có tỷ lệ đực cái được trình bày qua Hình
4.15 cho thấy: Trong đàn cá Nanh Heo thì cá cái chiếm tỷ lệ cao hơn cá đực và cá cái
chiều dài và khối lượng lớn hơn con đực (Hình 4.16 và Hình 4.17). Điều này cũng phù
hợp với quy luật chung là đa số các loài cá, con cái thường có kích thước lớn hơn con
đực trong cùng thời gian phát triển (I. F. Pravdin, 1973).
4.3.4 Sự biến đổi hệ số thành thục (GSR) của cá Nanh Heo theo thời gian
Hệ số thành thục là một trong các chỉ số để xác định mùa vụ sinh sản và là một trong
những điều kiện cần thiết để nhận biết mức độ chín muồi sản phẩm sinh dục (I. F.
Pravdin, 1973).
0,07
0,15
0,21
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng
G
SR
(%
) tr
u
n
g
bì
n
h
Hình 4.18: Hệ số thành thục GSR trung bình qua các tháng thu mẫu của cá Nanh Heo
Kết quả theo dõi sự thành thục ở 360 mẫu của cá Nanh Heo qua các tháng 3, tháng 4
và tháng 5 (Hình 4.18) cho thấy hệ số thành thục trung bình của cá Nanh Heo tương
đối thấp và tăng dần từ tháng 3 đến tháng 5, cao nhất ở tháng 5 (0,21%). Kết hợp kết
quả nghiên cứu sự tương quan về chiều dài và trọng lượng với nghiên cứu độ béo
41
Fulton và Clark được trình bày ở trên, độ béo tăng từ tháng 3 đến tháng 5 và cao nhất
vào tháng 5 (Fulton = 3,85%, Clark = 3,52%) chứng tỏ mùa vụ sinh sản cá Nanh Heo
đang đến gần.
4.3.5 Sức sinh sản
Sức sinh sản của cá phụ thuộc vào điều kiện môi trường sống (nhất là điều kiện dinh
dưỡng và điều kiện nhiệt độ), vào tập tính sinh sản của cá, những loài cá có trứng nhỏ,
lượng noãn hoàng ít và những loài không có tập tính bảo vệ trứng, không bảo vệ con
có sức sinh sản cao, những loài cá kích thước trứng lớn và có tập tính bảo vệ trứng và
con sẽ có sức sinh sản thấp (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Sức sinh sản tương đối và tuyệt đối khi quan sát và đếm trên 5 mẫu cá Nanh Heo được
thể hiện qua Bảng 4.7
Bảng 4.7: Sức sinh sản tuyệt đối và sức sinh sản tương đối của cá Nanh Heo
STT Khối lượng
thân (g)
Khối Lượng
buồng trứng (g)
Sức sinh sản tuyệt đối
F (trứng/cá thể)
Sức sinh sản tương
đối (trứng/g cá)
1 35,34 2,13 1136 32
2 59,32 4,05 2083 35
3 37,26 1,99 809 22
4 28,29 1,03 666 24
5 20,42 0,35 277 14
TB 36,13 ± 14,56 1,91 ± 1,40 994±682 25±9
Qua Bảng 4.7 cho thấy sức sinh sản của cá Nanh Heo tăng dần theo khối lượng cơ thể,
sức sinh sản cao nhất ở cá thể có khối lượng 59,32g (sức sinh sản tuyệt đối 2083
trứng/cá thể, sức sinh sản tương đối 35 trứng/g cá) và thấp nhất ở cá thể có khối lượng
20,42g (sức sinh sản tuyệt đối 277 trứng/cá thể, sức sinh sản tương đối 14 trứng/g cá).
Bảng 4.8: Sức sinh sản tương đối của một số loài cá trong bộ cá chép
STT Loài cá Sức sinh sản tương đối
(trứng/g cá)
Tác giả
1 Cá Mè Vinh 200 – 300 Lê Như Xuân và csv, 2000
2 Cá Mè Trắng 75 – 100 Lê Như Xuân và csv, 2000
3 Cá Trắm Cỏ 50 – 244 Lê Như Xuân và csv, 2000
4 Cá Rohu 150 – 300 Lê Như Xuân và csv, 2000
5 Cá Chép 100 – 150 Lê Như Xuân và csv, 2000
Kết quả qua Bảng 4.8 cho thấy sức sinh sản của cá Nanh Heo tương đối thấp so với
các loài cá Mè Vinh, cá Mè Trắng, cá Trắm Cỏ, cá Rohu và cá Chép.
Như vậy, sức sinh sản của cá Nanh Heo thấp, sức sinh sản tuyệt đối nằm trong khoảng
từ 300 – 2000 trứng/cá thể, sức sinh sản tương đối khoảng 14 – 35 trứng/g cá.
42
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cá Nanh Heo từ tháng 3/2011 đến
tháng 5/2011 tại An Giang có thể rút ra một số kết luận sau
Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng của cá Nanh Heo có dạng phương
trình W = 0,0156L3,0358, với hệ số tương quan R2 = 0,93.
Cá Nanh Heo tích lũy vật chất dinh dưỡng chuẩn bị cho quá trình sinh sản, độ
béo cao nhất ở tháng 5 (Fulton = 3,85%, Clark = 3,52%). Ball mỡ cao nhất (bậc
5) ở tháng 5 (45,83%).
Cá Nanh Heo là loài ăn động vật, trong đó hai mãnh vỏ là thức ăn ưa thích của
chúng. Hệ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân RLG = 0,90.
Trong thời gian nghiên cứu đã thu được cá Nanh Heo thành thục sinh dục,
buồng trứng ở giai đoạn IV (Wt = 20,42g, LT = 10,42cm), buồng tinh ở giai
đoạn III (Wt = 19,44g, LT = 10,13cm).
Trong cùng một mẫu thu của cá Nanh Heo thì con cái có chiều dài và trọng
lượng lớn hơn con đực.
Hệ số thành thục sinh dục (GSR) thấp, cao nhất ở tháng 5 (GSR = 0,21%). Sức
sinh sản tương đối thấp, trung bình 25 trứng/g cá tương ứng với khối lượng
trung bình 36,13g.
5.2 Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu những tháng còn lại trong năm để có đủ dẫn liệu về đặc điểm sinh
học cá Nanh Heo (Botia modesta Bleeker, 1865). Đặc biệt là tiếp tục theo dõi quá
trình thành thục của cá Nanh Heo trong thời gian tiếp theo (từ tháng 5 trở đi) nhằm
xác định mùa vụ sinh sản.
43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Đặng Văn Giáp, 1997. Phân tích dữ liệu khoa học bằng chương trình MS - Excel. Nhà
xuất bản Giáo Dục.
Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Văn Tư, 2010. Một số vấn đề sinh lý cá và giáp xác.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Lê Như Xuân, Phạm Minh Thành, Nguyễn Văn Kiểm, Nguyễn Văn Bé, Dương Trí
Dũng, Nguyễn Văn Thường, Nguyễn Quang Thủy, Từ Thanh Dung, 1994. Kỹ
thuật nuôi cá nước ngọt. Sở khoa học và công nghệ môi trường An Giang.
Nguyễn Tường Anh, 2005. Kỹ thuật sản xuất giống một số loài cá nuôi. Nhà xuất bản
Nông Nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch
Loan, 1992. Định loại các loài cá Nam Bộ. Nhà xuất bản Khoa Học và Kỹ
Thuật.
Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất
cá giống. Nhà xuất bản Nông Nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004. Phương pháp nghiên cứu sinh học cá. Tủ
sách Đại Học Cần Thơ.
Phạm Phương Loan, 2006. Nghiên cứu đặc điểm sinh học cá Leo (Wallago attu) tại
An Giang. Luận văn cao học. Trường Đại Học Cần Thơ.
Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản.
Nhà xuất bản Nông Nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ.
VASEP, 19/03/2010. Thương mại thủy sản. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản
Việt Nam.
Tài liệu dịch
Nikolsky. G.V, 1963. Sinh thái học cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Tài liệu do Phạm
Minh Trang dịch.
Pravdin. I.F, 1973. Hướng dẫn nghiên cứu cá. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà
Nội. Tài liệu do Phạm Minh Giang dịch.
Xakun và N.A.Buskaia, 1982. Xác định các giai đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ
sinh dục của cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Tài liệu do Lê Thanh Lựu dịch.
Tiếng Anh
Biswas. S.P, 1993. Manual of Methods in Fish Biology. South Asian Publishers, Pvt
Ltd, New Delhi.
Eric Baran, So Sophort, Yumiko Kura and Blake Patner, 2007. Kingdom of
Cambodia: Study of the Influence of Built Structures on the Fisheries of the
Tonle Sap (Fincenced by the Government of Finland). Submitted by WorldFish
Center. Phnom Penh, Cambodia.
Poulsen. A. F, K.G. Hortle, J. Valbo-Jorgensen, S. Chan, C.K.Chhuon, S.Viravong,
K. Bouakhamvongsa, U. Suntornratana, N. Yoorong, T.T. Nguyen, and B.Q.
Tran, 2004. Distribution and Ecology of Some Important Riverine Fish Species
of the Mekong River Basin. Mekong River Cocmission.
44
Schreck. C.B, and Moyle. P.B, 1990. Hethods for fish Biology. American Fisheries
Society, USA.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvhtphat_3934.pdf