Đưa ra được mô hình Proxy động có khả năng ứng dụng được vào thực tế. Mô hình
này được xây dựng dựa trên khái niệm về Agent và các ứng dụng liên quan đến nó. Mô
hình bao gồm hai thành phần chính là Proxy và Server. Proxy làm nhiệm vụ cầu nối trung
gian giữa Client và Server, có chức năng cơ bản là truyền tải yêu cầu từ phía Client đến
cho Server và đưa thông tin trả lời từ Server về cho Client.
50 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2534 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu mô hình phân tải server sử dụng proxy động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
8
2.1.2. FIPA (Foundation for Intelligent, Physical Agents)
Phần này sẽ giới thiệu một cách tổng quát về lịch sử phát triển và nội dung chính
của các đặc tả FIPA. Tập hợp đầy đủ các đặc tả của FIPA có thể được tìm thấy trên trang
web chính thức của FIPA [17].
Jade là sự thi hành của các đặc tả FIPA vì thế nó phụ thuộc lớn vào các ý tưởng
được đưa ra trong các đặc tả và được mở rộng dựa trên chính các văn bản đi kèm. Tuy
nhiên các đặc tả FIPA không được thể hiện hoàn toàn ở trong Jade vì Jade có mở rộng
thêm ở một số khu vực so với các đặc tả.
2.1.2.1. Lịch sử phát triển
FIPA được thành lập năm 1996 như là một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế với mục
tiêu phát triển tập hợp các chuẩn liên quan đến công nghệ phần mềm Agent. Các thành
viên ban đầu, tập hợp của các tổ thức nghiên cứu và công nghiệp, đưa ra một tập hợp các
quy chế hướng dẫn sản xuất cho một tập hợp các đặc tả chuẩn de jure [2] dành cho công
nghệ phần mềm Agent. Ở thời điểm này, các phần mềm Agent đã được biết đến rộng rãi
trong giới khoa học nhưng nhận được rất ít sự quan tâm của các tổ chức thương mại.
Những người đứng đầu đã đồng ý cho sản xuất các chuẩn có thể tạo ra một nền tảng cứng
của một kỹ thuật mới bằng cách sử dụng chéo một lượng lớn các ứng dụng.
Cốt lỗi của FIPA sẽ theo tập hợp các nguyên lý:
- Các Công nghệ Agent cho phép một mô hình mới để giải quyết các vấn đề cũ và
mới.
- Các công nghệ Agent sẽ tiến đến cấp độ trưởng thành lớn.
- Để sử dụng được, các công nghệ Agent cần phải có đặc tả.
- Đặc tả của công nghệ tiến hoá được đưa ra để hỗ cung cấp các kết quả thu được
bởi đặc tả fora.
- Đặc tả của cơ chế bên trong các Agent không phải mối quan tâm chính, mà là cơ
sở hạ tầng và ngôn ngữ yêu cầu cho khả năng phối hợp mở.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
9
2.1.2.2. Các khái niệm cốt lõi
Trong suốt quá trình phát triển của FIPA, rát nhiều các ý tưởng liên quan đến Agent
đã được đưa ra. Nhiều ý tưởng đã tiến tới việc thực hiện sau khi được đưa ra thành các
chuẩn, một vài ý tưởng vẫn đang được phát triển nhưng chưa hoàn thành, và có những cái
khác đã thật bại vì một hoặc nhiều lý do. Trong tất cả các ý tưởng đó, những phần quan
trọng nhất là truyền thông Agent, quản lý Agent và kiến trúc Agent. Phần này sẽ giới
thiệu về hai trong số ba phần quan trọng nhất đó.
2.1.2.2.1. Truyền thông Agent (agent communication)
Agent về cơ bản là hình thái của quá trình phân phối mã nguồn và do đó tuân theo
khái niệm cổ điển của mô hình phân phối tính toán theo hai phần: các thành phần và các
kết nối. Các thành phần là những khách hàng, những nhà sản xuất và những người điều
hành của các thông điệp truyền thông thông qua các kết nối. Phần thân của các chuẩn đầu
tiên như là ISO hay IETF lựa chọn một cách tiếp cận hướng mạng trong việc phát triển
các cụm các giao thức được phân lớp dựa phần lớn trên truyền thông máy tính chúng ta đã
biết – mô hình OSI và mô hình TCP/IP. Cả hai đều được tận dụng thông qua giao tiếp
giữa các phần mềm ứng dụng giao thức.
2.1.2.2.2. Quản lý Agent (Agent management)
Để bổ sung cho truyền thông, khía cạnh cơ bản thứ hai của các hệ thống Agent được
tạo ra bởi các đặc tả ban đầu của FIPA là quản lý Agent: một nền tảng chuẩn trong đó các
chuẩn FIPA cho Agent có thể tồn tại, tổ chức và quản lý. Nó thành lập cá mô hình lôgíc
tham chiếu cho việc khởi tạo, đăng ký, xác định vị trí, di trú và tổ chức các Agent. Mô
hình tham chiếu quản lý Agent bao gồm các thành phần được miêu tả như hình 2.1.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
10
Hình 2.1: Quản lý Agent
2.2. Nền tảng JADE
Phần này sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan cơ bản về nền tảng JADE (Java Agent
Development framework) và các thành phần chính trong kiến trúc phân phối của nó.
2.2.1. Lịch sử phát triển
Phầm mềm phát triển đầu tiên, về sau sẽ trở thành nền tảng JADE, được bắt đầu bởi
Telecom Italia (được gọi tắt là CSELT) vào cuối năm 1998, được thúc đẩy bởi nhu cầu
cần kiểm chứng các đặc tả đầu tiên của FIPA.
JADE được trở thành mã nguồn mở trong năm 2000 và được phân phối bới Telecom
Italia dưới giấy phép LGPL ( Library Gnu Public Licence). Giấy phép này đảm bảo tất cả
các quyền cơ bản để thuận tiện cho việc sử dụng phần mềm bao gồm trong các sản phẩm
thương mại: quyền được sao chép phần mềm và phân phối bản sao chép, quyền được sử
dụng mã nguồn của phần mềm, và quyền thay đổi mã nguồn và cải tiến nó. Không giống
như giấy phép GPL, giấy phép LPGL không đưa bất kỳ sự hạn chế nào và phần mềm sử
dụng JADE, và nó cho phép các phần mềm độc quyền được trộn vẫn với phần mềm đăng
ký giấy phép LGPL. Mặt khác, giấy phép này yêu cầu mọi công việc bắt nguồn từ JADE,
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
11
hoặc bất kỳ công việc nào dựa trên nó đều phải được đưa ra cộng đồng với cùng giấy
phép.
Website chính thức của JADE [16] cung cấp tất cả các phần mềm, tài liệu, mã nguồn
ví dụ và các thông tin về sử dụng JADE.
2.2.2. Jade và mô hình các Agent
JADE là một phần mềm nền tảng cung cấp các chức năng phần mềm lớp giữa cơ
bản, nó không phụ thuộc vào ứng dụng riêng biệt nào và làm đơn giản hoá việc phân phối
các ứng dụng khai thác phần mềm ảo hoá Agent [10]. Một trong những giá trị đầy ý nghĩa
của JADE là nó thực hiện trừu tượng hóa dựa trên sự hiểu biết về hướng đối tượng, Java,
cung cấp API đơn giản và thân thiện. Các lựa chọn thiết kế đơn giản về sau chịu ảnh
hưởng từ việc trừu tượng hoá Agent.
2.2.3. Kiến trúc Jade
Hình 2.2 miêu tả các nhân tố kiến trúc chính của nền tảng JADE. Một nền tảng
JADE bao gồm các vùng chứa Agent (container) có thể được phân phối qua mạng. Các
Agent sống trong các vùng chứa là các quá trình Java, nó cung cấp quá trình thực thi của
JADE và tất cả các dịch vụ cần thiết cho lưu trữ và thực thi Agent. Một vùng chứa đặc
biệt, được gọi là vùng chưa chính (Main-container), là nơi khởi động của nền tảng: nó là
vùng chưa đầu tiên được thực thi và tất cả các vùng chưa khác phải được liên kết đến
vùng chưa chính bằng cách đăng ký với nó. Biểu đồ UML trong hình 2.3 miêu tả mối
quan hệ giữa các thành phần kiến trúc chính của JADE.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
12
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa các thành phần trong kiến trúc chính
Hình 2.3: UML mối quan hệ giữa các thành phần trong kiến trúc chính
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
13
2.2.4. Biên dịch và chạy nền tảng Jade
Tất cả các phần mềm liên quan đến JADE đều có thể tải về từ trang web chính thức
của JADE. Các phần mềm liên quan đến JADE có thể chia thành hai loại: bản phân phối
chính và các bản phụ trợ. Các bản phụ trợ trong mỗi bản riêng biệt đều có chứa các đơn vị
(module) thực thi các phần mở rộng riêng biệt như các mã hoá cho ngôn ngữ. Trong nhiều
trường hợp, các bản này không được phát triển trực tiếp bởi đội ngũ phát triển của JADE
mà là các thành viên của cộng đồng nguồn mở, những người quyết định đưa các thành
quả nghiên cứu của mình lên cho cộng đồng cùng xem.
Bản phân phối chính bao gồm năm file đã được nén là:
- jadeBin.zip chứa một file jar là nền tảng JADE đã được biên dịch và sử dụng được
ngay
- jadeDoc.zip chứa các tài liệu bao gồm: Hướng dẫn cho người quản trị
(Administrator Guide), Hướng dẫn cho người lập trình (Programmer Guide). Các tài liệu
này cũng có thể tải về từ trang web chính thức của JADE
- jadeExamples.zip chứa các mã nguồn của rất nhiều ví dụ
- jadeSrc.zip chứa tất cả các mã nguồn của JADE
- jadeAll.zip chứa tất cả 4 file nói trên
Nếu tất cả các file trên được tải xuống và giải nén thì cấu trúc thư mục sẽ giống như
miêu tả ở hình 2.4.
Thư mục jade/lib chứa tất cả các file jar cần phải được khai báo vào java
CLASSPATH để chạy JADE.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
14
Hình 2.4: Cấu trúc thư mục JADE
Ví dụ, khi đã tải về ổ C trong hệ điều hành Windows, để chạy được JADE, trước hết
cần khai bao CLASSPATH cho java như sau:
prompt> set JADE_HOME=c:\jade
prompt> set CLASSPATH=%JADE_HOME%\lib\jade.jar;
%JADE_HOME%\lib\jadeTools.jar;
%JADE_HOME%\lib\http.jar;
%JADE_HOME%\lib\iiop.jar;
%JADE_HOME%\lib\commons-codec\commons-codec-
1.3.jar;%JADE_HOME%\classes
Sau đó có thể khởi động JADE với đồ hoạ bằng cách sử dụng lệnh:
prompt> java jade.Boot –gui
Sau khi khởi động thành công, màn hình dòng lệnh sẽ hiển thị thông báo giống như
hình 2.5 và đồ hoạ của JADE sẽ hiện ra giống như hình 2.6.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
15
Hình 2.5: Kết quả khi khời động thành công
Hình 2.6: Giao diện nền tảng JADE
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
16
2.2.5. Agent di động (Mobile Agent)
Agent di động [9] là mô hình được xuất phát từ hai quy tắc khác nhau [4], đầu tiên
là trí thông tinh nhân tạo, thứ tạo ra khái niệm agent, thứ hai là hệ thống phân tán, thứ
định nghĩa khái niệm về dịch chuyển mã [6].
Dựa theo định nghĩa chuẩn, Agent di động là một một agent giống như tất cả các
agent không di động khác (tự quản, phản ứng hành động, thực hiện tiên phong, có tính xã
hội), nhưng thêm vào đó, nó có khả năng di chuyển; nó có khả năng di trú giữa các nền
tảng theo yêu cầu để thực hiện các công việc được giao.
Theo cách nhìn từ hệ thống phân tán, một Agent di dộng là một chương trình với
định danh duy nhất có thể dịch chuyển mã, dữ liệu và trạng thái giữa các máy được nối
mạng. Để thực hiện được điều đó, một Agent phải có khả năng dừng công việc của nó ở
bất kỳ thời điểm nào, và tiếp tục hoạt động khi đã cư trú ở nơi khác.
Chúng ta có thể đặt Agent di động trong mối quan hệ với các mô hình truyền thống
như sau:
- Client –Server: Mô hình phổ biến nhất, ở đó các dịch vụ được Server đưa ra và
được sử dụng bởi một hoặc nhiều Client.
- Thực thi từ xa: Một thành phần gửi mã đến thành phần khác để thực thi từ xa, kết
quả đưa ra hoặc từ quyết định của chính nó, hoặc một yêu cầu từ phía thành phần ở xa,
hoặc có thể như một phần của giao kèo trước đó. Sau khi thực thi, thành phần thực thi sẽ
gửi trả kết quả về cho thành phần gốc.
- Agent di động: Một thành phần gửi bản thân nó ( hoặc đối tượng khác nếu được
phép) đến một nơi lưu trữ ở xa để thực thi. Thành phần chuyển đi với mã, dữ liệu và có
thể cả trạng thái. Sự dịch chuyển có thể tương tự như trường hợp trước, nhưng thông
thường nhất kết quả từ thành phần đó ( ví dụ là Agent di động) quyết định cho bản thân
nó có nhu cầu di chuyển địa điểm xem kẽ.
Một Agent di động như miêu tả trong hình 2.7 gồm có 3 phần: mã, trạng thái và dữ
liệu. Mã là dạng của Agent sẽ được thực thi khi di trú đến một nền tảng. Trong trường
hợp đơn giản nhất thì nó là mã đơn. Trạng thái là môi trường thực thi dữ liệu của Agent,
bao gồm chương trình đếm và ngăn xếp thực thi. Phần này chỉ tìm thấy trong Agent sử
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
17
dụng cư trú mạnh. Dữ liệu bao gồm các giá trị được sử dụng bởi Agent, như là tri thức,
các file xác định v.v.
Hình 2.7: Cấu trúc đơn giản của Agent di dộng
Có khá nhiều cuộc tranh luận về ưu điểm và nhược điểm của Agent di dộng, thường
thì nó được so sánh với các Agent không di động. Một số ưu điểm là:
- Không đồng bộ và xử lý không phụ thuộc: Một khi nó đã được di trú vào một nền
tảng mới, các Agent không cần phải liên hệ với chủ của nó để thông báo về công việc. Nó
có thể chỉ cần gửi lại kết quả. Việc này đặc biệt hữu dụng khi sử dụng với các thiết bị di
động với giới hạn về tài nguyên; một agent có thể di trú đến một máy khác để thực hiện
các công việc phức tạp và trả lại kết quả theo chu kỳ.
- Chịu lỗi: Nó có thể đánh dấu và sửa lỗi với các điều kiện lỗi bằng việc chuyển đến
các nền tẳng chéo khi vấn đề được phát hiện. Công bằng nếu một điểm di trú bị sập, một
điểm trung gian có thể được chọn để đóng vai trò dự trữ. Nó phù hợp với môi trường thân
thiện và dễ đổ vỡ
- Biển các ứng dụng: Agent di động rất phù hợp với các ứng dụng cần xử lý một
lượng lớn các dữ liệu từ xa. Agent di động có thể dịch chuyển dữ liệu, trong nhiều trường
hợp nó có hiệu quả hơn so với cách làm truyền thống.
Nhưng Agent di động cũng có những khuyết điểm:
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
18
- Khả năng mở rộng và hiệu năng: Mặc dù Agent di động giảm tải cho mạng, nhưng
nó lại làm tăng tải cho việc thực thi. Điều này là bởi vì nó thường được lập trình với các
ngôn ngữ thông dịch và thường cần phải được theo dõi chặt chẽ việc tương kết theo
chuẩn, nó có thể gây ra quá tải việc xử lý dữ liệu.
- Khả năng di chuyển và chuẩn hoá: Agent không thể tương kết nếu nó không tuân
theo chuẩn truyền thông thông thường. Sự chấp nhận các chuẩn này, như là OMG MASIF
(Mobile Agent System Interoperability Facility) hoặc FIPA thường rất quan trọng, đặc
biệt trong sự dịch chuyển trong một nền tảng.
- An ninh: Sử dụng Agent di động sẽ mang theo một số vấn đề về an ninh. Bất kỳ
mã di động nào đều có một mối đe doạ tiềm tàng và cần phải được chứng thực cẩn thận
trước khi thực thi.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
19
Chương 3 Mô hình Proxy động
Chương này sẽ trình bày chi tiết về bài toán đặt ra và ý tưởng để giải quyết bài toán
đó. Sau đó sẽ đi vào chi tiết về các giải pháp cho các yêu cầu bài toán đặt ra. Cuối cùng là
mô hình chi tiết dựa trên các giải pháp đưa ra để giải quyết bài toán.
3.1. Mô tả bài toán
Như đã nói ở chương đầu tiên về thực trạng hiện nay, một yêu cầu đặt ra để có thể
vận dụng và triển khai tốt nhất xu hướng phát triển tiếp theo của Internet và công nghệ
chúng ta cần phải có được một mô hình đáp ứng được yêu cầu giảm tải trên đường truyền
Internet và giảm tải cho Server. Mô hình Client – Proxy – Server là một sự lựa chọn để
đáp ứng được yêu cầu này.
Hình 3.1: Mô hình Client – Proxy – Server
Tuy nhiên, khác với các mô hình đã có trước đây, Proxy ở được sử dụng ở đây sẽ có
thể thực hiện một phần công việc tính toán thay cho Server. Điều này có nghĩa là ngoài
chức năng truyền thông tin giữa Client và Server như truyền thống, Proxy này còn phải có
khả năng yêu cầu và nhận các tính toán từ Server, sau đó nó sẽ thay cho Server thực hiện
các phần tính toán này khi có yêu cầu từ phía Client. Trong mô hình này, Server ngoài
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
20
công việc tính toán và trả kết quả thông thường, nó còn phải có thêm chức năng nhận yêu
cầu và gửi các công việc về cho Proxy.
Như vậy bài toán đặt ra ở đây là phải thiết kế được một mô hình cho phép các tính
toán từ trên Server có thể được gửi xuống cho Proxy và có thể thực thi trực tiếp trên
Proxy. Proxy có khả năng nhận và thực thi tính toán như trên được gọi là Proxy động. Nói
một cách khác, yêu cầu của bài toán là xây dựng mô hình phân tải cho Server sử dụng
Proxy động.
3.2. Mô hình đề xuất
Phần này sẽ trình bày ý tưởng để đưa ra được mô hình phân tải cho Server sử dụng
Proxy động. Sau đó sẽ trình bày chi tiết về các giải pháp đưa ra trong việc xây dựng mô
hình. Cuối cùng sẽ trình bầy và giải thich về mô hình đưa ra cho bài toán đã nêu.
3.2.1. Ý tưởng
Trong bài toán đã đưa ra ở trên, phần đóng gói tính toán và gửi nó đi giữa các Server
là phần quan trọng nhất, phần này quyết định tính chất động của Proxy. Các tính toán cần
phải được đóng gói theo một cách nào đó để nó có thể lưu giữ được cách thực thi, các dữ
liệu liên quan và trạng thái của nó. Các đóng gói này cũng phải hỗ trợ cho việc chuyển
dịch các tính toán đến nơi lưu trữ mới, cho phép các tính toán có thể thực thi ngay trên
nơi trữ mới.
Ý tưởng đưa ra ở đây là sử dụng Agent cho việc đóng và dịch chuyển các tính toán
từ Server về Proxy. Mỗi tính toán riêng biệt và đặc thù sẽ được đóng gói thành một Agent
và được lưu trữ trên Server. Thông qua giao tiếp giữa Agent với môi trường hoặc giữa các
Agent với nhau, Agent sẽ thực thi các yêu cầu tới nó và trả kết quả cho bên yêu cầu. Các
Agent ngoài việc thực thi và trả kết quả, nó còn có thể dịch chuyển nơi cư trú sang một
môi trường khác hoặc một Server khác và thực thi ngay tại đó. Đây chính là yếu tố tạo
nên khả năng tính toán động cho Proxy, thực thi tính toán ngay tại chỗ thay cho việc yêu
cầu Server và nhận kết quả trả về. Ở đây, các chức tính toán và thực thi yêu cầu của Proxy
không được thiết lập trước, nó có thể thay đổi tuỳ theo yêu cầu của Client và khả năng
thực thi tính toán của Server.
Như vậy, ý tưởng chính để đưa ra được mô hình sử dụng Proxy động để phân tải cho
Server là sử dụng Agent đóng gói và chuyển các tính toán từ Server về Proxy.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
21
3.2.2. Giải pháp
Dựa trên ý tưởng đã đưa ra, chúng ta sẽ đưa ra giải pháp cho Server và Proxy để có
thể đáp ứng yêu cầu của bài toán.
3.2.2.1. Giải pháp cho Server
Giải pháp cho việc đóng gói và dịch chuyển chuyển các tính toán là sử dụng Agent.
Các tính toán sẽ được đóng gói thành các Agent, mỗi Agent sẽ phụ trách một công việc
tính toán nhất định. Sử dụng Agent để đóng gói và dịch chuyển các tính toán giữa các
Server vì theo các chuẩn về Agent đã được công bố và chấp nhận rộng rãi thì các Agent
có thể đóng gói mã nguồn thực thi của nó, các dữ liệu phục vụ cho nó và cả trạng thái
hoạt động, tất cả đều được có thể được truyền đi nguyên vẹn sang một Server khác và có
thể thực thi tại Server đó mà không cần phải sửa đổi hay can thiệp vào Agent.
Các yêu cầu khi được chuyển đến sẽ được phân loại thành các yêu cầu chuyển
Agent và các yêu cầu khác. Để có thể thực hiện được việc phân loại yêu cầu được gửi
đến, lọc ra các yêu cầu thông thường và các yêu cầu về việc đưa tính toán về Proxy,
chúng ta sẽ đưa ra một mẫu yêu cầu được sử dụng chung cho tất cả các yêu cầu được gửi
đến cho Server.
Với các tính toán yêu cầu chuyển Agent, Server sẽ tìm Agent tương ứng trong các
Agent nó đang chứa. Nếu Agent được tìm ra, Server sẽ tạo ra bản sao của Agent rồi gửi
bản sao này cho phía yêu cầu. Nếu Agent không được tìm ra, hay không có Agent tương
ứng với yêu cầu đưa ra, Server sẽ gửi thông báo đến cho phía yêu cầu rằng không có
Agent tương ứng. Với các yêu cầu khác, Server sẽ thực hiện tính toán trực tiếp rồi gửi trả
kết quả cho phía yêu cầu. Việc tính toán này hoàn toàn có thể bao gồm cả việc gọi Agent
ra để tính toán và lấy kết quả do Agent trả về.
3.2.2.2. Giải pháp cho Proxy
Proxy nhận yêu cầu từ Client, phân tích yêu cầu dựa trên khuôn dạng chuẩn đã được
quy định trước để phân loại các yêu cầu có sử dụng Agent và các yêu cầu không sử dụng
Agent. Khi có nhiều yêu cầu về sử dụng cùng một Agent, Proxy sẽ gửi yêu cầu đến
Server để tải Agent tính toán về, sau đó mọi tính toán của phần này sẽ được thực hiện
ngay trên Proxy.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
22
Các yêu cầu về Agent sau khi được phân loại sẽ được xử lý theo cách thức riêng.
Đầu tiên Proxy sẽ kiểm tra xem có Agent nào nó đang lưu trữ phù hợp yêu cầu hay
không. Nếu có, nó sẽ cho Agent đấy thực thi và lấy kết quả trả về, nếu không có, nó sẽ
gửi yêu cầu về Agent tương ứng tới Server. Sau khi nhận được Agent tương ứng từ
Server, nó sẽ cho thực thi Agent đó và lấy kết quả trả về.
Các yêu cầu không liên quan đến Agent cũng sẽ được xử lý riêng. Phần này cho
phép Proxy trong mô hình đề ra có thể kết hợp với các Proxy truyền thống khác như dùng
để chặn các trang web hay sử dụng cache. Nếu không có sự kết hợp với ứng dụng nào,
các yêu không sử dụng Agent sẽ được gửi thẳng đi cho Server và lấy kết quả trả về.
Kết quả trả về từ các tính toán trên Agent sẽ được kết hợp với kết quả được trả về từ
Server trước khi được chuyển về cho Client.
3.2.3. Mô hình
Dựa trên các giải pháp đã đưa ra, chúng ta sẽ xây dựng một mô hình có thể giải
quyết được bài toán đặt ra. Mô hình này không những có thể đáp ứng yêu cầu của bài toán
mà còn phải có khả năng ứng dụng được vào thực tế.
3.2.3.1. Mô hình chung
Dựa trên các giải pháp đã đưa ra ở phần trên, mô hình tổng thể sẽ như hình 3.2.
Theo như hình 3.2, Client sẽ gửi yêu cầu đến cho Proxy và sẽ nhận kết quả trả về từ
Proxy. Phía Proxy, sau khi phân loại yêu cầu được gửi đến từ Client sẽ thực hiện xử lý
yêu cầu và gửi yêu cầu đến cho Server. Proxy có thể gửi đi một trong hai loại yêu cầu là
yêu cầu Agent hoặc yêu cầu thông thường khác. Nếu yêu cầu thông thường được gửi đến
Server thì Server sẽ tính toán và chỉ trả kết quả về cho Proxy. Nếu yêu cầu là yêu cầu
Agent, Server sẽ tìm kiếm Agent tương ứng và gửi Agent về cho Proxy. Trong Proxy và
Server đều có một vùng chứa Agent gọi là Agent Container. Các Agent được chứa trong
vùng này đều có thể thực thi và trả ra kết quả. Việc chuyển một Agent từ Server sang
Proxy sẽ được thực hiện hoàn toàn trên vùng chứa này.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
23
Hình 3.2: Mô hình hệ thống
3.2.3.2. Mô hình của Server
Hình 3.3 là cấu trúc các thành phần bên trong Server chính và chức năng của mỗi
thành phần:
- Giao tiếp với Client/Proxy: Phần này làm nhiệm vụ lắng nghe và kết nối tới
Client hoặc Proxy. Khi có một yêu cầu được gửi đến, phần này sẽ thực hiện việc
gửi yêu cầu xuống phần xử lý và duy trì kết nối để đợi kết quả từ phần xử lý. Khi
kết quả được phần xử lý gửi đến, nó sẽ chuyển tiếp kết quả này sang cho phía yêu
cầu và đóng kết nối.
- Xử lý yêu cầu: Phần này sẽ thực hiện việc xử lý các yêu cầu được đưa xuống từ
phần giao tiếp và gửi trả kết quả cho phần giao tiếp. Phần này gồm có 3 thành phần
nhỏ:
o Phân loại yêu cầu: Dựa trên các mẫu yêu cầu được gửi đến, thành phần này
sẽ phân loại các yêu cầu thành hai loại là yêu cầu Agent và yêu các khác.
Các yêu cầu Agent sẽ được gửi xuống cho thành phần Xử lý yêu cầu Agent
thực hiện, các yêu cầu khác được gửi xuống cho Xử lý các yêu cầu khác
thực hiện.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
24
Hình 3.3: Cấu trúc Server
o Xử lý yêu cầu Agent: Khi một yêu cầu về Agent được gửi đến, phần này sẽ
lấy thông tin về Agent đó tìm Agent tương ứng trong Agent Container. Nếu
trong Agent Container không có Agent này thì phần này sẽ gửi trả về cho
phần giao tiếp thông báo là không có Agent tương ứng. Nếu Agent tương
ứng tồn tại, phần này sẽ yêu cầu Agent Container tạo ra bảo sao của Agent
và gửi bản sao này sang cho Agent Container của Proxy.
o Xử lý yêu cầu khác: Các yêu cầu không phải gửi Agent sẽ được xử lý trong
phần này. Các tính toán theo yêu cầu sẽ được thực thi và kết quả sẽ được trả
về cho phần giao tiếp. Việc tính toán này hoàn toàn có thể bao gồm việc gọi
đến các Agent và lấy kết quả trả về từ Agent.
- Agent Container: Đây là vùng chứa các Agent của Server. Các Agent được chứa
trong vùng này đều có thể được thực thi và trả ra kết quả. Việc tạo ra bản sao và
chuyển các Agent đến nơi khác cũng được thi ngay tại vùng này.
Để giúp cho việc phân loại các yêu cầu gửi đến một cách nhanh chóng và tiện lợi,
chúng ta sẽ đưa ra mẫu yêu cầu mà Proxy sẽ gửi đến cho Server như trong hình 3.4. Mẫu
này sẽ gồm hai phần chính là phần Header và phần Content. Trong phần Header sẽ chứa
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
25
thông tin của nơi gửi yêu cầu đến, và loại yêu cầu. Có hai loại yêu cầu là yêu cầu Agent
(tức là yêu cầu gửi tính toán) và yêu cầu thông thường ( tức là yêu cầu Server thực thi một
số tính toán rồi gửi trả kết quả). Server dựa vào Header để xác định loại yêu cầu và nơi
gửi thông tin, sau đó dựa theo loại yêu cầu để lấy thông tin cần thiết trong phần Content
.’
Hình 3.4: Mẫu yêu cầu gửi cho Server
3.2.3.3. Mô hình của Proxy
Hình 3.5 là các thành phần bên trong Proxy Server và chức năng tương ứng với mỗi
thành phần đó:
- Giao tiếp với Client: Phần này cung cấp một giao diện để lắng nghe yêu cầu từ
phía Client và gửi trả kết quả về cho Client. Khi một yêu cầu từ Client được gửi
đến, phần giao tiếp này sẽ gửi yêu cầu đó xuống phần xử lý và duy trì kết nối với
Client trong khi chờ kết quả được trả ra. Khi kết quả được trả ra từ phần xử lý, giao
tiếp này sẽ đưa kết quả đó cho phía Client và kết thúc kết nối.
- Giao tiếp với Server: Phần này sẽ thực hiện việc kết nối tới Server để chuyển đi
các yêu cầu và nhận về các kết quả. Khi có một yêu cầu được đưa ra từ phần xử lý
yêu cầu, giao tiếp này sẽ kết nối tới Server đích gửi đi yêu cầu đi và chờ đợi kết
quả được gửi về từ phía Server. Khi kết quả được gửi về, giao tiếp này sẽ đưa kết
quả xuống cho phần xử lý và kết thúc kết nối tới Server.
HEADER
CONTENT
(Nội dung)
Thông tin nơi gửi
Loại yêu cầu
(Agent/thông thường)
Hình 3.4: Mẫu yêu cầu gửi cho Server
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
26
Hình 3.5: Cấu trúc Proxy Server
- Xử lý yêu cầu: Phần này sẽ thực hiện việc xử lý các yêu cầu được đưa xuống từ
giao tiếp với Client. Trong giai đoạn xử lý sẽ có những yêu cầu được đưa ra và gửi
đến Server thông qua thành phần Giao tiếp với Server, có những yêu cầu được tính
toán bởi các Agent đã có trong Proxy. Kết quả trả về từ phía Server sẽ được tổng
hợp với kết quả thu được từ các Agent có trong Proxy, sau đó sẽ được đưa sang
thành phần giao tiếp với Client để gửi đi cho Client. Trong phần xử lý này gồm
bốn thành phần nhỏ:
o Phân loại yêu cầu: Các yêu cầu được gửi đến từ Client sẽ được phân loại
thành các yêu cầu về Agent và các yêu cầu khác. Các yêu cầu về Agent là
các yêu cầu đòi hỏi sử dụng Agent để tính toán và trả ra kết quả. Các yêu
cầu khác là các yêu cầu không đòi hỏi việc sử dụng Agent để tính toán. Các
yêu cầu về Agent sẽ được chuyển sang cho phần Xử lý yêu cầu về Agent xử
lý, còn các yêu cầu về tính toán khác sẽ được chuyển sang cho phần xử lý
các yêu cầu khác.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
27
o Xử lý yêu cầu về Agent: Khi có yêu cầu về việc sử dụng Agent để tính
toán, phần này sẽ kiểm tra trong Agent Container xem có Agent tương ứng
với yêu cầu hay không. Nếu có Agent này sẽ được cho thực thi và trả lại két
quả của việc thực thi đó. Nếu không có, phần này sẽ gửi yêu cầu sang cho
Server thông qua Giao tiếp với Server để yêu cầu gửi Agent tương ứng
sang. Khi Agent tương ứng đã được gửi, Agent này sẽ được cho thực thi
luôn và lấy kết quả trả về. Kết quả của phần xử lý này sẽ được đưa xuống
cho phần tổng hợp kết quả .
o Xử lý các yêu cầu khác: Phần này sẽ phụ trách việc xử lý các yêu cầu
khác. Đây là nơi có thể dùng kết hợp các Proxy truyền thống vào mô hình
này. Ví dụ như việc tìm kiếm thông tin trên cache có thể được áp dụng trong
phần này. Nếu không có sự tích hợp nào xẩy ra, các yêu cầu sẽ gửi cho phần
Giao tiếp với Server để lấy kết quả trả về. Kết quả trả về từ Server sẽ được
đưa xuống phần Tổng hợp kết quả.
o Tổng hợp kết quả: Các kết quả được gửi đến từ phần Xử lý yêu cầu về
Agent và Xử lý yêu cầu khác sẽ được tổng hợp lại tạo thành một câu trả lời
hoàn chỉnh và đầy đủ trước khi được gửi cho Client. Kết quả của việc tổng
hợp sẽ được đưa cho phần Giao tiếp với Client để chuỷên sang cho Client.
- Agent Container: Đây là vùng chứa các Agent của Proxy. Việc tiếp nhận các
Agent được gửi đến và thực thi các Agent đó cũng được thực hiện ngay trong phần
này. Kết quả trả ra của việc thực thi Agent sẽ được gửi cho phần Xử lý yêu cầu về
Agent. Để tránh tình trạng các Agent dư thừa gây lãng phí, tức là sau một thời gian
Agent không còn được sử dụng đến nữa nhưng nó vẫn được lưu trữ trong Proxy,
Agent Container sẽ có thêm nhiệm vụ theo dõi tình trạng hoạt động của các Agent.
Khi một Agent không được sử dụng đến trong một khoảng thời gian nhất đinh, nó
sẽ bị xoá khỏi vùng chứa.
Các thông điệp hay yêu cầu được gửi từ Client sang cho Proxy cũng cần phải được
quy định theo khuôn dạng chuẩn đề giúp cho việc phân loại các yêu cầu cần sử dụng
Agent và không cần sử dụng Agent được nhanh chóng và tiện lợi. Khuôn dạng yêu cầu
chuẩn của Client gửi cho Proxy được mô tả như trong hình 3.6. Trong khuôn dạng này
phần Header sẽ chỉ chứa thông tin của nơi gửi đến và Server đích cần đến, mọi thông tin
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
28
khác đều được ghi trong phần Content. Trong phần content này, nếu có yêu cầu về việc sử
dụng Agent để tính toán thì những yêu cầu về Agent cần phải được đưa vào phần đầu của
Content, sau đó mới đến các thông tin khác.
HEADER
CONTENT
Các thông tin còn lại
Thông tin nơi gửi
Thông tin nơi đến
Thông tin về các Agent được yêu cầu
Hình 3.6: Mẫu yêu cầu gửi cho Proxy
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
29
Chương 4 Thực nghiệm
Để chứng minh tính khả thi của mô hình đề xuất trong chương 3, chúng tôi đã xây
dựng một thực nghiệm phân tải cho Server sử dụng Proxy động.
4.1. Phân tích thiết kế
Phần này sẽ mô tả các yêu cầu của bài toán đặt ra và các thiết kế chương trình để
giải bài toán đó.
4.1.1. Mô tả chương trình
Chương trình thực nghiệm được xây dựng trên một tính toán đơn giản nhưng đang
được sử dụng rộng rãi hiện nay, đó là kiểm chứng người dùng bằng hình ảnh hay còn gọi
là CAPTCHA [15].
Một CAPTCHA là một loại kiểm thử dạng hỏi đáp được dùng trong máy tính để xác
định xem người dùng có phải là con người hay không. "CAPTCHA" là một dạng viết tắt
chữ đầu của "Completely Automated Public Turing test to tell Computers and Humans
Apart" (Phép thử Turing công cộng hoàn toàn tự động để phân biệt máy tính với người),
được trường Đại học Carnegie Mellon cố gắng đăng kí thương hiệu nhưng đã bị bác bỏ.
Đây là một quá trình một máy tính (máy chủ) yêu cầu một người dùng hoàn tất một kiểm
tra đơn giản mà máy tính có thể dễ dàng tạo ra và đánh giá, nhưng không thể tự giải nó
được. Vì máy tính không thể giải quyết CAPTCHA, bất kỳ người dùng nào nhập vào lời
giải đúng sẽ được xem là con người. Một loại CAPTCHA phổ biến yêu cầu người dùng
phải nhập các chữ cái trong một tấm hình méo mó, đôi khi cùng với một dãy số hoặc chữ
lờ mờ xuất hiện trên màn hình.
Thông thường, Server sẽ tạo ra ảnh và hiển thị nó trên trình duyệt, sau đó người
dùng sẽ nhập các chữ hoặc số trên ảnh vào và gửi cho Server kiểm tra. Nếu kiểm tra đúng
thì Server sẽ xác nhận người dùng là hợp lệ. Trong thực nghiệm này, việc sinh ra ảnh và
kiểm tra ảnh sẽ được đóng gói thành một Agent. Khi có Client yêu cầu ảnh để kiểm
chứng, Proxy sẽ yêu cầu Server gửi cho mình Agent này. Agent sau khi được gửi sang
cho Proxy sẽ được thực thi ngay trên Proxy. Kể từ đó, mọi yêu cầu về sinh ảnh và kiểm
chứng từ Client sẽ được thực hiện trên Proxy. Khi kiểm chứng sai, Proxy sẽ gửi lại ảnh
khác và yêu cầu Client nhập lại. Nếu đúng, Proxy sẽ thông báo cho Server là xác nhận
người dùng thành công
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
30
4.1.2. Yêu cầu kỹ thuật
Để có thể đưa ra một mô hình như đã miêu tả ở trên, Proxy và Server cần phải đáp
ứng được một số yêu cầu về kỹ thuật.
4.1.2.1. Yêu cầu kỹ thuật cho Server
Server là một máy tính có cấu hình mạnh, có cài đặt các phần mềm cho phép các
máy tính khác truy cập để sử dụng các dịch vụ hoặc tài nguyên. Về cơ bản, Server có khả
năng tiếp nhận, xử lý yêu cầu, và trả lời yêu cầu. Server trong mô hình đưa ra trước hết
cũng cần phải có những tính năng cơ bản như thế, nó cho phép các máy khác có thể truy
cập vào nó thông qua địa chỉ IP hoặc Host, các yêu cầu được gửi đến sẽ được xử lý dựa
trên các phần mềm cung cấp dịch vụ đã được cài đặt trong Server, cuối cùng các kết quả
sau khi xử lý sẽ được Server trả về cho các máy yêu cầu.
Trong mô hình đưa ra, Server ngoài các chức năng cơ bản, còn phải có chức năng
gửi tính toán đến cho bên yêu cầu. Điều này có nghĩa là các tính toán cần phải được đóng
gói theo một cách nào đó để nó có thể được thực thi và trả kết quả trực tiếp ngay tại
Server, đồng thời nó phải có khả năng tạo ra các bản sao của chính nó, và có thể di
chuyển đến Server khác khi có yêu cầu. Như vậy cần phải có một phần mềm thực hiện
chức năng đóng gói các tính toán sao cho các tính toán đó có thể được thực thi hoặc được
chuyển đi nơi khác khi có yêu cầu
4.1.2.2. Yêu cầu kỹ thuật cho Proxy
Proxy Server là Server làm nhiệm vụ trung chuyển thông tin giữa Client và các
Server khác. Proxy Server thường được đặt giữa Client và Internet, đóng vai trò làm cổng
ra Internet cho hệ thống mạng phía sau nó. Proxy Server trong mô hình đề ra cũng cần
phải có được tính năng này. Như vậy Proxy trong mô hình đề ra sẽ lắng nghe các yêu cầu
được gửi đến từ Client, sau đó nó sẽ lựa chọn các Server đích và truyền thông tin yêu cầu
của Client cho Server đó. Kết quả trả về từ phía Server ngoài sẽ được gửi về cho Proxy
Server, sau đó Proxy sẽ tìm Client nào đã gửi yêu cầu này và trả kết quả về cho Client đó.
Ngoài tính năng cơ bản là chuyển thông tin, Proxy Server theo mô hình mới cần
phải có khả năng yêu cầu, tiếp nhận công việc tính toán từ server và thực thi nó ngay trên
Proxy. Đây là yêu cầu quan trọng để đạt được mục tiêu giảm tải cho Server và giảm lượng
truyền tin trên Internet. Với yêu cầu này, Proxy cần một phần mềm có thể gửi yêu cầu cho
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
31
Server, yêu cầu gửi những tính toán cần thiết về cho Proxy, sau đó, những tính toán này
cần được tiếp nhận và lưu trên Proxy để có thể thực thi trực tiếp trên Proxy.
Để có thể gửi các yêu cầu về tính toán cho Server, Proxy cần có chức năng phân tích
yêu cầu (request) của client để phân loại các yêu cầu có thể đưa việc tính toán về proxy và
các tính toán cần server phải trực tiếp thực hiện. Sau khi phân loại các yêu cầu, Proxy sẽ
yêu cầu Server gửi cho mình những tính toán cần phải lấy về để thực thi ngay trên Proxy,
thông tin trả về của Server lúc này sẽ là những tính toán cần thiết đã được đóng gói, thông
tin trả về này sẽ được lưu trữ tại Proxy chứ không được chuyển về cho Client.
Khi các tính toán cần thiết đã được chuyển về cho Proxy, từ lúc này, mọi yêu cầu về
tính toán này sẽ được thực hiện ngay tại Proxy, không phải kết nối tới Server nữa. Tuy
nhiên không phải tất cả các tính toán đều có thể gửi về cho Proxy thực hiện, do vậy, vẫn
có những tính toán cần phải được yêu cầu phía Server trực tiếp thực hiện. Như vậy với
những yêu cầu bao gồm cả tính toán có thể thực hiện trên Proxy và những tính toán phải
được thực hiện trên Server, thông tin trả về từ hai nguồn này cần được tổng hợp lại trước
khi được đưa về cho Client.
4.1.3. Các giai đoạn phát triển
Giai đoạn 1: Kết hợp WebServer và Jade platform trên cùng 1 máy. Việc tạo ra ảnh
và kiểm chứng ảnh được đưa thành một agent chuyên trách. Khi có yêu cầu về tạo ảnh
hoặc kiểm chứng, WebServer sẽ gọi đến Agent này
Giai đoạn 2: Tạo ra ProxyServer kết hợp với Jade. Proxy có khả năng phân tích
request yêu cầu từ phía Client, những yêu cầu về sử dụng agent sẽ được đặt riêng, những
yêu cầu không liên quan đến agent sẽ được truyền tới Server. Với các yêu cầu về tính toán
sử dụng Agent, Proxy sẽ tìm cho thực hiện các Agent tương ứng. Kết quả trả về của
Server và các agent sẽ được tổng hợp để tạo thành thông tin gửi về cho Client.
Giai đoạn 3: Kết hợp Proxy và WebServer. Khi có yêu cầu về tính toán sử dụng
Agent, Proxy sẽ kiểm tra trong hệ thống về Agent đó, nếu có sẽ cho thực hiện Agent, nếu
chưa có Proxy sẽ gửi yêu cầu đến Server, yêu cầu đưa Agent cần thiết sang cho Proxy.
Server tiếp nhận yêu cầu từ Proxy, phân tích các yêu cầu về Agent và không phải Agent.
Các yêu cầu không phải Agent sẽ được tính toán bình thường, và gửi trả kết quả về cho
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
32
Proxy. Các yêu cầu về Agent sẽ được nhận diện và các Agent tương ứng sẽ được copy và
chuyển sang cho Proxy.
4.1.4. Thiết kế chương trình
Chương trình kiểm chứng người dùng bằng hình ảnh sẽ hoạt động theo luồng tiến
trình như hình 4.1
Hình 4.1: Biểu đồ tuần tự của hệ thống
Khi bắt đầu, Client sẽ gửi yêu cầu trang đăng nhập đến cho Server thông qua Proxy.
Do đây là yêu cầu không cần dùng đến Agent nên Proxy sẽ chuyển thẳng nó sang cho
Server. Server sẽ trả lời lại yêu cầu này bằng cách gửi lại form đăng nhập cho Proxy để
chuyển sang cho phía Client.
Sau khi nhận được form đăng nhập, Client sẽ tự động gửi yêu cầu về ảnh kiểm
chứng cho Proxy. Do đây là yêu cầu có sử dụng Agent nên Proxy sẽ không chuyển nó cho
Server mà tìm kiếm Agent tương ứng trong Agent Container của mình. Trong chương
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
33
trình này, Agent dùng để sinh ảnh và kiểm chứng ảnh được gọi là captchaAgent. Nếu
captchaAgent chưa có trong Agent container của Proxy, nó sẽ gửi thông báo cho Server
yêu cầu gửi captchaAgent cho nó. Server nhận được yêu cầu sẽ phân tích yêu cầu để lấy
thông tin về đích đến, rồi yêu cầu Agent Container của nó gửi captchaAgent sang cho
Agent Container bên phía Proxy. Sau khi việc chuyển Agent kết thúc, Server sẽ gửi thông
báo cho Proxy biết đã hoàn thành việc chuyển Agent. Sau khi đã nhận được
captchaAgent, Proxy sẽ gửi thông điệp yêu cầu Agent này sinh ra một ảnh captcha và trả
lại định danh ảnh cho Proxy. Cuối cùng Proxy sẽ gửi đường dẫn đến bức ảnh cho Client
cùng với định danh của bức ảnh.
Sau khi điền đầy đủ thông tin theo form đã nhận được, Client sẽ gửi các thông tin
này đi cho Proxy. Các thông tin được gửi đến cho Proxy sẽ bao gồm username, password,
ký tự tương ứng với ảnh captcha đã được gửi đến và định danh của ảnh captcha. Proxy
sau khi tiếp nhận các thông tin này sẽ tiến hành kiểm tra ký tự của ảnh captcha trước.
Định danh của ảnh captcha và ký tự xác nhận sẽ được gửi cho captchaAgent và yêu cầu
Agent này kiểm tra. Nếu kết quả kiểm tra cho thấy ký tự được gửi đến và ảnh đã gửi đi
không khớp với nhau, captchaAgent sẽ gửi thông báo lại cho Proxy đi kèm với ảnh mới
sinh và định danh của ảnh đó. Proxy nhận được thông tin này sẽ thông báo lại ngay cho
phía Client biết xác nhận ảnh sai và yêu cầu làm lại với ảnh mới được gửi đến. Phần
username và password đã được gửi đến cho Proxy sẽ bị bỏ qua mà không được chuyển
sang cho Server kiểm chứng. Nếu captchaAgent xác nhận ký tự gửi đến và ảnh đã gửi đi
trùng khớp với nhau thì Proxy mới gửi thông tin về username và password đến cho Server
tiếp tục kiểm chứng.
Kết quả kiểm chứng username và pasword sẽ được Server gửi trả về cho Proxy. Nếu
kết quả là sai, Server sẽ yêu cầu phải nhập lại tất cả các thông tin, khi đó Proxy sẽ sinh ra
ảnh captcha mới và gửi yêu cầu Client nhập lại tất cả. Nếu kết quả kỉêm chứng username
và password đúng, Server sẽ gửi trang chào mừng cho Proxy, Proxy sẽ chuyển trang này
sang cho Client.
4.2. Cài đặt và thực nghiệm
Trên cơ sở phân tích thiết kế chương trình ở phần trước, chúng tôi đã thực hiện cài
đặt chương trình trên hai máy tính khác nhau, một máy làm Server một máy làm Proxy.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
34
Một số máy khác được sử dụng như các Client kết nối với Proxy để tiến thành chạy thử
hệ thống.
4.2.1. Cài đặt Server
Để tạo ra một Server với chức năng cơ bản là nhận yêu cầu, xử lý thông tin và trả lời
cho phía yêu cầu, có thể sử dụng rất nhiều ngôn ngữ lập trình để tạo ra các Server như
vậy, ví dụ như để tạo ra một WebServer có thể sử dụng Java hoặc PHP. Tuy nhiên nên sử
dụng Java để tạo ra Server vì hiện nay các nền tảng đã được viết để hỗ trợ cho việc phát
triển các hệ thống Agent chủ yếu được viết bằng Java như JADE, Aglet, Grasshoper v.v.
Thêm vào đó việc sử dụng Java để đóng gói và truyền dữ liệu qua mạng đơn giản hơn so
với các ngôn ngữ lập trình khác, do đó Java được lựa chọn là ngôn ngữ được dùng để tạo
ra WebServer.
Hiện nay nền tảng phát triển JADE được coi là đầy đủ và hợp lý cho các hệ thống sử
dụng nhiều Agent vì tính dễ dùng, dễ phát triển, và tuân theo chủân FIPA của nó. Do đó
ta sẽ chọn JADE làm nền tảng để phát triển các Agent. Do cùng được viết trên nàng tảng
Java nên việc kết hợp Jade và WebServer là đơn giản.
4.2.2. Cài đặt Proxy
Proxy Server là một cổng thông tin giữa các máy trong mạng và ngoài Internet. Có
thể dễ dàng tạo ra một Proxy đơn giản sử dụng các ngôn ngữ lập trình hỗ trợ lập trình
mạng như Java hay C++, C#. Tuy nhiên, do yêu cầu về sử dụng Agent để hỗ trợ cho việc
tính toán và di chuyển tính toán, nên ngôn ngữ lập trình Java là lựa chọn hiệu quả nhất.
Một nền tảng phát triển Agent cũng được sử dụng trên Proxy server để có thể chứa
các Agent được chuyển đến và thực thi chúng. Điều quan trọng là nền tảng trên Server và
trên Proxy cần phải giống nhau để tạo ra sự dễ dàng và tiện lợi trong việc liên kết và
chuyển tải Agent. Lựa chọn JADE cho việc lưu trữ và thực thi Agent trên Proxy sẽ là một
lựa chọn hợp lý. Việc kết hợp JADE và Proxy Server là đơn giản do cả hai dùng được viết
trên nền tảng Java.
4.2.3. Thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm thu được sau khi cài đặt thành công hai máy Server, Proxy và
sử dụng một số máy tính làm Client như sau:
- Cấu hình máy Server: Core 2 dual 2.5GHz, RAM 2G, hệ điều hành Window Vista
- Cấu hình máy Proxy: Dual 2 core 1.8GHz, RAM 1G, hệ điều hành Window XP
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
35
- Các máy Client sử dụng trình duyệt Mozilla Firefox 3.0
Bảng số liệu thực nghiệm
Số lượng
Client
Số yêu cầu đến Proxy
(dung lượng Byte)
Số yêu cầu đến Server
(dung lượng Byte)
Ghi chú
1
5
(2589 B)
4
(1987 B)
Client yêu cầu login.jsp
1
7
(3767 B)
6
(3070 B)
Client yêu cầu login.jsp rồi
submit thành công
3
21
(11301 B)
16
(8515 B)
Mỗi Client yêu cầu một
login.jsp rồi submit thành
công
5
35
(18853 B)
26
(13865)
Mỗi Client yêu cầu một
login.jsp rồi submit thành
công
5
45
(24313 B)
26
(13865)
Mỗi Client yêu cầu
login.jsp 1 lần, thay đổi ảnh
1 lần , submit thành công
5
65
(35200 B)
41
(21005 B)
Mỗi Client yêu cầu
login.jsp 1 lần, submit lần 1
sai ảnh, lần 2 thành công
5
65
(35200 B)
42
(21525 B)
Mỗi Client yêu cầu
login.jsp 1 lần, submit lần 1
sai thông tin cá nhân, lần 2
thành công
5
135
(73453 B)
26
(13865)
Mỗi Client yêu cầu
login.jsp 1 lần, và thay ảnh
10 lần, submit thành công
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
36
Từ bảng số liệu trên ta có thể thấy số lượng yêu cầu mà Server phải xử lý đã đã giảm
đi đáng kể. Số lượng yêu cầu từ phía Client càng tăng lên thì tỷ lệ số lượng yêu cầu Proxy
phải xử lý với số lượng yêu cầu Server phải xử lý cũng tăng lên. Đặc biệt khi số lượng
yêu cầu về xử lý đòi hỏi sử dụng Agent nhiều thì tỷ lệ này càng lớn.
Như vậy việc giảm tải cho Server đã được thực hiện tương đối tốt, đạt được mục
đích do mô hình đề ra. Thêm vào đó, nếu ta bố trí Server ở ngoài Internet, các máy Client
được đặt trong cùng một mạng với Proxy thì đường truyền Internet cũng giảm hiệu suất
hoạt động đi đáng kể. Kết quả của thực nghiệm đã chứng minh được tính đúng đắn và khả
thi của mô hình đề ra.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
37
Chương 5 Kết luận
Sau thời gian nghiên cứu và xây dựng mô hình với mục đích phân tải cho Server sử
dụng Proxy động, chúng tôi đã tiếp cận được những kiến thức cơ bản về các hệ thống
mạng, cách triển khai nó và các lý thuyết cũng như thực hành về khái niệm Agent, ứng
dụng của Agent trong các hệ thống tính toán, từ đó đưa ra được mô hình Proxy động dựa
trên mô hình Client – Proxy – Server truyền thống. Mô hình đưa ra này có thể ứng dụng
được vào thực tế để giải quyết được bài toán đặt ra là giảm tải cho các Server đồng thời
giảm được lượng thông tin truyền trên Internet. Mô hình đưa ra này hoàn toàn có thể trở
thành giải pháp quan trọng cho việc triển khai các mô hình tính toán tập trung trên
Internet trong tương lai không xa. Những kết quả chính mà chúng tôi đã đạt được và chưa
đạt được, hướng phát triển tiếp theo có thể được tổng kết lại như dưới đây:
5.1. Kết quả thu được
Đưa ra được mô hình Proxy động có khả năng ứng dụng được vào thực tế. Mô hình
này được xây dựng dựa trên khái niệm về Agent và các ứng dụng liên quan đến nó. Mô
hình bao gồm hai thành phần chính là Proxy và Server. Proxy làm nhiệm vụ cầu nối trung
gian giữa Client và Server, có chức năng cơ bản là truyền tải yêu cầu từ phía Client đến
cho Server và đưa thông tin trả lời từ Server về cho Client. Để có thể đạt được mục tiêu
giảm tải cho Server, trong mô hình này Proxy còn có thêm chức năng tiếp nhận tính toán
đã được đóng gói từ Server và thực thi nó ngay trên Proxy khi có yêu cầu từ phía Client.
Với mô hình nay, việc giảm tải cho Server được thực hiện hiệu quả, đặc biệt là trong các
hệ thống lớn với lượng người dùng đông, yêu cầu xử lý lớn và các yêu cầu về tính toán
giống nhau được lặp lại nhiều lần. Ngoài ra, mô hình đưa ra con giúp giảm lượng thông
tin được truyền trên Internet, góp phần tăng hiệu quả sử dụng đường truyền Internet, đặc
biệt là với những nước có cơ sở hạ tầng mạng còn yếu như Việt Nam.
Đã xây dựng được một thực nghiệm chứng minh tinh thực tế của mô hình đề ra.
Thực nghiệm này dựa trên một ứng dụng đơn giản nhưng đang được sử dụng khá phổ
biến hiện nay là kiểm chứng người dùng bằng hình ảnh. Các bức ảnh được sinh ra dựa
trên các ký tự bất kỳ và được áp dụng một số biện pháp xử lý để các chương trình nhận
dạng ảnh thông thường không thể dễ dàng phát hiện ra. Trong thực nghiệm này, việc sinh
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
38
ảnh và kiểm chứng ảnh được Server đóng gói và chuyển về cho Proxy thực hiện. Từ đó,
mỗi khi có yêu cầu sinh ảnh và kiểm chứng ảnh từ phía Client, Proxy sẽ thay Server thực
hiện nhiệm vụ này.
Mô hình đưa ra và thực nghiệm đã chứng minh tính khả thi của mô hình này trong
việc áp dụng vào thực tế, tạo tiền đề cho các bước nghiên cứu và phát triển tiếp theo để có
thể đưa ra được một mô hình hoàn thiện hơn và những thực nghiệm về sau sẽ chứng minh
được những ưu điểm của mô hình này.
5.2. Hướng phát triển tiếp theo
Trong quá trình nghiên cứu này, mặc dù đã đưa ra được thực nghiệm để chứng tỏ
tính khả thi của mô hình đã đưa ra, nhưng do thời gian có hạn nên thực nghiệm này vẫn
còn một số hạn chế để có thể chứng minh được những ưu điểm của mô hình này. Lý do là
thực nghiệm đưa ra là một tính toán đơn giản, không đòi hỏi nhiều khả năng xử lý của
Server, thêm vào đó, việc kiểm tra kết quả của thực nghiệm chỉ được thực hiện trong một
phạm vi nhỏ với số lượng máy tham gia là rất ít, trong khi đó những ưu điểm của mô hình
đưa ra chỉ có thể được thể hiện rõ khi nó được áp dụng vào mô hình tính toán lớn, đòi hỏi
khả năng xử lý lớn ở Server, đồng thời số lượng máy tham gia nhiều và phải thường
xuyên có yêu cầu tính toán trên Server.
Mục tiêu tiếp theo của quá trình nghiên cứu sắp tới là thực hiện được một thực
nghiệm có quy mô lớn để có thể kiểm chứng được những ưu điểm của mô hình đã đưa ra,
đồng thời tìm hiểu những khuyết điểm của mô hình khi được áp dụng vào thực tế để có
những sự sửa chữa và bổ sung cho phù hợp với thực tế.
Mục tiêu lâu dài của quá trình nghiên cứu này là đưa ra mô hình cụm Proxy phân tải
cho cụm Server. Theo đó, một cụm Proxy là một tập hợp rất nhiều Proxy kết nối đến nhau
và được đặt giữa một mạng cục bộ lớn và một cụm các Server. Mô hình này sẽ được kế
thừa từ mô hình đã đưa ra trong luận văn này do đó nó vẫn giữ được khả năng giảm tải
cho Server và tăng hiệu quả sử dụng đường truyền Internet. Tuy nhiên mô hình mới với
cụm Proxy đặt giữa Client và cụm Server sẽ tăng khả năng chịu lỗi của hệ thống khi có sự
cố xẩy ra. Với cách bố trí một Proxy nằm giữa Client và Server, khi Proxy bị lỗi và không
thể hoạt động bình thường, toàn bộ Client phía sau Proxy sẽ không thể liên kết ra ngoài
Internet và các công việc liên quan cũng sẽ phải tạm dừng, gây tổn thất lớn về kinh tế.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
39
Nhưng khi các Proxy được bố trí để liên kết với nhau, một Proxy hỏng có thể được tạm
thời thay thế bằng cách hướng đường truyền của các Client phía sau nó sang cho Proxy
khác. Việc áp dụng mô hình đã đưa ra ở luận văn này sẽ giúp cho Server có thể đưa tính
toán của nó về các Proxy khác nhau vào các thời điểm khác nhau, cho nên khả năng giảm
tải cho phía Server là không đổi. Như vậy mô hình mới ngoài khả năng giảm tải cho
Server, nó còn có thêm khả năng chịu lỗi trong chính các Proxy, giảm thiểu đáng kể rủi ro
do khi một Proxy gặp sự cố gây ra.
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
40
Tài liệu tham khảo
[1] Bellifemine, F and Caire, G and Greenwood, PA. Developing Multi-Agent
Systems with JADE. John Wiley & Sons Ltd, 2007.
[2] Blatt, R. “De Jure” standards. MIT, 1999
[3] Brooks R. Intelligence without Representation. Artificial Intelligence, 1991, trang
139–159.
[4] Brown, P. and Rossak, W. Mobile Agents. Morgan Kaufmann Publishers and
dpunkt.verlag, 2005.
[5] Genesereth and Ketchpel, SP. Software Agents. Communications of the ACM,
1994, trang 48-53.
[6] Picco, GP. Understanding Code Mobility (Tutorial Session). In ICSE ’00:
Proceedings of the 22nd International Conference on Software Engineering, 2000, trang
834.
[7] Rao AS and Georgeff M. BDI Agents: from Theory to Practice. In Proceedings of
the 1st International Conference on Multi-Agent Systems, 1995, trang 312–319.
[8] Russell, SJ and Norvig, P. Artificial Intelligence: a Modern Approach, 2nd edn.
Prentice Hall, 2003.
[9] White, JE. Telescript Technology: Mobile Agents. In Bradshaw Jeffrey, (ed),
Software Agents, AAAI Press/MIT Press, 1996.
[10] Wooldridge, MJ and Jennings, NR. Intelligent Agents: Theory and Practice.
Knowledge Engineering Review, 1995, trang. 115–152.
[11]
[12]
[13]
[14]
[15]
[16]
Nghiên cứu mô hình phân tải Server sử dụng Proxy động
41
[17]
[18]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH PHÂN TẢI SERVER SỬ DỤNG PROXY ĐỘNG.pdf